Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Cay đắng mùi đời của Hồ Biểu Chánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.44 KB, 23 trang )

1. Vài nét về Hồ Biểu Chánh và tác phẩm Cay đắng mùi đời:
1.1 Cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Biểu Chánh:
1.1.1 Cuộc đời:
- Hồ Biểu Chánh tên thật là Hồ Văn Trung, tự Biểu Chánh, hiệu Thứ Tiên,

về sau lấy tự làm bút hiệu chính thức. Ông sinh tại làng Bình Thành,
huyện Kiến Hòa, tỉnh Định Tường ( nay là tỉnh Long An) trong một gia
-

đình nông dân nghèo.
Chín tuổi Hồ Biểu Chánh bắt đầu học chữ nho tại trường làng, sau đó học

-

chữ quốc ngữ và chữ pháp tại trường tổng Vĩnh Lợi.
Cuối năm 1905, đậu bằng Thành Chung. Năm 1906 ông thi đậu Ký lục

-

Soái phủ Sài Gòn, làm việc tại dinh thượng thư Sài Gòn.
Năm 1918 Hồ Biểu Chánh chuyển về làm việc tại Gia Định. Năm 1920,
ông làm việc trong Văn phòng Thống đốc Nam Kỳ. Năm 1921, thi đậu
ngạch tri huyện. Năm 1927, ông được thăng tri phủ, nhậm chức chủ quận

-

Càng Long ( Vĩnh Bình), năm 1932 ông làm chủ quận Ô Môn ( Cần Thơ).
Năm 1937, Hồ Biểu Chánh được phong Đốc phủ sứ sau gần ba mươi năm
làm việc cho chính phủ Pháp. Cùng năm 1937, ông xin hồi hưu nhưng
chính phủ Pháp không cho vì chưa có người thay thế. Năm 1941, ông
được cử làm Nghị viên Hội đồng Liên bang Đông Dương, rồi Nghị viên


Hội đồng thành phố Sài Gòn kiêm Phó Đốc lý. Năm 1942, Hồ Biểu Chánh
ngầm nhận tiền của Sở thông tin tuyên truyền Pháp để ra Nam kỳ tuần báo

-

và Đại Việt tập chí.
Năm 1946, Hồ Biểu Chánh làm cố vấn và đồng lý văn phòng trong chính
phủ “ Nam kỳ tự trị” do bác sĩ Nguyễn Văn Thinh thành lập. Sau khi
Nguyễn Văn Thinh tự vẫn, Hồ Biểu Chánh lui về quê sống cuộc đời thanh
bạch. Ông mất ngày 4 tháng 11 năm 1958 tại Phú Nhuận, hưởng thọ 74
tuổi.
Sự nghiệp:
Sau gần 50 năm cầm bút, Hồ Biểu Chánh đã để lại 64 bộ tiểu thuyết, 11
1.1.2

-

đoàn thiên và truyện ngắn, 2 dịch phẩm, 12 kịch bản sân khấu ( hài kịch,
hát bội, cải lương ), 23 công trình khảo cứu, 3 tập thơ ( Biểu Chánh thi văn
chưa xuất bản ) và hàng chục bài báo thuộc nhiều lĩnh vực. Với số lượng
tiểu thuyết quá dồi dào, có thể nói Hồ Biểu Chánh là một trong những
thuyết gia nổi tiếng hàng đầu ở miền Nam, các tác phẩm tiểu thuyết của


ông trở thành món ăn tinh thần quen thuộc của đa số quần chúng vùng đất
Nam Bộ. Nhìn vào văn nghiệp của Hồ Biểu Chánh ta thấy rằng trong lịch
sử văn học Việt Nam hiếm có một cây bút nào có được sự sáng tạo bền bỉ
và phi thường như vậy.
Các tiểu thuyết tiêu biểu:



Ai làm được (Cà Mau 1912, phỏng theo André Cornelis của Paul
Bourget)



Cay đắng mùi đời (Sài Gòn - 1923, phỏng theo Không gia
đình của Hector Malot)



Chúa tàu Kim Qui (Sài Gòn - 1923, phỏng theo Bá tước Monte
Cristo của Alexandre Dumas)



Một chữ tình (Sài Gòn – 1923)



Tiền bạc, bạc tiền (Sài Gòn – 1925)



Ngọn cỏ gió đùa (Sài Gòn – 1926, phỏng theo Những người khốn
khổ của Victor Hugo)



Chút phận linh đinh (Càn Long –1928, phỏng theo Trong gia

đình của Hector Malot)



Kẻ làm người chịu (Càn Long – 1928)



Cha con nghĩa nặng (Càn Long- 1929)



Khóc thầm (Càn Long – 1929)



Con nhà nghèo (Càn Long – 1930)



Con nhà giàu (Càn Long – 1931)



Người thất chí (Vĩnh Hội –1938, phỏng theo Tội ác và hình
phạt của Fyodor Mikhailovich Dostoevsky)



Hai khối tình (Vĩnh Hội – 1939)




Mẹ ghẻ con ghẻ (Vĩnh Hội – 1943)


1.1 Tổng thuật tác phẩm Cay đắng mùi đời:
1.1.1 Tóm tắt cốt truyện:

Cay đắng mùi đời xoay quanh cuộc đời đầy gian truân của thằng bé Được.
Nhằm thực hiện âm mưu chiếm đoạt đạt tài sản, Phan Đức Lợi đã bắt cóc con
của anh mình là ông Hội đồng Nhàn đêm bỏ miệt ở xứ Gò Công. Ba Thời một người phụ nữ tốt bụng, có chồng tên Hữu bỏ nhà đi đã lâu, nay “xí” được
thằng bé và đặt tên cho nó là Được. Thằng Được ở với Ba Thời đến năm tám
tuổi thì tên Hữu về, đem bán nó cho thầy Đàng. Thằng Được bắt đầu cuộc
sống phiêu lưu, rong ruổi cùng thầy. Ở với thầy, thằng bé được thầy dạy cho
đờn ca và học chữ. Trong một lần hai thầy trò trên đường đến Gia Định thì
thầy Đàng chết do rét và đói. Thằng Được lang thang một mình và kết bạn với
thằng Bĩ. Cả hai cùng nhau kiếm tiền và mua cho Ba Thời một con heo quắn
đít. Thằng Được nghe Ba Thời khuyên thì quyết tâm lên đường tìm ba mẹ
ruột của mình. Kết thúc tác phẩm Cay đắng mùi đời thằng bé Được tìm mẹ
mình là bà Hội đồng Nhàn và đền ơn đáp nghĩa cho những người có ơn với
nó.
Ý nghĩa tác phẩm:
Gía trị hiện thực:
1.1.2

-

Cay đắng mùi đời đã khắc họa bức tranh thôn quê miền Nam Việt Nam lúc
bấy giờ với hình ảnh của những người nông dân chân chất, quanh năm bán

mặt cho đất bán lưng cho trời.
Tố cáo cái xã hội với những con người chạy theo đồng tiền, danh lợi, cậy
quyền thế mà áp bức người nghèo khổ.
Các chức quan, hương dịch làm việc cho thực dân trở thành cái danh không
phận, trói buộc con người vào dòng danh lợi mà đánh mất chính mình.
-

Gía trị nhân đạo:

Đề cao, ca ngợi những con người tình nghĩa, sống yêu thương và chung thủy
với truyền thống tốt đẹp của dân tộc.


