Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SKKN một số BIỆN PHÁP để GIÚP học SINH lớp 3 GIẢM bớt lỗi CHÍNH tả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.79 KB, 22 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:
“MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ GIÚP HỌC SINH LỚP 3 GIẢM BỚT
LỖI CHÍNH TẢ”


A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
1. Cơ sở lí luận :
Hồ Chủ tịch – người thầy vĩ đại của Đảng, của Cách mạng Việt Nam đã nói:
“Muốn có đạo đức Cách mạng thì phải có tri thức”.
Điều này chứng tỏ tri thức trong xã hội là chìa khóa vạn năng để mở tất cả bí mật
trong vũ trụ bao la này.
Muốn có tri thức thì phải học và học thật tốt. Việc học phải trải qua muôn vàn gian
khổ, quá trình thử thách, nghiền ngẫm, suy luận, tìm tòi, kể cả phải vượt qua thác ghềnh,
chông gai mới có được.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của nhà trường hiện nay là hình thành,
phát triển trí tuệ cho học sinh,và môn Tiếng việt chiếm một vị trí hết sức quan trọng, mà
ở đây được nhắc đến đó là phân môn chính tả ở lớp 3 vì nó cũng không kém phần quan
trọng giúp cho con người chúng ta trong khi nói hay viết cũng như trong đời sống sinh
hoạt và lao động thường ngày của con người. Nó còn là phương tiện, là công cụ cần thiết
để học các môn học khác. Đồng thời nó góp phần to lớn vào việc phát triển tư duy cho
học sinh, bồi dưỡng và phát triển các thao tác trí tuệ. Mặt khác, môn Tiếng việt còn góp
phần quan trọng vào việc phát triển tư duy và việc hình thành các phẩm chất của con
người lao động mới.
2. Cơ sở thực tiển :
Hiện nay, việc nâng cao chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh là mối
quan tâm có tầm quan trọng hàng đầu bao trùm và chi phối mọi hoạt động khác. Trong
các môn học ở tiểu học thì môn Tiếng việt là một trong những môn quan trọng nhất giúp
học sinh nắm được kiến thức Tiếng việt cơ bản, có cơ sở học tốt các môn khác, ngoài ra


nó còn giúp các em năng động, sáng tạo, tự tin hơn trong khi giao tiếp.
Trong thực tế, khi giảng dạy tôi đã phát hiện có những học sinh mắc sai lỗi chính tả rất
nhiều, có những học sinh viết sai hơn 10 lỗi ở một bài chính tả 60 chữ. Khi chấm bài Tập
làm văn, tôi không hiểu các em muốn diễn đạt điều gì vì bài viết mắc quá nhiều lỗi chính
tả. Điều này ảnh hưởng đến kết quả học tập của các em ở môn Tiếng việt cũng như các
môn học khác, hạn chế khả năng giao tiếp, làm các em mất tự tin, trở nên rụt rè nhút nhát.
Do đó để đạt được mục tiêu chương trình đề ra, người giáo viên phải nắm chắc mục tiêu,
nội dung để khai thác. Điều quan trọng là giáo viên phải nghiên cứu đầu tư xây dựng
phương pháp dạy và học, phân nhóm đối tượng học sinh nhằm giúp học sinh tích cực


hoạt động học tập. Xuất phát từ vị trí tầm quan trọng của môn Tiếng việt ở tiểu học, xuất
phát từ thực trạng dạy và học trong chương trình Tiếng việt lớp 3, qua nghiên cứu khả
năng ứng dụng cụ thể, thiết thực của vấn đề vì lí do đó tôi đã cố gắng thống kê, phân loại
lỗi, tìm hiểu nguyên nhân vì sao các em mắc lỗi đến như vậy tôi đã mạnh dạn nghiên cứu
đề tài “ Một số biện pháp để giúp học sinh lớp 3 giảm bớt lỗi chính tả”. Với mong
muốn nâng cao hiệu quả trong công tác giảng dạy, đồng thời giúp các em mạnh dạn hơn,
tự tin hơn trong học tập cũng như trong giao tiếp.
II. MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
1.Mục đích :
Căn cứ từ thực tiễn của việc dạy và học môn Tiếng việt ở lớp 3 nói chung và việc
học phân môn chính tả nói riêng thì để đảm bảo cho người nói và người nghe, người viết
và người đọc hiểu rõ văn bản một cách thống nhất, người ta đã đưa ra hệ thống qui tắc về
cách viết cho các từ của một ngôn ngữ. Như vậy chính tả là một phân môn có tính thực
hành thông qua luyện tập thực hành để hình thành cho học sinh năng lực và thói quen viết
đúng chính tả. Vì vậy vấn đề rèn luyện để nâng cao chất lượng viết đúng chính tả là việc
làm hết sức cần thiết đối với mỗi người giáo viên dạy lớp, của nhà trường và kể cả ngành
giáo dục hiện nay. Chính vì lẽ đó tôi muốn đưa ra một số biện pháp để giúp các em giảm
bớt lỗi chính tả, nắm chắc được các qui tắc cơ bản một cách sâu sắc, giúp các em không
còn nhầm lẫn giữa các từ này với từ khác khi nói và viết. Từ đó các em yêu thích học

môn chính tả hơn, đồng thời tạo cho các em có lòng say mê học tập và làm việc có kế
hoạch một cách cụ thể, có ý chí vượt khó vươn lên và tự tin trong học tập.
2. Các phương pháp:
Khi nghiên cứu đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
1. Phương pháp luyện tập thực hành :
Đây là phương pháp chủ đạo trong quá trình dạy và học môn chính tả. Chỉ có thông
qua con đường luyện tập thực hành thì mới hình thành được năng lực viết đúng chính tả
một cách có hiệu quả.
2. Phương pháp giao tiếp :
Phương pháp này giúp học sinh khắc sâu những quy tắc chính tả một cách có ý
thức. Muốn sử dụng phương pháp này cần có hệ thống câu hỏi phù hợp với từng đối
tượng học sinh.
3. Phương pháp phân tích ngôn ngữ :


