Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Khảo sát và đánh giá tính tiện nghi của một số loại vải dệt kim sử dụng cho bộ quần áo mặc lót mùa đông do các công ty trong nước sản xuất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 93 trang )

MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
BẢNG

Bảng 2.1

Thông số kỹ thuật của các mẫu vải nghiên cứu...Error: Reference
source not found

Bảng 2.2

Thông số kích thước mẫu sản xuất bộ quần áo mặc lót mùa đông
..................................................Error: Reference source not found

Bảng 2.3

Thông số kích thước thành phẩm bộ mẫu quần áo mặc lót
mùa đông............................Error: Reference source not found

Bảng 3.1

Kết quả xác định nhiệt trở của các mẫu vải.........Error: Reference
source not found

Bảng 3.2

Kết quả xác định độ mao dẫn mẫu M1.....Error: Reference source
not found


Bảng 3.3

Kết quả xác định độ mao dẫn mẫu M2.....Error: Reference source
not found

Bảng 3.4

Kết quả xác định độ mao dẫn mẫu M3.....Error: Reference source
not found

Bảng 3.5

Kết quả xác định độ mao dẫn mẫu M4.....Error: Reference source
not found

Bảng 3.6

Kết quả xác định độ thoát hơi nước của các mẫu vải............Error:
Reference source not found

Bảng 3.7

Kết quả xác định độ thoáng khí của các mẫu vải.Error: Reference
source not found

HÌNH


LỜI MỞ ĐẦU
Là một trong những ngành công nghiệp phát triển sớm nhất trên thế giới

nhưng cho đến nay ngành công nghiệp dệt may vẫn không ngừng phát triển.
Ngành Dệt may Việt Nam hiện nay có vị trí quan trọng trong sự phát triển của
công nghiệp và kinh tế-xã hội của đất nước, phản ánh hiệu quả của hội nhập
kinh tế quốc tế. Với nhiều thương hiệu mạnh, kỹ thuật sản xuất được nâng
cao, sản phẩm xuất khẩu ngày càng nhiều, dệt may Việt Nam đang ngày càng
khẳng định vị thế của mình trong ngành dệt may khu vực và thế giới.
Trong những năm gần đây nhiều doanh nghiệp trong nước đã đầu tư rất
nhiều cho việc xây dựng thương hiệu, nâng cao chất lượng, đưa sản phẩm đến
người tiêu dùng nội địa. Ngành dệt may đã và đang mở rộng thị trường nội
địa, điều chỉnh cân bằng giữa thị trường nội địa và thị trường xuất khẩu để
đem lại cho người tiêu dùng Việt Nam những sản phẩm tốt nhất với giá cả
cạnh tranh nhất. Thương hiệu thời trang chính là mục tiêu dài hạn mà toàn
ngành hướng đến.
Trong giai đoạn hiện nay ngành dệt may phát triển thị trường nội địa
bằng việc giảm chi phí sản xuất và giá cả. Đồng thời phát triển sản phẩm đã
được chú ý tới giá trị thẩm mỹ và thị hiếu người tiêu dùng được thể hiện bằng
kiểu dáng, tính vệ sinh, tính tiện nghi của trang phục. Đặc biệt tính tiện nghi
của trang phục được người tiêu dùng và các nhà sản xuất rất quan tâm. Tính
tiện nghi đã trở thành một thông số chủ đạo để đánh giá chất lượng của quần
áo. Quần áo khi được mặc lên cơ thể người sẽ chịu sự tác động của nhiều yếu
tố từ cơ thể người mặc và môi trường xung quanh. Như vậy, quần áo đóng vai
trò rất quan trọng trong việc tạo cho người mặc cảm thấy tiện nghi, thoải mái
trong các điều kiện môi trường khác nhau.
Mục tiêu đảm bảo sự tiện nghi cho người mặc được nhà sản xuất quan
tâm từ khâu sản xuất vải cho đến quá trình sản xuất hàng may mặc. Tính tiện
1


nghi được xác định như một tính chất cơ bản mà người tiêu dùng mong muốn
đối với sản phẩm may mặc. Vì vậy, nghiên cứu tính tiện nghi của quần áo có

ý nghĩa quan trọng cho sự phát triển sản phẩm của ngành dệt - may.
Đề tài “Khảo sát và đánh giá tính tiện nghi của một số loại vải dệt kim
sử dụng cho bộ quần áo mặc lót mùa đông do các công ty trong nước sản
xuất” được thực hiện với mục tiêu góp phần tạo cơ sở cho việc phát triển và
nâng cao chất lượng hàng may mặc sản xuất trong nước phục vụ thị trường
nội địa.
Nội dung nghiên cứu của đề tài là tập trung khảo sát, so sánh và đánh giá
tính tiện nghi của một số loại vải dùng may bộ quần áo mặc lót mùa đông,
đánh giá tính tiện nghi của một số bộ quần áo mặc lót mùa đông từ những loại
vải này. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần đánh giá chất lượng bộ quần áo mặc
lót mùa đông do các công ty trong nước sản xuất trên quan điểm đảm bảo tính
tiện nghi, làm cơ sở phát triển sản phẩm đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng.

2


CHƯƠNG 1
NGHIÊN CỨU TỔNG QUAN
1.1 Khái quát chung về hệ thống cơ thể người - quần áo - môi trường
Cơ thể người, quần áo và môi trường là một hệ thống gồm 3 yếu tố có sự
tương tác chặt chẽ với nhau, chúng tác động qua lại và chịu sự ảnh hưởng của
nhau. Trong hệ thống này, diễn ra sự trao đổi nhiệt và ẩm, các tác động cơ lý
giữa các yếu tố.
1.1.1. Đặc điểm sinh lý học và vận động của cơ thể người
Sinh lý học con người là một trong những khoa học cơ bản để nghiên
cứu về cơ thể người, sinh lý học xem xét cơ thể như là một tập hợp của các hệ
thống tương tác, mỗi một hệ thống có các tổ hợp của các chức năng khác
nhau: hệ thần kinh, các giác quan, hệ cơ-xương, hệ tuần hoàn, hệ tiêu hóa, hệ
hô hấp, hệ miễn dịch, hệ sinh sản, hệ nội tiết, hệ bài tiết ....
Da là cơ quan của hệ bài tiết, là các lớp che phủ trên cơ thể, bao