Là tiếng nói phê phán những con người ham danh lợi, tiền bạc mà đánh mất
nhân nghĩa, đạo lí.
Có tính giáo dục cao với những răn dạy nhẹ nhàng khuyên con người nên
sống trọn tình, trọn nghĩa.
2. Những đặc điểm tiêu biểu trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh thu

hút người đọc. Chứng minh qua tác phẩm Cay đắng mùi đời:
2.1 Tiểu thuyết mang đậm chất truyền thống Nam Bộ:
2.1.1 Hiện thực xã hội
Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh phản ánh một cách chân thực hiện thực xã hội
Nam bộ vào những năm đầu thế kỷ XX. Qua đó ông đã vẽ nên một bức tranh
xã hội Việt Nam thu nhỏ trong điều kiện có nhiều thay đổi và phân hóa sâu
sắc trước sự xâm lược của thực dân Pháp.
Trong cuộc đời làm quan của mình, Hồ Biểu Chánh có dịp đi nhiều nơi, được
tiếp xúc với đủ hạng người, thông thạo, am hiểu tường tận văn hóa, mảnh đất,
con người Nam Bộ. Với vốn sống và vốn hiểu biết phong phú Hồ Biểu Chánh
đã miêu tả rất thành công hiện thực xã hội sinh động, đa dạng và cụ thể. Đó là

hình ảnh xã hội được ông khai thác đầy đủ các khía cạnh, ở cả thành thị và
nông thôn. Giáo sư- Nhà giáo nhân dân Trần Thanh Đạm nhận xét: “Hồ Biểu
Chánh tiêu biểu cho khuynh hướng hiện đại hóa văn chương theo con đường
của chủ nghĩa hiện thực”.
- Hiện thực về một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu. Bối cảnh trong tác phẩm
Hồ Biểu Chánh trải dài trên các tỉnh: Long An, Vĩnh Long, Trà Vinh, My
Tho, Gò Công,... Thuộc miền Nam Việt Nam. Nam bộ là vùng đất được thiên
nhiên ưu đãi, với ruộng đất phù sa phì nhiêu màu mỡ. Là vùng đất giàu tiềm
năng để mang lại cuộc sống ấm no cho nông dân. Ấy vậy mà những kẻ giàu
có vẫn cứ giàu còn người nông dân thì vân chịu cảnh làm thuê, vay mướn. Ở
đó người nông dân quanh năm suốt tháng, quần quật làm lụng nhưng vẫn
không thoát khỏi cảnh nghèo, cảnh đói.


Mở đầu tác phẩm ''Cay đắng mùi đời'', hiện ra trước mắt người đọc là hình
ảnh nghèo đói, hoang tàn, đìu hiu của xóm Tre nhỏ ở Gò Công. Và hình ảnh
chiếc nhà lá nhỏ của mẹ con Ba Thời.
- Hiện thực văn hóa đan xen giữa cái cũ và cái mới trong buổi giao thời
Xã hội Việt Nam vào những năm đầu thế kỉ XX đang trong thời kì chuyển
mình để bước sang một thời kì mới. Sức ảnh hưởng của phong kiến vẫn còn
rất nặng nề trong đời sống xã hội. Trong khi đó văn hoá phương Tây ồ ạt tràn
vào, làm cho mọi tầng lớp trong xã hội bị choáng ngợp trước cái mới. Bám
lấy cái cũ của phong kiến hay đi theo cái mới của phương Tây, đó là vấn đề
bức thiết của thời đại. Qua những trang văn của mình, Hồ Biểu Chánh vẽ nên
bức tranh hiện thực về những sinh hoạt, quan hệ trong các gia đình người dân
Nam bộ lúc bấy giờ. Đó là những phong tục trong hôn nhân; văn hoá ăn mặc;
văn hoá giao tiếp, ứng xử. Ông cũng bàn đến những mặt tiêu cực trong cuộc
sống, trong hôn nhân và trong mối quan hệ gia đình như: tranh giành gia tài,
mê tín dị đoan, cảnh cưỡng hiếp, ngoại tình,...
Đọc "Cay đắng mùi đời'' gười đọc như được tận mẳt chứng kiến, tham dự vào

hành trình phiêu liêu của ba thầy trò (thầy Đàng con Liên và thằng Được). Đi
tới và qua mỗi tỉnh thành khác nhau, Hồ Biểu Chánh vẽ ra khung cảnh sinh
hoạt, thói quen, phong tục và cách cư xử của những con người nơi đó. Đặc
biệt là trong cuộc hành trình một mình nhân vật Được tận mắt, tham gia vào
cuộc sống sa hoa ở Sài Gòn. Một hiện thực về cuộc sống sôi động, bề bộn, với
nhiều hạng người khác nhau ở thành thị.
- Mâu thuẫn giai cấp
Trước sự chuyển biến về văn hóa, kinh tế, chính trị xã hội Việt Nam cũng
phân hóa sâu sắc, Xung đột giàu –nghèo, mâu thuẫn giai cấp diễn ra gay gắt
hơn bao giờ hết.
+ Hồ Biểu Chánh tố cáo tầng lớp địa chủ phong kiến độc ác, tham lam, tìm
mọi cách để ức hiếp bóc lột dân lành, làm giàu trên xương máu người nghèo.


(Nhân vật hội đồng Sáu đại điện cho tầng lớp địa chủ phong kiến trọng tiền
tài danh lợi xem nhẹ nhân nghĩa.)
Bên cạnh đó, trong tác phẩm của mình Hồ Biểu Chánh không chỉ đề cập đến
những tên địa chủ đều gian ác, xấu xa, vẫn có những địa chủ tốt bụng, giàu
lòng nhân ái, sẵn sàng cưu mang giúp đỡ người nghèo. Tiêu biểu là tấm lòng
của kẻ giàu sang như bà hội đồng Phan Thanh Nhàn. Sẵn sàng cưu mang,
giúp đỡ những đứa trẻ nghèo trong lúc khó khăn.
Còn có một lực lượng không nhỏ bao gồm hương chức, hội tề, những kẻ có
quyền thế ở nông thôn... chuyên cấu kết nhau để ức hiếp dân lành vô tội.
Chúng là những kẻ tham lam, hách dịch, dùng tiền để che giấu mọi tội lỗi và
cũng vì tiền mà tạo ra nhiều oan trái. ( Nhân vật Chú Bếp trong ''Cay đắng
mùi đời'' ỉ thế có quyền, lộng hành, ngang nhiên quát tháo đánh đập dân lành
ngay giữa ban ngày)
+ Hiện thực về cuốc sống của giai cấp nông dân lao động. Họ bị bóc lột
nặng nề về kinh tế, làm lụng vất vả quanh năm nhưng vẫn phải sống trong
cảnh đói nghèo. Không chỉ bị bóc lột về kinh tế, phải sống trong nghèo đói,

người dân còn bị áp bức, chèn ép ở mọi lĩnh vực. Hồ Biểu Chánh không chỉ
nhận ra, đề cao, ca ngời những người nông dân ở tính tình thật thà chất phác,
là nạn nhân của sự đè ép, áp bức, mà quan trọng còn ở lòng nhân hậu, yêu
thương con người. Cuộc sống nông thôn được hiện lên rõ nét thông qua
những số phận của người phụ nữ nông thôn Ba Thời, gia đình chú Tích, thầy
Đàng,... Ba Thời là người phụ nữ tảo tần, dù nghèo nhưng giàu lòng yêu
thương, chồng bỏ đi mấy năm trời nhưng vẫn một lòng chung thủy. Qua đó
tác phẩm cũng đã lên án xã hội lúc bấy giờ, một xã hội đầy rãy những bất
công, ngang trái.
- Thế lực đồng tiền
Trong tác phẩm của mình Hồ Biểu Chánh còn nên lên một hiện thực về đồng
tiền danh lợi. Đồng tiền có sức công phá quyết liệt, tấn công vào thành trì của
đạo đức truyền thống thậm chí nó còn là ma lực phá hoại nhân phẩm, đạo đức
con người.


