Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

BÌNH LUẬN QUÁ TRÌNH GIẢM NGHÈO VẬT CHẤT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2010 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.64 KB, 54 trang )

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………...................4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT CHUNG VỀ GIẢM NGHÈO….5
1.1. Quan niệm về vấn đề nghèo và một số khái niệm……………….5
1.2. Các thước đo nghèo khổ………………………………………….7
1.2.1. Quan niệm về chuẩn nghèo trên thế giới và ở Việt Nam……...7
1.2.2. Các thước đo nghèo khổ………………………………………11
1.3.Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với xóa đói giảm nghèo...15
1.4. Các nhân tố tác động tới giảm nghèo…………………………...17
CHƯƠNG 2. GIẢM NGHÈO VẬT CHẤT Ở VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN 2010-2014…………………………………………………...20
2.1. Thực trạng quá trình xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam giai đoạn
2010 – 2014………………………………………………………….20
2.2. So sánh các giai đoạn xóa đói giảm nghèo vật chất của Việt
Nam………………………………………………………………….28
2.3.
2.3.1.
2.3.2.
2.4.

Những thành tựu và hạn chế của quá trình giảm nghèo………33
Những kết quả đạt được……………………………………….33
Hạn chế………………………………………………………...36
Những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng nghèo ở Việt
Nam……………………………………………………………37

2.5. Chính sách hỗ trợ người nghèo của Nhà nước…………………44
1


CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI


ĐOẠN TIẾP THEO VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP GIÚP THÚC ĐẨY
NHANH QUÁ TRÌNH GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM……………48
3.1. Định hướng của Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo…………...48
3.2. Đề xuất giải pháp………………………………………………..52
3.2.1.

Hỗ trợ sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập………………….52

3.2.2.

Chính sách giáo dục, đào tạo, dạy nghề, nâng cao dân trí….....53

3.2.3.

Chính sách cán bộ đối với các huyện nghèo………………..…54

3.2.4.

Chính sách, cơ chế đầu tư cơ sở hạ tầng ở các thôn, bản, làng xã
và huyện……………………………………………………….55

KẾT LUẬN………………………………………………………….56

PHẦN MỞ ĐẦU
Ở Việt Nam, vấn đề xóa đói giảm nghèo luôn được Đảng, Nhà nước
và toàn xã hội đặc biệt quan tâm trong suốt quá trình xây dựng xã hội
2


mới. Mặc dù hiện nay Việt Nam đã bước vào ngưỡng đầu của các

nước có mức thu nhập trung bình, tỉ lệ nghèo giảm nhưng tỉ lệ tái
nghèo lại cao. Điều này gây nhiều bức xúc, khó khăn về chính trị, xã
hội, kìm hãm sự phát triển của đất nước. Vì vậy đây luôn là vấn đề
nóng hổi, cần được nghiên cứu và đưa ra những chính sách giải quyết
thỏa đáng nhằm đảm bảo sự phát triển ổn định của toàn xã hội.

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT CHUNG VỀ GIẢM NGHÈO
1.1. Quan niệm về vấn đề nghèo và một số khái niệm
3




Quan niệm của tổ chức quốc tế:

Đến tháng 9/1993, tại hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á Thái
Bình Dương, tổ chức tại Băng cốc - Thái Lan, ESCAP (United
Nations Economic and Social Commission for Asia and the Pacific) đã
đưa ra khái niệm về nghèo khổ thu nhập một cách hệ thống hơn, đó là
tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn các nhu
cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa
nhận tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập
quán của đất nước.
Qua khái niệm trên, có thể thấy: Nghèo là tình trạng thiếu thốn ở
nhiều phương diện, đó là thu nhập hạn chế, hoặc thiếu cơ hội tạo thu
nhập, thiếu tài sản để bảo đảm tiêu dùng ở mức độ tối thiểu, đặc biệt là
những lúc khó khăn, dễ bị tổn thương trước những đột biến bất lợi, ít
có khả năng truyền đạt nhu cầu và những khó khăn tới những người có
khả năng giải quyết, ít được tham gia vào quá trình ra quyết định, có
cảm giác bị xỉ nhục, không được người khác tôn trọng.



Quan niệm của Việt Nam:

Theo quan niệm thông thường của người Việt Nam thì nói đến nghèo
là nói đến tình trạng khó khăn chung về việc không có khả năng đáp
ứng các nhu cầu cơ bản, song chủ yếu lại là các nhu cầu về phi lương
thực thực phẩm như nhà ở, mặc, y tế, giáo dục, văn hoá, đi lại và giao
tiếp xã hội.

4


Khi nghiên cứu về vấn đề nghèo theo cấp độ để xây dựng và ban hành
các chính sách giảm nghèo cụ thể, người ta còn đưa ra và sử dụng các
thuật ngữ như: hộ nghèo, xã nghèo. Các nhà nghiên cứu và quản lý ở
nước ta hiện nay cũng thừa nhận và sử dụng khái niệm nghèo do Uỷ
ban Kinh tế- xã hội khu vực châu Á- Thái bình dương (ESCAP) là:
tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu
cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa
nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán
của địa phương.
Một số khái niệm khác:
- Nghèo khổ vật chất: là hiện tượng một người hoặc một nhóm người
không được hoặc không đủ khả năng thỏa mãn nhu cầu tối thiểu về vật
chất cho sự phát triển của con người.
Trong đó, nhu cầu vật chất tối thiểu : theo mức xã hội chấp nhận và
tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán
của mỗi quốc gia.
- Nghèo khổ con người (nghèo khổ tổng hợp, nghèo khổ đa chiều): là

hiện tượng một người hoặc một nhóm người không được hoặc không
có khả năng thỏa mãn nhu cầu cơ bản cho sự phát triển của con người.
Khác với quan niệm nghèo khổ vật chất, nghèo khổ con người đề cập
đến sự phủ nhận các cơ hội và sự lựa chọn để đảm bảo một cuộc sống
cơ bản nhất hoặc “có thể chấp nhận được”.