gồm tóc, lông và móng cũng như các cấu trúc quan trọng về chức năng khác,
chẳng hạn các tuyến mồ hôi và tuyến bã nhờn, da có nhiệm vụ bao bọc và che
chở cho cơ thể khỏi những tác động và ảnh hưởng không có lợi của môi
trường bên ngoài.
Da góp phần trong cơ chế điều hòa thân nhiệt và giữ cho nhiệt độ trung
tâm của cơ thể luôn ở mức 37°C. Da còn có chức năng cảm nhận nhiệt, tổng
hợp vitamin B và D. Da được coi là một trong những bộ phận quan trọng nhất
của cơ thể con người, là cơ quan cho cảm nhận nóng hoặc lạnh và cũng là cơ
quan cảm nhận chính khi tiếp xúc trực tiếp với quần áo và thông qua quần áo
tiếp xúc với môi trường [21].
Con người có thể giữ được nhiệt độ cơ thể hầu như không thay đổi trong
những điều kiện thời tiết khác nhau. Nghĩa là quá trình sinh nhiệt và tỏa nhiệt
3


của cơ thể luôn cân bằng nhau, điều này rất quan trọng vì hoạt động của các
phản ứng sinh hóa trong cơ thể phụ thuộc rất nhiều vào nhiệt độ [8]. Các loại
men hoạt động trong tế bào với điều kiện nhiệt độ tối ưu là 37°C. Ở nhiệt độ
cao hơn hoặc thấp hơn đều gây ra những biến đổi nguy hại cho quá trình duy
trì sự sống.
Khi nói tới nhiệt độ cơ thể người, người ta phân biệt nhiệt độ trong cơ
thể và nhiệt độ trên bề mặt da của cơ thể, đã có nhiều nghiên cứu về nhiệt độ
cơ thể người trong đó Giancoli đã xác định được rằng tại vị trí có bề dày của
các mô là 4cm thì nhiệt độ trên bề mặt da là 34°C và nhiệt độ phía trong là
37°C [12] và khi nhiệt độ tăng lên đến 37,8°C cơ thể bắt đầu có hiện tượng
đổ mồ hôi. Khi nhiệt độ thấp hơn hoặc cao hơn ngưỡng này thì có thể nói cơ
thể đang gặp nguy hại tùy theo từng mức độ.
Người ta nói cơ thể người là một hệ thống điều chỉnh thân nhiệt hoàn
hảo bởi vì hệ thống đó có hai bộ phận cảm ứng quan trọng điều khiển đó là
lớp da và vùng não điều khiển thân nhiệt.

Đã có nhiều nghiên cứu về nhiệt độ trên bề mặt da của cơ thể người.
Freitas đã thử nghiệm và xác định được nhiệt độ da của người sau 3 giờ ở
trong phòng rất nóng chỉ chênh lệch 2,5°C (từ 35°C lên 37,5°C), còn với
người mặc quần áo bình thường và ở trong phòng có nhiệt độ 15- 20°C thì
nhiệt độ da là 32- 35°C.
Một số nghiên cứu khác cũng cho thấy nhiệt độ da trên cơ thể người
khác nhau trên từng vị trí và nó giảm dần khi các vị trí trên cơ thể càng xa
tim. Theo Glenn Elert nhiệt độ trên bề mặt da ít nhiều chịu ảnh hưởng của
nhiệt độ không khí và thời gian mà con người ở trong môi trường đó [13],
chính các nhân tố thời tiết như gió lạnh và độ ẩm là nguyên nhân dẫn đến sự
thay đổi nhiệt độ trên bề mặt da. Nhiệt độ trên bề mặt da của cơ thể người
thông thường khoảng 33°C. Da cho cảm nhận nóng hoặc lạnh, cơ thể có cơ

4


chế điều hòa thân nhiệt để thích nghi với sự thay đổi nhiệt độ của môi
trường xung quanh. Khi nhiệt độ của môi trường xung quanh cao hơn nhiệt
độ da, đồng nghĩa với hiện tượng nóng bức, da sẽ đổ mồ hôi để tăng cường
thải nhiệt.
Trạng thái cân bằng cần thiết giữa các quá trình sinh nhiệt và tỏa nhiệt
được đảm bảo nhờ những cơ chế điều tiết cực kỳ tinh vi. Các cơ chế này được
chia làm 2 nhóm: nhóm điều tiết hóa học và điều tiết vật lý [8].
Điều tiết hóa học là một quá trình cơ bản tạo thành nhiệt trong cơ thể .
Khi môi trường xunh quanh lạnh đi các phản ứng thiêu đốt bên trong cơ thể
được tăng cường trước hết là ở các cơ quan sau đó có thể xảy ra ở nội tạng,
ngoài ra nhiệt còn có thể được sinh ra do sự vận động các cơ môt cách có ý
thức như chạy, nhảy, vận động chân tay...hoặc vô thức như hiện tượng người
run lên khi lạnh, nổi gai ốc...
Qua các quá trình sinh nhiệt trong cơ thể một lượng nhiệt được sinh ra,

lượng nhiệt này được truyền ra mặt da một phần thông qua sự dẫn nhiệt của
các mô phần khác nhờ sự vận chuyển đối lưu trong hệ tuần hoàn và phần này
là chủ yếu.
Từ bề mặt da nhiệt tỏa ra môi trường xung quanh bằng các cách như:
bốc hơi, dẫn nhiệt, đối lưu và bức xạ [7].
Trong điều kiện nhiệt độ của môi trường xung quanh cao đồng nghĩa với
hiện tượng nóng bức da sẽ đổ mồ hôi, sự tỏa nhiệt bằng cách bốc hơi mồ hôi
tăng còn sự tỏa nhiệt bằng bức xạ và dẫn nhiệt hầu như dừng lại, vì vậy sự tỏa
nhiệt bằng cách bốc hơi nước là quá trình chủ yếu duy trì cân bằng nhiệt của
cơ thể khi bị quá nóng.
Khi điều kiện nhiệt độ cơ thể cao hơn nhiệt độ môi trường, sự tỏa nhiệt
bằng bức xạ là mạnh nhất, khi cơ thể mặc quần áo thì lượng nhiệt tỏa ra sẽ
giảm xuống vì hệ số dẫn nhiệt của không khí rất thấp nên sự dẫn nhiệt từ bề