Phương pháp này giúp học sinh so sánh những từ ngữ dễ lẫn lộn khi viết. Để sử
dụng tốt phương pháp này, giáo viên phải chọn những từ ngữ dễ lẫn, tùy theo tửng địa
phương, tùy theo tình hình lớp. Cách phân tích phải dễ hiểu, không sử dụng thuật ngữ
khó hiểu đối với học sinh.
4. Phương pháp luyện tập theo mẫu:
Phương pháp này sử dụng trong mọi tiết học chủ yếu là trong giờ chính tả nghe
đọc. Ở tiết chính tả nghe đọc, giáo viên lưu ý học sinh các tiếng dễ lẫn như : phụ âm, dấu
thanh, vần. Học sinh phải tái hiện mẫu thông qua hai thao tác : Thao tác tiếp nhận mẫu
bằng âm thanh và thao tác chuyển từ âm thanh qua mẫu chữ viết.
5. Phương pháp quan sát :
Đây là phương pháp mà đòi hỏi người giáo viên phải chuẩn bị một số đồ dùng học
tập và một số câu hỏi nhằm giúp học sinh tiếp thu bài một cách hiệu quả.
6. Phương pháp điều tra, thống kê kết quả :
Phương pháp này nhằm kiểm tra chất lượng học tập của học sinh qua từng giai
đoạn.

III. GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU:
Do bản thân tôi mới nghiên cứu đề tài này nên tôi chỉ áp dụng cho học sinh đối với lớp
tôi chủ nhiệm.
Tuy nhiên trong khi áp dụng không tránh những thiếu sót, kính mong các cấp quản lí
và các anh chị đồng nghiệp nhận xét và góp ý chân thành để bản thân hoàn thiện hơn đề
tài này.
IV. KẾ HOẠCH THỰC HIỆN:
Để đạt được mục tiêu của mình đề ra tôi không ngừng tìm tòi học hỏi ở bạn bè đồng
nghiệp, nghiên cứu tài liệu, tìm hiểu nguyên nhân, và tự đặt câu hỏi : “ Vì sao các em lại
mắc sai nhiều lỗi đến như thế ?” Để từ đó có cơ sở đưa ra một số biện pháp nhằm giúp
các em khắc phục tình trạng này.


B. PHẦN NỘI DUNG:
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN :
Để giúp giáo viên tiểu học hiểu rõ hơn về cơ sở của việc lựa chọn và sắp xếp các
nội dung ở môn tiếng việt, đồng thời giúp giáo viên biết được định hướng của việc lựa
chọn và tận dụng các phương pháp dạy học đối với môn tiếng việt và đặc biệt là phân
môn chính tả. Tôi xin trình bày tóm tắt các vấn đề sau:
Nhận thức của các em còn mang tính đại thể. Các em nhận thức một vấn đề có tổ
chức, nhận thức thường gắn với hành động. Các em thường hay hình dung vấn đề nào đó
bằng trực quan, sinh động dễ gây ấn tượng.Vì vậy muốn truyền thụ kiến thức cho các em
chúng ta nên áp dụng trực quan sinh động để gây sự chú ý thì các em nhanh chóng tiếp
thu.Tuy nhiên chúng ta không nên quá lạm dụng đồ dùng trực quan vì hình ảnh, màu sắc
quá sinh động dễ dẫn đến các em chú ý sai lệch vấn đề, dẫn đến phản tác dụng và làm cho
các em quên nhiệm vụ chính của mình. Hơn nữa sử dụng đồ dùng trực quan quá nhiều sẽ
làm giảm đi trí tưởng tượng của các em.
Nên tổ chức cho học sinh tham gia hoạt động vì khi tham gia hoạt động tích cực
các em có điểu kiện để tiếp thu bằng các tri giác như : tai- nghe, mắt-nhìn, miệng – nói,
tay thao tác sẽ dẫn đến các em tiếp thu và khắc sâu hơn kiến thức đó hơn.

Mà người giáo viên đóng vai trò chủ đạo phải tạo cho học sinh ghi nhớ một cách
chủ động tránh áp đặt mà cần phải có thủ thuật ghi nhớ, có thể chia ra làm nhiều phần để
học sinh dễ hình dung ra khi cần thiết.
Việc học sinh ghi nhớ tốt là điều kiện cần thiết nhất để các em nhanh chóng nắm
được một số qui tắc, thủ thuật và các mẹo vặt khi viết chính tả một cách khoa học chứ
không phải máy móc.
Chúng ta không nên áp đặt học sinh tiếp thu kiến thức sâu hơn mà chỉ cần các em
tiếp thu được những nội dung cơ bản trong từng bài học, nội dung đó phù hợp với khả
năng của từng em.
* Tóm lại: Từ những đặc điểm trên của học sinh tiểu học về quá trình nhận thức, khi
dạy học tiểu học nói chung và dạy học môn tiếng việt nói riêng chúng ta nên:
Quan tâm đến việc sử dụng đồ dùng học tập của các em. Nên áp dụng đồ dùng trực
quan để hình thành kiến thức cho học sinh.
Nên chú ý đến từng đối tượng học sinh mà có biện pháp dạy học phù hợp, tránh áp
đặt mà phải để cho các em làm quen từ từ với kiến thức đó.
Nên chia học sinh theo từng đối tượng để truyền thụ.


