Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Lý luận của các mác về tiền tệ vận dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (377.01 KB, 33 trang )

MỞ ĐẦU

Kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới nền kinh tế Việt Nam đã có những biến
chuyển quan trọng, từ một nền kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp
chuyển sang nền kinh tế hàng hóa dưới sự quản lý của Nhà nước. Quản lý Nhà
nước về kinh tế cũng có nhiều thay đổi đáng kể. Thông qua các chính sách kinh tế
vĩ mô đặc biệt là các chính sách về tài chính tiền tệ. Nhà nước đã quản lý nền kinh
tế một cách linh hoạt và chặt chẽ hơn. Đặc biệt là việc nước ta gia nhập WTO chắc
chắn sẽ tạo thêm nhiều cơ hội cho Việt Nam để tiếp tục tăng trưởng kinh tế
nhanh và giảm nghèo bền vững trong những năm tới. Triển vọng về quyền làm
thành viên đã khuyến khích tăng mạnh đầu tư gián tiếp nước ngoài góp thêm vào
sự bùng nổ đang diễn ra của thị trường chứng khoán mới nổi tại Việt Nam.
Việc vận dụng các lí luận về tiền tệ vào nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam là rất cần
thiết trong tình hình kinh tế hiện nay, cụ thể là lí luận về tiền tệ của Các Mác. Với
đặc điểm của nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam, việc lựa chọn các công cụ nào sử
dụng chúng ra sao trong những giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế
luôn là một vấn đề cần thường xuyên theo dõi, quan tâm với các nhà hoạch định
và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia. Vì vậy việc nghiên cứu và hiểu rõ những
lí luận tiền tệ là một điều hết sức cần thiết giúp thúc đẩy phát triển và ổn định cho
nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam.
Bằng phương pháp phân tích tổng hợp kết hợp với những phương pháp khác đề
tài Lý luận về tiền tệ của Các Mác và sự vận dụng lý luận vào nền kinh tế hàng hóa
ở Việt Nam đã được hệ thống hóa, phân tích một cách khách quan. Giúp hiểu rõ
hơn lí luận của Các Mác về tiền tệ, các hình thái giá trị và bản chất của nó. Đặc
biệt là sự vận dụng lí luận vào nền kinh tế hàng hóa thông qua các công cụ chính
sách tiền tệ, đồng thời đi sâu tìm hiểu một số biện pháp khắc phục những hạn chế
của việc vận dụng lý luận này.
Đề tài được kết cấu như sau :
Chương I: Lý luận của Các Mác về tiền tệ
I. lịch sử ra đời và bản chất của tiền tệ
1. Sự phát triển của các hình thái giá trị


2. Bản chất của tiền tệ
II. Chức năng của tiền tệ


1. Chức năng
- Thước đo giá trị
- Phương tiện lưu thông
- Phương tiện cất trữ
- Phương tiện thanh toán
- Tiền tệ thế giới
2. Công cụ điều tiết





Công cụ nghiệp vụ thị trường
Công cụ dự trữ bắt buộc
Công cụ lãi suất
Quản lý hạn mức tín dụng

3. Quy luật lưu thông tiền tệ và vấn đề lạm phát




Nội dụng quy luật
Vai trò của quy luật
Lạm phát


Chương II. SỰ VẬN DỤNG LÝ LUẬN NÀY VÀO NỀN KINH TẾ HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM
1. Sơ lược về tình hình phát triển của nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam hiện nay
2. Sự vận dụng lý luận của Các Mác vào nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam
2.1. Vận dụng vào chính sách giá cả ở Việt Nam
2.2. Vận dụng vào chính sách lãi suất ở Việt Nam
2.3. Vận dụng vào chính sách tiền lương ở Việt Nam
2 4 Vận dụng vào chính sách điều tiết lưu thông
3.Mục tiêu





Hạn chế lạm phát
Thay đổi phương thức thanh toán
Tạo việc làm
Thúc đấy tăng trưởng kinh tế


= > Mối quan hệ giữa các mục tiêu
4. Một số giải pháp khắc phục hạn chế
4.1. Giải pháp vi mô ( Chính phủ)
4.2. Giải pháp các thành phần kinh tế khác ở Việt Nam
= > Đánh giá chung về việc vận dụng lí luận của Các Mác vào nền kinh tế hàng hóa
ở Việt Nam
(Lê Thị Kim Dung) - Chương I : Lý luận của Các Mác về tiền tệ
I.Sự ra đời và bản chất của tiền tệ
1.Sự phát triển của các hình thái giá trị
Sự phát triển của các hình thái giá trị trong nền kinh tế hàng hoá được biểu hiện
thông qua 4 hình thái cụ thể:

1. Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên:
Đây là hình thái phôi thai của giá trị, nó xuất hiện trong giai đoạn đầu của trao đổi
hàng hoá, khi trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên, người ta trao đổi trực tiếp vật
này lấy vật khác
VD: 1m vải= 10kg thóc
- Tuy là hình thái đơn giản nhưng bản thân nó lại không đơn giả, lại bao gồm hai
hình thái:hình thái tương đối và hình thái ngang giá. Hai hình thái này là hai mặt
liên quan với nhau, không thể tách rời nhau đồng thời là hai cực đối lập của một
phương trình giá trị.Trong hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên thì tỉ lệ trao
đổi chưa cố định
- Hình thái giản đơn , giá trị của một hàng hóa chỉ được phát hiện ở một hàng hoá
nhất định khácvới nó, chứ không biểu hiện ở mọ hàng hoá khác
2. Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng
- Khi lực lượng sản xuất phát triển hơn , sau phân công lao động xã hội lần thứ
nhất , chăn nuôi tách khỏi trồng trọt trao đổi trở lên thường xuyên hơn, một hàng
hoá này có thể quan hệ với nhiều hàng hoá khác.
VD: 1m vải =10kg thóc hoặ 2 con gà, hoặc 0,1 chỉ vàng
Đây là sự mở rộng hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên.Tuy nhiên đây vẫn là


trao đổi trực tiếp tỉ lệ trao đổi chưa cố định.
3. Hình thái chung cảu giá trị
Với sự phát triển cao hơn nữa lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội,
hàng hoá được đưa ra trao đổi thường xuyên đa dạng và nhiều hơn.Nhu cầu trao
đổi do đó trở nên phức tạp hơn, vì thees việc trao đổi trực tiếp không còn thích
hợp và gây trở ngại cho trao đổ.Trong tình hình đó người ta phải đi con đường
vòng, mang hàng hoá của mình đổi lấy thứ hàng hoá được nhiều người ưu chuộn,
rồi đem hàng hoá đổi lấy thứ hàng hoá mà mình cần khi vật trung gian trong đó
trao đổi được cố định lại thì ở thứ hàng hoá được nhiều người ưu chuộng thì hình
thái chung của giá trị xuất hiện.

VD: 10 kg thóc hoặc 1 con gà, hoặc 0,1 chỉ vàng = 1 m vải
4. Hình thái tiền tệ
Khi lực lượng và phân công lao đông xã hội phát triển hơn nữa, snả xuất hàng hoá
và thị trường ngày càng mở rộng thì tình trạng có nhiểu vật ngang giá chung làm
cho:trao đổi giữa các địa phương vấp phải khó khăn.do đó dẫn đến đòi hỏi khách
quan phải hình thành vật ngang giá chung thống nhất.Khi vật ngang giá chung
được cố định lại ở một vật độc tôn và phổ biến thì xuất hiện hình thái tiền tệ của
giá trị
VD: 10 kg thóc hoặc 1m vải hoặc 2 con gà= 1 chỉ vàng
Tiền tệ xuất hiện là kết quả phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hoá,
khi tiền tệ ra đời thì thế giới hàng hoá được phân thành hai cực :một bên là các
hàng hoá thông thường, một bên là hàng hoá đóng vai trò tiền tệ.Đến đây giá trị
các hàng hoá đã có một phương tiện biểu hiện thống nhất , tỷ lệ trao đổ được cố
định lại.
(Nguyễn Thị Phương Anh) - 2, Bản chất của tiền tệ.

Tiền tệ là hình thái giá trị của hàng hóa, là sản phẩm của quá trình
phát triển sản xuất và tảo đổi hàng hóa. Các nhà kinh tế trước C.Mác
giải thích tiền tệ như hình thái phát triển cao nhất của nó, bởi vậy đã
không làm rõ được bản chất của tiền tệ. Trái lại, C.Mác nghiên cứu tiền
tệ từ lịch sử phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa, từ sự phát triển


của các hinh thái giá trị hàng hóa, do đó đã tìm thấy nguồn gốc và bản
chất của tiền tệ.
Tiền tệ là hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung
thống nhất cho các hàng hóa khác, nó thể hiện lao động xã hội và biểu
hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa.
Sự xuất hiện của tiền tệ làm thế giới hàng hóa được chia làm hai cực.
Một cực là những hàng hóa thông thường. Cực khác là hàng hóa đóng

