Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Tăng cường công tác thanh tra thuế đối với doanh nghiệp ở Cục thuế thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (521.12 KB, 103 trang )

Trờng Đại học KINH Tế QuốC DÂN
------------

LƯU VĂN THANH

TĂNG CƯờNG CÔNG TáC THANH TRA THUế ĐốI VớI
DOANH NGHIệP ở CụC THUế THàNH PHố Hà NộI
Chuyên ngành: KINH Tế CHíNH TRị

Ngời hớng dẫn khoa học:

PGS.TS. TRầN BìNH TRọNG

Hà nội 2015

MC LC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DN
NNT
TNCN
TNDN
GTGT
TKTN
MST
NSNN

Doanh nghiệp
Người nộp thuế
Thu nhập cá nhân


Thu nhập doanh nghiệp
Giá trị gia tăng
Tự khai tự nộp
Mã số thuế
Ngân sách Nhà nước


DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ
BẢNG


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Cục thuế thành phố Hà Nội trực thuộc Tổng cục Thuế (Bộ Tài chính),
chịu trách nhiệm tổ chức, quản lý thu NSNN trên địa bàn Hà Nội. Với số
lượng cán bộ, công chức, viên chức gần 3.800 người, làm việc tại 53 đơn vị
đầu mối (23 Phòng, 30 Chi cục thuế quận, huyện, thị xã), quản lý thu thuế đối
với gần 115.000 doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh; gần 140.000 hộ kinh
doanh; 3,2 triệu mã số thuế thu nhập cá nhân, gần 2 triệu hộ nộp thuế sử dụng
đất phi nông nghiệp. Hà Nội là một trong những địa phương có số lượng
doanh nghiệp và có số thu ngân sách lớn nhất cả nước, vì vậy trọng trách và
áp lực thực hiện nhiệm vụ thu ngân sách luôn luôn đè nặng trên vai ngành
thuế Hà Nội, nhất là trong bối cảnh hiện nay nền kinh tế của cả nước nói
chung và Hà Nội nói riêng đang gặp nhiều khó khăn do tác động của khủng
hoảng kinh tế và những diễn biến bất ổn trên Biển Đông.
Trong các khoản thu ngân sách trên địa bàn Hà Nội thì thu từ đóng góp
của các doanh nghiệp là chủ yếu. Do vậy công tác quản lý thu thuế đối với
doanh nghiệp luôn được cơ quan thuế quan tâm, đặt lên hàng đầu. Hiện nay,

việc quản lý thuế đối với các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội đang phải đối
mặt với nhiều khó khăn, thách thức do tình hình kinh tế đang gặp nhiều khó
khăn, tình trạng các doanh nghiệp kinh doanh gian lận, trốn thuế, trây ỳ nợ
thuế đang ngày một gia tăng và với nhiều hình thức, thủ đoạn tinh vi, nhất là
tình trạng các doanh nghiệp mua bán hóa đơn bất hợp pháp để trốn thuế,
chuyển giá, lợi dụng chính sách thông thoáng để tìm cách trốn thuế, rút tiền
hoàn thuế, nhiều hình thức kinh doanh mới phát sinh như kinh doanh qua
mạng khó kiểm soát, kinh doanh đa cấp, đang trở lên khá phổ biến. Trong khi


2
lực lượng cán bộ công chức thì có hạn, nhưng khối lượng công việc thì nhiều,
trình độ quản lý về thuế nói chung còn ở mức thấp, chính sách thuế còn nhiều
bất cập, chưa đồng bộ, chưa bao quát đầy đủ các hoạt động, chưa ban hành
kịp thời...Từ thực tiễn này đòi hỏi Hà Nội phải tăng cường đẩy mạnh công tác
quản lý thuế đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là tăng cường công tác thanh
tra thuế đối với các doanh nghiệp, góp phần hạn chế tình trạng vi phạm luật
thuế như khai man, trốn lậu thuế, chây ỳ, chậm nộp thuế.
Thanh tra thuế là một trong những chức năng thiết yếu của quản lý thuế.
Tính hiệu qủa của thanh tra thuế có ảnh hưởng chi phối đến hiệu quả của quản
lý thuế. Đặc biệt trong bối cảnh áp dụng cơ chế doanh nghiệp “tự kê khai, tự
nộp thuế” theo Luật quản lý thuế, công tác thanh tra thuế càng có vai trò
quan trọng, bởi vì để doanh nghiệp tự giác kê khai đúng nghĩa vụ thuế thì một
trong những vấn đề mấu chốt là phải làm cho doanh nghiệp thấy được hậu
qủa của trốn lậu thuế, tức là, chỉ ra rằng các hành vi gian lận, trốn lậu thuế sẽ
bị phát hiện (thể hiện tính hiệu quả của thanh tra) và những hậu qủa do trốn
lậu thuế đem lại (xử lý kết qủa sau thanh tra).
Cục thuế Hà Nội nhận thức được tầm quan trọng của công tác thanh tra
đối với doanh nghiệp nên đã tập trung mọi biện pháp tăng cường cho công tác
này như: Tập trung nguồn lực, tổ chức sắp xếp lại bộ máy, đổi mới hoạt động

thanh tra, xây dựng quy trình mới, tăng cường đào tạo lực lượng cán bộ thanh
tra, ứng dụng công nghệ thông tin…Nhờ những hoạt động tích cực đó, công
tác thanh tra thuế đối với doanh nghiệp thời gian qua ngày càng chuyển biến
tích cực và đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Bên cạnh đó, công tác
thanh tra thuế đối với doanh nghiệp cũng còn nhiều hạn chế, nội dung và quy
trình thanh tra trực tiếp cũng còn nhiều bất cập… không đáp ứng được những
yêu cầu của công tác thanh tra thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.