5


- Chính sách giảm nghèo: là những quyết định, quy định của nhà nước
nhằm cụ thể hóa các chương trình, dự án cùng với nguồn lực, vật lực,
các thể thức, quy trình,hay cơ chế thực hiện nhằm tác động nên đối
tượng cụ thể như người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo với mục đích cuối
cùng là xóa đói giảm nghèo.
- Ngưỡng nghèo hay mức nghèo, là mức chi dùng tối thiểu, được xác
định như tổng số tiền chi cho giỏ hàng tiêu dùng trong thời hạn nhất
định, bao gồm một lượng tối thiểu lương thực thực phẩm và đồ dùng
cá nhân, cần thiết để bảo đảm cuộc sống và sức khỏe một người ở tuổi
trưởng thành, và các khoản chi bắt buộc khác.
Người ở ngưỡng nghèo là người có tổng thu nhập tương đương với
tổng chi dùng tối thiểu đó.
Nhiều nước trên thế giới ấn định ngưỡng nghèo thành một điều luật. Ở
các nước phát triển ngưỡng nghèo cao hơn đáng kể so với các nước
đang phát triển. Hầu như mọi xã hội đều có các công dân đang sống
nghèo khổ.
1.2. Các thước đo nghèo khổ
1.2.1. Quan niệm về chuẩn nghèo trên thế giới và ở Việt Nam
Chuẩn nghèo là tiêu chí để xác định ai là người nghèo trong xã hội.
Thông thường chuẩn nghèo phản ánh mức chỉ tiêu tối thiểu cần thiết
của con người cho việc tham gia các hoạt động trong đời sổng kinh tế.



Trên thế giới

6


Theo ngân hàng thế giới (WB), từ những năm 80 cho đến nay chuẩn
mực để xác định ranh giới giữa người giàu với người nghèo ở các
nước đang phát triển và các nước ở khu vực ASEAN được xác định
bằng mức chi phí lương thực, thực phẩm cần thiết để duy trì cuộc sống
với mức tiêu dùng nhiệt lượng từ 2100 - 2300 calo/ngày/người hoặc
mức thu nhập bình quân tính ra tiền là 370USD/người/năm.
Ngân hàng thế giới đã đưa ra nguyên lý chung để xác định chuẩn
nghèo, tức là xác mức chi tiêu tối thiểu. Theo đó,gồm hai mức:


Nghèo lương thực thực phẩm: tổng chi dùng chỉ tính riêng cho
phần lương thực thực phẩm, làm sao để đảm bảo lượng dinh



dưỡng tối thiểu cho một người là 2100 kcal/ngày đêm.
Nghèo chung: tổng chi dùng cho cả giỏ hàng tiêu dùng tối thiểu,
được xác định bằng cách ước lượng tỷ lệ: 70% chi dùng dành
cho lương thực thực phẩm, 30% cho các khoản còn lại.

Chuẩn mực đói nghèo của 1 số nước trên thế giới.
* Ở Ấn Độ: lấy tiêu chuẩn là 2250 calo/người/ngày.
* BănglaĐesh: lấy tiêu chuẩn là 2100 calo/người/ngày.

* Ở In-đô-nê-si-a: Vào đầu những năm 80 lấy mức tiêu dùng nhiệt
lượng là2100calo/người/ngày làm mức chuẩn để xác định ranh giới
giữa giàu với nghèo.
* Ở Trung Quốc: năm 1990 lấy mức tiêu dùng là
2150calo/người/ngày.
* Các nước công nghiệp phát triển châu âu: 2570 calo/người/ngày.
7


Chuẩn nghèo là một thước đo tương đối, nó được thay đổi theo các
điều kiện phát triển kinh tế, xã hội và tập quán tiêu dùng dân cư, vì
thế, chuẩn nghèo quốc gia sẽ thay đổi theo thời gian, theo vùng (thành
thị, nông thôn, miền núi) và có xu hướng tăng lên theo sự phát triển
kinh tế - xã hội.
Theo mức hao phí trung bình đó, việc xác định nhu cầu chi tiêu tối
thiểu cho lương thực thực phẩm được tính: trên cơ sở nhu cầu dinh
dưỡng cần có, hình thành danh mục rổ hàng hoá cần thiết để đáp ứng,
bao gồm danh mục mặt hàng và lượng tiêu dùng cần có trong một
ngày đêm và có thể tính theo đơn vị tháng. Danh mục và lượng hàng
hoá tiêu dùng có thể không giống nhau đối với mỗi quốc gia tuỳ theo
trình độ phát triển, nhu cầu và tập quán tiêu dùng của dân cư. Căn cứ
vào mức giá cả tại thời điểm xây dựng chuẩn nghèo, tính toán được
mức chi phí càn có cho từng loại mặt hàng và tổng chi phí cho toàn bộ
số hàng hoá cần tiêu dùng trong 1 ngày hoặc tính cho 1 tháng. Từ đó,
người ta tính ra chuẩn nghèo chung và chuẩn nghèo lương thực, thực
phẩm.


