Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

Nạn đói ất dậu 1945 đường lối cách mạng của đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (512.79 KB, 47 trang )

Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân


BÀI THUYẾT TRÌNH
MÔN: Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
ĐỀ TÀI: Nạn đói Ất Dậu năm 1945
NHÓM
1.TRƯƠNG THỊ QUỲNH
Mã SV: CQ523043
2.NGUYỄN HOÀNG QUYÊN
Mã SV: CQ522982
Lớp : Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam - 37
Hà Nội, năm học 2012

1


MỤC LỤC

A-LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................................2
B-NỘI DUNG.........................................................................................................3
I-BỐI CẢNH LỊCH SỬ...........................................................................................3
II-NGUYÊN NHÂN................................................................................................4
1. Nguyên nhân trực tiếp - Ứng xử của Pháp..........................................................4
2. Nguyên nhân gián tiếp - Tác động của Nhật Bản và Hoa Kỳ.............................4
3. Nguyên nhân tự nhiên.........................................................................................5
III- NẠN ĐÓI ẤT DẬU NĂM 1945.......................................................................5
1.Diễn biến nạn đói..................................................................................................6
1.1 Tại Hà Nội.........................................................................................................6
1.2 Ở khắp đồng bằng miền Bắc.............................................................................8
2.Hậu quả.................................................................................................................12


3. Chống giặc đói.....................................................................................................13
IV- KHÔNG THỂ QUÊN BIỂU TƯỢNG NẠN ĐÓI NĂM 1945.........................16
2


C-KẾT LUẬN........................................................................................................17

3


A-LỜI MỞ ĐẦU
Chúng ta tự hào bởi lịch sử dân tộc hào hùng và kiêu hãnh. Nhưng chúng ta cũng
không thể quên những đau thương, mất mát của dân tộc mình. Những người đang
sống hạnh phúc hôm nay không hẳn ai cũng nhớ tới nỗi khổ nhục kinh hoàng nhất
trong lịch sử dân tộc Việt với hơn 2 triệu đồng bào đã chết trong sự đày đọa đến tận
cùng của cái đói. Năm đó, 1945, cũng là năm Ất Dậu, cách đây 67 vòng quay của
vũ trụ.
Tiết xuân thanh khiết, đắm ngọt trong gió lành và lộc biếc. Con đường phẳng rộng
thênh thênh chạy từ phố xá phồn hoa đến làng mạc trù phú. Lúa chiêm xanh non trải
từ bờ ruộng mải miết đến tận chân trời. Từ thành phố Thái Bình xe chạy chừng nửa
tiếng đồng hồ thì đến xã Tây Lương, huyện Tiền Hải. Làng quê khang trang như
phố; người xe vui như hội. Cảnh thái bình no ấm đầy căng trong tiếng trẻ nô cười.
Nhưng 67 năm trước, nơi đây là một địa ngục thảm khốc...
Nhà thơ Bảng Bá Lân đã viết bài thơ “ Đói “ vẽ lên một phần thảm cảnh nạn đói Ất
Dậu 1945 :
“Năm Ất Dậu, tháng ba, còn nhớ mãi
Giống Lạc Hồng cực trải lắm đau thương!
Những thây ma thất thểu đầy đường,
Rồi ngã gục không đứng lên vì... đói!
Đói từ Bắc Giang đói về Hà Nội,

Đói ở Thái Bình đói tới Gia Lâm.
Khắp đường xa những xác đói rên nằm…”

4


B-NỘI DUNG
I-BỐI CẢNH LỊCH SỬ
Tháng 9-1939, Chiến tranh tgế giới thứ hai bùng nổ. Ở châu Âu, tháng 6-1940 quân
đội phát xít Đức kéo vào nước Pháp. Chính phủ Pháp đầu hàng phát xít Đức. Ở
Viễn Đông, quân phiệt Nhật cũng đẩy mạnh xâm lược Trung Quốc và cho quân tiến
sát biên giới Việt –Trung.
Thực dân Pháp ở Đông Dương đứng trước hai nguy cơ : một là ngọn lửa cách mạng
giải phóng của nhân dân Đông Dương sớm muộn sẽ bùng cháy ; hai là phát xít Nhật
đang lăm le hất cẳng chúng.
Sau khi đầu hàng Nhật ở Lạng Sơn (9-1940) , rồi mở cửa cho chúng vào Đông
Dương, thực dân Pháp đã suy yếu rõ rệt. Nhật tiếp tục lấn bước để biến Đông
Dương thành thuộc địa và căn cứ chiến tranh của chúng. Ngày 23-7-1941, tại Hà
Nội, Chính phủ Pháp công bố kí kết một hiệp ước giữa Pháp và Nhật – Hiệp ước
phòng thủ chung Đông Dương.
Mặc dù bị Nhật ức hiếp, tước đoạt mọi bề, thực dân Pháp vẫn có nhiều thủ đoạn
gian xảo để thu được lợi nhuận cao nhất. Trước hết, chúng thi hành chính sách
“kinh tế chỉ huy”, thực chất là lợi dụng thời chiến để nắm độc quyền toàn bộ nền
kinh tế Đông Dương và tăng cường việc đầu cơ tích trữ để vơ vét bóc lột nhân dân
ta được nhiều hơn. Thủ đoạn thứ hai là tăng các loại thuế. Riêng các khoản thuế
rượu, muooí và thuốc phiện từ năm 1939 đến năm 1945 đã tăng lên gấp ba lần.
Thủ đoạn tàn ác của Nhật là thu mua lương thực, chủ yếu là lúa gạo, theo lối cưỡng
bức với giá rẻ mạt, một phần để cung cấp cho quân đội Nhật, một phần để tích trữ,
chuẩn bị chiến tranh. Chính thủ đoạn tàn ác này đã gây ra nạn khan hiếm lương thực


5


nghiêm trọng làm cho khoảng 2 triệu đồng bào ta, chủ yếu là nông dân ở miền Bác
chết đói vào cuối năm 1944 đầu năm 1945.
Dưới hai tầng áp bức, bóc lột nặng nề của Pháp - Nhật, các tầng lớp nhân dân ta bị
đẩy đến tình trạng cực khổ, điêu đứng.