vai trò tiền tệ, đại biểu cho giá trị.
Bản chất của tiền tệ còn được bộc lộ bởi 5 chức năng của tiền tệ.
(Phan Thị Diễm) - II.Chức năng của tiền tệ
1.Chức năng :
- Thước đo giá trị. Tiền tệ dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng
hoá.Muốn đo lường giá trị của các hàng hoá, bản thân tiền tệ phải có giá trị. Vì
vậy, tiền tệ làm chức năng thước đo giá trị phải là tiền vàng. Để đo lường giá trị
hàng hoá không cần thiết phải là tiền mặt mà chỉ cần so sánh với lượng vàng
nào đó một cách tưởng tượng.
Sở dĩ có thể làm được như vậy, vì giữa giá trị của vàng và giá trị của hàng hoá
trong thực tế đã có một tỷ lệ nhất định. Cơ sở của tỷ lệ đó là thời gian lao động
xã hội cần thiết hao phí để sản xuất ra hàng hoá đó. Giá trị hàng hoá được biểu
hiện bằng tiền gọi là giá cả hàng hoá. Do đó, giá cả là hình thức biểu hiện bằng
tiền của giá trị hàng hoá. Giá cả hàng hoá do các yếu tố sau đây quyết định:
+ Giá trị hàng hoá.
+ Giá trị của tiền.
+ ảnh hưởng của quan hệ cung - cầu hàng hoá.
Để làm chức năng thước đo giá trị thì bản thân tiền tệ cũng phải được đo lường.
Do đó, phải có đơn vị đo lường tiền tệ. Đơn vị đó là một trọng lượng nhất định
của kim loại dùng làm tiền tệ. ở mỗi nước, đơn vị tiền tệ này có tên gọi khác
nhau. Đơn vị tiền tệ và các phần chia nhỏ của nó là tiêu chuẩn giá cả. Tác dụng
của tiền khi dùng làm tiêu chuẩn giá cả không giống với tác dụng của nó khi
dùng làm thước đo giá trị.
Là thước đo giá trị, tiền tệ đo lường giá trị của các hàng hoá khác; là tiêu chuẩn


giá cả, tiền tệ đo lường bản thân kim loại dùng làm tiền tệ. Giá trị của hàng hoá
tiền tệ thay đổi theo sự thay đổi của số lượng lao động cần thiết để sản xuất ra
hàng hoá đó. Giá trị hàng hoá tiền tệ (vàng) thay đổi không ảnh hưởng gì đến
"chức năng" tiêu chuẩn giá cả của nó, mặc dù giá trị của vàng thay đổi như thế

nào.
Ví dụ: một USD vẫn bằng 10 xen.
- Phương tiện lưu thông:
Với chức năng làm phương tiện lưu thông, tiền làm môi
giới trong quá trình trao đổi hàng hoá. Để làm chức năng lưu thông hàng hoá ta
phải có tiền mặt. Trao đổi hàng hoá lấy tiền làm môi giới gọi là lưu thông hàng
hoá.
Công thức lưu thông hàng hoá là: H- T - H, khi tiền làm môi giới trong trao đổi
hàng hoá đã làm cho hành vi bán và hành vi mua có thể tách rời nhau cả về thời
gian và không gian. Sự không nhất trí giữa mua và bán chứa đựng mầm mống
của khủng hoảng kinh tế.
Trong lưu thông, lúc đầu tiền tệ xuất hiện dưới hình thức vàng thoi, bạc nén.
Dần dần nó được thay thế bằng tiền đúc. Trong quá trình lưu thông, tiền đúc bị
hao mòn dần và mất một phần giá trị của nó. Nhưng nó vẫn được xã hội chấp
nhận như tiền đúc đủ giá trị.
Như vậy, giá trị thực của tiền tách rời giá trị danh nghĩa của nó. Sở dĩ có tình
trạng này vì tiền làm phương tiện lưu thông chỉ đóng vai trò chốc lát. Người ta
đổi hàng lấy tiền rồi lại dùng nó để mua hàng mà mình cần. Làm phương tiện
lưu thông, tiền không nhất thiết phải có đủ giá trị. Lợi dụng tình hình đó, khi đúc
tiền nhà nước tìm cách giảm bớt hàm lượng kim loại của đơn vị tiền tệ. Giá trị
thực của tiền đúc ngày càng thấp so với giá trị danh nghĩa của nó. Thực tiễn đó
dẫn đến sự ra đời của tiền giấy. Bản thân tiền giấy không có giá trị mà chỉ là
dấu hiệu của giá trị và được công nhận trong phạm vi quốc gia.
(Bùi Thị Hồng Liên) -Phương tiện cất trữ:. Làm phương tiện cất trữ, tức là tiền
được rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ. Sở dĩ tiền làm được chức năng này là vì:
tiền là đại biểu cho của cải xã hội dưới hình thái giá trị, nên cất trữ tiền là một hình
thức cất trữ của cải. Để làm chức năng phương tiện cất trữ, tiền phải có đủ giá trị,
tức là tiền vàng, bạc. Chức năng cất trữ làm cho tiền trong lưu thông thích ứng một
cách tự phát với nhu cầu tiền cần thiết cho lưu thông. Nếu sản xuất tăng, lượng



hàng hoá nhiều thì tiền cất trữ được đưa vào lưu thông. Ngược lại, nếu sản xuất
giảm, lượng hàng hoá lại ít thì một phần tiền vàng rút khỏi lưu thông đi vào cất
trữ.
- Phương tiện thanh toán: Làm phương tiện thanh toán, tiền được dùng để trả nợ,
nộp thuế, trả tiền mua chịu hàng ... Khi sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển
đến trình độ nào đó tất yếu nảy sinh việc mua bán chịu. Trong hình thức giao dịch
này trước tiên tiền làm chức năng thước đo giá trị để định giá cả hàng hoá. Nhưng
vì là mua bán chịu nên đến kỳ hạn tiền mới được đưa vào lưu thông để làm phương
tiện thanh toán. Sự phát triển của quan hệ mua bán chịu này một mặt tạo khả năng
trả nợ bằng cách thanh toán khấu trừ lẫn nhau không dùng tiền mặt. Mặt khác,
trong việc mua bán chịu người mua trở thành con nợ, người bán trở thành chủ nợ.
Khi hệ thống chủ nợ và con nợ phát triển rộng rãi, đến kỳ thanh toán, nếu một khâu
nào đó không thanh toán được sẽ gây khó khăn cho các khâu khác, phá vỡ hệ
thống, khả năng khủng hoảng kinh tế tăng lên.Trong quá trình thực hiện chức năng
phương tiện thanh toán,ngày càng xuất hiện nhiều hơn các hình thức thanh toán
mới ko cần tiền mặt như ký sổ séc,chuyến khoản,ví điện tử….
- Tiền tệ thế giới: Khi trao đổi hàng hoá vượt khỏi biên giới quốc gia thì tiền làm
chức năng tiền tệ thế giới. Với chức năng này, tiền phải có đủ giá trị, phải trở lại
hình thái ban đầu của nó là vàng. Trong chức năng này, vàng được dùng làm
phương tiện mua bán hàng, phương tiện thanh toán quốc tế và biểu hiện của cải nói
chung của xã hội.
Trong giai đoạn đầu sự hình thành quan hệ kinh tế quốc tế,đồng tiền đóng vai trò là
tiền thế giới là tiền thật(vàng ,bạc). Sau này song song với chế độ thanh toán bằng
tiền thật,tiền giấy được bảo lãnh bằng vàng,gọi là tiền giấy bản vị,cũng đc dùng
làm phương tiện thanh toán quốc tế.Dần dần do sự phát triển cua quan hệ kinh tếchính trị thế giới,chế độ tiền giấy bản vị vàng bị xóa bỏ nên một số đồng tiền quốc
tế,mặc dù phạm vi và mức độ thông dụng có khác nhau.Nền kinh tết của một số
nước càng phát triển đặc biệt trong quan hệ kinh tế đối ngoại,thì khả năng chuyển
đổi của đồng tiền quốc gia đó càng cao,Những đồng tiền được sử dụng làm phương
tiên thanh toán quốc tế ở phạm vi và mức độ thông dụng nhất định gọi là những

đồng tiền có khả năng chuyển đổi.
Việc chuyển đổi tiền của nước này ra tiền của nước khác được tiến hành theo tỷ giá
hối đoái.Đó là giá trị 1 đồng tiền của nước này được tính bằng đồng tiền của nước
khác.
(Đỗ Thị Hương Giang) - 2.Công cụ được sử dụng để điều tiết nền kinh tế
hàng hóa ở Việt Nam


a. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở
Là hoạt động Ngân hàng Trung ương mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị
trường tiền tệ điều hòa cung cầu về giấy tờ có giá gây ảnh hưởng đến khối lượng
dự trữ của các Ngân hàng thương mại dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền
tệ.




Ưu điểm: Do vận dụng tính linh hoạt của thị trường nên đây được coi là một
công cụ rất năng động, hiệu quả, chính xác vì khối lượng chứng khoán mua
(bán ) tỉ lệ với quy mô lượng tiền cung ứng cần điều chỉnh ít tốn kém về chi
phí dễ đảo ngược tình thế .
Nhược điểm: Vì được thực hiện thông qua quan hệ trao đổi nên nó còn phụ
thuộc vào các chủ thể tham gia trên thị trường và mặt khác để công cụ này
hiệu quả thì cần phải có sự phát triểm đồng bộ của thị trường tiền tệ thị
trường vốn.

b. Công cụ dự trữ bắt buộc
NHTW quy định NHTM phải duy trì một lượng tiền dụ trữ bắt buộc gửi tại NHTW
mà không được dùng để đầu tư hay cho vay và thông thường được tính theo một
tỷ lệ nhất định trên tổng số tiền gửi của khách hàng để đảm bảo khả năng thanh

toán và đảm bảo sự ổn định ủa hệ thống Ngân hàng .
Cơ chế tác động: Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởn g trực tiếp đến số
nhân tiền tệ trong cơ chế tạo tiền của các NHTM. Mặt khác khi giảm hoặc tăng tỷ
lệ dự trữ bắt buộc thì khả năng cho vay của các NHTM giảm hoặc tăng làm cho lãi
suất cho vay tăng (giảm)từ đó làm cho lượng cung ứng tiền giảm (tăng).




Ưu điểm: Đây là công cụ mang nặng tính quản lý của Nhà nước nên giúp
NHTW chủ động trong việc điều chỉnh lượng tiền cung ứng và tác động của
nó cũng rất mạnh ( chỉ cần thay đổi lượng nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc là ảnh
hưởng tới một lượng rất lớn mức cung tiền ).
Nhược điểm: Tính linh hoạt của nó không cao vì việc tổ chức thực hiện nó
rất chậm, phức tạp, tốn kém và nó có thể ảnh hưởng không tốt tới hoạt động
kinh doanh của các NHTM.

c. Công cụ lãi suất
Đây là hoạt đông mà NHTW thực hiện cho vay ngắn hạn đối với các NHTM thông
qua nghiệp vụ tái chiết khấu bằng việc điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu ( đối với
thương phiếu ) và hạn mức cho vay tái chiết khấu.