Chuẩn nghèo ở Việt Nam:


Tại Việt nam ngưỡng nghèo được đánh giá thông qua chuẩn nghèo,
dựa trên các tính toán của các cơ quan chức năng như Tổng cục Thống
kê hay Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội (MOLISA).
Chuẩn nghèo theo Tổng cục Thống kê được xác định dựa trên cách
tiếp cận của Ngân hàng Thế giới (WB) và chuẩn nghèo được thay đổi
theo giai đoạn:
8


-

Trong giai đoạn 1998- 2000, Bộ Lao động- Thương binh và Xã
hội đã đưa ra chuẩn nghèo cho từng khu vực như sau: Nông
thôn, miền núi, hải đảo: 55.000 đồng/người/tháng; Nông thôn,
đồng bằng 70.000 đồng/người/tháng và thành thị là 90.000

-

đồng/người/tháng.
Trong giai đoạn 2001- 2005, chuẩn nghèo với từng khu vực như
trên được nâng lên là:80.000,100.000 và 150.000/người/tháng.
Từ 01/01/2009 chuẩn nghèo quốc gia mới như sau: Hộ nông dân
có thu nhập bình quân đầu người từ 300.000 đồng một tháng trở
xuống, hộ thành thị từ 390.000 đồng trở xuống sẽ được xếp vào

-

diện hộ nghèo, được hưởng các chính sách hỗ trợ của nhà nước.
Chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010 như sau: Khu
vực nông thôn: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000

đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ
nghèo. Khu vực thành thị: những hộ có mức thu nhập bình quân
từ 260.000 đồng/người/tháng (dưới 3.120.000 đồng/người/năm)

-

trở xuống là hộ nghèo.
Chuẩn nghèo mới áp dụng cho giai đoạn 2011-2015 theo Chỉ thị
số 1752/CT-TTg ngày 21-9-2010 của Thủ tướng Chính phủ: mức
chuẩn nghèo và cận nghèo được xác định, những hộ có thu nhập
bình quân từ 400.000 đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo
(khu vực nông thôn), đối với khu vực thành thị hộ nghèo là
những hộ có mức thu nhập bình quân 500.000 đồng/người/tháng;
Hộ cận nghèo là những hộ có mức thu nhập bình quân từ
401.000 đồng đến 520.000 đồng/người/tháng (khu vực nông

9


thôn), đối với khu vực thành thị là từ 501.000 đồng đến 650.000
đồng/người/tháng.
Chuẩn nghèo quốc gia được xem như là mức sàn để xác định chuẩn
nghèo cho các địa phương khác nhau. Mỗi địa phương căn cứ vào
mức sống, nhu cầu chi tiêu, sức mua của đồng tiền, mức lạm phát,...
có thể có các chuẩn nghèo của riêng mình theo các giai đoạn nhất
định.
Chuẩn nghèo của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội được xác định
một cách tương đối bằng cách làm tròn số và áp dụng cho từng khu
vực và vùng miền khác nhau (nông thôn miền núi, hải đảo, nông thôn
đồng bằng, thành thị).

1.2.2. Các thước đo nghèo khổ


Các chỉ tiêu đo nghèo khổ vật chất

- Mức và tỷ lệ nghèo khổ (chỉ số và tỷ lệ đếm đầu): đây là tiêu chí
phản ánh rõ nhất, tổng quát nhất tình trạng nghèo khổ và cũng là
phương pháp đo lường đơn giản nhất. Mức nghèo khổ (chỉ số đếm đầu
- HC) được xác định trên cơ sở đếm đầu những người sông dưới
chuẩn nghèo, tức là những cá nhân hoặc hộ gia đình (i) có mức thu
nhập (yi) dưới mức chỉ tiêu tối thiểu (C). Còn tỷ lệ đếm đầu (HCR) sẽ
là: HCR = HC/n, trong đó n là tổng dân số
Về mặt ý nghĩa phản ánh, chỉ tiêu trên cho chúng ta kết luận về quy
mô, phạm vi nghèo khổ trong sự so sánh với tổng dân số của quốc gia
hay địa phương. Tuy vậy, trên thực tê, tình trạng nghèo khổ lại vô
10


cùng đa dạng. Cùng là những người sống dưới ngưỡng nghèo, nhung
có những người nằm ngay sát chuẩn nghèo, có những người nằm dưới
chuẩn nghèo rất xa, hay tỷ lệ người sống tại các điểm dưới chuẩn
nghèo cũng không giống nhau. Do đó nếu dùng chỉ số và tỷ lệ đếm
đầu sẽ không đưa ra những chính sách thích hợp đối với từng nhóm
người với các mức độ nghèo khổ vật chất khác nhau, nó có thể theo
hướng có lợi đối với những người sồng gần chuẩn nghèo và lại không
thuận cho những người có múc sống thấp hơn nhiều so với chuẩn
nghèo , mà đây mới là những đối tượng cần sự hỗ trợ nhiều hơn. Vì
vậy, cần phải bổ sung thêm công cụ đo lường khác đầy đủ hơn.
- Tỷ số khoảng cách nghèo và tỷ số khoảng cách thu nhập. Đây là
một công cụ đo lường nhằm phần nào bù đắp được sự thiên lệch nói

trên, có tác dụng xem xét mữ độ trầm trọng của nghèo khổ. Tỷ số
khoảng cách nghèođược định nghĩa là tỷ lệ giữa thu nhập trung bình
cần thiết để tất cả người nghèo đạt chuẩn nghèo chia cho thu nhập
trung bình toàn xã hội. Tỷ số khoảng cách nghèo (PGR) được tính
theo công thức:
PGR = Ʃ(C - yi)/n×m
Trong đó m là thu nhập trung bình của toàn xã hội và i chỉ tính đối với
những người có thu nhập (yi) < C.
Tỷ số khoảng cách nghèo phản ánh hai ý nghĩa: (i) đo lường mức độ
trầm trọng của tình trạng nghèo khổ vật chất so với thu nhập toàn xã
hội. Nếu PGR càng lớn thì mức độ trầm trọng của nghèo khổ vật chất
càng cao; (ii)cho phép đo lường được nguồn lực cần thiết để xóa bỏ
11