6


II-NGUYÊN NHÂN
1. Nguyên nhân trực tiếp - Ứng xử của Pháp
Sau vụ khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 1930, Pháp quay lại với chính sách bảo
hộ mậu dịch và độc quyền khai thác Đông Dương theo đường lối thực dân. Toàn thể
dân Đông Dương phải ra sức nâng cao giá trị kinh tế của khu vực, nhưng chỉ có
người Pháp, một thiểu số rất ít người Việt và người Hoa gần gũi với Pháp hay một
số dân chúng thành thị được hưởng lợi. Hậu quả là trước Đại chiến thế giới lần thứ
hai, Việt Nam vẫn chỉ là một xứ lạc hậu và nghèo đói so với nhiều quốc gia châu Á
khác. Khi Đại chiến thế giới bùng nổ, Pháp bị yếu thế. Tại Đông Á, Nhật Bản bắt
đầu bành trướng và nhìn vào Đông Dương như đầu cầu tiến qua Nam Á và khống
chế Trung Quốc. Giữa năm 1940, Pháp bị Đức chiếm và Nhật Bản gây sức ép với
Pháp rồi năm sau tiến vào Đông Dương. Việt Nam bị cuốn vào nền kinh tế thời
chiến, với việc Pháp và Nhật tranh giành quyền kiểm soát kinh tế. Người ta nói đến
lý do là Nhật Bản bắt dân Việt Nam trồng đay thay trồng lúa gạo để phục vụ chiến
tranh, nhưng thực ra Pháp đã tiến hành việc ấy từ trước, cụ thể là thu hẹp diện tích
canh tác các hoa màu phụ như ngô, khoai, sắn, để trồng bông, đay, gai hay cây kỹ
nghệ. Sản lượng lúa gạo và hoa mầu quy ra thóc tại miền Bắc giảm xuống rất mạnh
do diện tích canh tác bị thu hẹp.
2. Nguyên nhân gián tiếp - Tác động của Nhật Bản và Hoa Kỳ

Trong Đệ nhị Thế chiến Việt Nam bị Đế quốc Nhật Bản chiếm đóng nên bị quân
Đồng Minh - chủ yếu là Hoa Kỳ - thường xuyên oanh tạc các tuyến đường vận tải
để tấn công quân Nhật Bản. Kết quả là hệ thống giao thông ở Đông Dương bị hư hại
nặng. Tính vào thời điểm năm 1945 thì đường sắt Xuyên Đông Dương không còn
sử dụng được nữa và đường thiên lý bắc nam cũng bị phá hoại. Đường biển thì quân

7


Đồng minh đã gài thủy lôi ở cửa biển Hải Phòng khiến hải cảng chính ở Bắc Kỳ
cũng không thông thương được.
Vì chiến cuộc lượng gạo chở bằng thuyền từ trong Nam ra Bắc bắt đâu giảm từ
126.670 tấn (1942) xuống còn 29.700 tấn (1943), và đến năm 1944 chỉ còn 6.830
tấn. Tàu bè chở gạo ra bắc chỉ ra được đến Đà Nẵng. Khi không quân Đồng minh
mở rộng tầm oanh kích thì tàu chở gạo phải cập bến ở Quy Nhơn rồi cuối cùng chỉ
ra được đến Nha Trang. Năm 1945 Chính phủ Trần Trọng Kim phải huy động
những phương tiện thô sơ chuyển vận gạo từ Nam ra Bắc bằng xe bò hay thuyền
nhỏ. Cùng lúc đó thì lượng gạo tồn kho ở Sài Gòn lên cao vì không xuất cảng sang
Nhật được khiến chủ kho phải bán rẻ dưới giá mua. Hơn 55.000 tấn gạo phải bán
tháo cho các xưởng nấu rượu vì nguy cơ gạo ứ đọng sẽ mốc trong khi nạn đói hoành
hành ở ngoài Bắc.
Đối với Pháp và Nhật Bản thì cả hai đều chú tâm vào những mục tiêu khác cho nhu
cầu chiến tranh của họ. Chính Toàn quyền Đông Dương Jean Decoux từ trước năm
1945 đã ra lệnh trưng thu thóc gạo để chở sang Nhật theo thỏa thuận với Đế quốc
Nhật Bản. Giá gạo thị trường lúc bấy giờ là 200 đồng bạc Đông Dương một tấn
nhưng nông dân chỉ được trả 25 đồng. Bản thân lực lượng quânn quản Nhật cũng
thi hành chính sách "Nhổ lúa trồng đay", do cây đay là nguyên liệu quan trọng cho
sản xuất quân trang, quân phục.
Tình hình càng khó khăn thêm khi Nhật đảo chánh Pháp vào tháng 3 năm 1945 nên
bộ máy chính quyền của Pháp nhanh chóng tan rã. Việc tiếp vận và phân phối sau

đó càng bị tê liệt. Nạn thiếu ăn biến thành nạn đói, đã manh nha từ đầu năm 1944
nay càng thêm trầm trọng. Đế quốc Việt Nam do Trần Trọng Kim làm thủ tướng ra
chấp chính từ tháng 4 năm 1945 đã cố gắng huy động việc cứu đói cho dân ngoài
Bắc nhưng những yếu tố chính trị, phương tiện và nhân sự phần nhiều vẫn nằm

8


trong tay người Nhật nên triều đình Huế không làm thuyên giảm được hậu quả ghê
gớm của nạn đói.
3. Nguyên nhân tự nhiên
Ngoài bối cảnh chiến tranh, chính trị và kinh tế, tình hình thời tiết ngoài Bắc cũng
đã góp phần trong những động lực tạo ra nạn đói. Mùa màng miền Bắc bị hạn hán
và côn trùng phá hoại, khiến sản lượng vụ đông-xuân từ năm 1944 giảm sụt khoảng
20% so với thu hoạch năm trước. Sau đó là lũ lụt xảy ra làm hư hại vụ mùa nên nạn
đói bắt đầu lan dần. Mùa đông năm 1944-45 ác nghiệt thay cũng lại là một mùa
đông giá rét khiến các hoa màu phụ cũng mất, tạo ra những yếu tố tai ác chồng chất
giữa bối cảnh chiến tranh thế giới.
III- NẠN ĐÓI ẤT DẬU NĂM 1945
Có lẽ trong lịch sử, chưa bao giờ dân Việt lại chịu một tai nạn xã hội nhân văn lớn
lao như thế này về số người tử nạn và qui mô của vùng bị tai nạn. Có nhiều vụ lụt
lội hay hạn hán kiểu “Sơn tinh, Thủy tinh” từng xảy ra trong suốt dòng lập quốc của
dân Việt nhất là xưa kia của nòi Việt ở đồng bằng Sông Hồng và sau này từ khi
người Việt mở mang bờ cõi về phương Nam, xuống đồng bằng sông Cửu Long.
Nói trận đói năm Ất Dậu là một sự kiện nhân nạn, chết người tập thể vô tiền khoáng
hậu cũng không ngoa, vì có lẽ chỉ thua về những thiệt hại nhân mạng và tài sản của
chiến tranh giữa hai phe Quốc-Cộng từ năm 1945-1975, trải dài 30 năm. Nhưng về
số người bị nạn tập trung trong một thời gian kỷ lục, thì sự kiện Nạn Đói năm Ất
Dậu vẫn là độc nhất vô nhị cho đến nay. Bằng chứng sống động là những tầng văn
hóa khảo cổ ở địa bàn thủ đô Hà Nội-Thăng Long người ta vừa phát quật mới đây,

nhân cơ hội thám sát nền đất để xây tòa nhà quốc hội và các cơ quan công quyền,
nơi đó chất chứa cả nhiều thế kỷ thành Thăng Long và có thể cả các khu ngoại vi bị