5


mặt da qua lớp không khí và quần áo không lớn chỉ khi lớp không khí này rất
ẩm tạo thành một lớp nước trên bề mặt da thì lượng nhiệt này đột ngột tăng
lên. Khi có gió, lớp không khí vừa được nóng lên do trao đổi nhiệt trực tiếp và
bức xạ bị đưa ra xa khỏi cơ thể làm cho quá trình đối lưu được tăng cường,
khi cơ thể được bao phủ bởi quần áo hiệu quả đối lưu sẽ giảm đi vì lớp không
khí giữa da và quần áo ổn định hơn rất nhiều so với không khí bên ngoài.
1.1.2.Đặc điểm các lớp quần áo trên cơ thể người
Quần áo có chức năng nhiệm vụ che chở cho người mặc khỏi những tác
dụng có hại của môi trường như nóng, lạnh, gió, mưa, bụi bẩn và hạn chế
những tổn thương khi tham gia giao thông, tham gia lao động, tham gia thể
thao.... Việc mặc quần áo sẽ giúp con người được đảm bảo an toàn về sức
khỏe, tạo cảm giác tự tin về thẩm mỹ và yên tâm hơn cho dù thời tiết có nắng
nóng, khắc nghiệt. Bên cạnh đó quần áo còn có tác dụng hỗ trợ điều hòa thân

nhiệt cho ngườì mặc.
Quần áo bao gồm một hoặc nhiều lớp vật liệu che phủ cơ thể trên những
phần bề mặt nhất định, khi cơ thể mặc quần áo sẽ diễn ra sự truyền nhiệt, truyền
hơi nước, nước và không khí qua các lớp vật liệu. Với cấu trúc, kích thước và vật
liệu khác nhau của quần áo mà các quá trình trên được thực hiện ở các mức độ
khác nhau. Quần áo, lớp không khí giữa quần áo và bề mặt da, lớp không khí
giữa các lớp vải tạo thành một lớp vỏ bao phủ bề mặt cơ thể và giúp cho quá
trình điều chỉnh thân nhiệt ở các điều kiện mà cơ thể không điều chỉnh được.
1.1.3. Đặc điểm môi trường và điều kiện khí hậu ở Việt Nam
Môi trường theo nghĩa rộng là tất cả các nhân tố tự nhiên và xã hội cần
thiết cho sự sinh sống, sản xuất của con người như: tài nguyên thiên nhiên,
không khí, đất, nước, ánh sáng, cảnh quan, quan hệ xã hội...
Môi trường theo nghĩa hẹp không xét tới tài nguyên thiên nhiên, mà chỉ
bao gồm các nhân tố tự nhiên và xã hội liên quan trực tiếp tới chất lượng cuộc
sống con người.
6


Ví dụ : Môi trường của học sinh gồm nhà trường với thầy cô giáo, bạn
bè, nội qui của trường, lớp học, sân chơi, phòng thí nghiệm, vường trường,
tổ chức xã hội như Đoàn, Đội với các điều lệ hay gia đình, họ hàng với các
quy định không thành văn chỉ truyền miệng nhưng vẫn được công nhận, thi
hành và các cơ quan hành chính các cấp với luật pháp, nghị định, thông tư,
quy định.
Môi trường sống của con người theo chức năng được chia thành các loại:
- Môi trường tự nhiên (môi trường địa lý) bao gồm: Các nhân tố thiên
nhiên như vật lý, hoá học, sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người,
nhưng cũng ít nhiều chịu tác động của con người. Đó là ánh sáng mặt trời, núi
sông, biển cả, không khí, động, thực vật, đất, nước... Môi trường tự nhiên cho
ta không khí để thở, đất để xây dựng nhà cửa, trồng cấy, chăn nuôi, cung cấp

cho con người các loại tài nguyên khoáng sản cần cho sản xuất, tiêu thụ và là
nơi chứa đựng, đồng hoá các chất thải, cung cấp cho ta cảnh đẹp để giải trí,
làm cho cuộc sống con người thêm phong phú.
- Môi trường xã hội: Là tổng thể các quan hệ giữa người với người. Đó
là những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, ước định... ở các cấp khác nhau
như: Liên Hợp Quốc, Hiệp hội các nước, quốc gia, tỉnh, huyện, cơ quan, làng
xã, họ tộc, gia đình, tổ nhóm, các tổ chức tôn giáo, tổ chức đoàn thể,... Môi
trường xã hội định hướng hoạt động của con người theo một khuôn khổ nhất
định, tạo nên sức mạnh tập thể thuận lợi cho sự phát triển, làm cho cuộc sống
của con người khác với các sinh vật khác.
Ngoài ra, người ta còn phân biệt khái niệm môi trường nhân tạo, bao
gồm tất cả các nhân tố do con người tạo nên, làm thành những tiện nghi trong
cuộc sống như: ôtô, máy bay, nhà ở, công sở, các khu vực đô thị, công viên
nhân tạo [22].
Điều kiện môi trường là điều kiện mà cơ thể được đặt vào, là môi trường
địa lý và môi trường làm việc, điều kiện môi trường được đặc trưng bởi các

7


thông số: Nhiệt độ, độ ẩm tương đối của không khí và tốc độ gió. Còn điều
kiện môi trường địa lý được đặc trưng bằng điều kiện khí hậu.
Việt Nam nằm hoàn toàn trong vòng đai nhiệt đới của nửa cầu bắc thiên
về chí tuyến hơn là xích đạo [22], vị trí đó đã tạo cho Việt Nam có một nền
nhiệt độ cao, trung bình năm từ 22- 27°C, hàng năm có khoảng 100 ngày mưa
với lượng mưa trung bình từ 1.500- 2.000 mm. Độ ẩm không khí trên dưới
80%. Số giờ nắng khoảng 1500- 2000 giờ, nhiệt bức xạ trung bình năm
100kcal/cm2, chế độ gió mùa cũng làm cho tính chất nhiệt đới ẩm của thiên
nhiên Việt Nam thay đổi. Nhìn chung Việt Nam có 1 mùa nóng mưa nhiều và
1 mùa tương đối lạnh ít mưa. Trên nền nhiệt độ chung đó khí hậu của các tỉnh

phía bắc thay đổi theo 4 mùa: xuân, hạ, thu, đông.
Việt Nam chịu sự tác động mạnh của gió mùa đông bắc nên nhiệt độ
trung bình thấp hơn nhiệt độ trung bình của nhiều nước khác cùng vĩ độ ở
châu Á. So với các nước này, Việt Nam có nhiệt độ về mùa đông lạnh hơn
và mùa hạ ít nóng hơn. Do ảnh hưởng của gió mùa hơn nữa sự phức tạp về
địa hình nên khí hậu của Việt Nam luôn luôn thay đổi trong năm từ giữa
năm này với năm khác và giữa nơi này với nơi khác (Từ bắc xuống nam, từ
thấp lên cao)
Các tỉnh thành khu vực phía bắc có đủ 4 mùa Xuân, Hạ ,Thu, Đông. Mùa
khô từ tháng 10 năm trước đến tháng tư năm sau, đây là thời kỳ giá lạnh,
không mưa to, từ tháng 1đến tháng 3 vẫn có giá lạnh nhưng là vì tiết xuân nên
có mưa nhẹ (mưa xuân) đủ độ ẩm cho cây cối đâm chồi nảy lộc. Từ tháng 5
dến tháng 9 là mùa nóng có mưa to và bão, trong tháng 8, 9, 10 Hà Nội có
những ngày thu, mùa thu Hà Nội trời trong xanh, gió mát. Những ngày cuối
thu se se lạnh và nhanh chóng hòa nhập vào mùa đông, nhiệt độ trung bình
mùa đông 17,5°C. Mùa hạ trung bình 29,2°C (lúc cao nhất lên tới 39°C).
Nhiệt độ trung bình cả năm là 23,3°C, lượng mưa trung bình hàng năm
1.800mm.