nghèo đói. Tử số của công thức trên chính là khoảng chênh lệch giữa
chi tiêu cần có và thu nhập hiện có đối với những người nghèo (gọi là
khoảng cách thu nhập của người nghèo đến chuẩn nghèo) và đó chính
là lượng tài chính cần có để thực hiện mục tiêu xóa nghèo. Chính phủ,
căn cứ vào khả năng nguồn lực trong nước và nguồn viện trợ quốc tế,
sẽ xác định mục tiêu chiến lược giảm nghèo trong từng giai đoạn và
những chính sách thiết thực nhất để thực hiện chiến lược xóa đói giảm
nghèo. Tuy vậy hạn chế của chi tiêu này là ở chỗ, chũng ta đem so
sánh khoảng cách thu nhập của người nghèo đến chuẩn nghèo với
mức thu nhập trung bình toàn xã hội. Trên thực tế, nếu một nước có tỷ
lệ nghèo đếm đầu cao nhưng thu nhập bình quân toàn xã hội lại thấp
thì PGR vẫn rất nhỏ, và như vậy nó sẽ phản ánh không chính xác tình
trạng nghèo. Khắc phục nhược điểm đó chúng ta không chia khoảng
cách thu nhập của người nghèo đến chuẩn nghèo cho thu nhập trung
bình toàn xã hội mà chia cho tổng thu nhập cần thiết để cho tất cả mọi

người đạt tới chuẩn nghèo, con số nhận được gọi là tỷ lệ khoảng cách
thu nhập (IGR), công thức tính:(IGR) = Ʃ(C - yi)/C×HC
Trong đó HC là số đầu người (hoặc hộ nghèo), i chỉ chỉ tính đối với
những người có thu nhập (yi)Tỷ lệ khoảng cách thu nhập tính toán theo công thức trên phản ánh
mức độ gay gắt của nghèo đóibởi vì nó đo lường thu nhập cần thiết để
xóa bỏ đói nghèo.


Nghèo theo thước đo thu nhập

12


Theo thước đo thu nhập có thể đưa ra hai khái niệm: nghèo tuyệt đối,
nghèo tương đối.
Nghèo tuyệt đối: đo lường số người có thu nhập dưới một ngưỡng
nhất định hoặc số hộ gia đình không có đủ tiền để chu cấp cho những
hàng hóa và dịch vụ thiết yếu nhất định.
Nghèo tương đối: đo lường quy mô, theo đó hộ gia đình được coi là
nghèo nếu nguồn tài chính của họ thấp hơn một mức thu nhập được
xác định là chuẩn nghèo của xã hội đó.


Đo lường nghèo khổ đa chiều

- Chỉ số phát triển con người (HDI): được xây dựng dựa trên 3 tiêu
thức cơ bản là sức khoẻ, tri thức và thu nhập. Để đo sự thiếu thốn, bần
hàn hay không có khả năng đảm bảo được ba khía cạnh cơ bản của sự
phát triển con người như trong HDI Liên Hiệp Quốc đưa ra chỉ số

nghèo con người.
- Chỉ số nghèo khổ con người (Human Poverty Index - HPI) của
Liên Hiệp Quốc là một chỉ tiêu đo lường mức sống của một nước,
ngoài nhân tố thu nhập còn đưa thêm các nhân tố về mù chữ, suy dinh
dưỡng của trẻ em, chết sớm, dịch vụ y tế nghèo nàn, thiếu khả năng
tiếp cận với nước sạch.
- Chỉ số nghèo khổ tổng hợp (Mutildimensional Poverty Index MPI): phản ánh mức độ thiếu hụt của mỗi cá nhân theo ba phương
diện: sức khỏe, giáo dục và chất lượng cuộc sống
1.3.Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với xóa đói giảm nghèo
13


Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo vừa phức tạp vừa đa
dạng, hiểu được mối quan hệ này và những yếu tố xác định mối quan
hệ đó sẽ là mấu chốt trong xây dựng chiến lược giảm nghèo thành
công. Nếu có thể chỉ ra được rằng tăng trưởng kinh tế nhanh hơn bao
giờ cũng đi kèm giảm nghèo nhanh, do hiệu ứng “lan tỏa”, thì chiến
lược giảm nghèo cần tập trung vào việc đạt tăng trưởng nhanh hơn.
Nhưng nếu điều đó không nhất thiết là đúng thì việc theo đổi tăng
trưởng phải đi kèm với nỗ lực đạt được tăng trưởng vì người nghèo
thông qua việc tái phân bố thu nhập và tài sản trong nền kinh tế.
Một số những nghiên cứu cố gắng phân tích quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và tỉ lệ nghèo giữa các quốc gia qua các thời kỳ đã chỉ ra rằng:
trung bình, cứ tăng một điểm phần trăm tốc độ tăng trưởng thu nhập
bình quân đầu người thì tỉ lệ nghèo có thể giảm được tới 2%. Tuy
nhiên bất bình đẳng lại không diện ra theo một xu hướng nhất định,
một số quốc gia có tốc độ giảm nghèo hạn chế trong khi có thành tích
tăng trưởng kinh tế khả quan, ngược lại một số quốc gia có tốc độ
giảm nghèo cao trong khi tăng trưởng kinh tế là tương đối thấp. Số
liệu thực tế ở châu Á về mối quan hệ này đã cho thấy tốc độ tăng

trưởng kinh tế cao đã tác động tích cực đến tỉ lệ nghèo. Trong những
năm 1990, Các quốc gia đông á đạt được tốc độ tăng trưởng cao là
6,4% và tỉ lệ nghèo đối giảm được với tốc độ là 6,8%; trong khi các
tốc độ này ở các quốc gia Nam Á lần lượt là 3,3% và 2,4%. Nếu tính
chung cả khu vực, tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng 1 điểm phần trăm
thì nghèo đối chỉ giảm được 0,9%.