Khuyến khích học sinh tự kiểm tra kết quả học tập thực hành khi viết chính tả
nhằm giúp các em nhận ra những lỗi phổ biến thường gặp để từ đó các em có hướng khắc
phục để dần dần đạt kết quả tốt hơn.
Tập cho học sinh có thói quen không thoả mãn với bài làm của mình và tự tìm ra
cách khắc phục với năng lực học tập của mình.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Đặc điểm, tình hình chung của lớp:
1/ Thuận lợi:
- Đa số các em đã được nắm được một số qui tắc viết chính tả ở lớp Hai.
- Sĩ số lớp vừa, không quá đông thuận lợi cho việc theo dõi quá trình rèn luyện của
các em.
- Nhà trường quan tâm sâu sẳc trong việc chỉ đạo cũng như tạo điều kiện về chuyên

môn, cũng như cơ sở vật chất.
- Nhà trường tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ giáo viên trong quá trình nghiên cứu.
- Phụ huynh quan tâm nhiều đến việc học tập và rèn luyện của học sinh.
2/ Khó khăn:
- Đa số các em chưa có ý thức tự giác về việc học. Việc học tập của các em cần phải có
người nhắc nhở.
- Một số em chưa nắm được một số qui tắc khi viết chính tả.
- Một số phụ huynh còn coi nhẹ việc học tập của con em.
- Thời gian học tập của các em còn hạn chế. Mặc khác, một bộ phận không nhỏ học
sinh còn ham chơi lười học, không chịu suy nghĩ, tư duy trong việc nói và viết một cách
chuẩn mực tiếng Việt ( vì có bài mẫu, sách mẫu, học thêm , …)
- Đầu năm học, tôi được phân công chủ nhiệm lớp 3/1. Sau khi khảo sát chất lượng, để
nắm bắt tình hình học tập của các em, tôi đã lập bảng thống kê về môn chính tả như sau:
KẾT QUẢ KHẢO SÁT ĐẦU NĂM


Thời gian
TSHS G
kiểm tra

TL%

Khảo sát
26/9
đầu năm

42,3% 8

11


KH

TL%

TB

30,76% 4

TL%

Y

15,38% 4

TL%
15,38%

III. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG MÂU THUẪN:
1. Kết quả thống kê lỗi:
Qua kết quả thống kê các loại lỗi, tôi thấy học sinh thường mắc phải các loại lỗi sau:
a. Về thanh điệu:
Tiếng Việt có 6 thanh điệu (ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng) thì học sinh không phân
biệt 2 thanh hỏi, ngã. Tuy chỉ có 2 thanh nhưng số lượng tiếng mang 2 thanh này không
ít và rất phổ biến - kể cả những người có trình độ văn hoá cao.
Ví dụ:

Sữa xe đạp, hướng dẩn, giử gìn, dổ dành…

b. Về âm đầu:
- Học sinh viết lẫn lộn một số chữ cái ghi các âm đầu sau đây:

+ c/k: Céo cờ…
+ g/gh: Con gẹ , gê sợ…
+ ng/ngh: Ngỉ ngơi, nge nhạc…
+ ch/tr: Cây che, chiến chanh…
+ s/x: Cây xả , xa mạc…
+ v/d/gi: Giao động, giải lụa , giòng giống , dui dẻ…
- Trong các lỗi này, lỗi về ch/tr, s/x, v/d/gi là phổ biến hơn cả
c. Về âm chính:
- Học sinh hay mắc lỗi khi viết chữ ghi các âm chính trong các vần sau đây:
+ ai/ay/ây: Bàn tai, đi cầy, dậy học…
+ ao/au/âu: Hôm sao, mầu đỏ…
+ iu/êu/iêu: chìu chuộng, cây niu…
+ oi/ôi/ơi: nôi gương, xoi nếp…


+ ăm/âm: con tầm, sưu tằm, bụi bậm…
+ im/iêm/êm/em: tim thuốc, lúa chim, cái kềm…
+ ăp/âp: gập gỡ, trùng lấp…
+ ip/iêp/êp/ep: số kíp, liên típ, thệp cưới…
+ ui/uôi: chín mùi, đầu đui, tủi tác…
+ um/uôm: nhụm áo, ao chum…
+ ưi /ươi: trái bửi…
+ ưu/ ươu: ốc bưu, con khứu
d. Về âm cuối:
- Học sinh thường viết lẫn lộn chữ ghi âm cuối trong các vần sau đây:
+ an/ang: cây bàn, bàng bạc…
+ at/ac: lang bạc, lừa gạc, rẻ mạc…
+ ăn/ăng: lẳn lặn, căn tin…
+ ăt/ăc: giặc giũ, co thắc, mặt quần áo…
+ ân/âng: hụt hẫn, nhà tần…

+ ât/âc: nổi bậc, nhất lên…
+ ên/ênh: bấp bên, nhẹ tên, ghập ghền, khấp khển…
+êt/êch: trắng bệt…
+ iêt/iêc: mải miếc, tiêu diệc…
+ ut/uc: chim cúc, bão lục…
+ uôn/uông: khuôn nhạc, buồn tắm…
+ uôt/uôc: rét buốc, chải chuốc…
+ ươn/ương: lươn bổng, sung sướn
2. Nguyên nhân mắc lỗi:
a. Về thanh điệu:
Theo các nhà ngữ âm học, người Việt từ Nghệ An trở vào không phân biệt được 2 thanh
hỏi, ngã. Hay nói đúng hơn trong phương ngữ Trung và Nam không có thanh ngã. Mặt
khác, số lượng tiếng mang 2 thanh này khá lớn. Do đó lỗi về dấu câu rất phổ biến.


