Tải bản đầy đủ (.pdf) (141 trang)

Đảng bộ liên khu III lãnh đạo phong trào phụ nữ trong kháng chiến chống thực dân pháp ( 1946 1954)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.13 MB, 141 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ THẢO

ĐẢNG BỘ LIÊN KHU III
LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO PHỤ NỮ
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP (1946-1954)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
_____________________________________________

NGUYỄN THỊ THẢO

ĐẢNG BỘ LIÊN KHU III
LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO PHỤ NỮ
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP (1946-1954)

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 03.15

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Trần Văn Thức


HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, công trình nghiên cứu là do bản thân thực hiện; các
thông tin và số liệu trong luận văn có xuất xứ rõ ràng, đảm bảo trung thực và
tin cậy; những đánh giá và kết luận trong luận văn chƣa từng công bố ở bất kỳ
công trình nào khác.
Hà Nội, tháng 12 năm 2014
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thảo


LỜI CẢM ƠN
Luận văn đƣợc hoàn thành dƣới sự hƣớng dẫn tận tình của TS. Trần
Văn Thức, nguyên Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử kháng chiến chống thực dân
Pháp, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam; với sự tạo điều kiện của Khoa Lịch sử
Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn- Đại học Quốc gia Hà Nội,
Bộ môn Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp,Viện Lịch sử quân sự Việt
Nam, Trung tâm Lƣu trữ Bộ Quốc phòng, Cục Lƣu trữ Văn phòng Trung
ƣơng Đảng, Thƣ Viện Quốc gia Việt Nam, Thƣ Viện Quân đội; trong quá
trình hoàn thành luận văn, tác giả nhận đƣợc sự quan tâm động viên của gia
đình, sự hậu thuẫn từ đồng đội, bạn bè.
Qua đây, tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo hƣớng dẫn Trần Văn
Thức; tôi cũng gửi lời cảm ơn Khoa Lịch sử Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn-Đại học Quốc gia Hà Nội, Bộ môn Lịch sử kháng chiến chống
thực dân Pháp, Phòng Thông tin- Tƣ liệu, Viện Lịch sử quân sự Việt
Nam,Trung tâm Lƣu trữ Bộ Quốc phòng, Cục Lƣu trữ Văn phòng Trung ƣơng
Đảng, Thƣ Viện Quốc gia Việt Nam, Thƣ Viện Quân đội và đồng đội, bạn bè;

cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn và tình cảm sâu sắc gửi đến những ngƣời
thân của tôi.
Hà Nội, tháng 12 năm 2014
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thảo


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………...1
Chƣơng 1: CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ LIÊN KHU III ĐỐI
VỚI PHONG TRÀO PHỤ NỮ TỪ NĂM 1946 -1950………………………………...9
1.1. Các yếu tố tác động và chủ trƣơng của Đảng bộ Liên khu III đối với
phong trào phụ nữ…………………………………………………………………9
1.1.1. Các yếu tố tác động tới chủ trương của Đảng bộ Liên khu III………….9
1.1.2. Chủ trương của Đảng bộ Liên khu III về phong trào phụ nữ………….25
1.2. Quá trình chỉ đạo thực hiện của Đảng bộ Liên khu III……………………………29
1.2.1.Củng cố tổ chức, tham gia các hoạt động xây dựng đời sống, kinh tế phục
vụ kháng chiến và từng bước tham gia kháng chiến………………………….29
1.2.2.Hoạt động trên mặt trận đấu tranh vũ trang, bước đầu tham gia công tác
binh địch vận, tiếp tục củng cố xây dựng Hội………………………………..35
Tiểu kết Chƣơng 1……………………………………………………………………42
Chƣơng 2: ĐẢNG BỘ LIÊN KHU III ĐẨY MẠNH LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO
PHỤ NỮ TỪ NĂM 1952 ĐẾN NĂM 1954…………………………………………...45
2.1. Những yêu cầu mới của Đảng bộ Liên khu III……………………………………45
2.1.1. Yêu cầu mới và chủ trương của Đảng về phong trào phụ nữ……………45
2.1.2.Chủ trương của Đảng bộ Liên khu III về phong trào phụ nữ……………51
2.2. Quá trình chỉ đạo thực hiện của Đảng bộ Liên khu III…………………………….55
2.2.1.Tham gia ủng hộ các chiến dịch lớn trên chiến trường, tăng gia sản xuất,
tiếp tục bao vây phá hoại kinh tế địch, làm nòng cốt trong các cuộc vận động

thi đua………………………………………………………………………………….55
2.2.2. Đẩy mạnh hoạt động du kích, công tác binh địch vận và chống bắt lính,
đấu tranh chống âm mưa phá Hiệp định Giơnevơ………………………………59
Tiểu kết Chƣơng 2……………………………………………………………………65