14


Ngược lại, giảm nghèo cũng có tác động đến tăng trưởng kinh tế, điều
này được thể hiện thông qua một số những khía cạnh nhu sau:
Giảm nghèo đóng vai trò như một bộ phận của một cán cân điều tiết
các hoạt động đến tăng trưởng, Về phía người nghèo, do thu nhập và
mức sống thấp nên chế độ dinh dưỡng, tình trạng sức khỏe và giáo
dục kém. Điều này làm giảm cơ hội tham gia hoạt động kinh tế và
năng suất lao động của họ, và vì thế trực tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng
tới quá trình tăng trưởng.
Giảm nghèo không đơn giản là việc phân phối lại thu nhập một cách
thụ động mà phải tạo ra động lực tăng trưởng tại chỗ, chủ động vươn
lên tự thoát nghèo. Giảm nghèo không đơn thuần chỉ là sự trợ giúp
một chiều từ tăng trưởng kinh tế đối với những đối tượng khó khăn,
mà còn là nhân tố quan trọng tạo ra một mặt bằng tương đối đồng đều
cho phát triển, tạo thêm một lực lượng sản xuất dồi dào và đảm bảo sự
ổn định cho giai đoạn “cất cánh”. Do đó, giảm nghèo không những là
một mục tiêu của tăng trưởng, cả trên góc độ xã hội và kinh tế, đồng
thời cũng là một điều kiện tiền đề cho tăng trưởng nhanh và bền vững.
Tóm lại, tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo là hai phạm trù khác nhau,
nhưng có mối quan hệ tác động qua lại với nhau trong quá trình phát
triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Do vậy, khi xây dựng dịnh

hướng phát triển cho mỗi thời kì cụ thểcần có sự kết hợp đúng đắn
giữa vấn đề tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo, Mục tiêu tăng trưởng
kinh tế cần thực hiện đồng thời hoặc lồng ghép với công tác giảm
nghèo. Sự kết hợp ngay từ đầu giữa tăng trưởng kinh tế và giải quyết
15


tốt vấn đề giảm nghèo là một trong những nhân tố quan trọng quyết
định sự phát triển bền vững.
1.4. Các nhân tố tác động tới giảm nghèo
o

Tăng trưởng kinh tế phiến diện: Vấn đề đói nghèo, về khách
quan, là sản phẩm tất yếu của một mô hình kinh tế nhất định. Khi một
mô hình kinh tế đã cạn kiệt tiềm năng phát triển, thì dù có cố gắng của
chính quyền cũng không thể giải quyết tốt vấn đề đói nghèo.Nhìn tổng
quát, tác động của tăng trưởng kinh tế một cách phiến diện đến đói
nghèo có nguyên nhân sâu xa từ việc duy trì quá lâu mô hình công
nghiệp hóa đã lỗi thời ở thời đại hiện nay, còn nguyên nhân trực tiếp là
bệnh thành tích theo nhiệm kỳ của bộ máy quản lý. Thực tiễn cho
thấy, giải quyết vấn đề đói nghèo phải gắn liền với đổi mới mô hình
kinh tế với đổi mới tư duy và phương pháp quản lý.

o

Nền sản xuất vẫn dựa nhiều vào lợi thế về giá nhân công rẻ
nhưng thiếu trình độ: phần lớn là lắp ráp, gia công đơn giản do thiếu
công nghệ hoặc phụ thuộc công nghệ nước ngoài, nên không tạo được
giá trị gia tăng đáng kể. Theo đánh giá của giới nghiên cứu, với nền
tảng và các đặc điểm phát triển cơ bản giống như các nước đi trước

nhưng đang luẩn quẩn trong bẫy TNTB, Việt Nam khó tránh khỏi cái
bẫy này sau 10-15 năm nữa nếu từ bây giờ không nỗ lực tạo ra những
đột phá trong phát triển các nguồn lực cần thiết cho tăng trưởng có
chất lượng và phát triển bền vững

16


o

Môi trường bị tàn phá: Ở nước ta, mức độ tàn phá môi trường
ngày càng nghiêm trọng là một nhân tố trực tiếp làm tăng mức độ và
phạm vi của đói nghèo:
Trước hết, tình trạng ô nhiễm môi trường các khu công nghiệp.
Thứ hai, tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu
Thứ ba, vấn đề môi trường tác động xấu đến phát triển kinh tế và đói
nghèo ở nước ta trở nên cấp bách khi con sông Mê Công rơi vào tình
trạng lâm nguy

o

Sự hạn chế về năng lực tổ chức, quản lý của bộ máy nhà nước
các cấp.
Thứ nhất, tính chất và mức độ “hành chính quan liêu”
Thứ hai, tình trạng lãng phí ngày càng tăng trong quá trình triển khai
các dự án kinh tế – xã hội, do chất lượng thấp trong xây dựng và thực
hiện dự án, nên các dự án không có khả năng hoàn vốn, rủi ro cao,
thời gian thực hiện kéo dài. Hiện nay, chỉ số ICOR quá cao.
Tính chất hành chính quan liêu trong quản lý vĩ mô gây lãng phí ở tầm
quốc gia còn do nôn nóng muốn làm tất cả, không có ưu tiên và bước