Cơ chế tác động: Khi NHTW tăng (giảm) lãi suất tái chiết khấu sẽ hạn chế (khuyến
khích)việc các NHTM vay tiền tại NHTW làm cho khả năng cho vay của các NHTM
giảm (tăng). Mặt khác khi NHTW muốn hạn chế NHTM vay chiết khấu của mình thì
thực hiện việc khép của sổ chiết khấu lại.Ngoài ra ở các nước có thị trường chưa
phát triển ( thương phiếu chưa phổ biến để có thể làm công cụ tái chiết khấu ) thì
NHTW còn thực hiện nghiệp vụ này thông qua việc cho vay tái cấp vốn ngắn hạn
đối với các NHTM.

Ưu điểm: Chính sách tái chiết khấu giúp NHTW thực hiện vai trò là người
cho vay cuối cùng đối với các nhtm khi các nhtm gặp khó khăn trong thanh
toán và có thể kiểm soát được hoạt động tín dụng của các nhtm đồng thời có
thể tác động tới việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư đối với nền kinh tế thông qua
việc ưu đãi tín dụng vào các lĩnh vực cụ thể.
• Nhược điểm: Hiệu quả của công cụ này còn phụ thuộc vào hoạt động cho
vay của các NHTM mặt khác mức lãi suất chiết khấu có thể làm méo mó sai
lệch thông tin về cung cầu vốn trên thị trường.
d.Quản lý hạn mức tín dụng


Là việc NHTW quy định tổng mức dư nợ của các NHTM không được vượt quá một
lượng hay một tỷ lệ tăng trưởng nào đó trong một thời gian nhất định ( thông
thường một năm)để thực hiện vai trò kiểm soát mức cung tiền của mình.
Cơ chế tác động: Đây là một công cụ điều chỉnh một cách trực tiếp đối với lượng
tiền cung ứng việc quy định pháp lý khối lượng hạn mức tín dụng cho nền kinh tế
có quan hệ thuận chiều với quy mô lượng tiền cung ứng theo mục tiêu của NHTM.




Ưu điểm: Giúp NHTW điều chỉnh kiểm soát được lượng tiền cung ứng khi
các công cụ gián tiếp kém hiệu quả đặc biệt tác dụng nhất thời của nó rất cao
trong những giai đoạn phát triển quá nóng tỷ lệ lạm phát quá cao của nền
kinh tế.
Nhược điểm. Có thể triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các NHTM làm giảm
hiệu quả phân bổ vốn trong nền kinh tế dể phát sinh nhiều hình thức tín dụng
ngoài sự kiểm soát của NHTW và nó sẽ trở nên quá kìm hãm khi nhu cầu
tính dụng cho việc phát triển kinh tế tăng lên.
( Thiều Quang Cường) - 3.Quy luật lưu thông tiền tệ và vấn đề lạm phát

a. Nội dung.


Xác định lượng tiền cần thiết cho lưu thông của mỗi quốc gia trong từng thời
kì .
Giữa các quốc gia số lưọng các phương tiện là tiền không giống nhau .ĐIều
này hoàn toàn phụ thuộc vào quy chế tài chính và sự tiến bộ của công nghệ ngân
hàng ở mỗi qúôc gia.Còn tổng khối lượng các phương tiện được coi như tiền là bao
nhiêu thì khó xác định chính xác ,như các tác nhân phát hành ,chế độ và phương
thức sử dụng phương tiện lưu thông , không gian và thời gian nghiên cứu , phương
pháp thống kê v v…từ căn cứ thực tế này định nghĩa về khối lượng tiền trong lưu
thông được nêu ra như sau:khối lượng tiền trong lưu thông là chỉ tất cả các phương
tiện được chấp nhận làm trung gian trao đổi với mọi hàng hoá và dịch vụ tại một
thị trường nhất định và trong một thời gian nhất định .
*Cung ứng tiền cho lưu thông .
-Ngân hàng phát hành là tác nhân cung ứng tiền trực tiếp và quan trọng nhất
cho lưu thông . ngân hàng phát hành cung ứng tiền cho lưu thông qua các nghiệp
vụ chủ yếu sau:
Tái chiết khấu các thương phiếu ,các chứng chỉ, tiền gửi và các chứng từ có
giá khác của ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng .
Tái cầm cố các thương phiếu , các chứng chỉ tiền gửi và các chứng từ có giá
khác của các ngân hàng thương mại .
-Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng.
Những tổ chức này cung ứng tiền cho lưu thông bằng cách:
+Cho khách hàng vay quá nguồn vốn của mình.
Nguồn vốn của ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng là một lượng
có hạn.Nhưng có nhiều trường hợp cá tổ chức này đã cho khách hàng vay quá
nguồn vốn hiện có.Số cho vay vượt mức trên là số tiền không có thực do ngân
hàng thương mại và các tổ chức tín dung tạo ra.
+Cho khách hàng “thấu chi”,thể hiện:Xử lí chứng từ thanh toán cho khách

hàng bằng cách ghi “có” trước và ghi “nợ” sau.
Cho khách hàng phát hành séc quá số dư tiền gửi trên tài khoản của họ.
Những nghiệp vụ này gọi là nghiệp vụ tạo tiền của ngân hàng thương mại.Tuỳ
theo quy chế tài chính cảu nhà nước và nghiệp vụ kiểm tra của ngân hàng trung
ương,mà nghiệp vụ này sẽ được thực hiện đến mức độ nào đó,hoặc bị ngăn
cấm,nghiệp vụ này vẫn diễn ra và một lượng tiền nào đó vẫn được tạo ra trong lưu
thông.Tuy bước đầu chúng chỉ tồn tại dưới dạng bút tệ,nhưng chúng sẽ phát huy
chức năng phương tiện thanh toán như những đồng tiền thực sự.Đồng thời trong
một thời gian ngắn chúng có thể chuyển hoá hểt thành những phương tiện chuyển
tảI giá trị khác nhau.
-Các tác nhân và tổ chức phi ngân hàng cũng cung cấp cho nền kinh tế quốc
dân những phưong tiện truyền tải giá trị như :thương phiếu ,tín phiếu kho bạc
,công trái ,trái khoán công ty vv…


*Nhu cầu tiền trong lưu thông .
Số tiền do các tác nhân và thể nhân giữ lại vì một mục đích nào đó hợp thành
tổng cầu tiền .Về mặt kinh tế tiền giữ lại không sinh lời .Thời gian giữ lai càng lâu,
lợi tức mất đi càng lớn ,nó trái ngược với đầu tư .Do đó,các tác nhân và thể nhân
chỉ giữ lại tiền khi có một khoản lợi ích nào đó bù đắp vào lợi tức bị mất ở trên .
b.Vai trò.
Giúp cho chính phủ căn cứ để phát hiện cần thiết cho lưu thông .
Giúp cho hệ thống ngân hàng nhà nước và kinh doanh điều hoà lưu thông
tiền tệ khống chế kiểm soát lạm phát củng cố sức mua để đồng tiền chuyển đổi .
Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng ngày một vững bền .Thúc
đẩy tăng trưởng và cải thiện vật chất .
c. Lạm phát .
 Khái niệm :
Là hiện tượng kinh tế xuất hiện khi lượng tiền phát hành vượt quá nhu cầu lưu
thông mà nhà nước không đIều chỉnh để kéo dài dẫn dến giá cả tăng đột biến .

 Phân loại :3 loại
-Lạm phát vừa phải :là lạm phát khi giá cả hàng hoá tăng chậm ở mức “một
con số”. Tổng tỉ lệ lạm phát cả năm dưới 10%.
Lạm phát này thường thấy ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển
.Nguyên nhân của loại lạm phát này thường là do :
+ Hiện tượng kinh tế tự nhiên .
+ Nhà nước duy trì lạm phát này với mục đích riêng của mình .
- Lạm phát phi mã :là làm phát xảy ra khi giá cả hàng hoá bắt đầu tăng với tỉ
lệ hai hoặc ba con số .nghĩa là mức độ 20%,100%hoặc 200% năm .
Thông thường thì loại lạm phát phi mã ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế .
-Siêu lạm phát là loai lạm phát khi giá cả hàng hoá tăng gấp nhiều lần lạm
phát phi mã .
 Nguyên nhân .
-Tốc độ gia tăng sản xuất chậm hơn tốc độ gia tăng tiền .
-Do chiến tranh thiên tai đột biến ảnh hưởng nghiêm trọng đến cơ sở hạ tầng .
-Do khủng hoảng hệ thống chính trị làm cho việc điều hành sản xuất không
được quan tâm .Nhưng quan trọng hơn là đồng tiền không được tín nhiệm
 Hậu quả.
-Sức mua đồng tiền giảm
-Giá cả tăng vọt
-Đời sống người hưởng lương khó khăn.