b. Về âm đầu:
Trong phương ngữ Bắc và Nam có sự lẫn lộn giữa các chữ ghi âm đầu ch/tr, s/x. d/gi.
Mặt khác, người Miền Nam còn lẫn lộn v/d, r/g. Ngoài ra, trong quy ước về chữ quốc
ngữ, một âm ghi bằng 2 hoặc 3 dạng (ví dụ: âm “ cờ” ghi bằng c,k,qu…) , âm “ngờ” ghi
bằng ng/ngh, dĩ nhiên là có những quy định riêng cho mỗi dạng, nhưng đối với học sinh
tiểu học (nhất là học sinh yếu) thì rất dễ lẫn lộn do không nhớ các qui định.
c. Về âm chính:
Có 2 nguyên nhân gây ra sự lẫn lộn về âm chính trong các vần này:
- Nguyên nhân thứ nhất là do sự phức tạp của chữ quốc ngữ: Nguyên âm /ă/ lại được ghi
bằng chữ a trong các vần ay, au, các nguyên âm đôi /ie, ươ, uô/ lại được ghi bằng các
dạng iê,yê, ia, ya; ươ, ưa; uô, ua (bia - khuya, biên - tuyến, lửa - lương, mua - muôn);
âm đệm /w/ lại được ghi bằng 2 con chữ u và o (ví dụ: huệ, hoa).
- Nguyên nhân thứ hai là do cách phát âm lẫn lộn trong phương ngữ Nam Bộ đối với các
âm chính trong hầu hết các vần trên.
d. Về âm cuối:

Đối với người miền Nam có thể nói việc phát âm hoàn toàn không phân biệt các vần có
âm cuối n/ng/nh và t/c/ch. Mà số từ mang các vần này không nhỏ. Mặt khác hai bán âm
cuối /i,u/ lại được ghi bằng 4 con chữ i/y (trong: lai/lây), u/o (trong: sau/sao), ư/ươi
( trong : tư/tươi), do đó lỗi về âm cuối là lỗi khó khắc phục đối với học sinh khu vực phía
Nam nói chung và tại địa phương xã Mỹ Xương nói riêng.
IV. CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ :
Từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc dạy chính tả, tôi nhận thấy
rằng nếu chỉ dùng sách giáo khoa, thì chưa đáp ứng đầy đủ với các yêu cầu dạy cho học
sinh học yếu chính tả ở tiểu học. Vì vậy, để khắc phục lỗi chính tả mà học sinh mắc phải,
tôi đã nghiên cứu và vận dụng một vài biện pháp để giúp các em nắm được các quy tắc
chính tả, các mẹo luật chính tả phù hợp với trình độ tiếp thu của các em, hình thành kĩ
năng, kĩ xảo chính tả, bỏ thói quen phát âm sai dẫn đến việc viết sai.
Sau đây là một vài biện pháp mà tôi đã áp dụng trong những năm trực tiếp giảng dạy như
sau:
1. Luyện phát âm:


- Muốn học sinh viết đúng chính tả, giáo viên phải là người phát âm rõ tiếng, đúng chuẩn
đồng thời chú ý luyện phát âm cho học sinh để phân biệt các thanh, các âm đầu, âm
chính, âm cuối vì chữ quốc ngữ là chữ ghi âm - âm thế nào, chữ ghi lại thế ấy.
- Việc rèn phát âm không chỉ được thực hiện trong tiết Tập đọc mà được thực hiện
thường xuyên, liên tục, lâu dài trong tất cả các tiết học như Chính tả, Luyện từ và câu,
Tập làm văn…
- Với những học sinh có vấn đề về mặt phát âm (nói ngọng, nói lắp,…), giáo viên lưu ý
học sinh chú ý nghe cô phát âm để viết cho đúng. Vì vậy, giáo viên phải cố gắng phát âm
rõ ràng, tốc độ vừa phải mới có thể giúp học sinh viết đúng được.
2. Phân tích, so sánh:
- Với những tiếng khó, giáo viên áp dụng biện pháp phân tích cấu tạo tiếng, so sánh với
những tiếng dễ lẫn lộn, nhấn mạnh những điểm khác nhau để học sinh ghi nhớ.
Ví dụ: Khi viết tiếng “muống” học sinh dễ lẫn lộn với tiếng “muốn”, giáo viên yêu cầu

học sinh phân tích cấu tạo hai tiếng này:
- Muống = M + uông + thanh sắc
- Muốn = M + uôn + thanh sắc.
So sánh để thấy sự khác nhau: Tiếng “muống” có âm cuối là “ng”, tiếng “muốn” có âm
cuối là “n”. Học sinh ghi nhớ điều này, khi viết, các em sẽ không viết sai.
3. Giải nghĩa từ:
- Biện pháp thứ ba để khắc phục lỗi chính tả cho học sinh là giải nghĩa từ. Việc giải nghĩa
từ thường được thực hiện trong tiết Luyện từ và câu, Tập đọc, Tập làm văn… nhưng nó
cũng là viêc làm rất cần thiết trong tiết Chính tả, khi mà học sinh không thể phân biệt từ
khó dựa vào phát âm hay phân tích cấu tạo tiếng.
- Có nhiều cách để giải nghĩa từ cho học sinh: Giáo viên có thể cho học sinh đọc chú giải,
đặt câu (nếu học sinh đặt câu đúng tức là học sinh đã hiểu nghĩa từ), tìm từ đồng nghĩa,
trái nghĩa, miêu tả đặc điểm hoặc sử dụng vật thật, mô hình, tranh ảnh,…
Ví dụ: Phân biệt chiêng và chiên
+ Giải nghĩa từ chiêng: Giáo viên có thể cho học sinh quan sát tranh ảnh cái chiêng hoặc
miêu tả đặc điểm (chiêng là nhạc cụ bằng đồng, hình tròn, đánh bằng dùi, âm thanh vang
dội).