đi phù hợp. Cách làm nặng về số lượng không chỉ gây lãng phí lớn,
mà còn để lại nhiều vấn nạn cả về kinh tế và xã hội.
Thứ tư, tình trạng tham nhũng tác động không chỉ đến chất lượng và
hiệu quả phát triển, mà còn trực tiếp đến đời sống nhân dân..
Trong thời gian qua, thực hiện Chương trình 135, Chương trình 30a,
17


cũng như hỗ trợ giải quyết đói nghèo đã góp phần giảm tỷ lệ nghèo,
nhưng con số nghèo ở nông thôn và đô thị vẫn còn cao. Nếu về mặt tổ
chức, quản lý nhà nước không khắc phục tình trạng hành chính quan
liêu, lãng phí, tham nhũng thì các mục tiêu giảm nghèo giai đoạn 2011
– 2020 khó có triển vọng.
Thực tiễn kinh tế – xã hội nước ta trong những năm qua cho thấy,
không thể tách rời giữa tăng trưởng kinh tế với xóa đói, giảm
nghèo.Tính cấp bách của việc đổi mới tư duy kinh tế chính trị về tăng
trưởng và đói nghèo còn thể hiện ở nguy cơ Việt Nam rơi vào “cái bẫy
thu nhập trung bình” của một quốc gia thoát nghèo và gia nhập vào
nhóm nước có thu nhập trung bình nhưng rồi mất nhiều thập niên vẫn
không trở thành nước phát triển. Như đã đề cập, Ngân hàng Thế giới
(WB) đã đưa Việt Nam vào nhóm nước có mức thu nhập trung bình
(hơn 1.000 USD/người). Hiện nay, nước ta buộc phải vượt qua thử
thách của cái bẫy này.
CHƯƠNG 2. GIẢM NGHÈO VẬT CHẤT Ở VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN 2010-2014
2.1. Thực trạng quá trình xóa đóigiảm nghèo ở Việt Nam giai
đoạn 2010 – 2014
Theo thống kê của Bộ LĐ-TBXH, năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo của cả
nước là 14,2%. Các năm sau đó, tỷ lệ này đều giảm dần: năm 2011
giảm còn 11,76%; năm 2012 giảm còn 9,6%; năm 2013 giảm còn

7,8%; năm 2014 giảm còn 5,97%. Đến cuối năm 2015, tỷ lệ hộ nghèo

18


còn dưới 4,5% theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011 – 2015, riêng các
huyện nghèo còn dưới 30%.
Theo đó, tổng số hộ nghèo trên phạm vi cả nước năm 2014
là 1.442.261 hộ (giảm 375.628 hộ so với năm 2013)..
Tổng số hộ cận nghèo là 1.338.976 hộ, giảm 93.327 hộ so với năm
2013. Tỷ lệ hộ cận nghèo là 5,6%, giảm 0,70% so với năm 2013.
Tổng số hộ nghèo trên địa bàn 64 huyện nghèo (62 huyện theo Nghị
quyết 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ và 02 huyện
nghèo theo Quyết định số 1791/QĐ-TTg ngày 01/10/2013 của Thủ
tướng Chính phủ) là 234.743 hộ, giảm 34.427 hộ so với năm 2013; tỷ
lệ hộ nghèo giảm còn 32,59%, giảm 5,63% so với năm 2013.
Đó là một trong những kết quả đạt được của Chương trình Mục tiêu
quốc gia (MTQG) Giảm nghèo bền vững vừa được nêu ra tại Báo cáo
đánh giá kết quả thực hiện các Chương trình MTQG giai đoạn 20112015 và định hướng xây dựng các chương trình MTQG giai đoạn
2016 - 2020.
Cũng theo Báo cáo này, tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo đã giảm từ
50,97% cuối năm 2011 xuống còn 38,2% cuối năm 2013; 32,59% cuối
năm 2014; bình quân giảm trên 5%/năm. Như vậy, bình quân tỷ lệ hộ
nghèo chung cả nước giảm 2%/năm, tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo
giảm bình quân trên 5%/năm, đạt mục tiêu kế hoạch đề ra theo Nghị
quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 về định hướng giảm nghèo bền
vững thời kỳ từ năm 2011 - 2020 và Quyết định số 1489/QĐ-TTg ngày

19



08/10/2012 phê duyệt chương trình MTQG Giảm nghèo bền vững giai
đoạn 2012 – 2015.
Được biết, tổng kinh phí huy động thực hiện Chương trình MTQG
Giảm nghèo bền vững trong giai đoạn 2011 - 2015 khoảng 30.451 tỷ
đồng, đạt 109% tổng kinh phí được phê duyệt của Chương trình.
Trong đó, Chương trình đã đầu tư 4.459 công trình cơ sở hạ tầng hỗ
trợ phát triển sản xuất và phục vụ nhu cầu dân sinh tại các huyện
nghèo. Xây dựng và đưa vào sử dụng trên 1.600 công trình cơ sở hạ
tầng thiết yếu để phục vụ sản xuất và dân sinh ở các xã đặc biệt khó
khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo. Trong 2 năm (2012 - 2013),
Chương trình 135 đã đầu tư xây dựng được 8.959 công trình bao gồm
giao thông, thủy lợi, điện, trường học, y tế, công trình cấp nước sinh
hoạt tập trung, nhà sinh hoạt cộng đồng... Năm 2014, đã đầu tư xây
dựng 6.221 công trình, năm 2015 là 2.069 công trình, tập trung chủ
yếu vào đường giao thông, thủy lợi, nhà văn hóa, trường học, công
trình nước sinh hoạt, nhà sinh hoạt cộng đồng, trường học...
Các địa phương cũng đã tổ chức hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu cây trồng,
vật nuôi cho các hộ gia đình; giao khoán bảo vệ rừng với diện tích trên
2 triệu ha cho trên 155.000 hộ; thực hiện đào tạo, đưa khoảng 9.500
lao động đi làm việc tại nước ngoài. Thông qua thực hiện mô hình
giảm nghèo, số hộ thoát nghèo đạt khoảng 15 - 20%, thu nhập bình
quân của hộ nghèo tăng khoảng 15%; tạo việc làm cho 25% lao động
nông thôn. Tổ chức tập huấn cho khoảng 140 nghìn lượt cán bộ giảm
nghèo ở cơ sở.
20