( Khổng Kim Dung) - Chương II : Sự vận dụng lý luận về tiền tệ của Các Mác
vào nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam.
I.Sơ lược về tình hình phát triển của nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam
. Ở n ướ c ta, nh ững điều kiện chung của kinh tế hàng hoá v ẫn còn, n ền
kinh tế hàng hoá tồn tại là một tất yếu khách quan.
- Phân công lao động xã hội v ới t ư cách là c ơ s ở của trao đổi, chẳng
những không mất đi trái lại, ngày một phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều

sâu
- Sự chuyên môn hoá và h ợp tác háo lao động đã v ượt khỏi biên gi ới quốc
gia và ngày càng mang tính quốc tế.
-Trong nền kinh tế đã và đang tôn tại, nhiều hình th ức s ở h ữu khác nhau
về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động.
- Trình độ xã hội hoá sản xuất giữa các ngành, gi ữa các xí nghiệp trong
cùng một hình th ức s ở h ữu vẫn ch ưa đều nhau.
Trong điều kiện đó, giữa các doanh nghiệp còn có s ự tách biệt về kinh tế
nhất định. Việc hạch toán kinh doanh, phân phối và trao đổi còn cần thiết
phải thông qua hình thái hàng hoá tiền tệ để th ực hiện. Trên con đường đi
của lịch sử phát triển kinh tế hàng hoá ở các n ước xã hội chủ nghĩa đã
xuất hiện mô hình "kinh tế chỉ huy" hay mô hình hoá tập trung quan liêu
bao cấp. Mô hình này xét về mặt th ực chất có s ự xoá bỏ các thành phần
kinh tế với tư cách là c ơ s ở kinh tế đó quan hệ hàng hoá hay kinh tế thị
tr ườ ng. Ở n ướ c ta, Đảng và nhà n ướ c đã xác định ph ươ ng h ướ ng phát
triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định h ướng xã hội chủ ngh ĩa
vận động theo cơ chế thị tr ườ ng có s ự quản lý của nhà n ướ c. Tất nhiên,
kinh tế hàng hoá hay kinh tế thị tr ường bên cạnh mặt tích c ực là chủ yếu
vẫn còn những khuyết tật nhất định, không được lý t ưở ng hoá một chiều
trong quá trình tiếp tục m ở rộng và phát triển kinh tế hàng hoá. Ở n ước ta,
đã và đang từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ t ư bản
chủ nghĩa, xu hướ ng vận động và phát triển kinh tế hàng hoá gắn liền v ới
một số đặc điểm cụ thể Nền kinh tế n ướ c ta đang trong quá trình chuyển
biến từ nền kinh tế hàng hoá kém phát triển mang nặng tính t ự túc t ự cấp


sang nền kinh tế hàng hoá phát triển t ừ thấp đến cao. Điểm xuất phát của
đặc điểm này gắn liền với thực trạng kinh tế biểu hiện ở các mặt:
- Kết cấu hạ tầng vật chất và xã hội thấp kém.
-Trình độ cơ sở vật chất và công nghệ trong các doanh nghiệp lạc hậu,

không có khả năng cạnh tranh.
- Hầu như không có đội ngũ nhà doanh nghiệp có tầm c ỡ.
- Thu nhập của ng ườ i làm công ăn l ương và nông dân thấp kém, s ức mua
hàng hoá của xã hội và dân c ư thấp nên nhu cầu tăng chậm, dung l ượng
thị trườ ng trong nướ c còn hạn chế.
* Đặc điểm của kinh tế hàng hoá theo các khía cạnh sau:
- Nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần v ới nhiều hình th ức s ở h ữu khác
nhau; về tư liệu sản xuất là c ơ s ở kinh tế, gắn liền v ới t ự tồn tại và phát
triển kinh tế hàng hoá.
- Nền kinh tế nhiều thành phần là nguồn lực tổng h ợp to l ớn về nhiều mặt
có khả năng đưa nền kinh tế vượ t khỏi tình trạng thấp kém, đưa nền kinh
tế hàng hoá phát triển cả trong điều kiện vốn ngân sách nhà n ước còn hạn
hẹp.
- Nền kinh tế hàng hoá phát triển theo c ơ cấu kinh tế "m ở" gi ữa n ước ta
với các nướ c trên thế gi ới.
- Cơ cấu kinh tế "khép kính" th ườ ng gắn liền v ới nền kinh tế phong kiến
gắn với sản xuất nhỏ, với tình trạng "bế quan toả cảng", t ự cung t ự cấp,
quẩn quanh trong luỹ tre làng. S ự ra đời nền kinh tế hàng hóa T ư Bản chủ
nghĩa đã làm cho thị trườ ng dân tộc hoạt động trong s ự gắn bó v ới thị
trườ ng thế gi ới.
* Thực trạng phát triển kinh tế hàng hoá n ước ta trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế
- Là một nướ c nghèo trên thế gi ới, sau mấy chục năm bị chiến tranh tàn
phá, Việt Nam bắt đầu th ực hiện chuyển đổi t ừ c ơ chế kế hoạch hoá tập
trung sang cơ chế thị tr ườ ng, t ừ một nền kinh tế t ự túc nghèo nàn bắt đầu


mở cửa tiếp xúc v ới nền kinh tế thị tr ườ ng rộng l ớn đầy rẫy nh ững s ức ép,
khó khăn. Đứng trướ c xu thế phát triển tất yếu, nhận th ức được nh ững c ơ
hội và thách thức mà hội nhập đem lại, Việt Nam, một bộ phận của cộng

đồng quốc tế không thể khước từ hội nhập. Chỉ có hội nhập Việt Nam m ới
khai thác hết những nội lực sẵn có của mình để tạo ra nh ững thuận l ợi
phát triển kinh tế. Chính vì vậy mà đại hội Đảng VII của Đảng Cộng Sản
Việt Nam năm 1991 đã đề ra đường lối chiến l ượ c: “ Th ực hiện đa dạng
hoá, đa phươ ng hoá quan hệ quốc tế, m ở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại “.
Đến đại hội đảng VIII, nghị quyết TW4 đã đề ra nhiệm vụ: ” gi ữ v ững độc
lập tự chủ, đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn l ực t ừ bên ngoài, xây d ựng một
nền kinh tế mới, hội nhập v ới khu v ực và thế gi ới “.Hội nhập kinh tế quốc tế
góp phần mở rộng thị tr ườ ng xuất nhập khẩu của Việt Nam: Nội dung của
hội nhập là mở cửa thị trườ ng cho nhau, vì vậy, khi Việt Nam gia nhập các
tổ chức kinh tế quốc tế sẽ m ở rộng quan hệ bạn hàng. Cùng v ới việc được
hưở ng ưu đãi về thuế quan, xoá bỏ hàng rào phi thuế quan và các chế độ
đãi ngộ khác đã tạo điều kiện cho hàng hoá của Việt Nam thâm nhập thị
trườ ng thế gi ới. Chỉ tính trong phạm vi khu v ực mậu dịch t ự do ASEAN
(AFTA) kim ngạch xuất khẩu của ta sang các nướ c thành viên cũng đã
tăng đáng kể. Năm 1990, Việt Nam đã xuất khẩu sang ASEAN đạt 348,6
triệu USD, nhưng đến năm 1998 đạt 2349 triệu USD. Nếu th ực hiện đầy đủ
các cam kết trong AFTA thì đến năm 2006 hàng công nghiệp chế biến có
xuất xứ từ nướ c ta sẽ được tiêu thụ trên tất cả các thị tr ường các n ước
ASEAN. Nếu sau 2000 n ướ c ta gia nhập WTO thì sẽ được h ưởng ưu đãi
dành cho n ướ c đang phát triển theo quy chế tối huệ quốc trong quan hệ
với 132 nướ c thành viên của tổ ch ức này. Do vậy, hàng của ta sẽ xuất
khẩu vào các nướ c đó dễ dàng h ơn. Đối v ới các n ướ c EU cũng vậy, tiềm
năng mở rộng thị trườ ng hàng hoá Việt Nam tại các n ước đó là rất l ớn
-Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là c ơ hội để thị tr ường n ước ta được
mở rộng, điều này sẽ hấp dẫn các nhà đầu t ư. Hiện nay đã có trên 70
nướ c và vùng lãnh thổ có dự án đầu t ư vào Việt Nam, trong đó có nhều
công ty và tập đoàn l ớn, có công nghệ tiên tiến. Điều này góp phần làm
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nướ c theo h ướng công nghiệp, phát triển
lực lượ ng sản xuất và tạo nên công ăn việc làm. Tuy nhiên kể t ừ gi ữa năm

1997 đến nay, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, đầu t ư
trực tiếp nướ c ngoài vào n ướ c ta có h ướ ng suy giảm. Tuy vậy, kim ngạch


xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư n ước ngoài vẫn tăng
nhanh. Nếu như năm 1991 đạt 52 triệu USD thì năm 1997 là 1790 triệu
USD. Viện trợ phát triển ODA: Tiến hành bình th ường hoá quan hệ tài
chính của Việt Nam, các nướ c tài tr ợ và các thể chế tài chính tiền tệ quốc
tế đã tháo gỡ từ năm 1992 đã đem lại nh ững kết quả đáng khích lệ, góp
phần quan trọng vào việc xây d ựng và nâng cấp hệ thống c ơ s ở hạ tầng.
Tính đến 1999, tổng số vốn viện tr ợ phát triển cam kết đã đạt 13,04 tỉ USD.
Tuy nhiên, vấn đề quản lý và s ử dụng nguồn vốn ODA còn bộc lộ nhiều
yếu kém, nhất là tình trạng giải ngân chậm và việc nâng cao hiêu quả của
việc sử dụng nguồn vốn ODA
-Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho ta tiếp thu khoa
học công nghệ tiên tiến, đào tạo cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh. Các
kĩ thuật, công nghệ m ới có điều kiện du nhập vào n ước ta, đồng th ời tạo
cơ hội để chúng ta lựa chọn kĩ thuật, công nghệ n ước ngoài nhằm phát
triển năng lực kĩ thuật, công nghệ quốc gia.
- Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần không nhỏ vào công tác đào tạo
và bồi dưỡ ng đội ngũ cán bộ trong nhiều lĩnh v ực. Phần l ớn cán bộ khoa
học kĩ thuật, cán bộ quản lý, các nhà kinh doanh đã được đào tạo ở trong
và ngoài nướ c. Trong lĩnh v ực xuất khẩu lao động tính đến năm 1999 Việt
Nam đã đưa 7 vạn ngườ i đi lao động ở n ướ c ngoài.
- Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần duy trì hoà bình ổn định, tạo d ựng môi
trườ ng thuận lợi để phát triển kinh tế, nâng cao vị trí Việt Nam trên tr ường
quốc tế. Trướ c đây, Việt Nam chỉ có quan hệ chủ yếu v ới Liên Xô và các
nướ c Đông Âu, nay đã thiết lập được quan hệ ngoại giao v ới 166 quốc gia
trên thế giới . Chúng ta đã bình th ường hoá hoàn toàn quan hệ v ới Trung
Quốc và các quốc gia trong khu v ực Đông Nam á. .