3
Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Tăng cường công tác thanh tra
thuế đối với doanh nghiệp ở Cục thuế thành phố Hà Nội” có ý nghĩa thực
tiễn thiết thực.
2. Mục đích nghiên cứu:
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm phân tích thực trạng công tác thanh tra
thuế đối với doanh nghiệp, từ đó chỉ các nguyên nhân, hạn chế cần khắc phục.
Đồng thời tìm kiếm và đề xuất các giải pháp thiết thực nhằm tăng cường công
tác thanh tra thuế đối với doanh nghiệp theo định hướng cải cách thuế trong
hoạt động thanh tra thuế: Chuyên môn hóa, hiện đại hóa, sử dụng nguồn lực
một cách hiệu quả nhất, hạn chế sự can thiệp tiêu cực vào hoạt động thanh tra
thuế, giảm bớt thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian và tiết kiệm chi phí tối
đa cho doanh nghiệp trong việc kê khai, nộp thuế, thanh tra thuế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý thuyết và thực tiễn của
việc tổ chức, thực hiện hoạt động thanh tra thuế đối với doanh nghiệp.
- Phạm vi nghiên cứu tại Cục thuế thành phố Hà Nội từ năm 2007 - năm
2014 và những năm tiếp theo đến năm 2020.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu:
Đề tài tiến hành phân tích, đánh giá, tổng kết thực tiễn và khuyến nghị
những giải pháp tăng cường công tác thanh tra thuế đối với doanh nghiệp trong

điều kiện áp dụng cơ chế “tự khai, tự nộp thuế”. Do vậy, đây được coi là một
tài liệu để các nhà quản lý tham khảo vận dụng trong thực tiễn quản lý thuế.
Nghiên cứu đề tài này còn tạo điều kiện và cơ hội để các đồng nghiệp,
học viên, sinh viên tiếp cận thực tiễn, nâng cao kiến thức chuyên môn, từ đó
góp phần nâng cao chất lượng công tác và nghiên cứu khoa học.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, diễn giải quy
nạp, so sánh, …


4
6. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, các bảng biểu số liệu, nội dung chính của
đề tài được trình bày trong 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề cơ bản về thanh tra thuế.
Chương 2. Thực trạng công tác thanh tra thuế đối với doanh nghiệp ở
Cục thuế thành phố Hà Nội.
Chương 3. Giải pháp tăng cường công tác thanh tra thuế đối với doanh
nghiệp ở Cục thuế thành phố Hà Nội.


5

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THANH TRA THUẾ
1.1 Tổng quan về thanh tra thuế của cơ quan thuế
1.1.1. Khái niệm về kiểm tra và thanh tra thuế
Theo từ điển Tiếng Việt do Viện ngôn ngữ học biên soạn, kiểm tra là
“xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét” [ tr.253]. Theo Đại từ điển
Tiếng việt do Trung tâm ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam biên soạn, kiểm tra

là “xem xét thực chất, thực tế” ” [ tr.973]. Theo từ điển Luật học, kiểm tra là
“xem xét tình hình thực tế thi hành pháp luật, thực hiện nhiệm vụ quyền hạn
nói chung hay một công tác cụ thể được giao để đánh giá, nhận xét”…
[ tr.265].
Theo giáo sư Michel Bouvier, tác giả cuốn “Nhập môn về luật thuế đại
cương và lý thuết thuế”, kiểm tra thuế là “hoạt động nhằm xem xét tính trung
thực, tính chính xác của cơ sở tính thuế mà người nộp thuế đã kê khai” [15,
tr.153].
Tổng hợp các quan niệm trên có thể hiểu kiểm tra thuế là hoạt động xem
xét, đánh giá của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các cơ quan, tổ
chức và cá nhân chịu sự quản lý trong việc thực hiện pháp luật về thuế, phí và
lệ phí (gọi chung là thuế).
Về khái niệm thanh tra, theo từ điển tiếng việt: “Thanh tra là kiểm soát,
xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp” [ tr.882], thanh
tra là “loại hình đặc biệt của kiểm tra” [ 47, tr.19]
Theo luật Thanh tra số 56/2010/QH12 năm 2010 thì:
Thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự,
thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với
việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ


6
chức, cá nhân. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra
chuyên ngành.
Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện
chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc
chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy

tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó.
Theo Nghị định số 07/2012/NĐ-CP ngày 9/2/2012 của Chính Phủ thì cơ
quan thuế là cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành
và hoạt động thanh tra chuyên ngành.
Theo giáo trình nghiệp vụ thuế của Học viện Tài chính thì thanh tra thuế
là “hoạt động kiểm tra của tổ chức chuyên trách làm công tác kiểm tra của cơ
quan thuế đối với đối tượng thanh tra nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lý
những hành vi trái pháp luật” [ tr.437]
Tổng hợp các quan niệm trên có thể hiểu thanh tra thuế là hoạt động
kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các cơ quan, tổ chức và
cá nhân chịu sự quản lý trong việc thực hiện pháp luật về thuế nhằm kết luận
đúng, sai, đánh giá ưu khuyết điểm, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý thuế,
phòng ngừa và xử lý các vi phạm pháp luật thuế.
1.1.2. Mối quan hệ giữu thanh tra thuế và kiểm tra
Thanh tra thuế cũng là một hoạt động của kiểm tra thuế nên thanh tra
thuế và kiểm tra thuế có những điểm giống nhau:
- Thanh tra, kiểm tra thuế đều là một nội dung quan trọng của quản lý
thuế, đều có cùng một mục đích phát hiện, ngăn ngừa, xử lý những vi phạm
pháp luật thuế, góp phần thúc đẩy các tổ chức, cá nhân hoàn thành nhiệm vụ