Nhân vật Được (trong tác phẩm ''Cay đắng mùi đời'') mặc dù còn nhỏ tuổi
nhưng đã có những suy nghĩ, trăn trở về tiền bạc, giàu nghèo. Trong thâm tâm
của một cậu nhóc mới lớn ấy luôn mong mỏi tìm được ba mẹ ruột, nhưng
đồng thời cũng mong họ là những người giàu có. Chỉ khi họ là những người
giàu có thì cậu mới có thể trả ơn cho những người đã giúp đỡ mình, mới có
thể đón Ba Thời, con Liên, thằng Bĩ về sống chung. Có thể nói giàu nghèo từ
lâu đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người.
=> Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh là một bức tranh toàn cảnh xã hội Nam
Bộ, mà ở đó người đọc có dịp chiêm nghiệm, soi chiếu, tìm được tiếng nói
đồng cảm trong những kiếp người, kiếp đời.
2.1.2

Văn hóa


Không hiển nhiên mà người ta gọi cho Hồ Biểu Chánh là nhà văn Nam Bộ,
bởi lẽ trong những tác phẩm của ông ta dể dàng tìm thấy những nét văn hóa
của vùng đất Lục tỉnh Nam Kỳ, từ phong tục, tập quán đến những đạo lí, cung
cách ứng xử ở đời. Là người mở đầu cho tiểu thuyết hiện thực ở miền Nam,
Hồ Biểu Chánh đã khai thác và viết về văn hóa Nam Bộ một cách triệt để
nhất. Đây là một trong những đặc điểm trong tiểu thuyết của ông thu hút
người đọc.
-

Văn hóa được lồng ghép trong những cảnh lao động sản xuất và trong cuộc
sống sinh hoạt của người dân

+ Những người dân quê, thật thà, chân chất, dựa vào thiên nhiên mà canh tác,
sản xuất và trồng trọt: "Nửa tháng năm trời mưa dầm dề ngày nào cũng như
ngày ấy". Những cảnh sinh hoạt đời thường được ông miêu tả và kể lại:
"Ngoài đồng náo nức nông phu, bạn cày thả ví, công cấy hát hò dưới sông",
tất cả tạo nên một khung cảnh vùng quê đẹp, thanh bình mà yên ả, mang
những nét sinh hoạt rất riêng của người dân vùng sông nước.
+ Đờn ca tài tử là một nét truyền thống nổi tiếng của đất Nam Kỳ lục tỉnh,
người ta có thể hò hát chơi đàn cùng nhau ở bất cứ đâu, hò đố giao duyên
giữa nam và nữ khi cùng nhau gặt đập, ca cải lương khi đang chèo xuồng,


nằm võng đu đưa mà cất một bài vọng cổ, hay những khi họp mặt bạn bè
cùng hát lên một khúc ca tình bằng hữu, tạo nên một dấu ấn riệng biệt của
vùng sông nước. Trong Cay Đắng Mùi Đời, Hồ Biểu Chánh đã xây dựng
nhân vật Thầy Đàng là người đại diện cho nét văn hóa này rất rõ nét. Thầy
Đàng không màn danh lợi, bỏ cuộc sống quan trường chật vật và bon chen để
tìm về cuộc sống nhàn hạ ẩn dật, Thầy ra đi để tìm thấy cuộc sống đích thực
của mình với cây đàn là hành trang duy nhất. Thầy xin con Liên và thằng

Được về nuôi, dạy chúng học đàn, đi khắp nơi trong vùng đất Nam Bộ kiếm
sống bằng nghề đờn ca. Rồi thằng Được khi gặp thằng Sĩ kết nghĩa anh em,
chúng cũng cùng nhau bương trải bằng nghề hát cải lương, ca tài tử. Đờn ca
tài tử thời ấy không để chỉ mua vui, giải trí mà nó còn là một nghề kiếm sống
được rất nhiều người ưa chuộng, mãi đến tận ngày nay nét văn hóa đặc sắc ấy
vẫn còn được giữ gìn và phát huy ngày một lớn mạnh.
-

Phong tục, tập quán trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh

+ Một phong tục được xem là đã có từ rất lâu và đây là điều cấm kỵ của
người Việt Nam đó là không nên lấy tên ông, bà, cha, mẹ để đặt tên cho con
cháu: "Mầy oán tao rồi lấy tên ông nội tao mà đặt tên con mầy há" Ba Thời
nghĩ vì vô tình lượm được bên đường một thằng bé nên chị gọi thằng bé mình
nhận làm con nuôi tên là Được và càng không ngờ tên "Được" lại là tên của
ông nội chồng mình. Đây là một phong tục mà theo người Việt Nam thì đây là
điều cấm kỵ và không nên vì được coi là bất kính với ông bà, tổ tiên và có thể
mang lại điềm xấu.
+ Nét dễ tìm thấy trong những tục lệ của người xưa đó là tục bán con, đợ
con: Trái ngược hoàn toàn với Chị Dậu trong tiểu thuyết Tắt Đèn của Ngô Tất
Tố, chị vì nghèo khó đến mức đường cùng mới đứt ruột bán đi đứa con mà
chị đứt ruột sinh ra, còn Hữu – chồng Ba Thời bán thằng Được cho Thầy
Đàng cũng không vì cần tiền mà chủ yếu là muốn chứng minh thằng Được
không phải con ruột của vợ mình. Phải chăng trong xã hội thời ấy tục bán
con, đợ con dường như hiển nhiên được chấp nhận mà không ai lấy làm ngạc
nhiên?!


-


Những quan điểm, đạo lí ở đời của Hồ Biểu Chánh được ông thể hiện qua
tác phẩm:

Nam Bộ là vùng đất của nghĩa, của tình, của những con người sống chân quê,
mộc mạc và chân chất. Những lời nhật xét mà nhiều người đã ưu ái dành tặng
cho nhựng đứa con được sinh ra từ vùng Lục tỉnh Nam Kỳ. Tiếp nối truyền
thống của ông cha đã thấm vào xương vào máu và đến ngày nay nó vẫn còn
nguyên vẹn. Không phân biệt giàu nghèo, cao thấp, sang hèn, hễ có bạn đến
nhà là cơm canh tiếp đón. Khi thầy Đàng mời bạn đến nhà ca hát thì vợ thầy
luôn tiếp đón niềm nở: "Đêm nào cũng quy tụ những tay đờn giỏi đến hòa
chơi với thầy. Hễ đờn đến khuya thì ăn uống vui cười. Vợ thầy tuy phải thức
khuya coi nấu nướng mà đãi khách muốn vừa ý chồng nên chẳng có một tiếng
chi buồn trách".
Đọc Hồ Biểu Chánh để mà biết đạo lí ở đời. Thật vậy, khi đọc tiểu thuyết của
ông ta luôn tìm ra được những triết lí, từ tình nghĩa vợ chồng đến tình cảm
anh em, cách ứng nhân xử thế ở đời đến luật nhân quả, tất cả đều có trong
những câu chuyện của ông. Ba Thời - một người phụ nữ chung thủy, một lòng
vì chồng vì con, giữ đúng tiết hạnh của người phụ nữ mặc cho chồng mình Hữu đã kết hôn với một người khác. Hồ Biểu Chánh đã khắc họa hình ảnh Ba
Thời như là hình ảnh của người phụ nữ Việt Nam, chị như là hình ảnh tượng
trưng, đại diện cho tầng lớp xã hội phụ nữ lúc bấy giờ. Cũng chính vì thế mà
thương cho hoàn cảnh đơn chiếc của Ba Thời, người anh của Chị cùng vợ của
mình đã cưu mang: "Thấy Ba Thời vô duyên bạc phận chồng bỏ bơ vơ thì
đem lòng thương nên không muốn để Ba Thời đi". Một tình cảm anh em giữa
con Liên và thằng Được, không ruột rà thân thích, được thầy Đàng nhận nuôi
dây dỗ và học đờn, ấy vậy mà tình cảm lại khắng khích, quyến luyến tay chân,
đề đến khi con Liên được Bà Hội đồng ở Cần Thơ nhận nuôi, thằng Được
buồn ảo não và đến khi làm ăn có của dư của để nó tìm đường đến thăm và
mua cho con Liên một cái khăn bông, thiệt đẹp.
Tình mẫu tử, thầy trò là tình cảm thiêng liêng và được thể hiện xuyến suốt tác
phẩm. Ba Thời lượm nuôi thằng Được mà đứt ruột, khóc thúc thích khi Hữu