9


chôn vùi dưới nhiều đợt lũ lụt do nước sông Hồng tạo ra diễn tiến và qui mô nạn
đói.
Trong bối cảnh Thế chiến II, nạn đói xảy đến với Bắc Kỳ vào đúng lúc cuộc kháng
chiến chống Pháp diễn ra quyết liệt, nhất là khi quân đội Nhật chiếm đóng Đông
dương từ năm 1941 với những toán quân tiền tiêu từ Trung Quốc xung đột với quân
Việt Pháp ở đồn Tà Lùng, từ năm 1940, cửa ngõ vào Lạng Sơn. Mà nếu chiếm đóng
Lạng Sơn, con đường vào sâu trong đồng bằng miền Bắc Việt Nam kể như bỏ ngỏ,
vì từ Lạng Sơn, người ta chỉ cần di chuyển 120 km là đến Hà Nội, trung tâm vùng
Đồng Bằng Bắc Việt.
Chính trong các diễn biến chiến tranh tích lũy từ những năm đầu thập niên 1940 đã
đưa đến nạn đói khủng khiếp giết chết ít nhất hai triệu người vào năm 1945, từ phía
Bắc miền Trung ra tới Đồng Bằng Bắc Kỳ.
1.Diễn biến nạn đói
1.1 Tại Hà Nội
Tại Hà Nội, nhiều xác người đói đi ăn xin, nằm chết ngổn ngang trên các đường
phố, sáng sáng người ta phải đem xe bò đi đế chở những xác chết đó rồi đem chôn
vội vàng. Có nhiều người đi xin, đói lả giữa phố, đêm đến, nằm dựa trên cửa lối ra
vào hay bờ tường các căn phố. Báo hại người trong nhà: nhiều người sáng ra vừa
mở cửa, thì xác chết đổ kềnh sang bên hay vào phía bên trong, khiến nhiều người
trong nhà kinh khiếp, mất cả hồn vía!
Tại Tràng Tập Hà Nội có khoảng 120 chú chủng sinh, các chú được nhà trường cho
ăn mỗi ngày chỉ có một bữa tạm no với một chén cơm đầy, còn hai bữa kia, ăn cháo
với cám xay. Có chú tuy thấy đói, nhưng không chịu ăn cám, vì khó nuốt, đã đổ đi


10


hết. Thực ra Ban giám đốc Tràng Tập cho các chú ăn cháo với cám, vì muốn cho có
đủ chất bổ do cám mang lại.
Hàng ngàn câu chuyện đã được kể qua lời kể của chính những con người may mắn
thoát khỏi nạn đói thảm khốc 1945 :
Nơi đóng cửa trần gian
Dưới chân cầu vượt là một ống cống lớn bắc qua sông Sét, chảy cắt ngang đường.
Sau ống cống đó là một ngã ba có con phố rẽ tay phải dẫn đến những khu nhà đang
hối hả xây dựng. Đó là những khu dân cư, các công ty và kho hàng. Ít ai biết 67
năm trước đây là điểm tụ tập đông nhất những sinh linh trước giờ chết đói: trại tế
bần.
Ông Đặng Văn Cự, người dân gốc ở làng Tám (Giáp Bát), nay 87 tuổi, kể lại: thời
đó làng Tám là ngoại ô, thuộc tổng Thịnh Liệt, Thanh Trì. Khu bến xe, ga tàu, bệnh
viện Bạch Mai bây giờ là cánh đồng mênh mông với con sông Sét chảy vắt ngang.
Từ Hà Nội đi qua cống Phố Hàn (nay là cống sông Sét nằm trên đường Giải Phóng)
khoảng 20m có khu gia binh rộng 25 mẫu.
Theo Báo Bình Minh ra ngày 12-4-1945, những người VN hảo tâm khi thành lập
đoàn khất thực để cứu trợ đồng bào đã chọn khu gia binh làm trại tế bần. Bắt đầu từ
ngày 9-4, có 2.000 người ăn xin đã được đưa xuống đó, được phát cháo và nghỉ
ngơi. Sau đó, những người ốm đau, hấp hối cũng được đưa về trại bằng xe bò.
Khi người đói chưa nhiều, trại còn có ngày hai bữa phát chẩn. Nhưng chỉ sau vài
tuần số người tự tìm đến đã đông hàng vạn. Lương thực dù có nhiều đến mấy cũng
không đủ cho mỗi người một bát cháo/ngày.
Ông Nguyễn Văn Điền ở Giáp Bát kể: mọi ngả đường chết đói của thành phố đều
dồn về đây, từng đoàn từng đoàn những hình nhân tưởng như bất tận. Họ ngồi chật
11



kín trại, kín cổng trại, kín cả đường vào trại và vật vờ, xiêu vẹo trên cống Phố Hàn,
gặp ai cũng chìa tay xin ăn. Từ đây trại Giáp Bát trở thành nơi chứa người chết đói.
Báo Tin Mới số ra ngày 29-4-1945 viết: “Tấm bảng treo trước cổng trại ghi: ngày
26-4: buổi sáng số người còn lại 3.020 – số người chết 16. Buổi chiều, số người mới
vào 2.000, số người chết 18”. Ông Điền kể: đó là số người trong trại, còn những
người chờ chực bên ngoài thì nhiều vô kể và họ chết bất cứ lúc nào. Ông nhớ mãi
hình ảnh một cụ già tuy đã đói khổ nhiều ngày nhưng nhìn rất quắc thước, đạo mạo.
Cụ ngồi trên cống Phố Hàn giống mọi người. Nhưng điều rất đặc biệt là cụ không
xin ai một câu nào. Ai cho thì nhận. Ánh mắt cụ rất buồn, long lanh chứ không vàng
nhợt vô hồn. Cụ ngồi đó mấy ngày rồi không ai thấy nữa. Người trong và ngoài trại
chết ngày một nhiều. Khẩu phần lương thực phân phát cho người đói thành muối bỏ
biển và tạo nên những cuộc tranh giành thảm khốc. Nhưng rồi hàng vạn sinh linh ấy
cũng “gặp nhau” trong những cuộc mai táng đau thương…
Những hố chôn tập thể
Suốt 60 năm sau, bà Chén (Tây Lương, Tiền Hải, Thái Bình) vẫn sống trên mảnh
đất quê nhà Tây Lương. Bao dâu bể đổi dời, tâm khảm không ngừng muốn xóa
nhòa quá khứ đau thương, khiến nhiều câu chuyện, nhiều dấu tích của nạn đói đã
không còn lưu giữ trong bà. Nhưng bà vẫn biết rằng dưới ba thước đất, trong lòng
đất quê hương, những ánh mắt trẻ, những tiếng khóc già cùng sự quằn quại của
những linh hồn đói khát vẫn còn đó.
Còn đó trong những nấm mồ chôn vùi hàng chục, hàng trăm sinh mạng không
hương khói, không mộ chí, không gỗ ván – ở quê hương bà đó là gò Ông Cảm, gò
Lâu nằm giữa cánh đồng thôn Hiên bát ngát cánh cò…