8


Khu vực miền trung và miền nam hầu hết nằm trong vùng khí hậu nhiệt
đới và chia thành 2 mùa rõ rệt: Mùa mưa và mùa khô, mùa mưa từ tháng 5
đến tháng 11, lượng mưa trung bình năm 1.979mm. Mùa khô từ tháng 12 đến
tháng tháng 4 năm sau, nhiệt độ trung bình cả năm 27,5°C.
Như vậy điều kiện khí hậu của môi trường địa lý của Việt Nam diễn ra
khá phức tạp và ảnh hưởng rất nhiều tới hoạt động sống bình thường của cơ
thể người, ngoài ra cơ thể cũng chịu ảnh hưởng của môi trường làm việc, điều
kiện môi trường làm việc sẽ xác định lọai quần áo mà con người mặc khi làm

việc để đảm bảo hiệu quả công việc lớn nhất.
Do đó trong mối quan hệ: cơ thể người - quần áo - môi trường thì nhiệt
độ môi trường luôn thay đổi, nhiệt độ cơ thể thì tương đối ổn định trong phạm
vi thay đổi hẹp, chính vì vậy quần áo sẽ giữ vai trò quan trọng giúp cho nhiệt
độ cơ thể ổn định trong các điều kiện nhiệt độ và độ ẩm không khí trong môi
trường khác nhau.
1.2. Đặc điểm quá trình truyền nhiệt qua quần áo
Quần áo đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ trao đổi nhiệt của con
người, đặc biệt là trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt. Khi có sự chênh lệch
nhiệt độ giữa lớp không khí dưới quần áo và không khí bao bọc bên ngoài
(môi trường) thì sẽ xuất hiện sự truyền nhiệt qua quần áo. Cũng giống như đối
với các vật thể khác, có 3 phương thức truyền nhiệt qua quần áo: dẫn nhiệt,
tỏa nhiệt đối lưu và bức xạ nhiệt.
Các dạng trao đổi nhiệt đơn giản nói trên hầu như trong thực tế không
gặp ở dạng thuần túy. Về nguyên tắc, sự truyền nhiệt được thực hiện đồng
thời với cả 3 phương thức hoặc 2 phương thức nào đó trong 3 phương thức
nói trên [7].
Tính truyền nhiệt của vải có thể được xác định bằng những đặc trưng
như trở nhiệt, hệ số truyền nhiệt.
- Trở nhiệt của vải là khả năng của vải ngăn cản dòng nhiệt đi qua, trở
nhiệt của vải là một đặc tính liên quan rất mật thiết đến sự duy trì trạng thái

9


cân bằng nhiệt của cơ thể người khi mặc quần áo. Khi con người mặc quần áo
nhiệt có thể mất đi từ cơ thể bằng các phương thức truyền nhiệt như dẫn nhiệt,
tỏa nhiệt đối lưu và bức xạ nhiệt [7].
- Vật liệu của quần áo là những vật liệu rắn nhưng không đặc (liên tục)
và thường là dạng vật liệu xốp. Qua quần áo, nhiệt được truyền chủ yếu bằng

phương thức dẫn nhiệt qua các lớp vật liệu (bao gồm cả phần đặc của xơ sợi
và khoảng trống giữa các xơ sợi).
Khi điều kiện nhiệt độ cơ thể cao hơn nhiệt độ môi trường, nhiệt được
truyền từ bề mặt da của cơ thể đến bề mặt bên trong của quần áo có thể bằng
phương thức dẫn nhiệt dọc theo các xơ tiếp xúc với bề mặt da và do sự tiếp
xúc giữa các xơ hoặc do dẫn nhiệt đối lưu trong lớp không khí biên bên trên
bề mặt da. Từ bề mặt bên trong của quần áo nhiệt được truyền tới bề mặt bên
ngoài của quần áo bằng việc dẫn nhiệt qua các xơ bằng sự đối lưu không khí
qua các khe hở của vải. Ở bề mặt bên ngoài của quần áo, nhiệt được truyền
vào không khí gần với bề mặt bên ngoài của vải rồi bằng sự đối lưu và bức xạ
truyền tới các vật có nhiệt độ thấp hơn trong môi trường
- Quần áo đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự cân bằng nhiệt do
chúng làm thay đổi quá trình thoát nhiệt từ bề mặt da và tại cùng 1 thời điểm
luôn có hiệu ứng thứ cấp trong việc làm thay đổi sự mất hơi ẩm của da. Tuy
nhiên không có 1 hệ thống quần áo nào thích hợp với tất cả các trường hợp.
Một hệ thống quần áo thích hợp với điều kiện khí hậu này có thể sẽ không
thích hợp với điều kiện khí hậu khác.
- Khả năng của vải cản lại dòng nhiệt đi qua có ảnh hưởng quan trọng tới
tính dễ chịu khi mặc về nhiệt. Khả năng của vải cản lại quá trình truyền nhiệt
từ cơ thể tới không khí xung quanh là tổng của 3 thông số, đó là: Khả năng
cản lại quá trình truyền nhiệt từ bề mặt vật liệu, khả năng cản nhiệt của vật
liệu may quần áo và khả năng cản nhiệt của lớp không khí xen kẽ [5].
- Sự truyền nhiệt qua vải là 1 hiện tượng phức tạp bị tác động bởi nhiều

10


yếu tố, 3 yếu tố chính có trong những loại vải thông thường là độ dày, không
khí tĩnh xung quanh và không khí chuyển động bên ngoài. Ngoài những nhân
tố này , không khí bị giữ bên trong giữa các lớp quần áo là nhân tố quan trọng

để xác định khả năng cách nhiệt, các đặc tính của xơ, sợi, vải cũng đóng một
vai trò quan trọng đến tính dễ chịu khi mặc về nhiệt.
Xơ, sợi và không khí đều có độ dẫn nhiệt thấp (nhiệt trở cao) so với
phần lớn những dạng vật liệu khác , xơ sợi có độ dẫn nhiệt thấp hơn nước
khoảng 3 lần, thấp hơn kim loại khoảng 1000 lần, không khí còn có độ dẫn
nhiệt thấp hơn xơ sợi khoảng 8 lần .
- Trong điều kiện nhiệt độ cơ thể lớn hơn nhiệt độ môi trường, sẽ diễn ra
sự tỏa nhiệt từ cơ thể ra môi trường ( hình 1.1) do đó quần áo mặc lót mùa
đông đóng vai trò quan trọng trong việc giữ nhiệt cho cơ thể, hỗ trợ cho việc
cân bằng nhiệt của cơ thể với môi trường bên ngoài.