Chƣơng 3: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM……………………………………….67
3.1. Nhận xét………………………………………………………………………….67
3.1.1. Ưu điểm………………………………………………………………..67
3.1.2. Hạn chế………………………………………………………………..72
3.2. Kinh nghiệm……………………………………………………………………..76
3.2.1.Sự lãnh đạo của Đảng bộ Liên khu III là nhân tố quyết định quá trình
phát triển của phong trào phụ nữ trên địa bàn……………………………….76
3.2.2. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ phụ nữ cốt cán từ các phong trào
trong kháng chiến…………………………………………………………….77
3.2.3. Để phong trào phụ nữ phát triển, phải quan tâm giải quyết các vấn đề về
đời sống của phụ nữ…………………………………………………………..79
Tiểu kết Chƣơng 3……………………………………………………………………80
KẾT LUẬN…………………………………………………………………………..82
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN.85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………86
PHỤ LỤC……………………………………………………………………………96


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngay từ
khi mới ra đời đã đánh giá cao vai trò của các tổ chức quần chúng, trong đó
có phong trào phụ nữ. Trong đấu tranh cách mạng, Đảng đã nhận định: “Phụ
nữ là một lực lƣợng cách mạng rất lớn, Đảng ta phải hết sức chú ý đem phụ

nữ vào trƣờng tranh đấu, phải kéo họ tham gia các hình thức cách mạng tranh
đấu”[31, tr.68] và coi họ là một “đội quân đặc biệt”[32, tr.339]. Trong kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lƣợc, phát huy truyền thống yêu nƣớc, truyền
thống anh hùng chống giặc ngoại xâm của dân tộc, phụ nữ Việt Nam thuộc
mọi tầng lớp lứa tuổi đã tham gia kháng chiến và có đóng góp đáng kể cho sự
nghiệp kháng chiến và kiến quốc.
Liên khu III thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp là nơi tập trung
nguồn nhân lực, vật lực dồi dào, là vị trí chiến lƣợc cả về kinh tế, chính trị và
quân sự. Chính vì vậy, khi tái xâm lƣợc nƣớc ta, thực dân Pháp luôn tìm mọi
cách để chiếm lấy vùng này nhằm tạo thành hậu phƣơng kháng chiến của
chúng, thực hiện âm mƣu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” “dùng ngƣời
Việt trị ngƣời Việt”. Dƣới sự lãnh đạo của Đảng, phụ nữ Liên khu III thuộc
mọi tầng lớp lứa tuổi, ở cả nông thôn và thành thị, đã anh dũng, kiên cƣờng,
mƣu trí, đấu tranh chống kẻ thù bằng mọi hình thức, trên các mặt trận; những
hoạt động của phụ nữ trong kháng chiến chống thực dân Pháp trở thành các
phong trào cuốn hút đƣợc đông đảo quần chúng tham gia. Đảng bộ Liên khu
III đã biết tranh thủ những ƣu điểm đó, vận dụng vào cuộc kháng chiến và
kiến quốc trên địa bàn. Khi có các chủ trƣơng, đƣờng lối phù hợp, phụ nữ đã
có đóng góp không nhỏ trong cuộc kháng chiến của quân và dân Liên khu III.
Nghiên cứu về lịch sử Đảng bộ Liên khu III lãnh đạo phong trào phụ nữ trong
kháng chiến chống thực dân Pháp nhằm góp phần dựng lại bức tranh toàn
1


cảnh của cuộc kháng chiến trƣờng kì 9 năm của dân tộc, làm rõ hơn tính chất
toàn dân, toàn diện của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp do Đảng lãnh
đạo; rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình Đảng lãnh đạo phong
trào phụ nữ; tôn vinh những đóng góp của phụ nữ Liên khu III trong kháng
chiến chống thực dân Pháp. Qua đó, làm động lực để cổ vũ, động viên các thế
hệ phụ nữ trên địa bàn tiếp tục phấn đấu, xây dựng Hội Liên hiệp phụ nữ