7
theo quy định của pháp luật thuế, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý thuế,
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân.
- Chủ thể kiểm tra thuế, thanh tra thuế là cơ quan nhà nước có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật, thường là cơ quan thuế.
- Đối tượng kiểm tra, thanh tra thuế là các cơ quan, tổ chức, doanh
nghiệp và cá nhân có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước.
- Nội dung kiểm tra, thanh tra thuế là việc chấp hành pháp luật thuế.
- Về phương pháp kiểm tra, thanh tra thuế là đều phải xem xét hoạt động

thực tế của đối tượng để phát hiện, phân tích, đánh giá thực trạng đối tượng
một cách chính xác, khách quan, làm rõ đúng, sai, chỉ rõ nguyên nhân để có
biện pháp khắc phục, xử lý vi phạm.
- Hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế không chỉ được thực hiện ở một
giai đoạn trong hoạt động quản lý thuế mà nó được thực hiện ở tất cả các giai
đoạn của quản lý thuế.
Tuy nhiên giữa thanh tra thuế và kiểm tra thuế cũng có sự khác nhau nhất
định:
- Thứ nhất, chủ thể của thanh tra thuế không đồng nhất với đối tượng
thanh tra thuế nhưng chủ thể của kiểm tra thuế có thể không đồng nhất hoặc
đồng nhất với đối tượng kiểm tra, chẳng hạn tự kiểm tra nội bộ thì chủ thể
kiểm tra và đối tượng kiểm tra là đồng nhất.
- Thứ hai, tính chất của thanh tra thuế là một hoạt động dựa vào quyền
lực của cơ quan quản lý Nhà nước. Kiểm tra là hoạt động trung tính, có thể là
hoạt động quyền lực của cơ quan quản lý Nhà nước có thể chỉ là hoạt động
quản lý đơn thuần.
- Thứ ba, nội dung hoạt động thanh tra thuế thường là kiểm tra ở giai
đoạn sau, khi các nghiệp vụ kinh tế đã phát sinh. Nội dung thanh tra thuế
thường là những vấn đề phức tạp, bản chất vấn đề thường được che dấu có


8
chủ ý nên khó nhận biết. Nội dung kiểm tra thuế thường là những vấn đề hiện
tại, dễ nhận biết. Tất nhiên, nội dung kiểm tra bao gồm cả những nội dung cụ
thể của kiểm tra trước, kiểm tra trong và kiểm tra sau khi các hoạt động kinh
tế phát sinh.
- Thứ tư, do mức độ nghiêm trọng của sự việc cần thanh tra, nên thời gian
để tiến hành một cuộc thanh tra thuế thường dài hơn một cuộc kiểm tra thuế.
Từ những phân tích trên, có thể rút ra các nhận xét sau:
Mặc dù có những điểm khác nhau nhưng thanh tra thuế và kiểm tra thuế

đều là những hoạt động không thể thiếu trong công tác quản lý thuế. Việc
phân biệt thanh tra thuế và kiểm tra thuế không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận
mà còn có ý nghĩa về mặt thực tiễn trong việc tổ chức, chỉ đạo, điều hành để
tránh sự chồng chéo giữa thanh tra và kiểm tra, giảm phiền hà cho các tổ chức
cá nhân là đối tượng thanh tra và kiểm tra.
1.1.3. Mục đích chính của hoạt động thanh tra thuế
Thanh tra thuế là một chức năng thiết yếu trong quản lý thuế. Đặc biệt,
trong bối cảnh áp dụng cơ chế DN “tự kê khai, tự nộp thuế”, vai trò của
công tác thanh tra thuế càng trở nên quan trọng, do cơ quan thuế sử dụng
công cụ thanh tra thuế để “ứng xử phù hợp” với người nộp thuế, người chấp
hành sẽ được tuyên dương, khen thưởng, ngược lại người vi phạm sẽ bị thanh
tra xử lý nghiêm minh theo pháp luật. Do thanh tra thuế là hoạt động có tính
pháp lý cao, liên quan đến lợi ích kinh tế - chính trị của nhiều đối tượng trong
xã hội. Vì vậy, công tác thanh tra thuế phải đạt các mục đích quản lý sau:
- Phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hiện tượng gian lận, trốn thuế,
dây dưa, trây ỳ, nợ đọng tiền thuế…
- Phát hiện những điểm bất hợp lý, chồng chéo, bất cập và những kẽ hở
trong chính sách, chế độ thuế để kịp thời kiến nghị các cấp có thẩm quyền bãi
bỏ, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện chính sách, chế độ thuế.


9
- Điều tra xác minh, làm sáng tỏ những vấn đề liên quan đến thuế mà dư
luận xã hội quan tâm.
- Giải quyết kịp thời đơn thư tố giác hành vi vi phạm luật thuế, đảm
bảo quyền và lợi ích chính đáng của Nhà nước và các tổ chức cá nhân có
liên quan.
1.1.4. Nguyên tắc của hoạt động thanh tra thuế
- Phải tuân theo pháp luật và chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật
Không được làm trái các quy định của pháp luật là nguyên tắc quan trọng

nhất trong hoạt động thanh tra thuế. Nguyên tắc này đòi hỏi các đơn vị, cá nhân
tham gia quá trình thanh tra thuế chỉ được thực hiện những quyền mà pháp luật
cho phép và phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ mà pháp luật quy định. Mọi
hành vi lạm quyền hoặc không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đều bị coi là hành vi
không tuân thủ quy định của pháp luật và đều phải bị xử lý theo quy định.
Nguyên tắc này thể hiện ở chỗ người ra quyết định thanh tra, trưởng đoàn
thanh tra, các thành viên đoàn thanh tra và người có liên quan, khi thực hiện
nhiệm vụ thanh tra phải căn cứ vào các quy định của pháp luật để tiến hành
thanh tra, kết luận thanh tra và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các kết
luận, kiến nghị của mình. Đối tượng thanh tra phải nghiêm chỉnh chấp hành
quyết định thanh tra, cung cấp đầy đủ hồ sơ, tài liệu và giải trình số liệu khi
được yêu cầu.
- Bảo đảm tính chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân
chủ, kịp thời
Tính chính xác đòi hỏi chủ thể thanh tra phải nhận thức đúng vấn đề, nội
dung thanh tra, xác định, đánh giá chính xác bản chất của sự việc để kết luận
chính xác. Tính chính xác bảo đảm cho hoạt động thanh tra thuế đạt hiệu quả
cao. Muốn đảm bảo tính chính xác, không chỉ đòi hỏi quan điểm đúng đắn mà
còn cần phải có kiến thức, năng lực mới có thể đem lại kết qủa chính xác.