12


Bà nhớ khi người chết đói quá nhiều, trai đinh, lính tuần khuân xác người trong
những manh chiếu, mảnh vó buộc túm hai đầu, quăng xuống những cái hố to như
cái ao rồi lấp. Hôm nay lấp hố này, mai lại lấp hố khác. Khi không còn chiếu, còn

vó, còn bao bố và không còn cả sức người thì họ lấy dây thừng, dây thép buộc vào
cổ, vào tay, chân những thây người khô khẳng đó, cho trâu, bò kéo lê theo đường
ruộng hoặc trên bùn ướt rồi quăng xuống hố.
Trong tài liệu của Viện Sử học, rất nhiều địa phương như Hải Phòng, Thanh Hóa,
Ninh Bình, Nam Định… đã đặt tên cho những hố chôn tập thể như thế thành cồn
Ma, mả Quán, mả Đói, gò Ma… Tuy nhiên nhắc đến hố chôn tập thể thì khủng
khiếp nhất vẫn là ở Hà Nội.
Ông Nguyễn Ngọc Liên (khu tập thể Kim Liên) kể: ngày ngày sếp đội mặc quần
soóc, chạy ra phố huýt một tiếng, đám đông khất thực liền chạy ùa lại. Sếp chỉ tay
vào chiếc xe kéo thùng gỗ hai bánh, nói vài câu rồi chia hai người một xe kéo rong
ruổi suốt từ phố Hàm Long đến chợ Mơ, rồi dọc tuyến Hàng Đẫy, Tràng Tiền… về
gần cầu Giấy đi nhặt xác người.
Mới đầu người ta còn bọc chiếu, sau thì chỉ túm đầu, túm chân quẳng lên thùng xe.
Trẻ con, người già, đàn bà, đàn ông, đầu, tay chân… lủng lẳng hoặc kéo lê trên đất.
Ngày nào cũng vài chục xe như vậy rong ruổi. Mấy người kéo xe kể: nhiều hôm họ
quăng xác chết lên xe, trong xe có tiếng thều thào… Có anh xe dừng lại bới đống
xác thì không thấy ai kêu nữa. Có anh xe thì nói vọng vào: “Thôi đằng nào cũng ra
nghĩa địa thì đi đi kẻo mai không ai chôn”.
Mọi chuyến xe đều đổ về hai nghĩa trang Hợp Thiện và Phúc Thiện nằm ở cánh
đồng ngoại ô hai đầu nam – bắc thành phố. Nay Hợp Thiện thuộc quận Hai Bà
Trưng, bám bên sông Kim Ngưu. Phúc Thiện nằm trong công viên Thủ Lệ. Tại
nghĩa trang người ta đào những cái hố sâu 3-4m, dài rộng hàng chục mét, quẳng xác
chết xuống đó rồi rắc vôi bột lên trên và lấp. Từ khi xuất hiện trại tế bần Giáp Bát
13


với lượng người chết 30-50 người mỗi ngày thì cánh đồng xung quanh cũng trở
thành những hố chôn người.
Ông Điền kể rằng sau nạn đói, cánh đồng Giáp Bát lúa năm ấy không trồng nhưng
từ những gốc rạ vẫn trổ đòng xanh ngăn ngắt. Người ta tranh nhau đi gặt. Gặt xong

cày bừa, tung lên bao nhiêu đầu lâu, chân tay. Còn ở cánh đồng thôn Hiên, những
đêm đông rét buốt hoặc những buổi trăng rằm sương lạnh trước vụ mùa, bà Chén
vẫn như nghe thấy ngoài gò Ông Cảm xôn xao tiếng người như họp chợ. Phiên chợ
của những hồn ma đói khát…
1.2 Ở khắp đồng bằng miền Bắc
Ở khắp đồng bằng miền Bắc những người thiếu ăn tại chỗ đi nhan nhản kiếm ăn
xin vì thiếu đồng ruộng canh tác, thiếu lúa gạo, rồi dần dần chết lả vì đói ở các cánh
đồng và đường làng khắp nơi trong các tỉnh phường xã làng xóm ở nông thôn và
thành phố. Có nơi, người đói còn vào cướp phá kho chứa lúa gạo của người giàu
trong làng. Ngoài người cư ngụ sinh sống từ trước tại vùng đồng bằng miền Bắc,
còn có nhiều người từ miền Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh đi ra ăn xin. Vì nạn đói
xảy ra trong lúc chiến tranh nên hầu như các số liệu chính thức không được ai thống
kê đầy đủ và chính xác. Ở khắp nơi, mỗi phe trong cuộc chiến cố lập ra những ban
cứu đói, như tại làng Hoàng Nguyên Phú Xuyên Hà Đông, Thầy Mai Xuân Hậu với
nhiều người tham gia vào ban cứu đói địa phương, thầy Nguyễn Khắc Xuyên ở giáo
xứ Bút Đông, Duy Tiên, Hà Nam, thầy Nguyễn Khắc Dương ở Hội Đồng Hương
Chánh làng Côi Mỹ, Hà Tĩnh.
Giáo sư Đỗ Hữu Nghiêm, một người đã sống trong những ngày đói năm Ất
Dậu đã kể lại :
“Ở miền quê tôi, làng Hòa Khê, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam, khu vực giáp ranh
với huyện Phú Xuyên tỉnh Hà Đông, cách Hà Nội 45 cây số, chỉ mới lên bảy tuổi,
14