trong giai đoạn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Xuất phát từ những lý
do đó, chúng tôi chọn đề tài “Đảng bộ Liên khu III lãnh đạo phong trào phụ
nữ trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954)” làm đề tài luận văn
tốt nghiệp thạc sĩ, chuyên ngành Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề Đảng bộ Liên khu III lãnh đạo phong trào phụ nữ trong kháng
chiến chống thực dân Pháp 1946-1954 đã đƣợc nhiều công trình nghiên cứu,
đề cập đến ở những mức độ, khía cạnh khác nhau. Căn cứ vào nội dung
nghiên cứu có liên quan, có thể chia tƣ liệu thành các nhóm công trình nhƣ
sau:
1. Những công trình có đề cập tới sự lãnh đạo của Đảng đối với phong
trào phụ nữ.
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 6, 7, 8, 9, 12, Nxb
CTQG, Hà Nội, 2000. Các văn kiện đánh giá vai trò của các phong trào quần
chúng, trong đó phong trào phụ nữ, những đóng góp tích cực cho Cách mạng
Việt Nam; nêu lên các hạn chế khi chƣa nhìn nhận đúng vai trò của phong
trào phụ nữ trong từng giai đoạn đấu tranh của cuộc Cách mạng. Ban Chấp
hành trung ƣơng Đảng Lao Động Việt Nam, Văn kiện Đảng về công tác vận
động phụ nữ (Từ 1930-1969), Nxb Phụ Nữ, Hà Nội, 1970. Nguyễn Thị Thập
(Chủ biên), Lịch sử phong trào phụ nữ Việt Nam, Tập 1, Nxb Phụ Nữ, Hà
Nội, 1981. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Biên niên lịch sử Hội Liên hiệp

2


phụ nữ Việt Nam, Tập 1 (1930-1976), Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 2012. Các tác
phẩm có đề cập đến các Nghị quyết, Chỉ thị đối với phong trào phụ nữ cả
nƣớc nói chung trong đó có phụ nữ Liên khu III trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp.
2. Một số công trình viết về sự lãnh đạo của Đảng bộ và phong trào kháng

chiến của các địa phương Liên khu III.
Các công trình đề cập đến lịch sử hình thành và phát triển của Đảng bộ
Liên khu III, Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên
khu III có: Bộ Quốc Phòng - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Lịch sử kháng
chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Tập 1, 2, Nxb QĐND, Hà Nội,
1994. Đảng ủy - Bộ Tƣ lệnh Quân khu 3, Lịch sử Đảng bộ Quân khu 3, Tập 1,
Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945- 5.1955), Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội, 2008. Bộ Quốc phòng - Bộ Tƣ lệnh Quân khu 3 và Viện
Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của
quân và dân Liên khu III (1945-1955), Nxb CTQG, Hà Nội, 2005. Quân khu
Ba Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb QĐND, Hà Nội, 1990. Vũ
Quang Hiển, Đảng lãnh đạo xây dựng căn cứ du kích ở đồng bằng Bắc Bộ
(1946-1954), Nxb CTQG, Hà Nội, 2001. Đây là những tài liệu cung cấp cho
luận văn về lịch sử hình thành, phát triển của Liên khu III, Đảng bộ Liên khu
III và lịch sử đấu tranh của quân và dân Liên khu III trong kháng chiến chống
thực dân Pháp. Với Luận án Tiến sĩ lịch sử của TS. Trần Văn Thức, Cuộc đấu
tranh chống phá hội tề ở đồng bằng Bắc Bộ (1947-1954), Hà Nội, 2005, đã
cung cấp cho luận văn cái nhìn tổng thể về cuộc đấu tranh của nhân dân vùng
đồng bằng Bắc Bộ, chống phá chính quyền ngụy do thực dân Pháp lập ra ở
vùng đồng bằng Bắc Bộ trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đặc biệt là
các tỉnh trong Liên khu III.