- Hiện trạng nền kinh tế Việt Nam hiện nay: Việt Nam là một n ước có nền
kinh tế đang phát triển. Song chất l ượ ng tăng tr ưởng, hiệu quả sản xuất,
sức cạnh tranh của các sản phẩm, các doanh nghiệp và của nền kinh tế
còn thấp. Tình trạng phổ biến hiện nay là sản xuất còn mang tính t ự phát,
chưa bám sát nhu cầu thị trườ ng. Nhiều sản phẩm làm ra chất l ượng thấp,
giá thành cao nên giá trị gia tăng thấp, khả năng tiêu thụ sản phẩm khó


khăn, thậm chí có nhiều sản phẩm cung v ượ t quá cầu, hàng tồn kho l ớn.
Năng lực cạnh tranh hàng hoá, dịch vụ của n ước ta nói chung còn thấp do
trang thiết bị công nghệ của nhiều doanh nghiệp còn yếu kém, lạc hậu so
với thế giới từ 10 đến 30 năm, cộng thêm nh ững yếu kém về quản lý, môi
trườ ng đầu tư kinh doanh (thủ tục hành chính ch ưa thông thoáng, chính
phủ đầu tư quá cao so v ới các n ướ c trong khu v ực), hạn chế về cung cấp
thông tin xúc tiến th ươ ng mại. Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp
nhà nướ c chưa cao, tỉ lệ số doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ liên tục còn
nhiều thực trạng tài chính của nhiều doanh nghiệp th ực s ự đáng lo ngại

( Nguyễn Thị Tú Anh) - II.Sự vận dụng lý luận của Các Mác vào nền kinh tế hàng
hóa ở Việt Nam.
1. Vận dụng lí luận về tiền tệ của C.Mác vào chính sách giá cả ở Việt Nam
Kinh tế thị trường càng phát triển, thị trường càng sôi động, thì giá trị tiền tệ càng
có quan hệ chặt chẽ với nhau trong giá cả hàng hoá. Giá cả tiền tệ được thể hiện
ngay trong mỗi yếu tố hình thành nên giá trị hàng hoá.
Giả sử nhu cầu về tiền thực tế không thay đổi theo thời gian, một sự gia tăng mức
cung tiền danh nghĩa nhất định phải dẫn đến một lượng tăng tương đương trong
mức giá. Có thể nói, sự thay đổi trong mức cung tiền gây ra sự thay đổi về giá cả.
Sự thay đổi giá cả này phụ thuộc vào hai yếu tố sau đây:
Một là: sự tăng lượng cung tiền sẽ gây ra sự tăng giá.
Hai là; nếu có điều gì khác làm cho mức giá tăng lên và Chính phủ điều tiết

sự tăng giá này bằng cách in thêm tiền thì cả khối lượng tiền và giá cả sẽ lại tăng
thêm.
Trên thực tế, nếu như sự tăng lượng cung tiền danh nghĩa kéo theo sự thay đổi
tương ứng của tiền lương và giá cả thì điều đó sẽ dẫn đến hậu quả nguy hiểm đối
với nền kinh tế. Khi tiền lương danh nghĩa tăng nhanh, về cơ bản nó sẽ làm cho giá
tăng lên nhanh để đảm bảo mức cung tiền thực tế chỉ thay đổi một cách chậm chạp
tương ứng với những thay đổi về nhu cầu tiền tệ.
Sự tác động của yếu tố tiền tệ đến sự hình thành và vận động của giá thị trường là
hết sức sức phức tạp. Sự trình bày ở trên tuy đơn giản, song đã cho ta thấy được
mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa tiền tệ và giá cả. Do vậy, quản lý giá cả
không thể tách rời quản lý tiền tệ. Khi chưa có cơ chế quản lý đầy đủ để tiền tệ


thực hiện đúng chức năng của mình, thì vẫn chưa thể có được hệ thống giá cả
khách quan, đúng nghĩa với giá thị trường.
Từ sự phân tích trên, ta có thể thấy rằng:
a. Để quản lý giá thị trường thì không thể chỉ chú ý tới việc quản lý và điều
tiết thị trường hàng hoá, mà còn cần chú ý cả việc quản lý và điều tiết thị trường
tiền tệ. Trong thời gian tới, các chính sách, có chế và biện pháp để phát triển nhanh
thị trường tiền tệ sẽ có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển nền kinh tế của đất
nước.
Việc quản lý giá cả hàng hoá phải đặt trong mối quan hệ với việc quản lý giá cả
của đồng tiền trong nước (nội tệ). Giá cả của đồng tiền được thể hiện ở lãi suất tiền
gửi và tiền vay. Trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát cao và siêu lạm phát, để
thu hút tiền vào ngân hàng, Chính phủ thường quyết định lãi suất tiền gửi và tiền
vay phải cao hơn tỷ lệ lạm phát (tốc độ tăng giá) và phải chấp nhận lãi suất tiền
vay thấp hơn lãi suất tiền gửi. Trong điều kiện nền kinh tế phát triển bình thường,
hoặc tỷ lệ lạm phát thấp, lãi suất tín dụng phụ thuộc vào quan hệ cung - cầu trên thị
trường tiền tệ, song phải đảm bảo lãi suất cho vay lớn hơn lãi suất tiền gửi và lớn
hơn tốc độ tăng giá để doanh nghiệp vay tiền kinh doanh vẫn có lãi. Đó là biện

pháp rất quan trọng để giữ giá đồng tiền và giá cả hàng hoá.
Đồng thời để quản lý được giá hàng hoá, cần phải quản lý được giá của đồng ngoại
tệ (nhất là ngoại tệ mạnh). Trong nền kinh tế mở, không chỉ có đồng nội tệ mà còn
có đồng ngoại tệ. Ngoại tệ lưu thông vừa vớ tư cách là tiền tệ ( trong thanh toán
quốc tế), vừa với tư cách là một loại hàng hoá (trong nền kinh tế mở, vàng và đá
quý cũng có vai trò như ngoại tệ). Giá cả của vàng và ngoại tệ mạnh ảnh hưởng
nhiều tới giá cả của các hàng hoá khác. Vì việc xuất, nhập khẩu đòi hỏi phải sử
dụng trực tiếp ngoại tệ, nên giá cả của ngoại tệ ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động
xuất, nhập khẩu và giá cả các hàng hoá xuất, nhập khẩu...
b. Lượng tiền trong lưu thông và tốc độ vòng quay của đồng tiền quyết định
tổng cầu của toàn xã hội. Để quản lý được giá cả (kể cả giá cả tiền tệ), Chính phủ
cần tạo ra sự cân đối giữa tổng cầu và tổng cung. Nếu tổng cung chưa thay đổi, thì
sự sai lầm trong phát hành, đầu tư, v.v... dẫn đến tổng cầu tăng đột ngột sẽ làm cho
giá cả tăng đồng loạt và làm cho nền kinh tế lâm vào lạm phát.
Mặc dù giá thị trường được quyết định trực tiếp bởi người mua và người bán, song
bao giờ giá cả cũng phản ánh tổng hợp các quan hệ kinh tế, các lợi ích kinh tế.
Quản lý giá cả là quản lý các quan hệ đó và góp phần giải quyết các quan hệ đó.
Trong nền kinh tế mở, quan hệ giữa thị trường trong nước và thị trường thế giới là
một trong những mối quan hệ quan trọng nhất của cả nước. Do thị trường trong


nước và thị trường thế giới thâm nhập vào nhau, cho nên giá trên thị trường thế
giới sẽ tác động đến giá thị trường trong nước.Các biện pháp can thiệp của Chính
phủ để hạn chế bớt những tác động tiêu cực của giá thị trường thế giới đến giá thị
trường trong nước là cần thiết, song chỉ nên coi đó là các biện pháp nhất thời.
( Trần Thị Ngọc Anh) - 2.Vận dụng lí luận về tiền tệ của C.Mác vào chính sách
lãi suất
Chính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô c ực kì quan trọng của nhà n ước trong nền kinh tế thị
trườ ng vì nó có ảnh hưở ng lớn đến các biến cố như : công ăn việc làm, tốc độ tăng tr ưở ng, lạm phát ... Để đạt được
các mục tiêu của chính sách tiền tệ thì việc sử dụng các công cụ của nó có vai trò cơ bản, quyết định.