Dòng đối lưu mang không khí đã
được làm nóng vào môi trường
Không khí biên ở bề mặt da được
làm nóng bằng dẫn nhiệt
Không khí trong khe hở vải
được làm nóng bằng dẫn nhiệt
Không khí biên giữa bề mặt da và
vải được làm nóng bằng dẫn nhiệt
và đối lưu
Dòng máu trong các mao quản
mang nhiệt tới bề mặt da

Hình 1.1 Dòng nhiệt qua vải (khi nhiệt độ da lớn hơn nhiệt độ môi trường)
Quần áo mặc lót mùa đông được sử dụng trong môi trường lạnh vì thế
cần có khả năng giữ nhiệt tốt.
Tính giữ nhiệt của quần áo phụ thuộc vào nhiều yếu tố của vải như: độ

11



dày, độ mềm, độ mảnh xơ, độ mềm dẻo của các lớp cũng như số lớp, ngoài ra
nó còn phụ thuộc vào các khoảng hở giữa quần áo và cơ thể, do đó mà sự vừa
vặn của quần áo cũng sẽ có ảnh hưởng đến khả năng giữ nhiệt của quần áo[7].
Như vậy trong mối quan hệ cơ thể - quần áo - môi trường thì nhiệt độ
môi trường luôn thay đổi, nhiệt độ cơ thể thì tương đối ổn định trong phạm vi
thay đổi hẹp, do đó quần áo sẽ giữ vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ trao đổi
nhiệt của con người đặc biệt là trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt.
1.3. Quần áo mặc lót mùa đông và yêu cầu chất lượng
1.3.1. Phân loại quần áo lót mặc mùa đông
Hiện nay trên thị trường quần áo mặc lót rất phong phú và đa dạng. Tuy
nhiên căn cứ vào chức năng cũng như điều kiện sử dụng thì quần áo mặc lót
được chia làm 2 loại chính:
- Quần áo lót mặc sát người (underwear) ( Hình 1.2)
- Quần áo mặc lót giữ nhiệt (Hình 1.3)

Hình 1.2 Quần áo lót mặc sát người

12


Hình 1.3 Quần áo mặc lót mùa đông
1.3.2. Vật liệu sử dụng cho quần áo mặc lót mùa đông
Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghiệp, nghành dệt trên
thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã sản xuất ra nhiều loại vải mới.
Tuy nhiên các chất liệu truyền thống như bông, vải pha bông với nhiều ưu
điểm nổi trội được ưa chuộng đặc biệt là dùng để may quần áo mặc lót.
Căn cứ vào nghiên cứu tổng quan về mối liên quan cơ thể - quần áo môi trường, căn cứ vào yêu cầu chất lượng quần áo mặc lót mùa đông và tính
tiện nghi nhiệt ẩm của vải dùng để may quần áo mặc lót, từ đó tạo cho người
mặc có sự tiện nghi thì chất liệu truyền thống và sự phù hợp hơn cả về tính

năng và giá thành là bông tự nhiên hoặc chất liệu khác pha với bông để dệt
nên vải dệt kim.
1.3.2.1 Vải được sản xuất từ xơ bông
Vải bông thường được gọi là vải cotton có một số đặc trưng chất lượng
quý giá đáp ứng được nhu cầu sử dụng như mềm mại, độ bền cơ học cao, độ
ổn định hóa học tương đối tốt, khả năng nấu, tẩy, giặt, là thuận tiện đặc biệt là

13


do có khả năng hút ẩm cao, thấm thoát mồ hôi tốt, nên đảm bảo được tính vệ
sinh trong mặt hàng may mặc.
Vải cotton được sản xuất từ xơ bông. Xơ bông phát triển trên vỏ của hạt
bông chứa trong quả bông, quả bông gồm có nhiều múi bông. Xơ bông là
dạng xơ đơn.
Thành phần chủ yếu cấu tạo nên xơ bông là xenlulo chiếm 88-96%,
chất pectin 1,2%, protein 1,3%, đường 0,3%, tro 1,2%, sáp 0,6%, các chất
khác 1,4%.
Thành phần xenlulo quyết định nhiều đến tính chất của xơ bông. Xenlulo
được cấu tạo từ nguyên tố cacbon, hydro và oxy. Trong đó cacbon chiếm
44,4%, hydro chiếm 6,2%, oxy chiếm 49,4% khối lượng chung.
Các đại phân tử của xenlulo có cấu tạo thẳng bao gồm một số các mắt
xích, có công thức phân tử như sau: [ - C6H10O5 -]n.
Trong đó:

C6H10O5 là một mắt xích hay một khâu đơn giản.
n là hệ số trùng hợp, nbông = 10000

Công thức cấu tạo của xenlulo còn được viết dưới dạng: [ - C 6H7O2(OH)3
-]n

Đặc trưng cấu tạo đại phân tử xenlulo:
Hai vòng cơ bản nằm sát cạnh nhau quay với nhau một góc bằng 1800.
Giữa hai vòng cơ bản trong đại phân tử xenlulo thực hiện liên kết
glucozit (cầu oxy), khi đại phân tử xenlulo bị phá hủy thì liên kết đó bị đứt
trước tiên.
Trong mỗi vòng cơ bản của đại phân tử xenlulo có 3 nhóm hydroxin, các
nhóm này thể hiện khả năng tích cực trong các môi trường axit và kiềm.
Đại phân tử xenlulo có dạng cấu tạo thẳng và thực hiện các lực liên kết
phân tử như liên kết Hydro và VandeWall.

14


Một số tính chất cơ bản:
Tính giữ nhiệt: Xơ bông tương đối mảnh và mềm mại. Do đó, chúng
thường được làm thành các sợi có tỷ lệ lỗ thoáng khí tương đối thấp (thể tích
riêng thấp). Để ẩm hơn người ta có thể làm cho sợi phồng to lên, tuy nhiên
phải chọn sợi, cấu trúc vải thích hợp và tăng độ nhám bề mặt.
Tính hấp thụ ẩm: Bông có thể hấp thụ hơi nước lên đến 20% mà không
cảm thấy ướt. Vải bông hấp thụ chất lỏng rất nhanh và có thể hấp thụ tới 65%
so với khối lượng của chúng mà không bị nhỏ giọt. Bông lâu khô. Độ ẩm của
xơ bông là 8% trong điều kiện không khí tiêu chuẩn (nhiệt độ 20 ± 2 0C, độ
ẩm tương đối của không khí 65 ± 2%).
Tính tiện nghi tiếp xúc: Vì bông mảnh và mềm mịn nên khi tiếp xúc với
da thấy rất dễ chịu.
* Tính chất cơ lý hóa chủ yếu:
Độ giãn: Bông có độ giãn tương đối thấp, khoảng 6 – 10%
Độ đàn hồi: Bông đàn hồi rất kém nên dễ bị nhăn.
Độ nhiễm điện: Bông không nhiễm điện vì nó luôn chứa ẩm.
Độ mảnh và cảm giác sờ tay: Xơ bông rất mảnh và xốp, bông tạo cảm