+ Giải nghĩa từ chiên: Giáo viên có thể cho học sinh đặt câu với từ chiên hoặc giải thích
bằng định nghĩa (chiên là làm chín thức ăn bằng cách cho thức ăn vào chảo dầu, mỡ, đun
trực tiếp trên bếp lửa).
- Với những từ nhiều nghĩa, giáo viên phải đặt từ đó trong văn cảnh cụ thể để giải nghĩa
từ.
4. Ghi nhớ mẹo luật chính tả:
- Mẹo luật chính tả là các hiện tượng chính tả mang tính quy luật chi phối hàng loạt từ,
giúp giáo viên khắc phục lỗi chính tả cho học sinh một cách rất hữu hiệu. Ngay từ lớp 1,
các em đã được làm quen với luật chính tả đơn giản như: các âm đầu k,gh,ngh chỉ kết
hợp với các nguyên âm i, e,ê,iê, ie. Ngoài ra, giáo viên có thể cung cấp thêm cho học sinh
một số mẹo luật khác như:

+ Để phân biệt âm đầu tr/ch: Đa số các từ chỉ đồ vật trong nhà và tên con vật đều bắt đầu
bằng ch, ví dụ: chăn, chiếu, chảo, chổi, chai, chày, chén, chum, chạn, chõ, chĩnh,
chuông, chiêng, choé,… chồn, chí, chuột, chó, chuồn chuồn, châu chấu, chào mào,
chiền chiện, chẫu chàng, chèo bẻo, chìa vôi…
+ Để phân biệt âm đầu s/x: Đa số các từ chỉ tên cây và tên con vật đều bắt đầu bằng s:
Sả, si, sứ, sung, sắn, sim, sao, su su, sầu đâu, sa nhân, sơn trà, sặt, sậy, sấu, sến, săng
lẻ, sầu riêng, so đũa… sam, sán, sáo, sâu, sên, sếu, sò, sóc, sói, sứa, sáo sậu, săn sắt,
sư tử, sơn dương, san hô…
+ Để phân biệt dấu thanh hỏi/ngã: Các từ gộp âm chỉ mang thanh hỏi không mang thanh
ngã:
- Trong + ấy = trỏng.
- Trên + ấy = trển
- Cô + ấy = cổ
- Chị + ấy = chỉ
- Anh + ấy = ảnh
- Ông + ấy = ổng
- Hôm + ấy = hổm
- Bên + ấy = bển
+ Luật bổng - trầm: Trong các từ láy điệp âm đầu, thanh (hay dấu) của 2 yếu tố ở cùng
một hệ bổng (ngang/sắc/hỏi) hoặc trầm (huyền/ngã/nặng). Để nhớ được 2 nhóm này,
giáo viên chỉ cần dạy cho học sinh thuộc 2 câu thơ:


Em Huyền mang nặng, ngã đau
Anh Ngang sắc thuốc, hỏi đau chỗ nào
Nghĩa là đa số các từ láy âm đầu, nếu yếu tố đứng trước mang thanh huyền, nặng, ngã
thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh ngã, nếu yếu tố đứng trước mang thanh ngang, sắc,
hỏi thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh hỏi (hoặc ngược lại).
Ví dụ:


Bổng



Ngang + hỏi: Nho nhỏ, lẻ loi, trong trẻo, vui vẻ…



Sắc + hỏi: Nhắc nhở, trắng trẻo, sắc sảo, vắng vẻ…



Hỏi + hỏi: Lỏng lẻo, thỏ thẻ, hổn hển, thủ thỉ, rủ rỉ…

Trầm:


Huyền + ngã: Sẵn sàng, lững lờ, vồn vã



Nặng + ngã: Nhẹ nhõm, đẹp đẽ, mạnh mẽ, lạnh lẽo,…



Ngã + ngã: Dễ dãi, nghễnh ngãng, nhõng nhẽo…

+ Để phân biệt các vần dễ lẫn lộn:
Một số từ có vần ênh chỉ trạng thái bấp bênh, không vững chắc: Gập ghềnh, khấp
khểnh, chông chênh, lênh đênh, bập bềnh, chếnh choáng, chệnh choạng, lênh khênh,

bấp bênh, công kênh…
Hầu hết các từ tượng thanh có tận cùng là ng hoặc nh: oang oang, đùng đoàng, loảng
xoảng, đoàng đoàng, sang sảng, rổn rảng, ùng oàng, quang quác, ăng ẳng, ằng ặc,
oăng oẳng, răng rắc, sằng sặc, pằng pằng, eng éc, beng beng, chập cheng, leng keng,
reng reng, phèng phèng, lẻng kẻng, lẻng xẻng, ùng ùng, đùng đùng, thùng thùng,
bình bịch, thình thịch, thình thình, rập rình, xập xình, huỳnh huỵch…
Vần uyu chỉ xuất hiện trong các từ: khuỷu tay, khúc khuỷu, ngã khuỵu, khuỵu chân;
vần oeo chỉ xuất hiện trong các từ ngoằn ngoèo, khoèo chân
5. Làm các bài tập chính tả:
Giáo viên có thể đưa ra các dạng bài tập chính tả khác nhau để giúp học sinh tập vận
dụng các kiến thức đã học, làm quen với việc sử dụng từ trong văn cảnh cụ thể. Sau mỗi
bài tập, giáo viên giúp học sinh rút ra các quy tắc chính tả để các em ghi nhớ.
- Bài tập trắc nghiệm:
* Khoanh tròn vào chữ cái trước những chữ viết đúng chính tả:


a. Hướng dẩn

b. Hướng dẫn

c. Giải lụa

d. Dải lụa

e. Oan uổng

f. Oan uổn

* Điền chữ Đ vào ô trống trước những chữ viết đúng chính tả và chữ S vào ô trống
trước những chữ viết sai chính tả:

Rau muốn

Rau muống

Chải chuốc

Chải chuốt

Giặc quần áo

Giặt quần áo

* Nối các tiếng ở cột A với các tiếng ở cột B để tạo thành những từ viết đúng chính
tả:
A

B

bênh

trái

bên

vực

bện

tật


bệnh

tóc

- Bài tập chọn lựa:
* Chọn từ thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ trống trong câu sau:


Cháu bé đang uống ……… (sửa, sữa)



Học sinh …...........mũ chào thầy giáo. (ngả, ngã).