bán cho thầy Đàng. Thằng Được khi biết mình chỉ là "một đứa con hoang" mà
khi đò qua tới mé sông bên kia nó leo lên bờ mà ngó trở lại, dàn cây áng
khuất không thấy xóm tre nữa, không biết chỗ nào là nhà mình. Rồi nghĩ:
"Chớ chi mà mình giàu có thì kiếm mua một con heo khác cho má mình". Cắt
cớ chi mà không thân, không thích, không máu mủ ruột rà mà người ta
thương nhau đến lạ. Bà Hội Đồng mất đứa con từ nhỏ cũng khóc ròng rã mấy
chục năm, ngày đêm không ngừng thương nhớ mong mỏi tìm lại đứa con
Phan Thanh Nhã của mình, để rồi đến khi tìm lại được con Bà ôm hun thấm
thiết. Thằng Được khóc cho thầy Đàng khi thầy mất, thương thầy chết tức
tưởi nơi đất khách quê người trong đêm mưa gió, tuy thầy không có công sinh
nhưng cũng có công nuôi dạy. Và đây là những minh chứng rõ ràng nhất cho
câu nói người miền Tây quý bạn trọng tình.
Hồ Biểu Chánh đã khéo léo lồng ghép những đạo lí và tiểu thuyết của mình
để nói lên quan điểm cá nhân của mình. Những lời dạy dỗ của thầy Đàng:
"Phàn đàn bà con gái phần nhiều ưa nghe đờn mà tiếng đờn của Việt Nam là
réo rắt rỉ rả nge ca bắt thương, bắt nhớ, bắt cảm, bắt trọng tình, bởi vậy ngón
đờn tươi chừng nào thì càng làm cho đàn bà con gái dễ mê chừng ấy, nếu làm
thầy đờn mà không có chánh tâm, không trọng nghĩa thì thiếu chi dịp làm cho
bọn quần thóa mắt tiết trinh mà xưa nay bọn thầy đờn có bao nhiêu người
được chánh tâm biết trọng nghĩa. Vậy con phải nhớ lời thầy dặn nếu ngày sao
con có nghề nghiệp nào khác thì con đừng có dạy đờn ví bằng con không có
nghề con phải ra làm thấy đờn thì con phải ráng mà chánh tâm trọng nghĩa
cho lắm mới được". Để từ những lời dạy dỗ đó cho ra một thằng Được biết
nghĩ trước, tính sau: "Ở đời mình chưa chắc người ta làm quấy mà mình nghi
cho người ta như vậy thì mình quấy trước".
Muốn biết về vùng đất và con người Nam Bộ đầu thế kỷ XX hãy đọc tiểu
thuyết Hồ Biểu Chánh vì ông không chỉ là người mở đầu cho tiểu thuyết hiện
thực Nam Bộ mà qua những câu chuyện ông kể còn mang đậm dấu ấn văn

hóa vùng miền. Đó là những phong tục tập hoán, cung cách sinh hoạt đời
thường và trong lao động sản xuất, đặc biệt là những đạo lí từ tình nghĩa vợ


chồng đến tình cảm anh chị em, từ tình mẫu tử đến ơn nuôi dạy của tình thầy
trò. Miêu tả những nét văn hóa, đan xem là những câu chuyện xoay quanh gia
đình, bạn bè, thầy trò không chỉ phơi bày hiện thực lúc bấy giờ mà còn nêu
lên quan điểm nghệ thuật của tác giả thiện luôn thắng ác, chính nghĩa thắng
gian tà, người ở hiền sẽ gặp lành, một kết thúc có hậu là đặc điểm trong văn
chương của ông.
2.1.3

Ngôn ngữ

Hồ Biểu Chánh là một trong những nhà văn tiên phong- đặt những viên gạch
đầu tiên làm nền mống cho thể loại tiểu thuyết định hình và phát triển. Văn
phong của Hồ Biểu Chánh nhẹ nhàng, bình dị và gần gũi, mang đậm phong
cách văn xuôi Nam Bộ, nó tự nhiên đi vào lòng người một cách lạ thường.
Đến với những tác phẩm của ông, ở nhiều thể loại nói chung và tiểu thuyết
nói riêng, người đọc điều cảm nhận được cái chất chân quê, mộc mạc trong
từng câu, từng chữ, ta như được hoài cổ về vùng đất, xã hội văn hóa, phong
tục tập quán cũng như tính cách con người miền sông nước Cửu Long ở
những thập niên đầu thế kỷ XX thông qua cách hành văn và lối sử dụng ngôn
ngữ đậm chất Nam Bộ của mình.
Ngôn ngữ trong tiểu thuyết của nhà văn Hồ Biểu Chánh mang một dấu ấn
riêng, đậm bản sắc Nam Bộ. Tiếng nói của con người nơi đây chính là chất
liệu chủ yếu để ông viết nên tác phẩm của mình, trong đó có tiểu thuyết Cay
đắng mùi đời.
Bên cạnh lời văn gần gũi và mộc mạc, Hồ Biểu Chánh còn đưa ngôn ngữ
hằng ngày vào tác phẩm văn chương một cách rất tự nhiên. Đọc tiểu thuyết

của Hồ Biểu Chánh, người đọc như được sống trong miền đất của nhân vật,
bên cạnh những con người đậm đặc tính cách của vùng đất này.
-

Những hệ thống đại từ nhân xưng và cách giao tiếp của các nhân vật mang
đậm dấu ấn Nam Bộ, đó là một nét riêng rất tiêu biểu trong tiểu thuyết của
Hồ Biểu Chánh, nó mang lại một hiệu ứng rất gần gũi và chân phương, thu
hút người đọc bởi sự chân thực trong ngôn ngữ. Những đại từ nhân xưng


như má , tía, qua, mình, mầy, tao.... được sử dụng nhiều trong tiểu thuyết
-

của ông cũng như Cay đắng mùi đời.
Tiếng địa phương được sử dụng hết sức thuần thục và phù hợp chính xác

-

làm lột tả hết tính cách của con người Nam Bộ hiền hòa.
Bên cạnh đó, hệ thống khẩu ngữ (hay văn nói) cũng được khai thác và vận
dụng một cách triệt để. Yếu tố đó giúp người đọc đến gần hơn với cuộc
sống của con người Nam Kỳ lục tỉnh. Khẩu ngữ luôn hiện lên như một
nguyên liệu không thể thiếu để làm nên cái chất đặc trưng rất riêng trong
tiểu thuyết miền Nam của ông :

Hai người vô nhà rồi lặng thinh không nói chi hết, một lát Ba Thời mới hỏi
người lạ mặt ấy rằng:
- Mình về bao giờ?
- Về mấy bữa rày.
- Về mấy bữa rày ở trong chú hay là ở đâu?