Hiện nay mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất của Việt Nam là ổn định giá cả đồng tiền quốc gia, thông qua việc
kiểm soát lạm phát. Trong đó lãi suất là một trong những công cụ điều hành chính sách tiền tệ của Ngân Hàng Trung
Ương để đạt được mục tiêu

 Laĩ suât́ vàchinh
́ sach
́ laĩ suât.
́
1, lãi suất
- Định nghĩa: khi sử dụng bất kì khoản tín dụng nào, ng ười vay cũng phải trả thêm một phần giá trị ngoài phần vốn
gốc vay phải trả để được sử dụng tiền không thuộc s ở h ữu của họ và là l ợi t ức ng ười cho vay có được đối v ới việc
trì hoãn chi tiêu.
- Ý nghĩa:
+ Lãi suất là giá cả tiền tệ --> liên quan đến lạm phát. Lãi suất bị tác động của chính sách tiền tệ --> là công cụ của
chính sách tiền tệ.
+ Lãi suất là công cụ so sánh ( quy đổi ) các dòng tín dụng ( đồng tiền ).
2 -Chính sách lãi suất
a, Cơ sở lí luận và thực hiện của chính sách lãi suất
- Dựa trên mối quan hệ giữa lãi suất và lạm phát
Về phươ ng diện lí thuyết, lãi suất danh nghĩa và lạm phát có mối quan hệ cùng chiều, khi lạm phát tăng thì lãi suất
danh nghĩa tăng để đảm bảo mức lãi suất thực được chấp nhận bởi các chủ thể trong nền kinh tế.
- Mối quan hệ giữa lãi suất và lạm phát được hình thành d ựa trên s ự ảnh h ưởng của lãi suất lên tổng cầu, và đó
cũng là điểm mấu chốt để sử dụng lãi suất trong việc quản lí kinh tế. Trong tổng cầu, có hai yếu tố sẽ chịu tác động
trực tiếp của việc thay đổi lãi suất là tiêu dùng và đẩy đủ. Lãi suất tăng -->tiêu dùng giảm ( do giá cả của việc vay
mượ n cho tiêu dùng đắt hơn). Đối với đầu tư, chí phi vay mượ n làm tăng khả năng sinh l ời của các khoản đầu tư tr ở
nên thấp hơn. Vì thế, việc tăng lãi suất cũng làm giảm mức độ đầu tư.
Chính vì mối quan hệ trên nên lãi suất đã tr ở thành công cụ được lựa chọn để kiểm soát lạm phát mục tiêu và kiểm
soát các kỳ vọng làm phát hữu hiệu, Cơ chếtruyên
̀


b, Thực trạng
Kể từ khi thực hiên chính sách cải cách và m ở cửa, chuyển nền kinh tế kế hoạc hóa sang hoạt động theo c ơ chế thị
trườ ng, toàn bộ hệ thống tổ chức và hoạt động của ngân hàng nhà n ước đã được đổi m ới sâu sắc và đã đạt được
những kết quả bướ c đầu đáng khích lệ. Nhiều đổi m ới toàn diện chính sách tiền tệ t ừ hoạc định đến chỉ đạo th ực
hiện, bằng việc sử dụng các tình thế mạnh dạn lúc đầu, đến sử dụng t ừng b ước có hiệu quả các công cụ của chính
sách tiền tệ, lạm phát bị đẩy lùi và kiểm soát ở mức thấp, yêu cầu ổn định tiền tệ bướ c đầu được thực hiện góp phần
thúc đẩy tăng trưở ng kinh tế, phục vụ phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướ ng xã hội chủ nghĩa. Để
có được kết quả đó, bản thân công tác hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ cũng trải qua không ít khó khăn,
không ngừng được đổi mới và hoàn thiện.

 Ưu vànhược điêm
̉ và giải pháp.
Lãi suất là công cụ điều tiết vĩ mô. Lãi suất tạo nên khoản chi phí của ng ười đi vay nên s ự biến động của
lãi suất có tác động đến sự tiêu dùng qua đó tác động đến mục tiêu của nền kinh tế vĩ mô.
Biểu hiện trong các trườ ng h ợp:
lãi suất thấp ( ưu điểm ) : kích thích đầu t ư, tiêu dùng, tăng tổng cầu, sản l ượng tăng, giá tăng, thất
nghiệp giảm, nội tệ có xu hướ ng giảm giá so v ới ngoại tệ.
- Lãi suất cao( nhượ c điểm) : Hạn chế đầu t ư, hạn chế tiêu dùng, giảm tổng cầu giảm giá, thất nghiệp
tăng nội tệ có xu hướ ng tăng giá so v ới ngoại tệ.
1, Ưu điểm
- Lãi suất chiết khấu hoặc lãi suất tái chiết khấu:


+ Áp dụng khi ngân hàng nhà n ước tái chiết khấu th ương phiếu, vai trò nh ư m ức lãi suất "sàn" trên th ị
trườ ng.
+ Tăng lãi suất khi chiết khấu sẽ thắt chặt tiền tệ, kiêm hạn chế lạm phát của ngân hàng trung ương các
quốc gia.
- Lãi suất tái cấp vốn: Có thể áp dụng v ới nhiều loại giấy t ờ có giá h ơn ( th ường cao h ơn lãi suất chiết
khấu) , có tác dụng chống làm phát ổn định tỉ giá.
- Lãi suất cơ bản: vai trò như một " tuần' lãi suất trong hoạt động kinh doanh của các tổ ch ức tin dụng =>

bảo vệ ngườ i đi vay trong trườ ng hợp lãi suất trên thị tr ường có xu h ướng tăng cao.
- Lãi suất ổn định:
+ Dự tính được chính xác số tiền lãi phải thanh toán cho ngân hàng trong suốt th ời gian vay, t ự đó tạo
thuận lợi trong việc hoạch định tài chính cũng như cân đối nguồn cho chính khách hàng.
+ Không bị tác động của lãi suất thị tr ường. Trường h ợp lãi suất thị tr ường thay đổi so v ới th ời điểm vay
thì khách hàng sẽ có lợi nhiều hơn vì số tiền mà khách hàng phải trả cho ngân hàng vẫn theo lãi suất cũ (
lãi suất cố định), thấp hơn so với lãi suất thị tr ường hiện tại.
Lãi suất thả nổi : Áp dụng lãi suất thả nổi sẽ phù h ợp h ơn trong điều kiện kinh tế thị tr ường có nhiều biến
động. Trong trường hợp lãi suất thị trường biến động giảm thì số tiền lãi khách hàng thanh toán cho ngân
hàng trong kì điều chỉnh sẽ thấp hơn.
=> Tăng lãi suất tác động tích cực đến tăng tr ườ ng, sức cạnh tranh của nền kinh tế và s ự an toàn của hệ
thống ngân hàng.
2, Nhượ c điểm
- Lãi suất chiết khấu hoặc lãi suất tái chiết khấu tăng cao sẽ hạn chế khả năng tiếp cận nguồn vốn của
các tổ chức tín dụng.
- Lãi suất trên thị trườ ng mở ( OMO ) : Mức chiết khấu quá cao: hạn chế độ hấp dẫn và khả năng của các
tổ chức tín dụng với việc mua bán các giấy tờ có giá.
- Lãi suất cố định trong trườ ng hợp lãi suất biến động giảm so v ới th ời điểm khách hàng vay vốn thì
khách hàng vẫn phải thanh toán lại ngân hàng theo lãi suất cũ ( lãi suất cố định trong h ợp đồng ) cao h ơn
lãi suất hiện tại của thị trườ ng.
- Lãi suất thả nổi : khách hàng chỉ có thể d ự tính được chính xác số tiền lãi phải thanh toán cho ngân
hàng trong kỳ đầu tiên, bắt đầu từ kì th ứ hai tr ở đi lãi suất thay đổi theo thị tr ường. Vì vậy, khách hàng sẽ
khó khăn trong việc chủ động về mặt tài chính. Trường h ợp lãi suất thị tr ường biến động tăng so v ới lãi
suất thời điểm vay vốn thì số tiền lãi khách hàng phải thanh toán cho ngân hàng nhiều h ơn ( vì phải điều
chỉnh mức lãi suất cao hơn).
3, giải pháp
- Cần xác định rõ các mục tiêu của từng giai đoạn phát triển kinh tế, l ựa chọn, xây d ựng và điều
hành hiệu quả hệ thống các công cụ chính sách lãi suất nhằm đạt được mục tiêu.
- Điều hành chính sách lãi suất của ngân hàng trung ương cần có tính độc lập, xác định rõ trách
nhiệm và thể hiện minh bạch, chính xác.

- Kích cầu thông qua công cụ lãi suất.
Ở Việt Nam, lãi suất được s ử dụng như công cụ chính của chính sách tiền tệ, nó là yếu tố đánh dấu s ự
chuyển biến từ cơ chế kinh tế hoạch hóa tập trung sang c ơ chế thị tr ường. Nó là công cụ quan trọng để
chuyển các ngân hàng sang cơ chế hạch toán kinh doanh. Lãi suất là công cụ được s ử dụng th ường
xuyên nhất trong điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam lãi suất không nhạy cảm lầm so v ới đầu t ư.
Trong nền kinh tế thị trườ ng, về mặt nguyên tắc lãi suất phải được hình thành trên c ơ s ở cung cầu vốn
trên thị trườ ng. Việc kiểm soát lãi suất của ngân hàng nhà n ước hiện nay là một kiểu can thiệp giả của
nhà nướ c. Nếu cứ như vậy thì sẽ là không phù h ợp trong t ương lai khi mà nền kinh tế thị tr ường của Việt
Nam phát triển toàn diện hơn.
Như vậy chính sách tiền tệ đặc biệt là các công cụ của nó có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị
trườ ng nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng. Việc s ử dụng các công cụ đó nh ư thế nào có ảnh
hưở ng rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế ở từng th ời điểm cụ thể.
Việc điểu chỉnh lãi suất cần linh hoạt gắn với thị tr ườ ng trên nguyên tắc đảm bảo l ợi ích ng ười g ửi tiền, tổ
chức tín dụng và ngườ i vay tiền tạo điều kiện tập trung tối đa các nguồn vốn để tạo s ự phát triển kinh
tế.Do vậy để điểu chỉnh lãi suất tiền gửi và tiền và một cách phù h ợp các tổ ch ức tín dụng phải căn c ứ
vào các nhân tố lợi nhuận bình quân của các doanh nghiệp, s ự biến đông của quan hệ cung cầu, v ốn
đầu tư, mức độ lạm phát và diễn biến lãi suất trên thị tr ường.
Ở Việt Nam dần trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị tr ường thì việc áp dụng các công cụ
chính sách tiền tệ luôn đòi hỏi phải có s ự phù h ợp. Trong nh ững năm đầu của th ời kì đổi m ới việc áp


dụng các công cụ điều tiết trực tiếp có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc kiểm chế làm phát thúc đẩy
tăng trưở ng kinh tế. Tuy vậy, th ời gian gần đây chúng ta đã bộc lộ rõ nh ững hạn chế khi nền kinh tế b ước
sang một giai đoạn phát triển m ới. Trong khi đó các công cụ điều chỉnh gián tiếp m ới được đưa vào s ử
dụng và chưa thực sự phát huy hết hoặc ch ưa thể hiện rõ vai trò của nó do nhiều nguyên nhân gắn v ới
thực lực của nền kinh tế.
Từ đó đòi hỏi chúng ta phải có những định hướ ng và giải pháp đúng trong việc th ực hiện các công cụ đó.
Để có được điều này, bên cạnh sự định hướng đúng đắn của Đảng và Nhà n ước, cần có s ự phát triển
đồng bộ về năng lực ngân hàng nhà n ước, hệ thống ngân hàng th ương mại và nhiều s ự phối h ợp đồng
bộ khác.