3


3.Những công trình đề cập đến hoạt động của phụ nữ Liên khu III trong
kháng chiến chống thực Pháp.
Bộ Quốc Phòng - Viện Lịch sử Quân sự, Hậu phương chiến tranh nhân
dân Việt Nam (1945-1954), Nxb QĐND, Hà Nội, 1997. Kinh Lịch, Nữ du
kích Hoàng Ngân, Nxb QĐND, Hà Nội, 1965. Kinh Lịch, Nhân dân Tán

Thuật đánh giặc giữ làng, Nxb QĐND, Hà Nội, 1963. Hội Liên hiệp phụ nữ
tỉnh Bắc Ninh, Lịch sử phong trào phụ nữ Bắc Ninh (1930-2000), tỉnh Bắc
Ninh Xuất bản năm 2000. Lịch sử phong trào phụ nữ Hà Nội (1930-1975),
Nxb Hà Nội, 2005, Đường 5 anh dũng quật khởi, Nxb Hải Phòng, 1998…
Nhóm tài liệu kể trên có đề cập đến các hoạt động của phụ nữ Liên khu III
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, với nhiều hình thức khác nhau
nhƣng chủ yếu là các hoạt động tham gia kháng chiến. Đáng kể nhất là tác
phẩm Lịch sử phụ nữ đồng bằng Bắc Bộ trong kháng chiến chống thực dân
Pháp (1946-1955), Nxb Lao Động, Hà Nội, 2000, của Ban Chấp hành Hội
Liên hiệp Phụ nữ Liên khu III, cuốn sách đề cập đến các hoạt động của phong
trào phụ nữ Liên khu III từ năm 1946 đến năm 1955. Đây là một công trình
nghiên cứu xuyên suốt lịch sử hình thành, phát triển và hoạt động của phong
trào phụ nữ Liên khu III trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Tuy
nhiên, cuốn sách chƣa đề cập nhiều đến các chủ trƣơng chỉ đạo cụ thể của
phong trào phụ nữ Liên khu III trong từng thời điểm lịch sử của cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp.
Ngoài ra còn có các Nghị quyết, Chỉ thị, Báo cáo hàng năm và định kỳ
của Liên khu ủy III, của Khu hội phụ nữ Liên khu III đƣợc lƣu tại Cục Lƣu
trữ Văn phòng Trung ƣơng Đảng, các Báo cáo về tình hình Liên khu III trong
những năm kháng chiến chống thực dân Pháp đƣợc lƣu trữ tại Trung tâm Lƣu
trữ Bộ Quốc phòng, đã đề cập đến chủ trƣơng chỉ đạo của Đảng, Liên khu ủy

4


III, kết quả của các hoạt động phong trào phụ nữ Liên khu III trong kháng
chiến chống thực dân Pháp trong từng năm.
4.Những vấn đề mà các công trình đã công bố chưa làm sáng tỏ
Chƣa trình bày một cách có hệ thống các chủ trƣơng, biện pháp lãnh đạo,
chỉ đạo của Đảng bộ Liên khu III đối với phong trào phụ nữ từ năm 1946 đến

năm 1954.
Chƣa đánh giá những ƣu điểm, hạn chế, kinh nghiệm của Đảng bộ Liên
khu III về quá trình lãnh đạo phong trào phụ nữ trong kháng chiến chống thực
dân Pháp (1946-1954).
5.Những vấn đề luận văn tập trung giải quyết
Trình bày và phân tích các chủ trƣơng, biện pháp lãnh đạo của Đảng bộ
Liên khu III đối với phong trào phụ nữ trên địa bàn trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp (1946-1954).
Việc thực hiện các chủ trƣơng, đƣờng lối của phụ nữ Liên khu III trong
giai đoạn này.
Bƣớc đầu tổng kết những ƣu điểm, hạn chế và một số kinh nghiệm rút ra
từ sự lãnh đạo của Đảng bộ Liên khu III đối với phong trào phụ nữ trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954).
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
- Làm rõ sự lãnh đạo của Đảng bộ Liên khu III đối với phong trào phụ trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954), từ đó rút ra một số kinh
nghiệm lịch sử.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tập hợp và hệ thống hóa những tài liệu liên quan đến đề tài.
- Trình bày một cách có hệ thống các chủ trƣơng của Đảng, Liên Khu ủy III,
đối với phong trào phụ nữ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