- Ở trỏng chớ ở đâu.
Hai người hỏi nhau có mấy lời, kế Lê Văn Tiết đứng dậy mà nói răng: “Ðể tôi
về tôi lùa trâu vô chuồng. Dượng ba nó nghỉ rồi sáng mai lại nói chuyện chơi
nghe”.
Những câu “về mấy bữa rày”, “ở trỏng chớ ở đâu”, “nói chuyện nghe chơi”...
là những câu nói hằng ngày rất đậm phong cách con người miền Nam, tái
hiện một cách chính xác phương thức giao tiếp và thói quen dùng từ của con
người nơi đây, nhất là nhân dân những tỉnh miền Tây Nam Bộ. Những từ ngữ
như “giống gì”, “thuở nay” ,“thủng thẳng”, “ai dè”, “cha chả”... cũng là
những khẩu ngữ rất quen thuộc của vùng đất này. Những hệ thống khẩu ngữ
này không chỉ xuất hiện trong Cay đắng mùi đời mà còn xuất hiện trong rất
nhiều tác phẩm khác của Hồ Biểu Chánh.
Song song cùng những đặc trưng về hệ thống từ xưng hô và khẩu ngữ, những
từ ngữ được sử dụng rộng rãi của thời đó như “đa”, “lung lắm” “xí được”,..
thu hút người đọc, bởi đó là những từ ngữ gần như xa lạ đối với thời đại ngày
nay. Nó không còn được sử dụng rộng rãi và rất ít người biết đến. Chính vì


thế, có thể xem đó như là những màu sắc độc đáo mang dấu ấn lịch sử và thời
đại trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh.
Như trong cách giao tiếp thì dùng những từ xưng hô rất đỗi gần gũi, thể hiện
sự dung dị, chất phác khiêm tốn và thuận trên hòa dưới : " Qua" để chỉ ngôi
thứ nhất; " mày-tao", "mình" "tôi" trong giao tiếp giữa vợ chồng; "tía", "má"
trong giao tiếp giữa con với cha mẹ; ngoài ra còn có bây, thầy...; tiếng xưng
hô bằng từ biến thể trong trạng thái hợp âm tạo nên cách xưng hô quen miệng
của dân nam như: " thẩy"( thầy), "mở" (mợ), "ổng" (ông)...
Ví dụ:
-Này má ! Thằng Cam, thằng Phát đứa nào cũng có tía hết, còn tía tôi
đâu má há...
Hồ Biểu Chánh là một đứa con của Nam Kỳ, ông thấu hiểu về văn hóa cũng

như ngôn ngữ của nơi đây. Thế nên vận dụng và phát huy phương ngữ của
vùng miền mình một cách thuần thục và hiệu quả. Những từ ngữ thể hiện
phương ngữ Nam Bộ như : “đờn ca”, “tay chơn”, “tiểu nhơn”, “nhứt là”, “giọt
lụy”, “chánh đạo”, “(vui) hôn, ...
-

Dùng từ miêu tả, hình dung từ đặc sệt vùng sông nước cửu long hiền hòa:
ruộng bằng trang xếp liền từ giây, cái trở cửa lên, cái day cửa xuống, núc
ních, xơ rơ, òi ọp, trành tròng, (nói) đỏ đẻ, chèo queo, (nước mắt chảy)
chòm ngoàm, mắc (đắt), mặt chữ bự, (mưa) dầm dề, bùm sùm, (đi) nghểu

-

nghểnh, (đứng) xẩn bẩn, dan díu, trộ trạo., ríu ríu...
Ngữ khí được dùng cuối câu để nhấn mạnh cho câu nói, câu hỏi, làm tăng
sắc thái của câu, thể hiện đúng tính cách của người dân rất phóng khoáng,
cởi mở chân thật và hiền hòa như: đa, há, hôn hử...

Ví dụ :
_Con cho heo ăn rồi hay chưa vậy con
_Chưa má à, tôi mới tắm rồi đuổi vô đó đa.


Trong các tác phẩm của ông có một nét riêng thu hút người đọc, đó là sự giao
tiếp của tác giả với người đọc. Bằng ngôn ngữ của cá nhân mình, với tư cách
là một người kể chuyện, một con người Nam Bộ thật sự, ông mang những suy
tư, triết lí của mình đến với người đọc. Đưa đến họ những nhận thức mới sâu
sắc hơn bằng những ngôn từ bình dị :
“Nếu thằng Nhã là con của bà Hội đồng Nhàn mà không có làm thằng Ðược,
thì ngày nay nó có biết thương con nhà nghèo hay không? Ai dám chắc?”

Những đặc điểm về nghệ thuật sử dụng ngôn từ, cùng với văn phong giản dị
và gần gũi, Hồ Biểu Chánh thu hút người đọc với một nét đặc trưng riêng
biệt. Đó cũng là một trong những yếu tố góp phần xây dựng thành công hình
tượng nhân vật trong tác phẩm.
2.1.4

Xây dựng nhân vật

Bên cạnh thủ pháp sử dụng ngôn từ Nam Bộ hết sức thành công, tiểu thuyết
của Hồ Biểu Chánh còn mở ra cho người đọc một thế giới nhân vật hết sức đa
dạng và phong phú, đông đảo hầu như đủ mọi tầng lớp, ngành nghề trong xã
hội miền Nam những năm đầu thế kỷ XX.
Trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, cách đặt tên nhân vật cũng có chủ đích
vá ý nghĩa riêng. Nó góp phần vào việc giúp cho người đọc hình dung về số
phận và cuộc đời nhân vật. Tên của nhân vật thường nói lên những vấn đề
như xuất thân, số phận, phẩm chất...Ở Cay đắng mùi đời, thằng Được vì xí
được mà tên Được, nhưng thân phận chính thức là con của bà hội đồng Nhàn,
với tên gọi là Nhã nên khi tìm được gia đình nó được sống trong nhàn hạ và
tính cách nhã nhặn, thấu đời. Cuộc đời của thầy Đàng là cả một con đường
của kiếp người, cuộc đời của ông rong rủi trên đường, với những chuyến đi
đầy mạo hiểm và phiêu lưu; thằng Bĩ là một đứa cơ cực, nghèo túng và khổ
sở; ông Chánh Tâm với một tấm lòng chân chính và ngay thẳng…Cũng có lúc
tên gọi cũng mâu thuẫn với tính cách và số phận nhân vật, chẳng hạn như
nhân vật Hữu, tên gọi là Hữu nhưng số phận nghèo khó, lại không có con...