Đôi …… này đế rất …….. (giày, dày)



Sau khi ……. con, chị ấy trông thật …… (xinh, sinh)

* Chọn từ thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ trống trong câu sau:


Học sinh …. đèn học bài….. đêm khuya. (trong, chong)



Lan thích nghe kể……….hơn đọc……….. (truyện, chuyện)




Trời nhiều …….., gió heo ………lại về. (mây, may)

- Bài tập phát hiện:
* Tìm từ sai chính tả trong câu sau và sửa lại cho đúng:


Xuân diệu là một nhà thơ trử tình nổi tiếng.




Cả phòng khéc lẹc mùi thuốc lá.



Lá vàng bay liệng trong gió chiều.



Bức tườn bị nức ngang nức dọc.

- Bài tập điền khuyết:
* Điền vào chỗ trống:


l/n: lành…. ặn, nao…úng,…anh lảnh




s/x: chim…ẻ, san…ẻ, …ẻ gỗ. …uất khẩu, năng….uất.



ươn/ương: bay l…..., b…. chải, bốn ph….. , chán ch…\…



iêt/ iêc: đi biền b…....., thấy tiêng t…/.., xanh biêng b…/..

* Điền tiếng láy thích hợp vào chỗ trống:


Hắn bỡ…….. trước cuộc sống mới lạ.



Buổi trưa hè, trời nắng chói …….



Dây leo chằng………, chắn cả lối đi.



Tiếng gà kêu quang ………

- Bài tập tìm từ:

Học sinh tìm từ ngữ chứa âm, vần dễ lẫn qua gợi ý nghĩa của từ, qua gợi ý từ đồng âm, từ
trái nghĩa….
* Tìm các từ chứa tiếng bắt đầu bằng ươt hoặc ươc có nghĩa như sau:


Dụng cụ để đo, vẽ, kẻ:



Thi không đỗ:



Người chuyên nghiên cứu, bào chế thuốc chữa bệnh:

* Tìm các từ chỉ hoạt động:


Chứa tiếng bắt đầu bằng r:



Chứa tiếng bắt đầu bằng d:



Chứa tiếng bắt đầu bằng gi:




Chứa tiếng có vần ươt:



Chứa tiếng có vần ươc:


* Tìm từ ngữ có thanh hỏi hoặc thanh ngã có ý nghĩa như sau:


Trái nghĩa với từ thật thà:



Đoạn đường nhỏ hẹp trong thành phố:



Cây trồng để làm đẹp:



Khung gỗ để dệt vải:

- Bài tập phân biệt:
Đặt câu để phân biệt từng cặp từ sau:


nồi - lồi




no - lo



chúc - chút



lụt - lục



ngả - ngã

- Bài tập giải câu đố
* Em chọn tr hay ch để điền vào chỗ trống rồi giải câu đố sau:
Mặt….. òn, mặt lại đỏ gay
Ai nhìn cũng phải nhíu mày vì sao
Suốt ngày lơ lửng… ên cao
Đêm về đi ngủ, ….ui vào nơi đâu?
(là gì?)
* Em chọn dấu hỏi hay dấu ngã để đặt trên những chữ in đậm rồi giải câu đố sau:
Cánh gì cánh chăng biết bay
Chim hay sà xuống nơi đây kiếm mồi
Đôi ngàn vạn giọt mồ hôi
Bát cơm trắng deo, đia xôi thơm bùi.
(là gì?)
6. Yêu cầu học sinh tự phát hiện ra lỗi chính tả và tự sửa lỗi chính tả:



- Giáo viên hướng dẫn cho học sinh tự phát hiện ra những lỗi viết sai và tự bản thân
các em sửa lỗi qua các hình thức khác nhau.
- Giáo viên đọc lại bài văn hay khổ thơ mà trong đoạn bài yêu cầu học sinh viết cho
học sinh soát lỗi.
- Giáo viên chỉ ra cho học sinh thấy được các lỗi sai, từ đó học sinh có ý thức được
các lỗi mà mình mắc phải, bằng cách viết lại các lỗi sai đó vào một quyển vở sửa lỗi, các
lần sau mà gặp phải các lỗi này học sinh sẽ thận trọng hơn trong khi viết. Qua đó hình
thành cho học sinh bản năng tự kiểm tra soát lỗi và có ý thức tự sửa.
- Giáo viên cho học sinh phát hiện ra lỗi chính tả qua các dạng bài tập khác nhau.
Ví dụ : Chép một đoạn bài có viết sai chính tả, yêu cầu học sinh viết lại cho đúng .
Từ những cách nêu trên giúp học sinh quen dần với cách phát hiện ra lỗi và tự sửa lỗi,
dần dần học sinh sẽ nhớ cách viết đúng, thấy được các từ viết sai để tránh.
7. Hướng dẫn học sinh sửa lỗi thông qua môn học khác :
- Thông qua phân môn luyện từ và câu, giúp cho học sinh hiểu được nghĩa của từ
một cách chính xác.
Ví dụ : líu hay níu
- Líu : Chim hót líu lo
- Níu : Đừng níu áo nhau
Ví dụ : đổ hay đỗ
- Xe đổ

: Xe bị lật nghiêng

- Xe đỗ

: Xe dừng lại không chạy nữa

Ví dụ: vỏ hay võ .