giác dễ chịu khi sờ tay.
Khối lượng riêng của xơ bông từ 1,54 đến 1,56 g/cm3.
Tác dụng của nhiệt độ: Sấy xenlulo ở nhiệt độ 120 0C trong thời gian một
vài giơ xenlulo chưa có sự thay đổi rõ rệt về tính chất. Nếu tăng nhiệt độ cao
hơn quá trình phân hủy lúc đầu chậm, sau 160 0C nhanh hơn và sau 180 0C thì
quá trình phân hủy các phân tử xenlulo tiến hành rất mạnh, sự phá hủy phân
tử bắt đầu từ sự đứt liên kết glucozit rồi đến vòng cơ bản.
Tác dụng của axit: Mối liên kết glucozit trong đại phân tử của xenlulo
kém bền vững trước tác dụng của axit, nhất là axit vô cơ. Dưới tác dụng của

15


axit, mối liên kết glucozit sẽ bị thủy phân làm cho mạch xenlulo bị đứt dẫn
đến giảm độ bền cơ học của xơ.
Các loại axit hữu cơ có tác dụng phá hủy yếu hơn đối với xenlulo.
Tác dụng thủy phân xenlulo của axit phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
cấu trúc của xenlulo trong xơ, nồng độ axit, nhiệt độ và thời gian tác dụng.
Tốc độ thủy phân phụ thuộc nhiều vào nhiệt độ môi trường hơn là nồng độ
axit. Các axit vô cơ như: H2SO4, HCl, HNO3 thủy phân xenlulo rất mạnh, các
axit hữu cơ như: CH3COOH, HCOOH thủy phân xenlulo rất yếu.
Tác dụng của kiềm: Bông có độ bền vững tương đối trước tác dụng của
kiềm. Các dung dịch kiềm có nồng độ cao, ở nhiệt độ cao và có mặt đồng thời
oxy của không khí sẽ phá hủy bông mạnh hơn.
Ở nhiệt độ bình thường xơ bông bị trương nở mạnh trong dung dịch xút
đậm đặc (hơn 10%) làm cho xơ bông mất xoắn co rút về chiều dài nhưng
đồng thời làm cho xơ trở nên xốp hơn, tính đàn hồi của xơ tăng lên. Nếu trong
khi kiềm hóa đồng thời giữ không cho xơ bông co ngắn, khi đó xơ sẽ tròn và
bề mặt sẽ bóng hơn.
Tác dụng của chất khử và chất oxy hóa: Bông bền với các chất khử,

không bền với các chất oxy hóa. Tùy loại chất oxy hóa và điều kiện phản ứng
mà bông bị biến đổi nhiều hay ít.
Tác dụng của ánh sáng mặt trời và khí quyển: Dưới tác dụng của ánh
sáng mặt trời và khí quyển bông bị ôxy bằng oxy của không khí tạo thành
oxitxenlulo làm cho độ bền xơ bông bị suy giảm. Thử nghiệm cho thấy độ
bền của bông giảm đi 50% so với ban đầu khi chiếu ánh sáng mặt trời trực
tiếp trong 900 – 1000 giờ.
Tác dụng của vi sinh vật: Khi bông ở trong môi trường ẩm một thời gian
dài sẽ bị một số loại vi khuẩn và nấm mốc phá hủy một phần hoặc hoàn toàn
cấu trúc phân tử của xenlulo trong xơ bông.

16


* Tính thương mại:
Bông có xuất xứ từ các vùng khác nhau sẽ cho phẩm chất xơ khác nhau:
xơ bông hải đảo có chiều dài khoảng 50 mm, xơ bông ở Giza (Ai cập) và
Pima có chiều dài khoảng 36 mm, xơ bông ở vùng cao dài khoảng 28 mm.
Chiều dài xơ: Đây là vẻ bề ngoài quan trọng nhất của tính chất xơ. Chiều
dài xơ thường nằm trong khoảng 20 mm đến 40 mm. Để xoắn thành sợi, xơ
cần có chiều dài lớn hơn 16 mm.
Độ mảnh và cảm giác sờ tay: Xơ bông là xơ mảnh, xơ có độ nhỏ 1-4
dtex. Thông thường, xơ dài hơn thì sẽ mảnh hơn và sẽ xốp mịn hơn.
Độ sạch: phần lớn xơ còn lẫn nhiều tạp chất như lá cây, mảnh vỡ của hạt,
xơ ngẵn, xơ non và xơ chết có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng xơ.
Độ bền: Xơ bông có chất lượng co sẽ cho độ bền cao và có liên quan đến
độ mảnh của xơ.
Màu sắc và độ bóng: Màu sắc của bông thay đổ tùy thuộc vào chủng
loại, xo có màu trắng (ở vùng cao), màu kem (ở Giza, Pima) đến màu vàng
nhạt hoặc màu nâu. Độ bóng thường mờ. Loại xơ có chất lượng cao như Giza

và Pima thì có độ bóng như tơ [4].
Ứng dụng
Xơ bông có thể dùng nguyên chất hoặc pha trộn với các loại xơ khác
như polyester, nylon, acrylic, viscose và modal. Sự pha trộn với các xơ sợi
tổng hợp để dễ sử dụng và tăng độ bền cho quần áo. Pha trộn với viscose và
modal để tăng độ bóng, độ đồng đều mà vẫn hút ẩm tốt và hạ giá thành sản
phẩm. Modal pha với bông để tăng độ bền và độ giãn. Tỷ lệ pha trộn phổ biến
nhất là 50:50, 60:40; 70:30.
Xơ bông thường được dùng để sản xuất ra các sản phẩm sau:
May quần áo: áo sơ mi, quần áo lót, quần áo ngủ, áo khoác ngoài,
quần bò......