Nhân vật có một thế giới riêng, ở đó cá tính nhân vật bộc lộ một cách tự nhiên
và sinh động, nó được bộc lộ qua việc miêu tả ngoại hình, hành động và qua
ngôn ngữ đối thoại giữa các nhân vật. Thông qua những yếu tố đó, Hồ Biểu
Chánh đã khắc lên một bức chân dung sinh động của con người Nam Bộ, với

những nét đặc trưng rất riêng về tính cách và lối sông, sinh hoạt.
Ví dụ :
Hình ảnh của Ba Thời được Hồ Biểu Chánh diễn tả rất chân thực: " Người
đàn bà này trạc chừng ba mươi bốn tuổi, áo xăn ngàng, ống quần vo tới đầu
gối, nước da không đen không trắng, mặt tròn, chơn mày rậm, mình mẩy ướt
loi ngoi, sau lưng có giắt thêm một cây nọc cấy, ngoài đội thêm một cái nón
lá dừa..." => Hiện lên hình ảnh người phụ nữ lam lũ tảo tần, khuôn mặt phúc
hậu hiền hòa chịu thương chịu khó vô cùng.
Khi nói về cậu bé Được lúc nhỏ thì : "... Đứa con trai chừng năm sáu tháng,
da trắng tóc đen môi son, miệng rộng, cườm tay như ống chỉ, bắp chưng như
củ cải, đầu đội một cái kết bằng lụa bông màu hồng phấn, mình mặc cái áo
đầm cũng bằng lụa màu bông hường, ở truồng, chơn mang một đôi vớ bằng
chỉ len màu lông két, còn cổ lại có đeo một sợi dây chuyền vàng nhỏ " => mở
đầu đã cho ta thấy xuất thân của đứa bé bụ bẫm này là gia đình giàu có dư dả,
có địa vị cao trong xã hội.
Nhân vật Thầy Đàng cũng được miêu tả rất rõ nét : "...nó dòm ông già ấy thì
thấy ổng mặc cái áo xuyến dài cũ, trong có áo cổ giữa trắng, dưới mặt quần
lãnh đen, đầu bịt khăn đe nhiễu đen, chơi đi giày hàm ếch da láng, vóc người
lớn, miệng rông môi dầy...trán cao, mặt dùn da mà cặp mắt lớn, đôi chưng
mày rậm. => toát lên một người đàn ông trung niên có học thức, cốt cách
thanh cao tài tử và hiền lành.
Bên cạnh đó, mặc dù nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật trong tiểu thuyết của
Hồ Biểu Chánh không mấy đặc sắc, nhưng nó cũng mang một nét riêng rất
độc đáo khiến người đọc phải ấn tượng với nhân vật của ông. Cách mà ông
thể hiện tâm lý nhân vật có lúc vội vã, hời hợt, và chưa diễn tả được hết chiều
sâu nội tâm của nhân vật, nhưng nó tạo cho nhân vật một sự giản dị và chân


chất, rất gần gũi với hình ảnh và tính cách của con người bình dân, điều đó
mang tiểu thuyết của ông không chỉ đến với người đọc trí thức, mà còn đến

với đông đảo quần chúng nhân dân lao động, được sự đón nhận rất nhiệt tình
từ phía những người đọc này.
Nhân vật mà ông xây dựng không quá cầu kỳ, không quá sắc xảo, không quá
tinh tế về mặt nội tâm, cũng như tính cách nhưng cũng có thể nói ông đã
thành công với những hình tượng nhân vật ấy. Hình ảnh của con người Nam
Bộ trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh như là những con người bằng xương
bằng thịt. Nhân vật của ông đến với người đọc như những con người xung
quanh họ, đọc tác phẩm của ông, người đọc như gặp lại hình ảnh của những
người cậu, người dì và những người em Nam Bộ trong thời kỳ ấy.
Nhân vật Hữu trong Cay đắng mùi đời là một nhân vật mà Hồ Biểu Chánh
xây dựng không mấy thành công, thế nhưng nhân vật này lại mang một nét rất
độc đáo đặc trưng cho những người đàn ông Nam Bộ, từ tính cách, ngoại hình
đến ngôn ngữ và phong cách giao tiếp. Nhân vật Được cũng chưa phải là một
nhân vật được xây dựng quá xuất sắc, nhưng ở nhân vật này vừa tồn tại sự
ngây thơ, trong sáng của một đứa trẻ nông thôn, vừa tồn tại một con người
ngộ đạo, thấu lẽ đời. Nhân vật thầy Đàng là một nhân vật được xây dựng có
cá tính riêng, lựa chọn con đường chính đạo, quyết tâm từ bỏ những ham
muốn của đời thường. Hồ Biểu Chánh xây dựng hình tượng nhân vật thầy
Đàng như là sự tái hiện cho hình ảnh của những nhà Nho trong buổi giao thời
với một số phận khắc nghiệt và sự ra đi trong khốn khổ.
Như vậy, Hồ Biểu Chánh gửi gấm vào đó những quan niệm của ông về cuộc
đời, về số phận con người qua những con người chân chất và giản dị. Chính
điều này đã mang tiểu thuyết của ông đến gần hơn với mọi người đọc cũng
như giúp nó tìm được chỗ đứng vững chắc đến ngày nay.


2.2 Nét cách tân trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh:
2.2.1 Tính phiêu lưu

Người miền Nam vốn quanh quẩn bám trụ mảnh đất cha ông mà sinh sống lập

nghiệp chứ ngại đi xa, không thích “du sơn ngoạn thủy” nên sự hiếu kỳ tò mò
về những vùng đất mới như chốn thị thành hoặc nơi thôn dã đã đem họ đến
với tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh. Đó cũng chính là lý do mà Hồ Biểu
Chánh luôn đưa người đọc qua hết địa danh này lại đến địa danh khác ở Nam
bộ trong cuộc hành trình của các nhân vật. Hầu như khắp lục tỉnh Nam kỳ nơi
đâu cũng được Hồ Biểu Chánh khắc họa đặc sắc về con người và thiên nhiên.
- Tính phiêu lưu trong “Cay đắng mùi đời” thể hiện qua từng vùng đất mà
thằng Được đi qua trong hành trình lưu lạc của mình.
Thằng Được có quãng thời gian êm đềm sống cùng Bà Thời ở Gò Công. Từ
ngày nó theo thầy Đàng, thằng Được mới chính thức bắt đầu cuộc hành trình
gian truân của mình. Nó đi tới những vùng đất mới, được giao lưu và chứng
kiến những điều mới lạ. Qua mỗi vùng miền là một chân trời mới hiện ra. Nó
theo thầy Đàng cùng con Liên qua Cần Giuộc được học cái chữ, đạo lý lẽ phải
và miếng đờn văn nghệ nuôi sống bản thân. Sau đó lại lên Bến Tre ở nhà ông
Phán Cầm bạn của thầy Đàng rồi ba thầy trò lại lên đường đến Trà Vinh
chẳng may thầy Đàng gặp nạn bị bắt giam. Nghe lời thầy Đàng con Liên
thằng Được đến Càng Long tìm đến nhà ông Hội đồng Sáu nhưng bị đối xử
khinh bạc. Hai đứa xuống Vĩnh Long thì gặp bà Hội đồng Nhàn. Sau khi thầy
Đàng được thả, thằng Được theo thầy lên Sài Gòn. Hành trình của thằng bé
Được cứ quay vòng như thế. Từ tỉnh này qua tỉnh khác, từ con đường này qua
con đường khác. Sự trải nghiệm của nhân vật qua những vùng đất sẽ mở
mang sự hiểu biết của người đọc.
- Phiêu lưu để thấu hiểu tình người lẽ đời:
Ở mỗi chặng đường không chỉ nhân vật mà người đọc đều thấm thía vị đời
cay đắng, ngọt bùi ra sao. Người tốt, kẻ xấu ở đâu cũng có ví như chị bán
thơm ở Trà Vinh lúc thầy Đàng bị bắt giam không có lòng thương cưu mang
thằng Được con Liên thì hai đứa chắc đã phải ở đầu đường xó chợ, bữa đói