- Vỏ : bóc vỏ, vỏ chai
- Võ : võ nghệ., võ vàng, vò võ
- Qua phân môn luyện từ và câu giúp cho các em hiểu về câu, từ đó biết chấm câu,
sau dấu chấm câu biết viết hoa chữ cái đầu câu, biết viết hoa các danh từ riêng.
8. Tổ chức cho học sinh học theo tổ - nhóm:
- Giáo viên cần tổ chức cho học sinh học theo tổ nhóm hoặc phân thành “đôi bạn
cùng tiến” học tập để các em hướng dẫn lẫn nhau (giáo viên luôn nhắc nhở và kiểm tra
các em đều phải có một quyển vở rèn chính tả).


Ví dụ : Mỗi tuần ngày thứ ba có tiết chính tả thì ngày thứ năm hoặc ngày thứ sáu
các nhóm học tập hoặc đôi bạn học tập sẽ đọc trước phần viết đúng rồi đọc toàn bài viết.
Qua đó học sinh đọc để hiểu được nội dung bài và nghĩa của từ cần ghi nhớ.
- Học sinh sau khi nắm được nội dung bài và các từ cần ghi nhớ, các em lấy
"Quyển vở rèn chính tả" ra viết vào, tiếp theo là đổi bài kiểm tra lẫn nhau.
- Vào ngày thứ hai trong lúc truy bài đầu giờ các em sẽ tiến hành viết và kiểm tra
chéo nhau lần nữa, củng cố lại những từ còn viết sai.
Vậy trong một tiết các em đã được mắt nhìn, tay viết các chữ khó rất nhiều lần, từ
đó hạn chế được các lỗi sai ở học sinh.
V. HIỆU QUẢ ÁP DỤNG :
Trong quá trình giảng dạy, với việc áp dụng các biện pháp trên tôi nhận thấy học sinh có
những tiến bộ rõ rệt trong việc nắm bắt các quy luật chính tả, đặc biệt là các tiếng có phụ
âm đầu l / n, gi / r / d, tr / ch, s / x và thanh hỏi, thanh ngã so với đầu năm tỉ lệ viết
đúng đạt trên 90%. Ngoài ra, các em còn thể hiện sự viết đúng, viết đẹp trong bài chính
tả nói riêng và các bài tập của môn học khác nói chung. trở nên hào hứng, sôi nổi, các em
học sinh không còn rụt rè e ngại mà đã có sự tự tin, hăng hái phát biểu ý kiến xây dựng
bài.
Trên đây là một số biện pháp mà trong quá trình giảng dạy phân môn chính tả tôi đã áp
dụng vào việc giảng dạy trên lớp. Với kết quả nghiên cứu của mình, tôi chỉ xin nêu một
vài kinh nghiệm ít ỏi của cá nhân tôi đã tích lũy được, một số bài học thực tiễn, mong

muốn chia sẻ cùng với các bạn đồng nghiệp.
Kết quả này được thể hiện rõ trong các đợt kiểm tra định kì của môn chính tả trong lớp
tôi giảng dạy như sau:
KẾT QUẢ KHẢO SÁT QUA CÁC ĐỢT KIỂM TRA
NĂM HỌC: 2011 – 2012


Thời gian
TSHS
kiểm tra
G

TL%

Giữa kì I

26/9

73,07%

Cuối kì I

26/9

19
19

73,07%

KH

4
5

TL%
15,38%
19,23%

TB
3
2

TL%
11,53%
7,69%

Y
0
0

TL%


C. KẾT LUẬN :
I. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI ĐỐI VỚI CÔNG TÁC :
Trong sự nghiệp giáo dục, dù ai đã và đang công tác cũng chung nhau một lòng
mong mõi là làm sao, làm thế nào cho học sinh của mình viết đẹp và viết đúng chính tả,
góp phần làm rạng danh tiếng Việt, sử dụng đúng chính tả có tầm quan trọng cho cả quốc
gia và là một yêu cầu tất yếu của xã hội hiện tại.
Qua đi sâu nghiên cứu đề tài: “ Một số biện pháp để giúp học sinh lớp 3 giảm bớt lỗi
chính tả” tôi đã tìm hiểu được các cơ sở lý luận, xác định được chất lượng chính tả của

học sinh Trường TH – THCS Mỹ Xương, từ đó đề ra những biện pháp cần thiết. Đây là
nhiệm vụ của mỗi người giáo viên nói chung và của giáo viên Trường TH – THCS Mỹ
Xương nói riêng. Nhiệm vụ này không chỉ tiến hành trong một thời gian ngắn mà cho ta
kết quả tốt ngay được, nó phải được tiến hành trong một thời gian dài với sự đồng bộ của
các khối lớp. Tuy nhiên nhiệm vụ này có hoàn thành triệt để hay không chúng tôi cũng
cần có sự giúp đỡ của các cấp, các ngành có liên quan.
Trên đây là một số biện pháp mà trong quá trình giảng dạy phân môn chính tả tôi đã áp
dụng vào việc giảng dạy trên lớp. Với kết quả nghiên cứu của mình, tôi chỉ xin nêu một
vài kinh nghiệm ít ỏi của cá nhân tôi đã tích lũy được, một số bài học thực tiễn, mong
muốn chia sẻ cùng với các bạn đồng nghiệp.
II. KHẢ NĂNG ÁP DỤNG :
Trong quá trình đứng lớp, tôi đã áp dụng các biện pháp trên vào thực tiễn dạy học nhận
thấy học sinh có tiến bộ rõ rệt, các em cũng phát huy năng lực tự học hỏi, tự rèn luyện để
trau dồi chữ viết của bản thân. Từ đó các em cũng ý thức hơn khi viết bài nên bài viết ít
mắc lỗi chính tả. Tuy rằng đây mới chỉ là kết quả hết sức khiêm tốn và việc “giúp học
sinh giảm bớt lỗi chính tả” Như vậy so với kết quả đầu năm, chất lượng học sinh rất tốt,
tỉ lệ học sinh khá, giỏi cao. Đó là một thành công bước đầu khi áp dụng các biện pháp
này của bản thân.
- Với những biện pháp mà tôi đã trình bày ở trên và những kết quả đã đạt được như vậy
thì đối với đề tài này có thể được sử dụng cho mọi đối tượng học sinh, vì nó mang lại kết
quả rất khả quan, giáo viên có thể sử dụng để giúp các em tiếp thu bài tốt, nhanh và hiệu
quả.
III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM, HƯỚNG PHÁT TRIỂN:


Việc phát hiện lỗi chính tả, thống kê, để đưa ra các biện pháp khắc phục rất là cần
thiết, không thể thiếu trong quá trình dạy - học môn Tiếng Việt. Nhưng không phải chỉ
đưa ra các biện pháp khắc phục là có thể thực hiện một cách có hiệu quả. Sửa chữa, khắc
phục lỗi chính tả là cả một quá trình lâu dài, đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì, bền bỉ.
Giáo viên nên hướng dẫn các em thật tỉ mỉ về các quy tắc chính tả, quy tắc kết hợp từ,

quy tắc ghi âm chữ quốc ngữ … tránh trường hợp học sinh vì thiếu hiểu biết dẫn đến sai
sót.
Đặc biệt giáo viên phải chú ý đến các lỗi mà học sinh thường mắc phải, để đưa ra các
dạng bài tập rèn cho các em viết đúng chính tả và củng cố các quy tắc chính tả cho các
em qua các kiểu bài khác nhau.
Thực hiện tốt công tác chủ nhiệm bằng cách quan tâm đến tất cả các em học sinh, với
tất cả các môn học.Tục ngữ có câu: “Ở đâu có thầy giỏi. ở đó có trò giỏi” nêu bật vai trò
hướng dẫn của thầy, cô giáo trong việc học tập của học sinh. Vì vậy người giáo viên cần
phải không ngừng học hỏi, tự tìm hiểu, nghiên cứu để nâng cao trình độ, tay nghề.
Có nắm chắc kiến thức, giáo viên mới có thể giúp học sinh chữa lỗi và khắc phục lỗi
một cách có hiệu quả. Ngoài ra giáo viên phải luôn học hỏi kinh nghiệm các bạn đồng
nghiệp, bồi dưỡng chuyên môn để bổ sung cho vốn kinh nghiệm của bản thân.
Muốn học sinh viết đúng chính tả thì giáo viên phải phát âm chuẩn, viết đúng chính tả
trong giao tiếp cũng như trong giảng dạy, giáo viên phải là người có lòng tâm huyết với
nghề nghiệp, tận tụy với học sinh.
Giáo viên cần phải đầu tư thời gian, có kế hoạch hướng dẫn rèn chữ cho học sinh,
thường xuyên theo dõi và phát hiện kịp thời các hiện tượng mắc lỗi chính tả ở học sinh để
đưa ra biện pháp sửa chữa đúng lúc. Giáo viên cần lập cho học sinh mỗi em một quyển
vở rèn chính tả, kiểm tra , đánh giá học sinh qua từng thời gian cụ thể, động viên các em
học sinh có tiến bộ trong quá trình học tập.
IV. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ:
* Đối với giáo viên :
- Để thực hiện được công việc này thì giáo viên chủ nhiệm phải thường xuyên theo dõi,
uốn nắn các em, hướng dẫn các em thường xuyên nhất là đối với học sinh yếu.
- Thay đổi linh hoạt các phương pháp giảng dạy, hình thức tổ chức để các em cảm
thấy thoải mái, tự tin khi học


- Giáo viên phải tận tình trong việc dạy bảo và kiên trì chờ đợi kết quả bởi vì làm
công tác giáo dục là cả một quá trình lâu dài chứ không phải là một sớm một chiều.

- Hàng tháng giáo viên phải theo dõi, phân loại từng đối tượng học sinh để có
những biện pháp uốn nắn kịp thời những em không tiến bộ.
* Đối với nhà trường:
- Hằng năm, duy trì hội thi viết chữ đẹp, đúng chính tả ở giáo viên và học sinh.
- Nhà trường cần tạo điều kiện có đầy đủ cơ sở vật chất để phục vụ cho việc giảng
dạy cũng như việc rèn luyện các em một cách chủ động.
* Đối với phụ huynh:
- Luôn có sự quan tâm sâu sắc đến việc học của con em mình nhất là về chữ viết.
Bàn ghế phải đúng kích cỡ, chổ ngồi phải đủ ánh sáng thuận lợi cho việc học ở nhà của
các em.
* Đối với phòng giáo dục :
- Thường xuyên mở các chuyên đề ở các môn học đặc biệt là phân môn chính tả để tạo
điều kiện cho giáo viên tham gia học tập để học hỏi ở bạn bè đồng nghiệp để phục vụ cho
công tác giảng dạy đạt kết quả hơn nữa.
V. TỰ NHẬN XÉT BẢN THÂN
Với kết quả nghiên cứu của mình, tôi không có tham vọng đưa ra các biện pháp nhằm
giải quyết vấn đề một cách tổng thể mà chỉ xin nêu một số kinh nghiệm ít ỏi của cá nhân
tôi tích luỹ được trong quá trình giảng dạy, mong muốn được cùng chia sẻ với các “bạn
đồng nghiệp”.
Rất mong được sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp và các cấp lãnh đạo để việc giảng
dạy bộ môn chính tả trong nhà trường ngày càng nâng cao chất lượng, giúp học sinh học
tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 3.


2.

Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 3

3.

Chữa lỗi chính tả cho học sinh - Phan Ngọc - NXB Giáo Dục 1982.

4.

Từ điển chính tả tiểu học - NXB Giáo Dục 1997.

5.

Phương pháp giảng dạy Tiếng Việt ở tiểu học - NXB Giáo Dục 2002



×