17


Phụ kiện: Khăn tay, dây buộc, ruy băng.....
Trong nhà: Ga trải giường, khăn trải bàn, vải trang trí, bọc nội thất,
khăn tắm, khăn mặt, . .
Trong kỹ thuật: Quần áo bảo vệ, vải bạt, vải nhựa, chỉ khâu.....
Trong y tế: bông, băng, gạc.
1.3.2.2 Vải được sản xuất từ xơ polyester
Xơ polyester chiếm vị trí hàng đầu về khối lượng sản xuất trong số các
loại xơ tổng hợp. Xơ polyester được sản xuất ở nhiều nước trên thế giới với
những tên gọi khác nhau. Lapxan (Liên xô cũ), Terinon (Anh), Đacron (Mỹ),
Lanon (Đức), Tecgal (Pháp), Têtoron (Nhật bản) sản xuất dưới hai dạng bóng
và mờ.
Đặc trưng cấu tạo:
[- CO -

- O - (CH2)2 - O -]n


Do xơ polyester có cấu tạo mạch thẳng và lặp lại đều đặn nên các mạch
đại phân tử của polyester nằm rất sát nhau tạo nên cấu trúc chặt chẽ, hình
thành các vùng vi tinh thể tạo ra độ bền cao.
Một số tính chất cơ bản:
- Tính giữ nhiệt: các sợi tơ dẹt có tính giữ nhiệt thấp, sợi được texture có
tính giữ nhiệt tốt hơn. Các xơ ngắn có thể mảnh và nhẵn hoặc thô ráp sẽ cho
khả năng giữ nhiệt khác nhau.
- Tính hấp thụ ẩm: Polyester có khả năng hút ẩm kém, kém nhất trong
các loại xơ. Trong môi trường tiêu chuẩn độ ẩm của xơ là 0,4% do nó chứa ít
nhóm ưa nước và cấu trúc của xơ chặt chẽ. Vì vậy, xơ khó thấm nước, không
thoáng khí nhưng giặt nhanh khô, ít bắt bụi bẩn. Polyester khó hấp thụ nước
nhưng có khả năng mao dẫn nước trong sợi tốt.

18


- Tính tiện nghi tiếp xúc: Xơ mảnh và xốp mềm nên được dùng để sản
xuất vải trong may mặc.
* Tính chất cơ lý hóa chủ yếu:
- Độ bền: Polyest có độ bền cao và có khả năng chống mài mòn. Độ bền
khi ở trạng thái ướt tương tự như khi khô.
- Độ giãn: Độ giãn đứt khoảng 15 – 50% và thấp hơn polyamide
Xơ có độ đàn hồi rất cao ở trong điều kiện thường, vải không bị nhăn.
Nếu kéo giãn trong môi trường nước nóng > 700C thì xơ mất khả năng đàn
hồi và khi đã bị kéo giãn thì rất khó sửa.
- Xơ có tính nhiễm điện rất cao nên gây khó khăn trong quá trình kéo
sợi, dệt vải và khó nhuộm màu, gây khó chịu cho người mặc nên không phù
hợp để may quần áo mặc sát người nhưng có thể khắc phục bằng cách dùng
chất chống tĩnh điện.

- Độ mảnh, cảm giác khi tiếp xúc: Có thể tạo ra xơ polyester có độ mảnh
khác nhau và sự thay đổi về độ mảnh nằm trong khoảng rộng từ xơ siêu mảnh
đến xơ thô. Vải tạo thành có thể mỏng và xốp mềm hoặc cứng tùy theo độ
mảnh của xơ, cấu trúc vải và việc hoàn tất vải.
- Độ bóng: Có thể tạo ra xơ có độ bóng thấp tới độ bóng cao tùy thuộc
vào tiết diện ngang của xơ và chất làm mờ độ bóng.
- Khả năng tạo hình dạng: Là xơ có tính nhiệt dẻo, có thể tạo được hình
dạng dưới tác động của nhiệt độ. Nhờ tính chất này người ta đã làm cho xơ
xốp hơn.
- Khối lượng riêng 1,38 g/cm3
- Tác dụng của axit: Polyester tương đối bền với axit loãng ở điều kiện
thường nhưng khi tăng nồng độ đến 60%, nhiệt độ 700C thì xơ mới bị phá hủy
từng bộ phận. Ví dụ: axit đậm đặc H2SO4 70% sẽ phá hủy Polyester.

19


- Tác dụng của kiềm: Polyester kém bền với kiềm do nhóm este bị xà
phòng hóa. Ví dụ: nếu gia công không lâu ở nhiệt độ thấp thì kiềm chưa gây
tổn thương đáng kể cho xơ. Nếu tăng nhiệt độ thì Polyester sẽ bị phá hủy
hoàn toàn (dạng thủy phân). Dung dịch NaOH 40% sẽ phá hủy polyester ở
nhiệt độ thường.
- Polyester tương đối bền với chất oxy hóa và với chất khử.
- Polyester tương đối bền với các dung môi hữu cơ thông thường:
axeton, cồn, benzene.... Nhưng xơ bị hòa tan trong nitrobenzene và clophenol.
- Tác dụng của nhiệt độ: Polyester là loại xơ nhiệt deo, khả năng chịu
nhiệt của xơ tương đối cao. Ở nhiệt độ 150 0C trong một vài giờ xơ chưa thay
đổi tính chất. Nếu tăng thời gian lên 1000 giờ xơ chỉ giảm 50% độ bền. Trong
khi đó một số xơ khác chỉ trong 200 – 300 giờ đã bị phá hủy. Ở nhiệt độ
2350C xơ chuyển sang trạng thái mềm, ở nhiệt độ 275 0C xơ chuyển sang trạng

thái lỏng.
- Tác dụng của vi sinh vật, ánh sáng và khí quyển: Polyester có độ bền
với ánh sáng cao hơn hẳn polyamide, nhưng dưới tác dụng của ánh sáng tử
ngoại thì xơ polyester bị giảm độ bền.
- Xơ Polyester có độ cứng lớn dễ tạo ra hiện tượng xù lông, vón cục trên
bề mặt chế phẩm. Để khắc phục nhược điểm này người ta đã sản xuất ra
polyester biến tính bằng cách thay đổi thành phần hóa học của polyester nhằm
biến đổi một số tính chất của xơ làm cho xơ mềm mại hơn, dễ gấp uốn, tăng
khả năng nhuộm màu, tăng độ xốp và có nhiệt độ nóng chảy cao hơn gọi là
polyester biến tính.
Ứng dụng
- Dạng xơ stapen: Khoảng 60% khối lượng sản xuất polyester là ở dạng
xơ stapen. Xơ stapen được dùng chủ yếu để pha trộn với các loại xơ khác như
len, bông, viscose, modal. Tỷ lệ pha trộn phụ thuộc vào sản phẩm được dùng