10
Tính khách quan yêu cầu chủ thể thanh tra phải phản ánh đúng sự vật,
hiện tượng như nó vốn có, không được lồng ý kiến chủ quan khi mô tả sự
vật, hiện tượng. Tính khách quan và tính chính xác có mối quan hệ tác
động qua lại. Tính khách quan tạo tiền đề cho việc kết luận chính xác và
kết luận thanh tra có tính chính xác mới thể hiện được tính khách quan của
hoạt động thanh tra.
Tính trung thực đòi hỏi chủ thể thanh tra phải tuân thủ các quy tắc về
đạo đức nghề nghiệp, phản ánh đúng thực tế sự việc, không thiên lệch, bóp

méo sự việc dẫn đến kết luận không đúng thực tế.
Tính công khai thể hiện ở chỗ chủ thể thanh tra phải thông báo đầy
đủ, công khai từ nội dung, kế hoạch, quyết định thanh tra đến kết luận
thanh tra để các tổ chức, cá nhân liên quan biết, giám sát và phối hợp thực
hiện. Việc công khai hoạt động thanh tra nhằm nâng cao tính khách quan
của hoạt động thanh tra, hạn chế những tiêu cực phát sinh trong qúa trình
thanh tra. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, tuỳ tính chất của cuộc thanh tra
cụ thể, cần có hình thức, mức độ công khai phù hợp để đảm bảo hiệu quả
hoạt động thanh tra.
Tính dân chủ nhằm tạo cơ hội cho đối tượng thanh tra được trình bày ý
kiến, quan điểm về những nội dung thanh tra cũng như về hoạt động của cơ
quan tiến hành thanh tra, tránh tình trạng áp đặt, ép buộc.
Tính kịp thời: Hoạt động thanh tra thuế nhằm phục vụ các mục tiêu quản
lý thuế trong những thời điểm nhất định. Vì vậy, thanh tra kịp thời ngoài việc
giúp cho đối tượng kịp thời nhận rõ sai phạm để sửa chữa, khắc phục ngay,
tránh vi phạm kéo dài còn giúp cơ quan thuế chấn chỉnh và sửa đổi cơ chế,
chính sách phù hợp thực tiễn, nâng cao hiệu quả quản lý thuế. Mặt khác tính
kịp thời còn đảm bảo cuộc thanh tra có biên bản, kết luận đúng thời hạn luật
định, tránh tình trạng dây dưa, kéo dài thời gian công bố kết luận thanh tra.


11
- Không làm cản trở hoạt động bình thường của đối tượng thanh tra.
Nguyên tắc này nhằm hạn chế tối đa những cuộc thanh tra chồng chéo
của các cơ quan quản lý, đảm bảo quyền hoạt động bình thường của đối tượng
được thanh tra. Khi tiến hành thanh tra thì mọi hoạt động của đối tượng thanh
tra vẫn hoạt động bình thường. Cùng với việc thực hiện tốt nguyên tắc kịp
thời trong hoạt động thanh tra, nguyên tắc này nhằm bảo vệ quyền lợi chính
đáng của đối tượng thanh tra.
1.1.5. Phân loại thanh tra thuế

- Phân loại theo tính kế hoạch
Nếu xét theo tính kế hoạch, hoạt động thanh tra thuế có hai hình thức là
thanh tra theo kế hoạch và thanh tra đột xuất.
+ Thanh tra theo kế hoạch được tiến hành theo chương trình, kế hoạch đã
được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Căn cứ vào nguồn lực hiện có, tình hình
chấp hành pháp luật thuế trên địa bàn và mục tiêu quản lý thuế, cơ quan thuế
xây dựng kế hoạch thanh tra và trình cấp thẩm quyền phê duyệt và tổ chức
thực hiện kế hoạch thanh tra đã được phê duyệt.
+ Thanh tra đột xuất được tiến hành khi phát hiện cơ quan, tổ chức, cá
nhân có dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế; thanh tra giải quyết khiếu nại, tố
cáo; thanh tra theo yêu cầu của Thủ trưởng cơ quan thuế hoặc Bộ trưởng Bộ
Tài chính.
- Phân loại theo nội dung và phạm vi thanh tra.
Theo tiêu thức này, thanh tra thuế được chia thành hai loại là thanh tra
toàn diện và thanh tra hạn chế.
+ Thanh tra toàn diện: Với hình thức này, cơ quan thuế tiến hành thanh
tra toàn bộ các nội dung liên quan hoạt động kê khai, nộp thuế; thanh tra tất cả
các sắc thuế của một doanh nghiệp.


12
+ Thanh tra hạn chế: Hình thức này thường được áp dụng khi thanh tra
một hoặc một số nội dung nhất định (doanh thu, chi phí, hóa đơn...); hoặc
thanh tra một vài sắc thuế; hoặc thanh tra một số kỳ tính thuế, thanh tra thuế
một dự án vv ...
- Phân loại theo địa điểm tiến hành thanh tra.
+ Thanh tra tại cơ quan thuế (tại bàn).
+ Thanh tra tại Trụ sở của đối tượng thanh tra.
+ Thanh tra qua mạng (tập trung dữ liệu và thanh tra trên máy thông qua
các tờ khai điện tử, các thông tin doanh nghiệp báo cáo với cơ quan thuế).

1.2. Công tác thanh tra thuế đối với doanh nghiệp
của cơ quan thuế
1.2.1. Nội dung thanh tra
Nội dung thanh tra thuế đối với doanh nghiệp tập trung vào những vấn
đề chủ yếu sau:
- Thanh tra việc chấp hành những quy định về kê khai đăng ký thuế
Đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế là quyền và nghĩa vụ của đối tượng
kinh doanh. Mục tiêu của việc kê khai, đăng ký thuế nhằm giúp cho cơ quan
quản lý thuế quản lý chặt chẽ DN ngay từ khi bắt đầu hoạt động; quản lý hồ
sơ DN để lưu giữ, tra cứu, kiểm tra khi cần thiết.
Căn cứ vào số liệu tổng hợp về đăng ký kinh doanh, đăng ký kê khai,
nộp thuế, cơ quan thuế phối hợp với các ngành có liên quan để chuẩn bị điều
kiện vật chất phục vụ tốt nhất công tác quản lý thuế đối với các DN. Xác định
những đối tượng đã hoạt động kinh doanh, nhưng chưa đăng ký kinh doanh
hoặc chưa đăng ký thuế để xử lý kịp thời.
Nội dung kiểm tra đăng ký thuế là xem xét trên từng địa bàn, trong từng
loại ngành nghề có bao nhiêu đơn vị thực tế có hoạt động kinh doanh, số lượng
đơn vị đăng ký và chưa kê khai đăng ký thuế và DN đã đăng ký có làm đúng