Đặc điểm:Trong những năm qua, tỷ lệ nghèo đói trên toàn quốc có xu
hướng giảm, tuy nhiên lượng tăng giảm này không đều và khoảng

cách nghèo giữa các vùng ngày càng giãn rộng ra.
-

Phần lớn những người nghèo còn lại sống ở vùng nông thôn xa xôi,
hạn chế về tài sản, trình độ học vấn và điều kiện sức khỏe kém. Nghèo
trong các nhóm dân tộc thiểu số là một thách thức kéo dài.
Những người nghèo ngày càng khó tiếp cận với các điều kiện giảm
nghèo chung do không theo kịp tốc độ gia tăng của các điều kiện giảm
nghèo, đặc biệt là đồng bào vùng sâu, vùng xa, người dân tộc thiểu số.
Bên cạnh những thách thức giảm nghèo mang tính lâu dài thì công
cuộc giảm nghèo ở nước ta còn phải tính đến một số thách thức mới
như: Bất ổn vĩ mô ngày càng tăng khiến cho tốc độ giảm nghèo có xu
hướng chậm lại; nghèo tại khu vực thành thị gia tăng do tốc độ đô thị
hóa nhanh khiến người dân gặp khó khăn trong giai đoạn chuyển đổi

-

và nguy cơ tái nghèo mới ở khu vực nông thôn, ven biển…
Nghèo ngày càng tập trung nhiều hơn ở các dân tộc thiểu số Việt
Nam, những người chiếm không quá 15% dân số nhưng chiếm gần
một nửa số lượng những người nghèo còn lại và 2/3 người nghèo
cùng cực.
Việt Nam có 54 nhóm dân tộc được chính thức công nhận, trong đó
dân tộc Kinh (Việt) là đông dân nhất với số dân chiếm khoảng gần 74
triệu người (chiếm 85,7 % tổng dân số) theo Tổng Điều tra về Dân số
và Nhà ở năm 2011. Vào năm 2011, Việt Nam có 5 nhóm dân tộc khác
(dân tộc Tày, Thái, Mường, Khmer và H’mong) với số dân chiếm
khoảng hơn 1 triệu người và 3 nhóm dân tộc khác (dân tộc Nùng, Dao
và Hoa) có số dân từ 500.000 đến 1.000.000 người. Còn có nhiều
21



nhóm dân tộc có dân số dưới 500.000 người. Ngoại trừ dân dân tộc
Hoa, Khmer và Chăm, các nhóm dân tộc thiểu số hầu hết sống ở vùng
núi và cao nguyên, cách xa khu vực đồng bằng và thành phố lớn.
Người dân tộc thiểu số tập trung đông nhất ở khu vực Tây Bắc, Đông
Bắc và khu vực Tây Nguyên, mặc dù vậy vẫn có những cụm dân cư
dân tộc thiểu số ở vùng Bắc Trung bộ, Nam Trung bộ và đồng bằng
sông Cửu Long.
Năm 2014, số hộ nghèo dân tộc thiểu số là 663.563 hộ, chiếm tỷ lệ
46,66% so với tổng số hộ nghèo cả nước. Số hộ nghèo khu vực thành
thị là 109.604 hộ, chiếm tỷ lệ 7,71% so với tổng số hộ nghèo cả nước;
Số hộ nghèo khu vực nông thôn là 1.312.656 hộ, chiếm tỷ lệ 92,29%
so với tổng số hộ nghèo cả nước.
Số hộ nghèo thuộc chính sách bảo trợ xã hội là 173.902 hộ, chiếm tỷ
lệ 12,23% so với tổng số hộ nghèo cả nước.
Số hộ nghèo thuộc diện chính sách giảm nghèo là 256.701 hộ, chiếm
tỷ lệ 18,05% so với tổng số hộ nghèo cả nước, bao gồm: 21.643 hộ
nghèo có thành viên thuộc đối tượng chính sách người có công, chiếm
tỷ lệ 1,52% so với tổng số hộ nghèo cả nước; 235.067 hộ nghèo có
thành viên thuộc đối tượng chính sách bảo trợ xã hội, chiếm tỷ lệ
16,53% so với tổng số hộ nghèo cả nước.
Mặc dù Việt Nam đã đạt tiến bộ đáng kể trong giảm nghèo nói chung,
trong đó bao gồm kết quả giảm nghèo một cách vững chắc cho dân tộc
thiểu số nhưng vẫn còn khoảng cách chênh lệch đáng kể giữa dân tộc
Kinh và dân tộc thiểu số về điều kiện sống và tỉ lệ nghèo, và khoảng
cách đó đang ngày càng giãn rộng. Khoảng cách chênh lệch là lớn
nhất đối với một số khu vực nghèo nhất và thuộc địa bàn khó tiếp cận
22