20


là loại xơ được pha trộn, thông thường tỷ lệ pha trộn là 70:30, 65:35, 55:45 và
50:50. Các ứng dụng quan trọng nhất là dùng để may comple, y phục, váy, áo
sơ mi, quần áo mặc ngoài, áo mưa, bảo hộ lao động, ga trải giường, 100%
polyester dạng xơ stapen còn được dùng để làm chỉ may có độ bền cao, nền
của mex, dựng, bông, bông trần.
- Dạng filament: Thường được texture sau đó dệt vải để may váy, áo sơ
mi, cà vạt, khăn choàng, làm áo lót, vải nỉ, rèm, màn tuyn, đồ trang trí. Dùng
làm chỉ vắt sổ.
Xơ có khả năng hạn chế lửa nên được dùng để bọc đồ nội thất trong
khách sạn, rạp hát, vận tải.
Trong lĩnh vực công nghiệp, polyester được dùng làm sợi mành trong chế
tạo lốp ô tô, xe máy, dạng sợi mảnh dùng làm lưới, vật liệu lọc , . . . dùng làm

vải bạt, vải mành, quần áo bảo vệ, dây đai an toàn, đai truyền, làm vải lọc, băng
tải, vải buồm, các ống tăng bền, làm lều vải trắng, thừng, chão, vải lông [4].
1.3.2.3.Vải pha
Việc pha trộn xơ sợi để cải thiện các đặc tính, khắc phục các nhược điểm
của xơ hoặc tạo nên các tính chất đặc biệt. Việc pha trộn này cũng có thể chịu
ảnh hưởng của quá trình sản xuất, độ mảnh của sợi và giá thành. Các lý do
cho việc pha trộn:
- Cải thiện tính chất: Việc pha trộn các loại xơ sợi với nhau nhằm cải
thiện các đặc tính của vải khi sử dụng như chống mài mòn, tăng độ bền. Nó
cũng làm tăng sự tiện nghi của quần áo như độ cản nhiệt, khả năng hấp thụ
ẩm, tăng sự tiện nghi khi tiếp xúc với da và cải thiện được các tính chất ch
giặt giũ, phơi, là và sự co.
- Vẻ bên ngoài : Màu sắc, độ bóng, các hiệu ứng cấu trúc của sợi,vải.
- Lợi nhuận: Việc pha trộn còn làm tăng lợi nhuận như giá thành xơ, hiệu
quả của quá trình sản xuất.

21


Sự pha trộn có thể chịu ảnh hưởng ở 2 giai đoạn trong quá trình sản
xuất, đó là trong khi sản xuất pha trộn các loại xơ khác nhau ở dạng xơ
stapen và sự phối hợp các sợi được làm từ các xơ hoặc sợi tơ khác nhau
trong khi sản xuất vải.
Có nhiều ưu điểm khi pha trộn xơ tự nhiên với xơ nhân tạo đó là tổng
hợp được những ưu điểm của xơ thiên nhiên (mềm mại, thoáng mát, hợp vệ
sinh, dễ hút ẩm, chịu nhiệt, cản nhiệt tốt) và xơ nhân tạo (bền đẹp, chịu mài
mòn, có tính đàn hồi, khó bắt bụi, giặt nhanh sạch, chóng khô, ít nhàu) khắc
phục nhược điểm của xơ, sợi thiên nhiên (khó nhuộm màu, độ bền mài mòn
không cao, dễ bị co, dễ bị nhàu nát) và khắc phục nhược điểm của xơ tổng
hợp (Dễ sinh tĩnh điện. vải mặc bí, chịu nhiệt thấp). Pha trộn phổ biến nhất là

bông pha với Polyester , nylon, viscose, modal.
1.3.2.4. Vải pha thêm thành phần Elastane (Spandex)
Elastane được sản xuất từ ít nhất 85% polyurethane. Tính chất nổi bật
của xơ là có tính đàn hồi cao. Một sợi đàn hồi có thể giãn tới 500% và phục
hồi nguyên vẹn chiều dài ban đầu sau khi bỏ tải trọng. Cấu trúc phân tử của
xơ là một khối đồng trùng hợp với các phần cứng và phần xốp xen kẽ nhau.
Phần cứng thông thường là dẫn xuất của ure thơm. Chúng có khả năng liên
kết nội phân tử để tạo được độ bền và sự kết dính. Phần xốp là polyester hoặc
polyether, phần này là vô định hình hoặc nửa tinh thể, chúng có độ giãn và
đàn hồi cao.
Elastane chỉ được sản xuất ở dạng filament. Các filament này có thể rất
mảnh, chịu được lửa, ôxy hóa và chịu được giặt giũ. Chúng được dùng ở bất
cứ đâu cần có độ đàn hồi cao. Filament có thể được dùng một mình hoặc được
filament nylon đã texture bao bọc xung quanh. Filament elastane được dùng
cho hàng dệt kim mỏng nền quần áo và quần áo bơi. Một số lượng ít filament
(2-5%) được dùng cho quần áo có độ co giãn thấp. Một số lượng filament lớn

22


hơn (lên tới 45%) được dùng cho nền quần áo. Sợi bọc 2-5% được dùng với
cotton hoặc len để sản xuất quần áo mặc ngoài. Các filament này không thể
nhìn thấy trên vải, không tiếp xúc vào da người mặc, có độ đàn hồi và chống
nhăn [4].
1.3.2.5.Vải dệt kim
Căn cứ vào nghiên cứu tổng quan về mối liên quan cơ thể - quần áo môi trường, căn cứ vào yêu cầu chất lượng quần áo mặc lót mùa đông, tính
tiện nghi nhiệt ẩm của vải dùng để may quần áo mặc lót, từ đó tạo cho người
mặc có sự tiện nghi thì cấu trúc dệt kim tạo cho vải có thể đáp ứng được hầu
hết được các yêu cầu nói trên.
Khái quát chung về vải dệt kim.

Vải dệt kim được dệt nên từ 1 hoặc nhiều sợi uốn thành vòng, các vòng
này móc nối với nhau theo cột (ở vải đan dọc) hoặc theo hàng (ở vải đan
ngang) thành vòng sợi .
Các vòng sợi nằm tương đối tự do trong vải làm cho vải dễ dàng giãn
dài hay co ngắn, khi kéo căng vải theo 2 chiều làm cho vải có độ giãn lớn.
Một trong những loại vải dệt kim thường dùng để may quần áo mặc lót mùa
đông là vải trơn (Single).
Vải dệt trơn là loại vải đan ngang cơ bản và đơn giản nhất, mỗi hàng
vòng do một sợi uốn cong liên tục tạo thành các vòng sợi nối tiếp nhau. Các
hàng vòng theo thứ tự lồng vào nhau liên kết thành vải. Vì thế đơn vị cơ bản
cấu tạo nên vải dệt kim nói chung là các vòng sợi được hình thành trong quá
trình dệt và chúng sẽ được ổn định trong quá trình trang trí chỉnh lý vải và các
sản phẩm dệt kim .
Tuy nhiên do các tác dụng cơ học nhất là tác dụng kéo căng , uốn cong
và xoắn nên các vòng sợi dễ dàng thay đổi hình dáng, kích thước bởi vì các
điểm liên kết giữa các vòng sợi với nhau không cố định.

23


×