tôi còn nhớ cảnh thương tâm những người đói, thiếu ăn, thiếu ruộng cày, phải đi
lang thang xin ăn. Khi không thể xin đủ ăn được, người đói lả nằm ngã lăn lóc bừa
bãi khắp nơi ở giũa hay bên đường, trên đồng ruộng, trước cửa nhà, đủ kiểu mòn
mỏi, rồi chết tất tưởi trong tình cảnh tứ cố vô thân, rách rưới. Số người chết đông
đảo đến nỗi chôn không xuể, khiến nhiều chỗ bị nhiễm trùng và có nơi đã có dịch.
Ở đầu làng tôi, bên kia sông, con sông đào làng Hòa Khê nối sang bên đồng ruộng

là các thôn Tè Mũ, Mai Trang, Thần Nữ là một cây cầu tre. Người làng tôi thấy có
quá nhiều người chết la liệt ở cả hai bên sông, nên những người còn khỏe mạnh rủ
nhau đi sang bên kia sông thu lượm những xác chết lại, đào vội một hố lớn không
sâu lắm ở bên kia cầu thuộc đất của làng bên sông và người ta đem chôn vùi như ma
đuổi tất cả số người đói đó trong chiếc hố tập thể. Trong số người chết, có cả những
người còn ngắc ngoải, chưa chết hẳn, có người còn rên lên: “Đừng chôn sống chúng
tôi, để chúng tôi hết hẳn đã!”. Bất chấp những lời than vãn đó, người còn khỏe
mạnh cứ lấp đất vội vàng trên những thân thể còn chút hơi sống đó và tiếng kêu chỉ
tắt hẳn cho đến khi những tảng đất định mệnh bên bờ sông được lăn đầy!.
Hình ảnh đó ám ảnh đám trẻ chúng tôi nhiều tháng trời và mùi hôi trong nấm mồ
tập thể đi theo chúng tôi khắp nơi, đến tận giấc mơ hãi hùng trên giường ngủ, trong
những câu truyện rùng rợn hù dọa nhau trên cửa miệng mọi người hằng ngày. Hú
vía, vì có những người giàu tưởng tượng đe dọa nhau, kế chuyện nghe thấy những
khóc nỉ non rưng rức của oan hồn những người bị chôn sống mỗi lần đi qua cây cầu
tre vắt ngang con sông đào cô quạnh, vắng bóng trẻ thơ mỗi chiều hôm, vì đứa nào
cũng khiếp sợ hồn ma đói!
Đầu cầu tre bên làng, có một thanh niên gần chết nằm im lìm đầu xóm giữa ngay
ngã ba đường vì không còn hơi sức cử động. Thấy thế đám trẻ tinh nghịch trong
làng chạy đến xúm xít bu quanh xem người nằm đói có lẽ đang hấp hối. Một thanh
niên còn trẻ nhưng trông như một cụ lão già, quần áo tả tươi, rách nát, nhăn nheo,
15


chỉ còn da bọc xương, để lộ cả mông và bộ phận sinh dục. Bỗng nhiên một đứa tinh
quái, nghịch độc, bẻ một cành tre, rồi chọc vào hậu môn người sắp chết. Thân thể
đáng thương kia chỉ giật giật nhè nhẹ, chắc có vẻ đau đớn mà không phản ứng gì
được. Một chú bé tò mò đứng xem gần đó, mủi lòng, bịt mặt, với đôi mắt đỏ hoe sợ
hãi vội quay đi, chạy trốn một mạch về nhà.
Có quá nhiều người đói đến nhà tôi xin ăn. Tôi nhớ ở nhà tôi, mỗi ngày trong một
thời gian ngắn, cha tôi cho người giúp việc trong nhà, lấy gạo ra nấu cháo và hễ cứ

người nào đến xin ăn, thì múc chia sẻ một chén cháo cho đỡ đói lòng. Nhưng số
người xin ăn đông quá không đủ để phân phát. Đến tối khuya vẫn còn người đến
đập cửa xin ăn. Khi nghe tin có nơi những người xin ăn còn khỏe mạnh hơn đã vào
ăn cướp phá kho lẫm của những nhà giầu, từ đó trở đi nhà chúng tôi phải cài chặt
cổng ra vào thường lệ phía ngoài”.
Đấy là một số trường hợp điển hình. Các nơi khác ở thôn quê đều diễn ra nhiều
cảnh thương tâm tương tự như vậy.
Tại Thái Bình, nhân chứng đặc biệt ghi lại :
“Tháng Ba năm ấy, nay quen gọi là tháng Ba đói của năm Ất Dậu, 1945, tôi đang
sống tại đất Bắc. Phải nói là cảnh đói bấy giờ khủng khiếp không thể tưởng. Đúng
là một một chặng đường lịch sử ảm đạm, âm u, sầu thảm. Nhiều người đói quá, đã
chết vì đói. Nhiều người đói quá, nên đành bỏ nhà, bỏ quê.
Chiều hôm ấy, tôi đi bộ từ Thái Bình về Thượng Phúc. Đường vắng. Thỉnh thoảng
tôi gặp những thân người tiều tuỵ ốm o, lê bước, ngẩn ngơ, mệt mỏi. Họ đi kiếm ăn.
Đi một mình, hoặc đi chung gia đình. Họ tìm bới hy vọng ở những đám cỏ, ở những
đống rác bụi cây.

16


Đến gần một bờ sông, tôi thấy ba người gầy guộc nằm bất động. Một phụ nữ trẻ đã
chết, tay vẫn ôm đứa con nhỏ. Đứa con nhỏ cũng đã chết, miệng còn ngậm vú người
mẹ đã chết. Một người đàn ông trẻ nằm sát bên kia đứa nhỏ đã chết, tay như đang
cố với tìm chiếc chiếu rách cạnh bên, để đắp cho vợ con. Anh ngấp ngoái chết. Tôi
nghẹn ngào ngồi lại. Anh nhìn tôi. Vài phút sau, anh tắt thở.
Tôi không có gì để giải quyết cảnh tang thương đó. Tôi tiếp tục tiếp nối cuộc sống
họ để lại. Với tình cảm xót thương dạt dào, tôi cảm nhận nỗi khổ đau và tuyệt vọng
họ trối lại cho tôi.
Tôi tự an ủi mình là những người này đã được an táng trong trái tim tôi. Họ như
những người thân đồng hành với tôi. Thỉnh thoảng họ có những nhắn nhủ nhẹ