bữa no để trông tin thầy. Khi thầy Đàng mất, nếu không được thầy xếp ga Phú

Lâm đưa vào bệnh viện, lo việc mai táng thầy và giữa đồ đạc dùm thì thằng
Được cũng không thể giữ nổi mạng sống mà tiếp tục lên Sài Gòn. Nhưng
đáng giận ông Hội đồng Sáu tham phú khinh bần, hay thầy Đàng mắc nạn đã
không giúp đỡ mà còn vô tình với thằng Được và con Liên. Cũng đáng trách
thầy thông Phan Đức Lợi vì tham tài sản thừa kế của người anh mà hết lần
này đến lần khác hãm hại cháu ruột mình.
Tính phiêu lưu ở đây không chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu của người đọc mà
mang đậm suy tư chiêm nghiệm: có đi nhiều, trải nghiệm nhiều thì con người
mới có thể khôn lớn, trưởng thành được. Đây không phải là chuyến du ngoạn
kỳ thú mà là hành trình đi tìm và nhận ra cái gọi là thế thái nhân tình, thấu cái
lẽ “cay đắng mùi đời” như tác giả đã đặt tên cho tiểu thuyết của mình. Đó là
một trong những nét mới lạ ở tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, cũng cho thấy sức
sáng tạo không quá lệ thuộc vào tiểu thuyết phương Tây trong nghệ thuật
phóng tác, cụ thể là tiểu thuyết “Không gia đình” của Hector Marlot.
Tính phiêu lưu là chất liệu làm nên sự khác biệt giữa Cay đắng mùi đời và
Không gia đình. Với Không gia đình qua cuộc phiêu lưu của thằng bé Remi
đó là một hành trình khám phá vượt qua khỏi phạm vi một đất nước – từ Pháp
đến Anh- không gian rộng mở và to lớn. Con người Pháp, xã hội Pháp hiện
lên qua mỗi bước chân của nhân vật. Đó là một đất nước Còn với Cay đắng
mùi đời cuộc phiêu lưu gói gọn trong một vùng miền của đất nước. Nhưng
không vì thế mà Cay đắng mùi đời trở nên kém hấp dẫn. Qua mỗi vùng đất là
một phong cảnh mới hiện lên trước cái nhìn của nhân vật, ở đó có kẻ xấu,
người tốt, có những thử thách mà thằng bé Được và người bạn đồng hành
phải vượt qua.
Bên cạnh đó, cuộc phiêu lưu đã giúp tác giả tái hiện một cách chân thật tình
hình xã hội lúc bấy giờ. Thầy Đàng vì bênh vực một chàng trai trước thái độ
xấc xược, hung ác của tên bếp mà bị phạt tù. Càng kiện lên quan thì công lí
càng co rúm. Một xã hội, lũ tàn bạo là kẻ thống trị, mặc sức đàn áp những con
người nhỏ bé.



Con người Nam Bộ suốt ngày chỉ biết quanh quẩn bên ruộng đồng, đầu tắt
mặt tối với những công việc nên họ luôn khao khát tìm hiểu về thế giới xung
quanh. Đây cũng chính là lí do mà có thời tiểu thuyết kiếm hiệp đã rất thịnh
hành ở đây. Sự phiêu lưu đã mở ra những chân trời mới cho họ từ thành thị
đến thôn quê.
Qua đó, Hồ Biểu Chánh đã chứng minh lối đi riêng, phong cách riêng trong
tiểu thuyết mà ít nhiều dư luận đã nói về việc ông sao chép tiểu thuyết phương
Tây. Trước Hồ Biểu Chánh ta chưa thấy tính phiêu lưu trong văn học được đề
cao. Phiêu lưu nhưng không chú trọng việc khám phá cái mới lạ, phiêu lưu
nhưng không mang đậm chất kịch tính, thử thách như ở tiểu thuyết phương
Tây. Với Hồ Biểu Chánh phiêu lưu là sự dấn thân vào dòng đời, hiểu cái lẽ
đạo lý má tránh cái thói thô tục, đê hèn. Phiêu lưu không để chứng tỏ bản thân
chiến thắng trước cuộc đời mà là đánh dấu sự trưởng thành trong suy nghĩ,
đánh thức lương tri ở mỗi con người.
Có thể nói, Hồ Biểu Chánh là nhà văn đầu tiên quan tâm đến thị hiếu người
đọc. Ông hiểu người đọc mà ở đây là những con người Nam Bộ tìm kiếm điều
gì qua tác phẩm văn học. Họ muốn nhìn thấy thế giới xung quanh mình chứ
không bó hẹp ở con đường làng, ở vài ba căn nhà trong xóm. Và tính phiêu
lưu là hình thức nghệ thuật tối ưu nhất để truyền tải thông điệp của mình. Một
tác phẩm không chỉ gắn với những triết lí mà còn phải tái hiện hiện thực mặc
dù hiện thực trong văn chương của ông còn diễm lệ, cải lương nhưng có thể
xem nó là bước tiến bộ giữa thời đại giao thời cũ- mới.

2.2.2

Nghệ thuật phóng tác

Nghệ thuật phóng tác không còn là từ xa lạ trong nền văn học Việt Nam. Nó
được hình thành và phát triển vào đầu thế kỉ XX. Nhiều tác phẩm văn học

trong nước đã được phóng tác từ các tác phẩm văn học nước ngoài như:
Trong cuốn Phác thảo văn học Pháp với văn học Việt Nam hiện đại GS.
Hoàng Nhân đã định nghĩa nghệ thuật phóng tác : “Chỉ giữ lại cốt truyện hay
một phần cốt truyện còn câu chuyện, hoàn cảnh, tâm lý, tư tưởng, hoạt động


của các nhân vật, lời văn đều do tác giả sáng tác ra…nhân đọc nghe câu
chuỵên của người nghĩ đến câu chuyện của mình. Hai câu chuyện khác nhau
với những tâm lý tư tưởng nhân vật khác nhau.Chỉ giống nhau một điều cái ý
truyện hoặc cái cốt truyện. Như vậy có thể giao lưu qua lại mà mỗi bên đều
giữ được bản sắc riêng của mình. Phóng tác đạt tới chỗ tài tình khéo léo nếu
người đọc không thể nhận ra việc cảm tác vì tất cả câu chuyện, tâm lý, tư
tưởng nhân vật đều có vẻ thuần tuý dân tộc. Ngay cả sau khi đã đọc tác phẩm
nước ngoài được cảm tác, khi trở lại đọc tác phẩm cảm tác cũng vẫn chỉ bị ám
ảnh, thu hút, xúc động vì chính tác phẩm cảm tác mà thôi”.[11; tr.383]
Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đưa ra khái niệm về nghệ thuật phóng
tác như sau: Nghệ thuật phóng tác là dựa vào cốt truyện, ý chính của các tác
phẩm khác làm chất liệu sáng tạo nên một tác phẩm của riêng mình, mà ở đó
từ ngôn từ văn chương, hình thức nghệ thuật, nội tâm nhân vật đều được tác
giả nhào nặn sao cho phù hợp với tư tưởng và tầng lớp đọc giả mà nhà văn
hướng đến.
Cũng có thể hình dung nghệ thuật phóng tác cũng như quá trình tiếp biến văn
hóa. Chúng ta học hỏi cái mới, cái hay từ văn hóa của các nước khác thì bên
cạnh đó cũng thay đổi, sáng tạo để phù hợp với truyền thống phong tục của
dân tộc.
Có thể nói nghệ thuật phóng tác là phương tiện hữu hiệu trong việc dung hòa
giữa cái truyền thống và cái cách tân, tạo nên nét mới lạ và mở ra bước tiến
mới cho nền văn học, hướng tới nền văn học hiện đại.
Trong “ Đời của tôi về văn nghệ” Hồ Biểu Chánh cho biết: “Đọc tiểu thuyết
hay tuồng hát Pháp văn mà tôi cảm thì tôi lấy chỗ cảm đó mà làm đề, rồi