Do đó việc nghiên cứu tìm hiểu về công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam phải được coi là cả một quá
trình lâu dài và cần được tiếp tục phát triển.
Ngày nay mọi ngườ i đều nghĩ sự toàn cầu hóa nghĩa là nền tảng cho t ương lai. Toàn cầu hóa là xu
hướ ng không gì cưỡ ng lại nổi. Đứng tr ướ c xu thế đó đòi hỏi hệ thống ngân hàng cần phải được đổi m ới.
Điều này đặt ra không ít những khó khăn thách th ức đối v ới các nhà điều hành chính sách lãi suất là việc
thực hiện chính sách lãi suất v ừa phải gắn liền v ới chính sách tiền tệ, tín dụng, chính sách c ơ cấu. Chính
sách kinh tế phải đáp ứng nhu cầu tự do hóa lãi suất. T ự do hóa lãi suất là cái mốc cần đạt được thông
qua những bướ c đi phù hợp, trên tinh thần nhanh chóng khắc phục nh ững yếu kém, tích c ực chuẩn bị để
có thể tự do hóa trong th ời gian ngắn, tận dụng nh ững l ợi thế c ơ bản do t ự do hóa mang lại. Tất nhiên
một cuộc cải cách đều có những khó khăn riêng và thông th ường một cuộc cải cách th ực hiện nhanh và
triệt để nếu cái cách là do khủng hoảng thúc đẩy. Nh ưng nếu chúng ta trì hoãn đến khi khủng hoảng xảy
ra và gây sức ép mới tiến hành cải cách thì rất tốn kém. Do đó, năng l ực nhận biết một cuộc khủng
hoảng tiềm năng và tạo ra những cải cách thích h ợp là rất c ơ bản để giảm thiểu nh ững chi phí phải gánh
chịu. Yêu cầu mới của thực tiễn đòi hỏi ngân hàng nhà n ước không thể gi ữ nguyên cách điều hành lãi
suất như trướ c đây nhưng cũng không thể nôn nóng th ực hiện ngay c ơ chế điều hành lãi suất nh ư các
nướ c đã phát triển. Vì vậy, chính sách lãi suất trên nền kinh tế thị tr ường phải thay đổi theo t ừng giai
đoạn và yêu cầu kinh tế đặt ra trong mọi thời kì.

Nh ư vậy chính sách ti ền t ệ đặc bi ệt là các công c ụ c ủa nó có vai trò r ất
quan tr ọng trong n ền kinh t ế hàng hóa nói chung và n ền kinh t ế Vi ệt Nam
nói riêng. Việc s ử dụng các công c ụ đó nh ư th ế nào có ảnh h ưởng r ất l ớn
đến s ự phát tri ển c ủa n ền kinh t ế ở Vi ệt Nam
( Nguyễn Út Duyên) – 3 Vận dụng lý luận của Các Mác vào chính sách tiền lương ở
Việt Nam
Ở nước ta hiện nay việc nhận thức đúng đắn bản chất tiền công, các hình thức
tiền công để áp dụng và quản lý lao động trong các doanh nghiệp là vấn đề quan
trọng. Bởi vì tiền công là đòn bẩy kinh tế quan trọng kích thích các nhân tố tích
cực trong mỗi con người. Việc phát huy tài năng, sáng kiến, tinh thần trách nhiệm
và nhiệt tình của người lao động, tạo thành động lực quan trọng của việc phát
triển kinh tế. Hơn nữa lý luận tiền công có tầm quan trọng đặc biệt trong việc xác



định mức công của người lao động trong các hợp đồng xuất khẩu lao động tại chỗ
hoặc xuất khẩu lao động ra nước ngoài. Đồng thời nó còn là cơ sở kinh tế cho việc
điều chỉnh các vấn đề về quan hệ lao động của nhà nước.
a.Thực trạng tiền công của người lao động Việt Nam hiện nay
Trong những năm qua, công cuộc đổi mới kinh tế của nước ta đạt được nhiều
thành tựu trên mọi lĩnh vực, đặc biệt trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống
cho người lao động. Thực tế, mức lương tối thiểu vùng cao nhất hiện nay là 2,7
triệu đồng (vùng I) và thấp nhất là 1,9 triệu đồng (vùng IV) (xem thêm PHỤ LỤC 1),
đến năm 2015, mức lương tối thiểu vùng sẽ được tăng lên tương ứng 3,1 triệu
đồng (vùng I) và 2,2 triệu đồng (vùng IV); tuy nhên với mức lương này theo các
nghiên cứu thì chỉ mới đáp ứng được 75% mức sống tối thiểu. Khi tiền lương
không đủ trang trải cuộc sống, sức khỏe không bảo đảm, công nhân khó hoàn
thành định mức công việc trong 8h quy định. Về lâu dài, sẽ tạo ra lớp người nghèo
mới ảnh hưởng nghiêm trọng đến an sinh xã hội.
Có thể thấy chính sách tiền lương của nhà nước còn chậm đổi mới so với sự phát
triển chung của tình hình kinh tế - xã hội. Những hạn chế của chính sách tiền
lương thể hiện ở một số điểm sau:
Về mức lương tối thiểu: Theo số liệu của Bộ nội vụ, từ tháng 1/2003 đến nay đã 9
lần điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu chung, từ 210 nghìn đồng lên 1.150 nghìn
đồng/ tháng. Tính từ năm 2013, lương đã tăng 447,8%; cao hơn chỉ số giá tiêu
dùng CPI do Tổng cục Thống kê công bố là 186,8%. Tuy nhiên, mức lương
1.150.000 đồng/tháng chỉ đạt 50% bình quân mức lương tối thiểu vùng năm 2014
của khu vực Doanh nghiệp. Nếu căn cứ thực tế mức sống, mức lương tối thiểu
này không đủ để người lao động có thể sống được trong một tháng, nhất là ở
những thành phố lớn như Hà Nội hay Tp. Hồ Chí Minh khi lạm phát ngày càng đẩy
giá cả tiêu dùng leo thang chóng mặt. Mức lương tối thiểu thấp không bảo đảm
tái sản xuất giản đơn sức lao động của bản thân người lao động. Ở khối doanh
nghiệp ngoài quốc doanh, có nhiều thiệt thòi cho các lao động khi phía nước

ngoài sẽ không chấp nhận trả cao so với mức lương tối thiểu mà nhà nước quy
định.
Về thời gian và mức độ điều chỉnh tiền lương danh nghĩa: Ở nước ta, trong những
năm gần đây, tỷ lệ lạm phát hằng năm khá cao, vì thế, về nguyên tắc, để tiền
lương thực tế của người lao động không bị giảm cần phải điều chỉnh tăng mức
lương danh nghĩa ít nhất ngang bằng với tỷ lệ lạm phát. Tuy nhiên, trên thực tế,


việc điều chỉnh lương chưa được thực hiện kịp thời, không theo kịp với đà tăng
giá.
Về hệ số phụ cấp: Tiền lương có một chức năng cực kỳ quan trọng là điều tiết
quan hệ cung - cầu về sức lao động trong nền kinh tế thị trường. Hệ số phụ cấp
trong chính sách tiền lương ở nước ta hiện nay mới chỉ có loại phụ cấp tham gia
điều tiết cung - cầu sức lao động theo vùng là phụ cấp khu vực, phụ cấp thu hút,
phụ cấp đắt đỏ. Sự chênh lệch mức lương giữa lao động giản đơn và lao động
phức tạp chưa đủ để khuyến khích nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thậm chí
còn có tình trạng “chảy máu chất xám”.
Về tỷ lệ tiền lương trong thu nhập: Tiền lương chỉ trở thành động lực mạnh mẽ
thúc đẩy sự hoạt động tích cực của người lao động khi nó chiếm phần lớn trong
thu nhập của họ. Với chính sách tiền lương hiện hành, tiền lương của cán bộ công
nhân, viên chức hiện nay chỉ chiếm phần nhỏ trong tổng thu nhập của người
hưởng lương (khoảng 30%- 50%), làm cho tiền lương không phản ánh đúng thang
giá trị lao động, ảnh hưởng lớn tới quan hệ tiền lương trên thực tế.
b. Một số nguyên nhân dẫn đến hạn chế của thực trạng tiền công của người lao
động Việt Nam hiện nay
Hiện trạng bất cập trong chế độ tiền công, tiền lương ở nước ta hiện nay bắt
nguồn từ nhiều nguyên nhân. Một trong số đó là nhận thức chưa đầy đủ về tính
chất hàng hóa của sức lao động cũng như về bản chất của tiền lương. Mặc dù khi
chuyển sang nền kinh tế thị trường, chúng ta đã có những thay đổi lớn trong nhận
thức nhưng trên thực tế, việc cải cách tiền lương không đồng bộ với việc đổi mới

các lĩnh vực có liên quan nên kết quả không cao. Cải cách hành chính trong khu
vực nhà nước diễn ra chậm, đặc biệt việc tinh giảm biên chế còn thiếu cương
quyết. Tiền lương chưa thực sự được coi là đầu tư cho người lao động, đầu tư
cho nguồn nhân lực mà chỉ coi đó là một khoản chi cho tiêu dùng cá nhân. Khi tiến
hành cải cách tiền lương chưa có cơ chế để tạo nguồn mà chỉ nặng về cân đối
ngân sách. Vì thế khi xây dựng mức lương tối thiểu, nhà nước dường như bị ràng
buộc bởi sự eo hẹp của ngân sách nên thường đưa ra những mức giá tư liệu sinh
hoạt thấp xa so với mức thực tế. Trong quá trình thực hiện chính sách, chưa kết
hợp được việc cải cách hành chính và đổi mới phương thức hoạt động, cơ chế trả
lương cho các ngành sự nghiệp. Sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương
trong hoạch định và thực hiện chính sách còn hạn chế. Công tác quản lý tiền
lương và thu nhập cũng còn nhiều bất cập.