13
những quy định về đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế không.
Đối với mỗi DN khi kiểm tra cần đi sâu xem xét tính pháp lý của đăng
ký thuế; kiểm tra tính trung thực của các tài liệu, số liệu kê khai trong đăng ký
kinh doanh và đăng ký thuế về tư cách pháp nhân, người đại diện theo pháp
luật, vốn kinh doanh, địa điểm kinh doanh, ngành nghề kinh doanh, nhằm
phát hiện và xử lý những vi phạm trong kê khai đăng ký thuế. Cần coi trọng
việc kiểm tra nội dung ghi trong đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế vì đây là
khâu đầu tiên trong quy trình quản lý thu thuế, để tránh bỏ sót đối tượng chịu
thuế, doanh nghiệp, bỏ sót nguồn thu.

- Thanh tra việc chấp hành chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ.
Việc thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ có liên quan chặt chẽ
với việc khai thuế, tính thuế, nộp thuế. Nội dung thanh tra này bao gồm: thanh
tra việc tổ chức thực hiện chế độ kế toán của DN xem có đúng quy định
không; thanh tra việc lập, phát hành và sử dụng hóa đơn xem có đúng quy
định không; thanh tra hệ thống chứng từ liên quan đến việc khai thuế, tính
thuế xem có hợp lý, hợp lệ không, việc luân chuyển chứng từ có lôgic hợp lý
không; thanh tra việc ghi chép, phản ánh các nội dung kinh tế có trung thực,
đầy đủ trên sổ sách kế toán không…
- Thanh tra việc thực hiện kê khai, tính thuế và nộp thuế.
Kê khai, tính thuế, nộp thuế là nghĩa vụ của các doanh nghiệp. Nội dung
thanh tra việc kê khai tính thuế, nộp thuế bao gồm:
+ Kiểm tra để xác định đúng đối tượng chịu thuế để có căn cứ xác định
các nội dung thanh tra tiếp theo. Trong thực tế, nhiều hoạt động kinh doanh
phức tạp phải kiểm tra để xác định đúng đối tượng chịu thuế nhằm tránh bỏ
sót nguồn thu và xác lập các căn cứ tính thuế đúng quy định.
+ Kiểm tra căn cứ tính thuế trên cơ sở kiểm tra sổ sách kế toán, chứng
từ, hoá đơn và các tài liệu có liên quan nhằm xác định đúng số thuế phải nộp,


14
số thuế đã nộp, số thuế được miễn, giảm, số thuế được hoàn trong kỳ của đơn
vị. Đối chiếu số liệu trên các tờ khai, bảng kê, quyết toán thuế đơn vị đã kê
khai với số liệu thanh tra trên sổ sách kế toán và tình hình thực tế của đơn vị
để phát hiện số thuế đơn vị kê khai thiếu, số thuế ẩn lậu. Xác minh các giao
dịch mua bán, quan hệ kinh tế, quan hệ liên kết để xác định chính xác bản
chất của các quan hệ và mối liên hệ ảnh hưởng của nó đến việc thực hiện
nghĩa vụ thuế của DN. Đây là một khâu rất quan trọng trong qúa trình thanh
tra thuế, đòi hỏi cán bộ thuế phải nắm vững nội dung những quy định của các
Luật thuế, Luật quản lý thuế, Luật doanh nghiệp, Luật kế toán, Luật thanh tra

và các Luật khác có liên quan.
+ Kiểm tra việc chấp hành nghĩa vụ nộp thuế của DN để xác định
xem DN có thực hiện nghiêm túc quy định về thời hạn nộp thuế của các
luật thuế không, có dây dưa nộp chậm tiền thuế để chiếm dụng ngân sách
nhà nước không, có nợ đọng thuế không. Đặc biệt chú trọng đến những cơ
sở có biểu hiện vi phạm nhiều lần, với số lượng lớn nhằm giảm thiểu tối
đa khả năng thất thoát tiền thuế của Nhà nước. Để đạt được yêu cầu trên,
cần đối chiếu thời gian nộp thuế theo quy định của các luật thuế với thời
gian nộp thuế của DN qua các chứng từ nộp thuế như giấy nộp tiền vào
kho bạc, biên lai thuế.
Như vậy, việc thanh tra thuế đối với DN là công việc mang tính tổng hợp
cao, đòi hỏi cán bộ thanh tra thuế phải nắm vững các văn bản pháp luật, đặc
biệt là hệ thống các văn bản pháp luật về thuế, hiểu biết sâu rộng về nhiều lĩnh
vực kinh tế xã hội khác, cán bộ thuế phải thông thạo nghiệp vụ kế toán, có
trình độ về tin học, có kỹ năng về thanh tra, kiểm tra về thuế…
1.2.2. Phương pháp thanh tra thuế đối với doanh nghiệp
- Phương pháp đối chiếu, so sánh
Đây là phương pháp chủ yếu được sử dụng thường xuyêntrong quá trình