nhàng, thân thương, để giúp tôi biết sống. Sống sao cho xứng là người. Một trong
những điều kiện để được thế, là hãy biết thương cảm, xót thương.”
Tại Ninh Cường, cách Trung Linh, Bùi Chu khoảng hai mươi cây số đường bộ,
nằm ỡ giữa vùng Đồng Bẳng Bắc Việt, có lẽ là khu vực chịu ảnh hưởng năng nề
nhất của châu thổ sông Hồng, theo lời chứng của một linh mục[2], thì ở nhà chung
Ninh Cường lúc đó (năm 1945) mọi người chỉ được ăn một bữa; trên nhiều đường
trong bờ ruộng làng, nhà chung cùng với dân làng, cho làm nhiều lều tranh tạm trú
cho những người từ các làng quê kéo ra xin ăn, vì không còn thóc hay khoai sắn để
ăn. Quân đội Nhật ra lệnh, dưới áp lực súng ống lưỡi lê, cho tất cả các nông gia phải
đóng thuế bằng hiện vật, tức là phải gánh hết thóc trong nhà đổ vào các kho chứa
của nhà nước lúc đó mà người Nhật đã chiếm đóng và quản lý.
Có cả trăm người lết đến khu vực Nhà Chung Ninh Cường tạm trú trong các lều
tranh bên vệ đường có dựng lều. Thấy thế, Nhà chung cho nhà bếp nấu cháo, phân
phát cho những người đói ăn. Có người ăn được bát cháo hôm trước, thì hôm sau
lăn đùng ra chết; người ta chết xếp chồng lên nhau cả hàng chục hằng trăm không
đếm cho xiết. Lúc đó cũng từ trong Nhà chung có nhiều cha ra ngoài đi làm các
17


phép sau cùng cho người đau ốm, như cha Học đi xức dầu cho kẻ liệt, người đói
trước khi chết, do chính chú Thái đi giúp cha cầm bình dầu hay nước phép, và đo
đó, chính chú Thái đã chứng kiến tất cả những hình ảnh khủng khiếp ấy và kể lại
với hồi ức thật sống động ở tuổi gần 80.
Người trong làng, ai còn khỏe mạnh thì thường rủ nhau ra cánh đồng đào những hố
lớn trên rồi ném chôn vùi xác chết xuống vội lấp đất sơ sài, vì số người chết quá
đông chôn không kịp. Mùi hôi thối xác chết bốc lên nồng nặc mấy tháng trời.
Nhưng một kích bản thảm thương, nghịch lý, nhưng lại rất khoa học xảy đến trước
sự chứng kiến của những người còn may mắn sống sót, nhất là các nông dân: các vụ
trồng cấy gặt hái lúa năm sau lại tươi tốt và thu hoạch nhiều vô kể hơn bao giờ hết,
chắc là nhở nhiều xác người chết đã thối rữa trở thành phân bón hảo hạng cho đồng

ruộng nhập nước! Nếu người Nhật còn thống trị ở châu Á Thái Bình Dương, sau
ngày 15/8/1945, thì chính họ phải trở thành những kẻ khai thác xác người tinh vi tàn
bạo chẳng khác nào quân phát xít Đức khai thác các mạng người trong thế chiến thứ
II ở trong các trại giam và lò thiêu người bên châu Âu!
Tại vùng này có một tướng cướp khét tiếng tên là Mạnh, đi cướp phá các làng
chung quanh. Anh ta hoành hành nhiều làng mạc, đốt phá nhà cửa, giết người, lấy
nhiều của cải thóc lúa của dân lành, mà mãi không ai trừ diệt được. Một hôm, người
ta đuổi bắt tên cướp, và nhờ mưu của một linh mục quàn trị trong vùng, phải dùng
đến cách giăng và chụp lưới mới bắt được tên cướp đang tìm cách trốn thoát này,
giải giao cho chính quyền địa phương nghiêm trị làm gương, trừ hậu họa cho dân
làng.
Cũng về cái nạn trộm cướp, tìm cách hôi của năm Ất Dậu này, Cụ Nguyễn Hữu
Huỳnh trong buổi sáng nói chuyện về ký ức Nạn đói 1945 tại Việt Nam, chung
quanh chén trà sớm với một số bô lão, ngày 4/1/2005 tại Nhà thờ Thánh Tâm,

18


Dayton, Ohio, cụ năm nay đã 78 tuổi, kể lại một điều mắt thấy tai nghe về một
chi tiết thưong tâm mà nực cười :
“Tại một gia đình “có của ăn của để” ở một làng quê vùng Kẻ Sông, tỉnh Hà Nam,
Bắc Kỳ, người dân làng không bị đói ăn, nhưng hầu hết những người đói ăn từ phía
Nam, tức là vùng Vinh, Bùi Chu, Phát Diệm, … theo ký ức của cụ hiện nay, đi ăn
xin và cứ thế tiến dần ra phía Bắc, hy vọng kiếm được của ăn, rồi chết đói ở đó. Họ
đào bới ăn tất cả những thứ củ quả nào còn có thể ăn cho đầy bụng, củ chuối, bắp
chuối, củ khoai, củ ráy, …. Có người ăn nhiều quá lại bị “bội thực”[4] lăn quay ra
chết “no”! Khi không còn gì nữa thì nhưng người còn chút sức tàn đi theo những
tay anh chị đi cướp hay lấy trộm trong cót thóc của những người còn chút của cải.
Một cảnh đau lòng là nhiều người có của phải canh ngày đêm để nền nhà kho khỏi
bị đào ngạch cướp thóc đựng trong lẫm.

Người ta có những “sáng kiến rất dân quê và độc đáo” là dùng đến những chiếc
“bừa ruộng” để chộp những tay mạo hiểm đào bên dưới cót thóc để kiếm ăn như
người ta săn chuột. Nhưng thay vì những thứ cạm bẫy chuyên môn để bắt chuột, họ
dùng “bừa ruộng”để chặn cổ những tay nào bạo gan đào lỗ dưới đất, chui vào chung
quanh cót quây tròn, dựng cao, để lấy trộm được ít thóc. Đây cũng là những tay săn
trộm ngộ nghĩnh: họ chặn cổ xong kẻ ăn trộm, cảnh cáo, rồi chỉ răn đe, cho đi khuất
mắt ngay, mà không có bất kỳ hảnh vi bất nhân nào! Một chi tiết khá lý thú của
người nông dân miền quê, bảo quản thức ăn là không dự trữ gạo, nhưng là thóc, tức
là những hạt gao còn nguyên trong vỏ trấu bao bên ngoài. Trấu chính là một màng
cứng bảo vệ hạt gạo an toàn, không bị thối, mọt hay kiến và chốn một cách hiệu quả
nhiều loại sâu bọ tấn công và trữ được rất lâu!” .
2.Hậu quả
Không có số liệu chính xác về số người đã chết đói, nhưng một số nguồn khác
nhau ước tính là từ khoảng 400.000 đến 2 triệu người đã bị chết đói tại miền bắc
19