c. Một số phương hướng nâng cao tiền công, cải thiện đời sống người lao động
Để đảm bảo cho người lao động có cuộc sống ổn định ngoài những nhu cầu về vật
chất còn cần có nhu cầu về tinh thần. Nếu người lao động dùng tiền công của
mình để tiêu dùng, nhưng giá cả vật phẩm tiêu dùng tăng lên thì mức sống của họ
sẽ hạ xuống. Để khắc phục điều này cần phải tăng tiền công thực tế cho người lao
động theo một số phương hướng sau:
Thứ nhất: tăng tiền công danh nghĩa. Mặc dù tiền công danh nghĩa không phản
ánh đúng mức sống của người lao động nhưng muốn tăng tiền công thực tế trước
tiên cần tăng tiền công danh nghĩa. Bởi lẽ trong một thời gian nào đó, nếu tiền
công danh nghĩa vẫn giữ nguyên nhưng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ tăng lên
thì tiền công thực tế sẽ giảm xuống.
Thứ hai: Điều hoà cung- cầu để ổn định giá cả thị trường. Nếu như cung bằng cầu
thì giá cả mới ở mức hợp lí, người tiêu dùng có thể chấp nhận dễ dàng và người
sản xuất sẽ tái sản xuất nhanh.
Thứ ba: Chống lạm phát để giữ cho mức giá cả ổn định, để tiền công danh nghĩa
vẫn có thể mua được nhiều hàng hoá tiêu dùng. Khi lạm phát xuất hiện, giá tư liệu

tiêu dùng sẽ tăng lên, nếu mức công không tăng thì họ không thể mua được tư
liệu tiêu dùng, không đảm bảo được đời sống của chính mình.
Thứ tư: Thực hiện các chính sách thuế phù hợp với thu nhập người lao động. Hiện
nay nhà nước ta đã có từng mức thuế rõ ràng với thu nhâp người dân (xem
thêm PHỤ LỤC 2) và cũng đưa ra những đối tượng miễn giảm thuế. Đó là đối
tượng nộp thuế bị thiên tai, tai nạn làm thiệt hại đến tài sản và đời sống thì có
mức xét miễn giảm, giảm thuế tương ứng với mức độ thiệt hại nhưng không vượt
quá số thế phải nộp.
Tuy nhiên trong thời gian dài để ổn định, nâng cao đời sống người lao động bên
cạnh các biện pháp tăng tiền công thực tế trên, cần thực hiện các biện pháp tích
cực khác có giá trị lâu dài như: phát triển sản xuất hàng hóa, tăng năng suất lao
động xã hội. Bởi khi sản xuất được càng nhiều hàng hóa thì tiền công mà người
lao động được nhận sẽ mua được nhiều loại hàng hóa, đáp ứng nhu cầu cuộc
sống cho họ; còn khi năng suất lao động xã hội tăng thì thời gian lao động xã hội
cần thiết giảm đi và giá trị hàng hóa theo đó cũng giảm xuống phù hợp với mức
tiêu dùng của người lao động hơn.


( Vũ Tú Anh)- 4.Vận dụng lý luận của Các Mác vào chính sách điều tiết lưu
thông tiền tệ ở Việt Nam
Với những chính sách kinh tế mở vửa và chính sách đối ngoại rộng mở của nhà
nước, quan hệ đối ngoại ngày càng rộng mở, tạo ra các quan hệ đối ngoại về kinh
tế, chính trị, xã hội, nhất là quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ thế giới. Thu
nhập của người dân dần được cải thiện và không ngừng gia tăng.Việc sử dụng tiền
mặt trong lưu thông ngày một nhiều hơn so với thời kỳ bao cấp với sự tồn tại của
tem phiếu, làm cho lưu thông hàng hoá ách tắc. Đồng tiền Việt Nam liên tục thay
đổi về mẫu mã, màu sắc, kích thước chất liệu ,với các mệnh giá hết sức phong phú
và ngày càng lớn để đáp ứng nhu cầu tiền mặt rất lớn trong dân cư. Vừa qua Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam đã cho lưu thông tiền mặt rất đa dạng về mệnh giá, đáng
chú ý hơn cả là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cho lưu thông cácloại tiền mới

nhất vào ngày 7/12/2003. Đồng tiền mới được phép lưu thông trong đợt đó gồm có
bốn mệnh giá,các đồng tiền kim loại gồm có ba mệnh giá là 200đ, 1000đ, 5000đ
còn đồng tiền polimer có hai mệnh giá là 100000đ và 500000đ. Cho đến nay,
chúng ta đã sử dụng hoàn toàn tiền mặt bằng giấy(1000đ, 2000đ, 5000đ) và bằng
polimer( 10000đ, 20000đ, 50000đ, 100000đ, 200000đ, 500000đ). Tiền mặt có
nhiều mệnh giá là do nhu cầu khác nhau của nhân dân, do đó đã tạo ra được sự tiện
lợi của tiền mặt. Nếu như trướt đây với hệ thống ngân hàng một cấp, Ngân hàng
Nhà nước chưa hoàn toàn chủ động trong lĩnh vực in đúc tiền, điều tiết lượng tiền
cung ứng, vận dụng chư đúng quy luật lưu thông tiền tệ nên đã phát hành tràn lan,
gây nên lạm phát, đồng tiền mất giá nghiêm trong; thì nay,việc hình thành hệ thống
ngân hàng hai cấp, bước vào quá trình chuyển đổi, nghiệp vụ phát hành tiền của
Ngân hàng Nhà nước bước đầu tỏ ra có chất lượng hơn và hiệu quả hơn trong quá
trình thực thi chính sách tiền tệ. Việc thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, mở cửa
biên giới đã làm cho lưu thông hàng hoá trở nên trôi chảy hơn, nền kinh tế bắt đầu
đi lên, lạm phát từ ba con số xuống còn một con số, sức mua đồng tiền dần dần ổn
định.
- Chính sách điều tiết lưu thông tiền tệ ở Việt Nam
Áp dụng những lý luận về tiền tệ để đảm bảo giá cả được ổn định, giữ giá
đồng tiền, phát triển kinh tế một cách bền vững là một trong những mục tiêu quan
trọng của việc quản lý nền kinh tế vĩ mô của nhà nước. Trong các công cụ điều tiết
vĩ mô của nhà nước thì chính sách tiền tệ là một trong những chính sách quan trọng
nhất vì nó tác động trực tiếp vào lĩnh vực lưu thông tiền tệ. Nó cũng có những quan
hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác như: chính sách tài khoá, chính
sách thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại. Những nội dung chính của chính sách
tiền tệ ở Việt Nam bao gồm:


Một là, cung ứng và điều hoà khối lượng tiền tệ ngân hàng nhà nước tăng hay
giảm khối lượng tiền tệ để duy trì tương quan giữa tổng cung và tổng cầu giữa
tiền và hàng.

Hai là, chính sách tín dụng cho nền kinh tế: khi các ngân hàng thương mại và
có các tổ chức tín dụng thiếu khả năng thanh toán thì họ đến ngân hàng trung
ương xin tái cấp vốn. Ngân hàng trung ương luôn đóng vai trò là một tổ chức
cho vay cuối cùng để thúc đẩy các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng
huy động tối đa lượng tiền nhàn rỗi trong dân chúng để đầu tư phát triển kinh
tế.
Ba là, chính sách quản lý ngoại hối: hướng vào việc ngăn chặn tích cực
ngoại tệ trong các doanh nghiệp và tầng lớp nhân dân. Đề thực hiện việc ổn
định giá cả của đồng tiền quốc gia, ngân hàng nhà nước thực hiện các nhiệm vụ:
quản lý ngoại hối, lập bảng theo dõi diễn biến của cán cân thanh toán quốc tế,
thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, tổ chức điều tiết thị trường hối đoái, tổ chức
điều tiết thị trường hối đoái, xây dựng và thống nhất quản lý dự trữ ngoại hối
quốc gia,…
Bốn là, chính sách tạm ứng cho ngân hàng nhà nước:


Trường hợp ngân sách cân bằng: Chính phủ thu thuế vào ngân sách, ngân
sách chi ra cho bộ máy quản lý nhà nước và nền kinh tế lượng tiền vẫn nằm
nguyên trong lưu thông.

- Trường hợp ngân sách thiếu hụt: lúc này chi lớn hơn thu, giải quyết bằng bốn
cách: vay của dân, vay của hệ thống ngân hàng và tổ chức tín dụng , vay của ngân
hàng nhà nước, vay nợ nước ngoài.
- Trường hợp ngân sách thặng dư: khối lượng tiền tệ trong thị trường được rút bớt
cất đi.
- Chính sách tiền tệ là hoạt động cơ bản chủ yếu nhất của Ngân hàng trung ương.
Có thể nói chính sách tiền tệ là linh hồn, xuyên suốt mọi hoạt động của Ngân hàng
trung ương. Các hoạt động khác của Ngân hàng trung ương đều nhằm thực thi
chính sách tiền tệ đạt được các mục tiêu đó. Trong những năm qua, những nội
dung chính của chính sách tiền tệ đã được ngân hàng nhà nước thực hiện thông qua

các công cụ của chính sách tiền tệ sau: Công cụ lãi suất Khi sử dụng các công cụ
của chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương (thị trường mở, chiết khấu, tỷ lệ
dự trữ bắt buộc, v.v….) đều có tác động đến lãi suất cho vay của các ngân hàng
thương mại đối với nền kinh tế.
( Đỗ Thị Hương Giang)- III.Mục tiêu


×