15
thanh tra thuế từ khâu lập kế hoạch đến khâu thanh tra trực tiếp tại doanh
nghiệp. Nội dung của phương pháp này là thực hiện việc so sánh, đối chiếu
nội dung cần thanh tra với các nguồn thông tin khác nhau để đánh giá, xem
xét nội dung cần thanh tra thuế, đối chiếu các chỉ tiêu báo cáo của doanh
nghiệp với thực tế, so sánh cùng quy mô, cùng ngành nghề để phát hiện các
mâu thuẫn, bất hợp lý trong việc kê khai thuế của DN để đi sâu vào thanh tra
phát hiện sai phạm.
- Phương pháp kiểm tra từ tổng hợp đến chi tiết
Đây là phương pháp tối ưu để kiểm tra số liệu trên số sách kế toán, báo

cáo tài chính, quyết toán thuế của DN. Theo phương pháp này, trước hết kiểm
tra số liệu báo cáo tổng hợp sau mới kiểm tra số liệu chi tiết. Việc kiểm tra
tổng hợp nhằm rút ra những nhận xét tổng quát để từ đó định hướng những
nội dung cần đi sâu kiểm tra, kiểm tra chi tiết. Trong công tác cải cách về
thanh tra thuế thì việc kiểm tra tổng hợp, xác định trọng tâm nội dung thanh
tra là hết sức cần thiết vì do nhân lực và thời gian có hạn nên việc phân tích
báo cáo tổng hợp là hết sức quan trọng với mục tiêu tiết kiệm chi phí nhưng
đạt hiệu quả cao.
- Phương pháp kiểm tra chứng từ gốc
Có ba phương pháp kiểm tra chứng từ gốc:
+ Kiểm tra theo trình tự thời gian là việc thực hiện kiểm tra chứng từ gốc
đã được sắp xếp theo trình tự thời gian phát sinh. Phương pháp này mất nhiều
thời gian và hiệu quả thấp nên ít được sử dụng.
+ Kiểm tra theo loại nghiệp vụ là việc thực hiện kiểm tra chứng từ gốc
đã được phân loại, sắp xếp theo một nghiệp vụ nhất định, như chứng từ thu,
chi tiền mặt, xuất, nhập kho… Phương pháp này được áp dụng khi cần rút ra
kết luận đầy đủ về một loại nghiệp vụ theo yêu cầu của nội dung kiểm tra,


16
thanh tra. Phương pháp này tiết kiệm thời gian và cho hiệu quả cao.
+ Kiểm tra điển hình là việc kiểm tra ngẫu nhiên một số chứng từ của
một loại nghiệp vụ để rút ra kết luận chung. Phương pháp này tiết kiệm nhiều
thời gian nhưng độ tin cậy của kết luận không cao.
Trong quá trình thanh tra tùy loại hình doanh nghiệp hoặc tùy hoạt động
sản xuất kinh doanh và hình thức lưu trữ chúng từ, cán bộ thanh tra áp dụng
phương pháp phù hợp nhất.
- Các phương pháp kiểm tra bổ trợ
+ Phương pháp phỏng vấn: Phương pháp này được sử dụng khi cần thu
thập thông tin từ những người có quan hệ trực tiếp, gián tiếp đến nội dung

kiểm tra, thanh tra.
+ Ngoài ra còn một số phương pháp khác như: Phương pháp thẩm tra và
xác nhận từng phần, phương pháp quan sát, phương pháp truy lần, phương
pháp loại trừ …
1.2.3. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác thanh tra thuế đối với
doanh nghiệp
Hiệu quả công tác thanh tra thuế đối với doanh nghiệp không chỉ được
xem xét, đánh giá đơn thuần ở khía cạnh vật chất (hiệu quả kinh tế, số thuế
thu về cho ngân sách) mà còn được xem xét, đánh giá dưới giác độ hiệu quả
tác động tích cực đến các mặt xã hội - chính trị. Vì vậy, các tiêu chí đánh giá
hiệu quả công tác thanh tra thuế được chia 2 nhóm là:
- Nhóm các tiêu chí định lượng:
Các tiêu chí định lượng thể hiện ở kết quả thực tế công tác thanh tra đã
được tiến hành. Đó là kết quả cụ thể của việc thực hiện nhiệm vụ được giao phản
ánh bằng định lượng (như số doanh nghiệp được thanh tra, số thuế truy thu, số
tiền phạt, số thuế thu hồi qua thanh tra vv…). Các tiêu chí này thường gồm:
+ Kết quả thực hiện kế hoạch thanh tra thuế thường phản ánh qua các chỉ


17
tiêu như: Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch về số lượng đối tượng thanh tra so với kế
hoạch năm; Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch về số thời gian thanh tra so với kế
hoạch năm; Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch về số vụ việc khiếu tố giải quyết được
so với kế hoạch năm; Tỷ lệ số doanh nghiệp được thanh tra hàng năm so với
tổng số doanh nghiệp đang quản lý.
+ Tình hình vi phạm pháp luật thuế phát hiện qua thanh tra: Đánh giá
tiêu chí này thường dựa vào các chỉ tiêu như: Tỷ lệ vi phạp pháp luật
thuế/tổng số đối tượng thanh tra; Tổng số tiền thuế truy thu qua thanh tra; Số
tiền truy thu bình quân/đối tượng thanh tra.
+ Chi phí vật chất và thời gian cho thanh tra: Đánh giá tiêu chí này

thường dự vào các chỉ tiêu như: Thời gian bình quân cho 1 cuộc thanh tra; Số
đối tượng được thanh tra bình quân/thanh tra viên hàng năm; chi phí bằng tiền
trực tiếp cho thanh tra;…
+ Hiệu qủa trực tiếp của thanh tra: Đánh giá tiêu chí này thường dựa vào
các chỉ tiêu như: Chi phí thanh tra so với số thuế truy thu được đã nộp NSNN;
Tỷ lệ giữ nguyên, sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết định truy thu thuế theo biên bản
thanh tra thuế khi giải quyết khiếu nại của đối tượng thanh tra; Tỷ lệ các
trường hợp đối tượng thanh tra chấp nhận hoàn toàn kết luận thanh tra; Tỷ lệ
số thuế truy thu được nộp vào NSNN/Tổng số thuế truy thu…
Mặc dù có thể tính toán cụ thể được một số chỉ tiêu đã kể trên song thực
tế đa số các chỉ tiêu không thực sự phản ánh rõ hiệu qủa kinh tế của công tác
thanh tra. Bên cạnh việc tính toán chỉ tiêu này trong năm, để đánh giá chính
xác hơn tính hiệu quả, cần phải so sánh với những năm cũ để đánh giá xu
hướng biến động của các chỉ tiêu, có như thế mới thấy rõ những tiến bộ của
từng khâu công tác.
- Các chỉ tiêu định tính:
Các chỉ tiêu định tính thường là hệ qủa của công tác thanh tra mà không
thể hoặc khó tính toán, đo đếm được. Đó thường là những hiệu quả có tính xã