5


- Bƣớc đầu rút ra những ƣu điểm, hạn chế cùng một số kinh nghiệm của
Đảng bộ Liên khu III từ thực tế lãnh đạo phong trào phụ nữ trong kháng chiến
chống thực dân Pháp 1946-1954.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng:
- Chủ trƣơng chỉ đạo của Đảng, của Đảng bộ Liên khu III đối với phong trào
của phụ nữ trong kháng chiến chống thực dân Pháp 1946-1954.
- Hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng bộ Liên khu III thể hiện ở các phong trào,
các hoạt động của phụ nữ trên địa bàn trong giai đoạn này.
4.2.Phạm vi nghiên cứu:
- Về thời gian: Luận văn tập trung trình bày đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng
bộ Liên khu III chỉ đạo phong trào phụ nữ trong những năm 1946 đến năm
1954. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bắt đầu từ năm 1945 ở Nam
Bộ, đến cuối năm 1946 thực dân Pháp đánh chiếm Liên khu III và nhân dân
nơi đây bắt đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, do vậy luận văn đề cập đến
các chủ trƣơng của Đảng bộ liên khu III và quá trình chỉ đạo thực hiện phong
trào phụ nữ từ năm 1946.
- Về không gian: Luận văn đi sâu nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ Liên
khu III đối với phong trào của phụ nữ các tỉnh thuộc Liên khu III, nhƣng năm
1948 Liên khu III mới đƣợc thành lập trên cơ sở hợp nhất Khu II, Khu III và
Khu XI. Do vậy luận văn đề cập đến chủ trƣơng và sự chỉ đạo phong trào phụ
nữ của Khu II, Khu III và Khu XI từ năm 1946-1947. Năm 1952, Trung ƣơng
Đảng tách các tỉnh Hải Phòng, Kiến An, Hải Dƣơng, Hƣng Yên, Thái Bình
thành lập Khu Tả Ngạn, cho nên từ năm 1952 luận văn không đề cập đến chủ
trƣơng của Khu ủy Tả Ngạn và sự chỉ đạo phong trào phụ nữ các tỉnh thuộc
Khu Tả Ngạn.

6


5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1 .Nguồn tư liệu:
- Các văn kiện của Đảng về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, về
phong trào phụ nữ. Các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng Lao Động Việt Nam,

Liên Khu ủy III, liên quan đến phong trào phụ nữ.
- Các cuốn sách viết về lịch sử phụ nữ Việt Nam, Lịch sử phụ nữ đồng bằng
Bắc Bộ, Lịch sử phong trào phụ nữ các địa phƣơng Liên khu III trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp.
- Hồi ký của các cán bộ trực tiếp tham gia và chỉ đạo phong trào phụ nữ Liên
khu III.
- Một số tài liệu có liên quan ở Cục Lƣu trữ Văn phòng Trung ƣơng Đảng,
Trung tâm Lƣu trữ Bộ Quốc phòng, Thƣ viện Quốc gia,Thƣ viện Quân đội…
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh về đƣờng lối lãnh đạo quần chúng của Đảng, luận văn sử dụng hai
phƣơng pháp chủ yếu là phƣơng pháp lịch sử và phƣơng pháp logic.
Phương pháp lịch sử: Trên cơ sở thu thập, khảo cứu các nguồn tƣ liệu
văn bản, các chủ trƣơng của Đảng bộ Liên khu III (Liên khu ủy III) đối với
phong trào phụ nữ từ năm 1946 đến năm 1954.
Phương pháp logic: Khai thác các nguồn tƣ liệu, sự kiện lịch sử, các
chủ trƣơng của Đảng bộ liên khu III chỉ đạo phong trào phụ nữ thuộc phạm vi
đề tài luận văn. Các chủ trƣơng, các phong trào phụ nữ đƣợc sắp xếp một
cách logic nhằm làm sáng tỏ mối liên hệ giữa các sự kiện, tổng kết, đánh giá
sự lãnh đạo của Đảng bộ Liên khu III.
Ngoài ra, luận văn sử dụng phƣơng pháp phân tích, so sánh, để làm rõ
chủ trƣơng của Đảng bộ Liên khu III đối với phong trào phụ nữ ở từng giai
đoạn cụ thể trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
7


6. Đóng góp của luận văn
- Bƣớc đầu trình bày có hệ thống các chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, Đảng
bộ Liên khu III với phong trào phụ nữ trong kháng chiến chống thực dân
Pháp.