phỏng theo ít nhiều hoặc lấy đó mà sáng tác một tác phẩm hoàn toàn Việt
Nam. Tuy tôi nói phỏng theo kỳ thiệt chỉ lấy đại ý mà thôi, mà có khi tôi còn
lật ngược tới đại ý, làm cho cốt truyện trái hẳn tâm lý, khác xa với truyện
Pháp”. Qua đây chúng ta có thể thấy được Hồ Biểu Chánh đã phóng tác như
thế nào. Hồ Biểu Chánh đã mượn cốt truyện từ tiểu thuyết phương Tây. Ở tác
phẩm Cay đắng mùi đời, Hồ Biểu Chánh chỉ lấy cốt truyện của Hector Malot,


giữ một số nét chính và đôi khi cả những chi tiết của nét chính cũng được giữ
lại, bỏ một số nét chính khác thêm bớt một số nhân vật, đặt câu chuyện vào
khung cảnh hoàn toàn Việt Nam, với chủ đề, tư tưởng, mục đích và lối thoát
hoàn toàn khác hẳn. Phóng tác là chỉ giữ cốt truyện hay một phần cốt truyện,
còn câu truyện, hoàn cảnh, tâm lí, hành động của các nhân vật, lời văn, điều
do tác giả sáng tác ra… nhân đọc, nghe câu chuyện của người, nghĩ đến câu
chuyện câu mình. Hai câu chuyện khác nhau với tâm lí tưởng tâm lí nhân vật
khác nhau. Theo Hồ Biểu Chánh phóng tác là phải có sự chọn lọc, cải biến
cho phù hợp với hoàn cảnh, con người đạo lí, tâm lí Việt Nam, cụ thể là người
dân Nam bộ, sáng tạo, xây dựng tâm lí nhân vật phù hợp vào lối sống suy
nghĩ của người Việt Nam.

Tiểu thuyết Cay đắng mùi đời của Hồ Biểu Chánh được phóng tác từ tác
phẩm Không gia đình của Hector Malot.
Cậu bé Rêmi bị người chú bỏ rơi lúc năm sáu tháng tuổi nhằm lấy được tài
sản của anh mình. May mắn Rêmi được má Bácbơranh đem về nuôi. Khi cậu
bé được tám tuổi thì ông Bácbơranh đem bán cho cụ Vitaly. Rêmi được cụ
dạy xiếc kịch, học chữ và học hát. Trên con đường lưu lạc của mình Rêmi trải
qua nhiều khó khăn, nhất là khi cụ Vitaly chết trong một cơn đói rét. Rêmi
cùng bạn là Mátchia lang thang khắp nước Pháp và Anh. Kết thúc chuyện
Rêmi tìm lại được gia đình giàu có của mình và đền ơn cho những người đã
giúp đỡ cậu lúc khó khăn.

Tuy Cay đắng mùi đời được phóng tác từ Không gia đình nhưng khi đọc tiểu
thuyết người đọc vẫn bị lôi cuốn vào từng hành động, tâm lí nhân vật. Thậm
chí những dấu vết phóng tác dường như mờ đi dưới ngòi bút của Hồ Biểu
Chánh. Điều gì làm nên sự khác biệt đó?
Với Cay đắng mùi đời cốt truyện từ Không gia đình có thể xem là màu mực
để Hồ Biểu Chánh với ngòi bút của mình vẽ lên đó hình ảnh, khung cảnh con
người Nam Bộ. Từ ngôn ngữ, cách hành văn, đến tâm lí nhân vật đều rất
truyền thống.


Theo Huỳnh Lí khi dịch tác phẩm Không gia đình của Hector Malot cho rằng:
“ Không gia đình do một nhà văn tư sản viết, - dù là nhà văn tiến bộ- cuốn
sách không khỏi mang sai lầm của tư tưởng và quan niệm xã hội của ông ta.
Tác giả tôn sùng những người giàu sang, có danh vọng, lịch sự. Ông đã dành
cho Rêmi một bà mẹ đại tư sản với một gia tài kếch sù, để cho khi nhận ra
mẹ, Rêmi có sẵn của cải đó mà đền ơn trả nghĩa”. Khi nghiên cứu tác phẩm
Cay đắng mùi đời và Không gia đình chúng tôi đã đặt ta câu hỏi: Liệu có tính
tư sản trong Cay đắng mùi đời?
Nhìn chung các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, kể cả những tác phẩm được
phóng tác từ nước ngoài, ông đều thể hiện tính hiện thực qua tác phẩm, mặc
dù tính hiện thực còn cải lương, đậm diễn thuyết những cũng được xem là
bước đầu cho chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam. Trở lại với vấn
đề, Hồ Biểu Chánh muốn tái hiện xã hội Việt Nam trước sự thuộc địa của
thực dân Pháp- một xã hội mà người nghèo khổ bị áp bức, khổ vì tiền mà
sung sướng cũng nhờ tiền. Tuy nhiên đó chỉ là cách phản ánh xã hội của nhà
văn. Đồng tiền chỉ là phương tiện, là yếu tố góp phần thể hiện đạo lí đền ơn
đáp nghĩa từ ngàn đời xưa của cha ông mà Hồ Biều Chánh muốn gửi gắm.
Cuối tác phẩm nhà văn đã khẳng định cái làm nên thằng bé Được của ngày
hôm nay không phải sự giàu sang vật chất mà là những năm tháng lưu lạc quý
báu: “ Chẳng những thằng Nhã hậu đãi những người yêu nó trong lúc nó

nghèo hèn mà thôi, mà hễ nó thấy con nhà nghèo thì nó động lòng thương nên
hay xin mẹ cho bạc tiền hoặc cho quần áo. Người trong xóm thấy tính tình nó
như vậy cũng đều ngợi khen, duy một mình người viết truyện này đã không
khen mà lại buồn, là vì thầm nghĩ thằng Nhã nầy nhờ có làm thằng Được trót
mười lăm năm trời nên ngày nay mới biết thương con nhà nghèo như vậy, còn
bao nhiêu thằng Nhã khác không có làm thằng Được nên chưa nếm đủ mùi
cay đắng trong đời, thì ai nghèo mặc ai, mình giàu mình hưởng. Nếu thằng
Nhã là con của bà Hội đồng mà không có làm thằng Được, thì ngày nay nó có
biết thương con nhà nghèo không? Ai dám chắc.”


Huống hồ một nhà văn, một viên chức làm việc cho Pháp mà đến cuối đời
sống trong một căn nhà đơn sơ, bên chiếc bàn nhỏ ngày đêm cặm cụi viết thì
làm sao mà tư sản được!
Chúng tôi đặt ra vấn đề trên không phải để lí giải một câu hỏi đơn thuần mà
nhờ vào đó chúng tôi muốn khẳng định nghệ thuật phóng tác có chọn lọc của
Hồ Biểu Chánh là cái làm nên nét riêng biệt trong tác phẩm của ông. Một sự
kết hợp hài hòa giữa ta và người. Làm cho người đọc vừa tò mò trước điều
mới lạ, vừa thích thú với nét truyền thống, phù hợp với thuần phong mỹ tục
của dân tộc.
3. Tổng kết:



×