Việt Nam trong thời điểm này. Tháng 5 năm 1945, bảy tháng sau khi trận đói bùng
nổ tại miền bắc, toà khâm sai của triều đình Huế tại Hà Nội ra lệnh cho các tỉnh
miền Bắc phúc trình về tổn thất. Có 20 tỉnh báo cáo số người chết vì đói ở miền bắc
là hơn 380.000, chết vì bệnh – không rõ nguyên nhân – là hơn 20.000, tổng cộng
400.000 cho riêng miền bắc. Tháng 10 năm 1945, theo báo cáo của một quan chức
quân sự của Pháp tại Đông Dương khi đó là tướng Mordant thì khoảng nửa triệu
người chết. Toàn quyền Pháp Jean Decoux thì viết trong hồi ký của ông về thời kỳ
cầm quyền tại Đông Dương "À la barre de l’Indochine" – là có 1 triệu người miền
Bắc chết đói. Các nhà sử học Việt Nam ước đoán là từ 1 đến 2 triệu. Nhiều nhà sử
học sau này nêu con số 1 triệu trong khi những người sinh sống tại miền Bắc khi đó
thì thiên về con số 2 triệu, là điều Hồ Chí Minh có nhắc đến trong bài Tuyên ngôn
Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945.
3. Chống giặc đói

Sau cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám giành thắng
lợi, ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, trước
hàng chục vạn đồng bào cả nước, Chủ tịch Hồ Chí
Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời trịnh trọng đọc
bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và
thế giới rằng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã
ra đời. Một ngày sau khi ra mắt toàn thể quốc dân tại
quảng trường Ba Đình, trong phiên họp đầu tiên của

Lễ phát động Ngày cứu đói tại
Nhà Nhà hát lớn Hà Nội

Hội đồng Chính phủ ngày 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên sáu vấn đề
cấp bách nhất mà Chính phủ cần giải quyết ngay.
Trong sáu vấn đề đó, vấn đề số 1 là cứu đói: “Nhân dân ta đang đói... Những người
thoát chết đói, nay cũng bị đói. Chúng ta phải làm thế nào cho họ sống” (Hồ Chí
Minh toàn tập).
20


Có hai giải pháp chống giặc đói.
3.1.Giải pháp cấp cứu: nhường cơm sẻ áo
Trong thư gửi đồng bào cả nước đăng trên Báo Cứu Quốc ngày 28-9-1945, Chủ
tịch Hồ Chí Minh viết: “Lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ,
chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước, và tôi
xin thực hiện trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn ba bữa. Đem gạo
đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo”.
Ngay từ giữa tháng chín, Chính phủ đã tổ chức một lễ phát động phong trào cứu
đói. Buổi lễ này được tổ chức long trọng tại Nhà hát lớn. Cụ Ngô Tử Hạ, người cao
tuổi nhất trong Quốc hội, là chủ tịch buổi lễ, đã long trọng đọc lời kêu gọi toàn dân

hãy nhường cơm sẻ áo, mỗi nhà bớt một chút gạo để cứu giúp những người đang
đói. Chính cụ cầm càng một chiếc xe bò tượng trưng để đi các phố phường, nhân
dân ai có chút gạo chút ngô đều mang ra đóng góp vào phong trào cứu đói.
Chính phủ còn phái một ủy ban vào Nam bộ điều tra và cấp tốc tổ chức việc vận
chuyển gạo ra Bắc. Chính phủ cũng hô hào các hội buôn và tư nhân tham gia công
việc vận chuyển này. Việc vận chuyển gạo từ Nam ra Bắc chỉ thực hiện được trong
tháng 9-1945, với tổng số không quá 30.000 tấn. Từ sau khi Pháp gây chiến ở Nam
bộ, con đường vận chuyển bằng đường sắt bị khó khăn và không bao lâu sau thì tắc
nghẽn.
3.2.Giải quyết vấn đề từ gốc: tăng gia sản xuất
Tăng gia sản xuất không chỉ là cơ sở để giải quyết triệt để nạn đói, mà còn là cơ sở
cho toàn bộ chính sách kinh tế của Chính phủ Cách mạng VN. “Thực túc thì binh
cường. Cấy nhiều thì khỏi đói. Chúng ta thực hiện tấc đất tấc vàng thì chúng ta
quyết thắng lợi trong hai việc đó. Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng
21


gia sản xuất nữa! Đó là khẩu hiệu của ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng
ta để giữ vững quyền tự do độc lập” (Hồ Chí Minh toàn tập).
Để phục vụ tăng gia sản xuất, điều cấp bách trước mắt là phải hàn khẩu xong các
quãng đê bị vỡ, củng cố hệ thống đê điều, đắp thêm một số đê mới. Việc này không
thể chỉ dùng nhân lực mà còn cần có những chuyên gia. Nhà nước quyết định cho
đấu thầu việc đắp đê. Chủ thầu phải là những chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh
vực này.
Cụ Nguyễn Xiển, lúc đó là chủ tịch Ủy ban hành chính Bắc bộ, là người trực tiếp
điều hành việc đắp đê, kể lại trong bài hồi ký về sự nghiệp đắp đê sau cách mạng:
“Cách làm đó lại gặp những mắc mớ về quan điểm. Có người nói: “Làm cách mạng
mà còn dùng thầu khoán? Thầu khoán là bóc lột nhân công”. Chính Bác Hồ, trong
một chuyến đi thị sát đắp đê, đã giải đáp vấn đề này: “Thầu khoán đắp đê lúc này là
yêu nước”. Câu trả lời trên đã giải tỏa được những vướng mắc”. Đồng thời với việc

đắp đê, phải gấp rút tiến hành trồng trọt, thực hiện khẩu hiệu “tấc đất tấc vàng”.
Chính quyền tất cả các địa phương quyết định cho phép sử dụng những đất công
cộng còn trống như sân bãi, vỉa hè, bờ đê để trồng trọt.
Chính quyền còn vận động cả tư nhân cho sử dụng tạm các vườn trống quanh nhà
để tăng gia sản xuất. Mỗi địa phương lập ra một tiểu ban để huy động nhân lực và tổ
chức sản xuất. Lương thực làm ra được dùng để cứu tế...
Ở Hà Nội, học sinh đã cuốc xới cả sân trường, vỉa hè, bất cứ nơi nào đất trống. Viên
chức cuốc vườn trong công sở để trồng ngô, khoai... Thanh niên thủ đô chia thành
những đội tăng gia đi trồng sắn ở bờ đê, bãi sông, lề đường.
Bộ trưởng Bộ Lao động lúc đó là Lê Văn Hiến kể lại: “Vào khoảng tháng 11-1945,
tôi được Bác gọi sang giao nhiệm vụ mới là thay mặt Bác đi kinh lý các tỉnh phía