- Trên cơ sở trình bày quá trình Đảng bộ Liên khu III lãnh đạo phong trào phụ
nữ, luận văn rút ra nhận xét đánh giá và nêu lên những kinh nghiệm về vấn đề
này.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mục lục, Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận
văn chia làm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ LIÊN KHU III ĐỐI VỚI
PHONG TRÀO PHỤ NỮ TỪ NĂM 1946 -1950
Chƣơng 2: ĐẢNG BỘ LIÊN KHU III ĐẨY MẠNH LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO PHỤ
NỮ TỪ NĂM 1951-1954
Chƣơng 3: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM

8


Chƣơng 1
CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ LIÊN KHU III
ĐỐI VỚI PHONG TRÀO PHỤ NỮ TỪ NĂM 1946 -1950
1.1. Các yếu tố tác động và chủ trƣơng của Đảng bộ Liên khu III đối với
phong trào phụ nữ
1.1.1. Các yếu tố tác động tới chủ trương của Đảng bộ Liên khu III
* Vị trí địa lý, điều kiện kinh tế- xã hội
Liên khu III là tên gọi của một tổ chức hành chính - quân sự bao gồm phần
lớn đồng bằng Bắc Bộ. Liên khu III đƣợc thành lập theo sắc lệnh số 120/SL
ngày 25.1.1948 [25, tr.15] của Chủ tịch Chính phủ nƣớc Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, trên cơ sở hợp nhất các Khu II, Khu III, Khu XI1 bao gồm các tỉnh,
thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình, Kiến An, Hải Dƣơng,
Hƣng Yên, Hà Nam, Ninh Bình, Hà Đông, Sơn Tây, Hòa Bình. Đến tháng 5
năm 1952, các tỉnh Hƣng Yên, Hải Phòng, Kiến An, Hải Dƣơng, Thái Bình
tách khỏi Liên khu III thành lập Khu Tả ngạn sông Hồng. Nhƣ vậy tên gọi và

địa giới hành chính Liên khu III trong kháng chiến chống thực dân Pháp có sự
thay đổi, không nhất quán từ đầu cho đến cuối cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp.
Về vị trí địa lý, phía đông Liên khu III giáp biển với chiều dài hơn 200
km, phía Bắc, Tây, Nam giáp với trung du miền núi Việt Bắc, Tây Bắc và
vùng đồng bằng tỉnh Thanh Hóa. Vùng biển Liên khu III trải dài theo bờ biển
các tỉnh, thành phố Hải Phòng, Kiến An, Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình.
Đây là một vùng đất phù sa trẻ, có địa hình tƣơng đối bằng phẳng. Đồng
1

Khu II (Chiến khu II) bao gồm các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây, Hòa Bình, Nam Định, Hà
Nam, Ninh Bình, Lai Châu, Sơn La; gần đến Toàn quốc Kháng chiến Hà Nội tách thành Khu đặc biệt (Khu
XI). Khu III (Chiến khu III) bao gồm các tỉnh Hải Dƣơng, Hƣng Yên, Hải Phòng, Kiến An, Quảng Yên, Hải
Ninh và Thái Bình.

9


ruộng xen kẽ với các cồn cát có độ cao từ 2-3m. Ven biển có đê chắn sóng
đƣợc xây dựng từ nhiều đời và theo thời gian không ngừng đƣợc bồi đắp
thêm. Phía ngoài đê chắn sóng là những bãi biển dài và rộng, khi thủy triều
lên ngập sâu từ 2-3m. Dọc theo bờ biển có nhiều cửa sông nhƣ Nam Triệu,
Cấm, Lạch Tray, Đa Độ, Văn Úc, Thái Bình, Diêm Điền, Trà Lý, Ba
Lạt…thuận tiện cho tàu, thuyền ra vào. Ngoài khơi có nhiều đảo và quần đảo
trong đó có nhiều đảo có vai trò quan trọng về quân sự cũng nhƣ về kinh tế
nhƣ Bạch Long Vĩ, Long Châu, Cát Bà, Cát Hải… Cùng với đó là hệ thống
sông ngòi dày đặc, điển hình là các sông Hồng, sông Thái Bình, sông Luộc,
sông Hóa, sông Đáy, sông Chanh... Mật độ bình quân gần 2 km sông/1km 2
diện tích tự nhiên trên địa bàn.
Khí hậu của Liên khu III mang đặc trƣng khí hậu vùng đồng bằng Bắc Bộ