18
hội, chính trị như:
+ Sự chuyển biến về ý thức tuân thủ pháp luật thuế. Tiêu chí này có thể
đo lường được thông qua so sánh tỷ lệ tuận thủ pháp luật thuế của đối tượng
thanh tra qua các năm, đặc biệt là những đối tượng đã được thanh tra (mức độ
tái phạm).
+ Tác dụng trong việc ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật thuế; tạo sự
công bằng giữa các doanh nghiệp; tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh. Có
thể đánh giá tác dụng này thông qua xem xét tỷ lệ đối tượng vi phạm bị xử lý
truy thu thuế và xử phạt hành chính thuế (chia theo hình thức xử phạt)

+ Tác dụng trong việc phòng chống tham nhũng trong nội bộ cơ quan
quản lý thuế và tạo lòng tin của nhân dân vào hoạt động thanh tra thuế. Có thể
đánh giá tác dụng này thông qua xem xét tỷ lệ cán bộ thuế vi phạm pháp luật
trong thanh tra; Tỷ lệ cán bộ thuế vi phạm pháp luật bị xử lý; những vụ việc
vi phạm quan trọng và nhạy cảm được phát hiện và xử lý…
Hệ thống tiêu chí đánh giá hiệu qủa thanh tra được đánh giá theo kỳ
(quý, năm) và được chia theo sắc thuế, theo hình thức thanh tra; theo loại
doanh nghiệp và từng nội dung thanh tra tương ứng.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác thanh tra doanh nghiệp của
cơ quan thuế
1.3.1. Điều kiện kinh tế xã hội và trình độ dân trí
Môi trường kinh tê vĩ mô, môi trường pháp lý, môi trường xã hội, đặc
điểm hoạt động doanh nghiệp của người nộp thuế là một trong những yếu tố
có ảnh hưởng trực tiếp đến quản lý thuế nói chung và hoạt động thanh tra thuế
đối với doanh nghiệp nói riêng. Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội trong
giai đoạn hội nhập sâu rộng hiện nay thì hệ thống luật pháp sẽ được hoàn
thiện. Số lượng người nộp thuế không ngừng tăng lên nhanh chóng…Tất cả
những biến đổi trên đều tác động lớn tới hiệu quả của công tác thanh tra thuế.


19
Việc có được một hệ thống pháp luật thuế đồng bộ, hoàn thiện, phù hợp với
tình hình kinh tế xã hội của đất nước sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để hoạt
động thanh tra thuế đi vào khuôn khổ, đồng thời nó cũng giúp cho người nộp
thuế hiểu và nghiêm túc thực hiện theo quy định của pháp luật.
Thêm vào đó, việc được đầu tư trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại
như: máy móc, thiết bị, hệ thống ứng dụng tin học hiện đại tích hợp đầy đủ
các thông tin về từng người nộp thuế nói riêng và các thông tin ngành nói
chung…cũng hỗ trợ cho công tác thanh tra thuế được tiến hành thuận lợi, có
tính chính xác và hiệu qủa cao hơn. Số lượng người nộp thuế ngày càng tăng

sẽ là một thách thức không nhỏ đến công tác thanh tra. Bởi cùng với sự gia
tăng về số lượng sẽ là sự đa dạng hóa các loại hình doanh nghiệp và các hình
thức kinh doanh, kèm theo đó là sự phức tạp, tinh vi hơn về thủ đoạn trốn,
tránh, gian lận thuế của người nộp thuế. Nếu cơ quan thuế, cán bộ thuế
không chủ động đổi mới cải cách, nâng cao trình độ, kiến thức, kỹ năng
quản lý, đào tạo nhân lực, hiện đại hóa cơ sở vật chất ... thì cơ quan quản lý
thuế sẽ lạc hậu, không đáp ứng được việc quản lý thuế, sẽ gặp rất nhiều khó
khăn trong việc quản lý thuế. Hoạt động thanh tra thuế cũng vậy, nếu không
có đội ngũ cán bộ giỏi, không được trang bị vật chất, phương tiện công cụ
dcphát hiện và xử lý kịp thời các vụ gian lận, ẩn lậu thuế, gây thất thu cho
ngân sách nhà nước.
Trình độ dân trí càng cao, sự hiểu biết về pháp luật thuế cũng như ý
thức tự tuân thủ của người nộp thuế ngày càng đựơc cải thiện, bởi họ hiểu rõ
quyền, lợi ích và trách nhiệm của mình khi tham gia vào hoạt động sản xuất
kinh doanh. Điều này ảnh hưởng lớn tới hiệu qủa các cuộc thanh tra thuế.
Ngược lại, cũng vì sự hiểu biết về pháp luật thuế mà khả năng, thủ đoạn trốn,
tránh thuế của người nộp thuế ngày càng tinh vi, phức tạp hơn, gây khó khăn
cho cán bộ thanh tra thuế trong việc phát hiện ra các gian lận, giảm hiệu qủa


20
thanh tra thuế.
1.3.2. Mô hình quản lý thuế
Thuế là một phạm trù kinh tế khách quan đồng thời cũng là một phạm
trù lịch sử, thuế xuất hiện tồn tại cùng với sự hình thành và tồn tại của nhà
nước, với sự phát triển của kinh tế hàng hoá, tiền tệ. Thuế luôn gắn chặt với
sự phát triển của nhà nước, sự thay đổi hình thái tổ chức nhà nước luôn kéo
theo sự cải biến của hệ thống thuế. Để có thể huy động đầy đủ, kịp thời nguồn
thu từ thuế vào ngân sách đáp ứng cho các nhu cầu chi tiêu cần thiết, Nhà
nước phải tổ chức việc quản lý thuế.