22


Nam. Tôi đã báo cáo với Bác tình hình bộ trước khi đi. Bác nghe xong hỏi luôn:
“Chú còn quên không báo cáo một chuyện nữa”.
Tôi ngớ người, vì trước khi gặp Bác tôi đã chuẩn bị rất đầy đủ những tài liệu về
công việc của Bộ Lao động trong hai tháng qua. Chẳng lẽ mình còn thiếu sót gì?
Tôi nói: “Thưa Chủ tịch, còn chuyện gì nữa?”. Bác bảo: “Chú quên không nói về
tình hình tăng gia sản xuất. Ở trước cửa bộ chú có một vườn rất rộng để không, dân
thì đói, tại sao không cuốc lên trồng khoai trồng sắn để cứu đói. Trước khi đi công
tác chú phải nhắc nhân viên làm việc đó”.
Trên đường trở về bộ, tôi thầm nghĩ: Bác quả là người thấu đáo, không quên một
việc gì. Một việc nhỏ như thế, mình là bộ trưởng cũng không để ý tới, Bác ở tận xa
mà Bác còn biết. Tôi liền triệu tập anh em trong bộ, nói ý kiến của Bác. Hôm sau
mọi người đến sớm, người thì dao, người thì cuốc, thuổng, ào ào xới đất lên để
trồng khoai...”.
Mặt trận quyết định nhất của tăng gia sản xuất cuối năm 1945 đầu 1946 là trồng
màu. Lúa không còn kịp thời vụ nữa, phải dành phần lớn đất đai để tranh thủ trồng

liên tiếp hai vụ màu bù cho phần thiếu hụt về lúa. Đây là giải pháp sáng suốt. Phải
trồng màu ngay từ tháng 11-1945 để tháng giêng đã có thu hoạch khoai lang. Tháng
hai đã có thu hoạch ngô, đậu.
Ngay sau đó, trồng tiếp một vụ nữa có thể cho thu hoạch bổ sung vào tháng ba và
tháng tư để chịu đựng được suốt thời kỳ giáp hạt cho đến vụ thu hoạch lúa chiêm
vào tháng năm.
Kết quả sản lượng màu đã tăng gấp bốn lần so với thời kỳ Pháp thuộc. Chỉ trong
năm tháng từ tháng 11-1945 đến tháng 5-1946 đã đạt 614.000 tấn, qui ra thóc là
506.000 tấn, hoàn toàn có thể bù đắp được số thiếu hụt của vụ mùa năm 1945. Bằng
23


chứng rõ nhất là dân không đói, giá thóc gạo không tăng mà lại giảm. Giặc đói đã bị
đánh lui.
***
Trong lễ kỷ niệm một năm độc lập, Quốc khánh 2-9-1946, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ
Nguyên Giáp tuyên bố: “Cuộc cách mạng đã chiến thắng được nạn đói, thật là
một kỳ công của chế độ dân chủ”.
Trong hoàn cảnh nghiệt ngã lúc đó, lụt và hạn hoành hành, giặc ngoại xâm hoành
hành, tiền và phương tiện gần như không có gì, giống má cạn kiệt, trâu bò chết gần
hết…, mà đánh thắng được giặc đói, thắng một cách oanh liệt thì quả là một kỳ
công. Kỳ công đó không thuộc riêng ai. Đó là sự nỗ lực của toàn dân. Nhưng không
chỉ đơn giản là như vậy.
Cũng là toàn dân Việt Nam đấy mà năm trước đó thôi tại sao hàng triệu người vẫn
chết đói? Còn phải kể đến một nhân tố vô cùng quan trọng nữa: nhờ có chính quyền
cách mạng, nhờ tài tổ chức của chính quyền đó.
Đó là sự thật. Đó cũng là lý do giải thích tại sao tuyệt đại đa số dân chúng đã tin và
đã theo Việt Minh.
IV- KHÔNG THỂ QUÊN BIỂU TƯỢNG NẠN ĐÓI NĂM 1945
Cây số 3 trên đường từ Thái Bình đi Hà Nội nay là một cụm công nghiệp, thương

mại sầm uất của thành phố Thái Bình với những hàng quán ăn uống đặc sản đủ món
Tây, Tàu. Nếu không được nghe những câu chuyện của 60 năm trước thì không ai
nghĩ từng có hàng vạn con người đói rách quằn quại tụ tập ở đây mà hy vọng một
con đường sống.

24


Bảo tàng tỉnh Thái Bình đang hoàn thành giai đoạn cuối những hạng mục xây
dựng tân thời. Thật khang trang, quy mô và cũng khá phong phú các hiện vật trưng
bày. Thế nhưng rất tiếc, về nạn đói đau thương nhất lịch sử dân tộc và lịch sử Thái
Bình thì nơi này chỉ trưng bày 5-6 tấm ảnh của nhà nhiếp ảnh Võ An Ninh.
Trở về Hà Nội, tìm đến nơi từng là nghĩa trang Phúc Thiện, nấm mồ tập thể chôn
vùi hàng vạn con người không gỗ ván, không hương khói, mộ chí, mà lạc vào công
viên Thủ Lệ, được nhìn thấy những con người đang hạnh phúc nô cười trong tiết
thanh xuân. Đi tìm nghĩa trang Hợp Thiện phải mất mấy ngày dò hỏi mới đoán
được khu vực cần đến.
Đó là khu tập thể Nhà máy dệt 8-3, quận Hai Bà Trưng. Nghĩa trang đã bị xóa
dấu tích hoàn toàn. Những căn nhà cao tầng thi nhau mọc lên. Người bán nước nói:
thỉnh thoảng người ta làm đường, xây nhà cũng gặp hàng núi đầu lâu, chân tay
người chất chồng trong lòng đất. Họ thắp nén hương rồi gạt xương ra và tiếp tục
đào…
Theo lời chỉ dẫn của những người già, tìm vào một hẻm nhỏ trên đường Kim
Ngưu, rẽ vào ngách 559 với những dãy nhà cao vút nhưng chỉ chừa đủ chỗ cho một
chiếc xe luồn lách. Bên phải cái ngách này là đường cụt. Nhìn thật kỹ mới thấy
cổng vào rộng chừng 1,5m của khu tưởng niệm những nạn nhân 1945. Khu
tưởng niệm lọt thỏm trong những bức tường nhà kiên cố.
Công trình lớn nhất ở đây là tấm bia đá khắc bài tế của giáo sư Vũ Khiêu cho
những vong hồn xấu số. Kế bên là bức tường đắp dòng chữ “Nơi an giấc ngàn năm
của đồng bào chết vì oanh tạc và nạn đói 1944 – 1945” và vài bệ đặt bát hương. Coi

giữ nơi này là một người đàn bà luống tuổi, không ngớt mồm quảng cáo về chuyện
âm hồn, linh ứng để mời khách đặt lễ…

25


×