nhất của Việt Nam (vùng núi phía Bắc) và vùng duyên hải Bắc Trung
bộ. Tăng trưởng về thu nhập của các hộ thiểu số không đồng đều, với
tỉ lệ tăng trưởng của nhóm hộ giàu cao hơn. Kể cả đối với các hộ dân
tộc thiểu số có tỉ lệ tăng trưởng nhanh nhất thì tốc độ tăng trưởng thu
nhập vẫn chậm hơn so với các hộ dân tộc Kinh trung bình.
Nhất quán với tỉ lệ tăng trưởng khác nhau, mật độ dân tộc thiểu số
trong nhóm hộ nghèo đã tăng lên.
Sự gia tăng tỷ lệ dân tộc thiểu số trong nhóm dân số nghèo và rất
nghèo là một vấn đề đáng quan ngại. Nhưng không phải tất cả các dân
tộc thiểu số đều nghèo. Có những bằng chứng đáng khích lệ về những
cải thiện về đời sống và sinh kế của rất nhiều hộ dân tộc thiểu số trong
những năm gần đây, và phân tích gần đây về Khảo sát mức sống dân
cư 2015 cho thấy sự hiện diện của một số hộ thiểu số khá giả trong
tầng lớp có thu nhập trung bình và cao.
-Trong những năm gần đây, tăng trưởng đã tạo điều kiện thuận lợi
cho người khá giả, dẫn đến sự bất bình đẳng về thu nhập.
Các nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng con đường phát triển của Việt
Nam là con đường của sự tăng trưởng mà không có sự gia tăng đáng
kể về bất bình đẳng (Viện KHXH Việt Nam, 2010). Tuy vậy, trong
những năm gần đây, tình hình đã dần thay đổi và bất bình đẳng có xu
hướng ngày càng gia tăng.
- Những khoảng cách chênh lệch về phát triển con người vẫn tồn tại
và trong một số trường hợp có thể giãn rộng

23


Việt Nam không chỉ thành công trong việc tăng thu nhập. Tiến bộ
trong phát triển con người cũng không kém phần ấn tượng. Nhưng

giống như trường hợp tăng trưởng thu nhập và giảm nghèo, tiến bộ
trong lĩnh vực này cũng không đồng đều. Bất bình đẳng có thể làm
suy yếu quá trình tăng trưởng nếu như nguyên nhân của những bất
bình đẳng đó là do những khác biệt về hoàn cảnh - ví dụ như nguồn
gốc dân tộc, giới tính và cơ hội không đồng đều trong việc tiếp cận
giáo dục – đây là những yếu tố sẽ làm cản trở một số nhóm trong việc
hưởng lợi một cách bình đẳng từ quá trình tăng trưởng và phát triển
kinh tế.
Mức độ chú trọng ngày càng tăng đối với việc “xã hội hóa” y tế và
giáo dục ở Việt Nam – xã hội hóa tức là chú trọng tới việc chia sẻ các
chi phí và trách nhiệm xã hội giữa các cá nhân, nhà nước và khu vực
phi nhà nước – đồng nghĩa với việc thu nhập bắt đầu trở nên quan
trọng hơn trong việc quyết định khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ bản.
Sự gia tăng chênh lệch về thu nhập sẽ góp phần làm gia tăng khoảng
cách chênh lệch về mặt xã hội, trong đó bao gồm chênh lệch về tỉ lệ
nhập học (đặc biệt là ở cấp trung học và đại học) và chênh lệch về khả
năng tiếp cận các dịch vụ y tế.
Hậu quả trực tiếp của việc này là sự gia tăng gánh nặng của các khoản
chi tiêu của gia đình cho y tế và giáo dục, đặc biệt là đối với các hộ
không thuộc diện khá giả.
Nghiên cứu chỉ ra rằng mặc dù bệnh tật tập trung nhiều hơn ở các hộ
nghèo nhưng so với các hộ giàu thì khả năng họ sử dụng các dịch vụ y
tế lại ở mức thấp hơn (NHTG, 2012). Hơn nữa, phân bố chi tiêu công
trong khu vực y tế lại theo hướng thiên vị cho các hộ giàu, chẳng hạn
24


như chi tiêu cho các trung tâm y tế xã mà các hộ nghèo nông thôn sử
dụng lại ở mức rất nhỏ so với chi tiêu cho các bệnh viện nhà nước mà
các hộ khá giả sử dụng. Đã có những quan ngại được nêu lên về tác

động bần cùng hóa của chi phí y tế để chữa trị các căn bệnh hiểm
nghèo, trong đó bao gồm quan ngại rằng người nghèo sẽ lựa chọn
không chữa trị khi bị bệnh nặng. Hầu hết các hộ nghèo đều có thẻ y tế
miễn phí giúp giảm chi phí trả cho các dịch vụ, nhưng kèm theo đó là
những quan ngại về chất lượng chăm sóc mà họ nhận được. Một số
nghiên cứu đã nêu bật vấn đề chi phí y tế cao mà người dân phải chi
trả từ tiền túi; chi phí y tế mà người dân phải tự chi trả tiếp tục ở mức
cao mặc dù đã có nhiều cải thiện về diện bao phủ của Chương trình
Bảo hiểm Y tế Quốc gia do kết quả của Luật Bảo hiểm Y tế. Luật mới
đã trợ cấp phí bảo hiểm y tế hoàn toàn cho người nghèo và trợ cấp một
phần phí BHYT cho đối tượng cận nghèo. Tuy nhiên, bảo hiểm y tế
cũng mới chỉ mang lại tác động khiêm tốn trong việc giảm chi phí y tế
từ tiền túi của người dân (Lieberman và Wagstaff, 2008), gồm chi phí
y tế cho các trường hợp bệnh nặng. Các hộ có con nhỏ và người già có
nhiều rủi ro về sức khỏe hơn và có tỉ lệ chi trả chi phí y tế cho các
trường hợp bệnh nặng cao hơn, theo thông tin họ cung.
Việt Nam đã vượt qua cơn bão kinh tế toàn cầu sau khủng hoảng tài
chính năm 2008-2009 một cách xuất sắc hơn so với hầu hết các nước
khác. Vào năm 2009, tăng trưởng đã giảm từ 8,5% của hai năm trước
đó - mức cao nhất trong vòng một thập kỷ - xuống còn 5,3% - mức
thấp nhất trong vòng một thập kỷ, nhưng đến năm 2010 thì lại tăng bật
trở lại mức 6,8%. Năm 2011 tăng trưởng lại giảm xuống còn 5,9%
25


×