Quản lý thuế là hoạt động quản lý của Nhà nước mà cơ quan thuế là đại
diện, thông qua việc tổ chức, điều hành bộ máy ngành thuế, thực hiện hệ
thống chính sách pháp luật thuế và hệ thống các quy trình quản lý thu để động
viên một phần thu nhập từ lao động, của cải, vốn, từ việc tiêu dùng hàng hoá,
dịch vụ và từ việc lưu giữ, chuyển dịch tài sản của các thể nhân và pháp nhân
vào NSNN nhằm trang trải cho các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
Quản lý thuế được thực hiện theo những mô hình quản lý nhất định. Lịch
sử quản lý thuế cho thấy có 3 mô hình quản lý thuế cơ bản: Mô hình quản lý
theo sắc thuế; Mô hình quản lý theo chức năng và Mô hình quản lý thu theo
DN. Mỗi mô hình có những ảnh hưởng khác nhau đến hiệu quả công tác
thanh tra thuế.
- Mô hình quản lý theo sắc thuế
Đây là mô hình được “tổ chức sớm nhất” [37, tr.20] trong hoạt động
quản lý thuế, được các ngành thuế áp dụng dựa trên nguyên tắc “sắc thuế”.
Theo mô hình này, cơ quan thuế được tổ chức thành các bộ phận (phòng,
ban) riêng biệt để chuyên trách quản lý một sắc thuế cụ thể. Mỗi phòng, ban
thực hiện tất cả các chức năng, các nghiệp vụ để quản lý thu đối với một
hoặc một vài sắc thuế. Mô hình quản lý theo sắc thuế áp dụng có hiệu quả ở


21
cơ quan thuế Trung ương do nhiệm vụ của các cơ quan này là nghiên cứu,
ban hành chính sách chế độ thu. Mô hình này thích hợp đối với những nước
sử dụng các vấn đề nghiệp vụ cụ thể và quy trình quản lý khác nhau đối với
mỗi sắc thuế.
Mô hình này phát huy hiệu quả cao nhất trong từng trường hợp thanh
tra một sắc thuế của một doanh nghiệp bởi tính chuyên môn hóa theo sắc
thuế cao. Tuy nhiên, trong trường hợp thanh tra một doanh nghiệp nộp
nhiều sắc thuế khác nhau lại xảy ra hiện tượng chồng chéo về chức năng
thanh tra giữa các phòng ban. Ở bất kỳ phòng, ban nào cũng có các bộ

phận nghiệp vụ thực hiện các công việc như nhau, dẫn đến biên chế quản
lý lớn, làm cho chi phí quản lý thu tăng lên, chi phí tuân thủ cao… Trong
khi đó rủi ro thất thu thuế vẫn cao do các chức năng, nghiệp vụ quản lý
thuế được khép kín, độc lập trong một phòng, ban riêng biệt. Giữa các
phòng, ban trong cơ quan thuế không có sự liên kết nào nên hiện tượng
thông đồng để trốn thuế giữa DN và cán bộ thanh tra thuế khó phát hiện
nếu các thủ tục kiểm tra nội bộ thiếu chặt chẽ và việc kiểm tra không
được tổ chức thường xuyên. Đồng thơi, trình độ chuyên môn của cán bộ
thanh tra thuế không được toàn diện do kỹ năng của họ là một sắc thuế.
Do vậy, hiệu quả của công tác thanh tra thuế không cao.
- Mô hình quản lý thu theo chức năng
Theo mô hình này, bộ máy quản lý thuế được tổ chức theo các nhóm
chức năng, mỗi bộ phận thực hiện một công việc nghiệp vụ cụ thể có liên
quan đến tất cả các sắc thuế như: Bộ phận xử lý về kê khai, đăng ký thuế; Bộ
phận Tuyên truyền và hỗ trợ Người nộp thuế; Bộ phận Thanh tra thuế, Kiểm
tra thuế; Bộ phận thu nợ thuế…). Quản lý theo mô hình này cho phép cơ quan
thuế chuẩn hóa mạnh hơn về quy trình thủ tục làm việc đối với các loại thuế,
đơn giản hóa hệ thống tin học và giao tiếp với doanh nghiệp, đồng thời nâng


22
cao hiệu quả chung của ngành.
Mô hình này thích ứng với mọi sự thay đổi về DN và tạo sự kiểm tra,
giám sát chéo giữa các bộ phận khác nhau, hạn chế tiêu cực trong quá trình
quản lý thuế. Từ đó hạn chế tình hình gian lận thuế, thất thu thuế do sự
thông đồng giữa DN và cán bộ thuế làm công tác quản lý hay còn gọi là
“cán bộ chuyên quản”. Đồng thời khắc phục được sự trùng lắp về chức
năng thanh tra giữa các bộ phận theo mô hình quản lý thu theo sắc thuế và
góp phần nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ thanh tra
thuế. Tuy nhiên, do thông tin về DN bị phân tán nên khi cần thông tin đầy

đủ về DN để tiến hành thanh tra phải mất nhiều thời gian để tổng hợp thông
tin từ các phòng, ban chức năng khác nhau làm ảnh hưởng không nhỏ đến
kết quả thanh tra.
- Mô hình quản lý thu theo DN
Đây là mô hình đang được áp dụng tại một số nước phát triển. Theo
mô hình này, DN được phân loại để quản lý theo nhóm trên cơ sở đặc điểm
và mực độ tuân thủ pháp luật thuế của DN, hoặc phân theo quy mô DN. Do
đặc điểm và mức độ tuân thủ pháp luật thuế của mỗi nhóm DN là khác
nhau nên mỗi nhóm cũng có những rủi ro khác nhau về số thu. Để quản lý
hiệu quả những rủi ro này, cơ quan thuế cần phải phát triển và thực hiện
các chiến lược sao cho phù hợp với đặc tính và sự tuân thủ của từng nhóm
doanh nghiệp. Do đó, mỗi bộ phận trong cơ quan thuế sẽ chịu trách nhiệm
quản lý một hoặc vài nhóm đối tượng cụ thể. Các nhóm DN được phân chia
dựa trên cơ sở quy mô hoạt động, hình thức sở hữu, ngành kinh tế… Ví dụ:
Nhóm doanh nghiệp lớn, Nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa, Nhóm người làm
công ăn lương…
Áp dụng mô hình này, hiệu qủa công tác thanh tra mỗi nhóm DN khá
cao, do có sự chuyên môn hoá theo đối tượng, kết hợp với chuyên môn


×