và đƣợc chia thành 2 mùa rõ rệt. Mùa mƣa là mùa nắng nóng kéo dài từ tháng
5 đến tháng 10 hàng năm và mùa khô là mùa lạnh, bắt đầu từ tháng 11 đến
tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình trong mùa nóng từ 27-29 oC, có những
ngày nắng nóng lên tới 37-38 oC.
Hệ thống đƣờng giao thông ở Liên khu III phát triển khá sớm và tƣơng đối
hoàn chỉnh. Về đƣờng bộ có các tuyến đƣờng nối liền giữa Hà Nội với các
tỉnh: Hải Phòng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hòa Bình, Hà Nam,
Ninh Bình. Đƣờng sắt có các tuyến đƣờng nhƣ đƣờng bộ từ Hà Nội đi Yên
Bái, Hải Phòng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Nam Định và các tỉnh phía Nam. Hệ
thống đƣờng giao thông thủy có cả đƣờng sông và đƣờng biển nhƣ: sông
Hồng, sông Thái Bình, sông Bạch Đằng, đặc biệt là cảng Hải Phòng - cảng
lớn trong khu vực. Ngoài ra còn có hệ thống đƣờng không với các sân bay
Bạch Mai, Nội Bài, Gia Lâm, Kiến An, Cát Bi, Đồ Sơn.

10


Liên khu III là vùng trung tâm của đồng bằng Bắc Bộ, là vựa lúa lớn của
cả khu vực Bắc Bộ và có quá trình phát triển lâu dài nên hình thành hai khu
vực rõ rệt là vùng đô thị và vùng nông thôn.
Vùng đô thị có các thành phố lớn nhƣ Hà Nội, Hải Phòng. Đây là các
trung tâm văn hóa, kinh tế lớn của miền Bắc, là cửa ngõ giao lƣu quốc tế của
cả nƣớc. Bên cạnh đó còn có các thành phố trực thuộc các tỉnh nhƣ Nam
Định, Hải Dƣơng, Hƣng Yên, Thái Bình.
Hà Nội là một đô thị cổ, đã có các tên gọi khác nhau ở từng thời kỳ nhƣ
Thăng Long, Đông Đô, là kinh đô của nƣớc Việt Nam dƣới nhiều triều đại
phong kiến, khởi đầu từ thời nhà Lý năm 1010. Từ tháng 9 năm 1945, Hà Nội
trở thành Thủ đô của nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - trung tâm chính trị,
kinh tế văn hóa của cả nƣớc.
Nằm trên bờ biển Đông, thành phố Hải Phòng - một trung tâm kinh tế,

văn hóa nằm ở phía nam Liên khu III, cách Hà Nội khoảng 90 km. Thành phố
Hải Dƣơng nằm trên quốc lộ số 5, thành phố Nam Định nằm trên quốc lộ số
1, Thái Bình là một thành phố nằm giữa hai tỉnh Hải Phòng và Nam Định.
Vùng nông thôn với vị trí địa lý thuận lợi cho canh tác nông nghiệp: đất
đai bằng phẳng, sông ngòi nhiều. Ngƣ nghiệp và tiểu thủ công nghiệp cũng
phát triển, đáp ứng nhu cầu thiết yếu của nhân dân trong vùng và nhiều tỉnh
lân cận.
Là một miền đất phì nhiêu với những điều kiện tự nhiên thuận lợi, từ xa
xƣa con ngƣời đã quần tụ tại vùng đất này và đấu tranh với thiên tai, giặc dã
để tồn tại và phát triển, từ đó biến khu vực này thành một vùng có dân số cao.
Về dân số, Liên khu III là địa bàn có mật độ dân số cao nhất nƣớc, vƣợt lên cả
vùng đồng bằng Nam Bộ, Nam Trung Bộ và đồng bằng Thanh - Nghệ - Tĩnh.
Thời kỳ từ năm 1945 - 1954 dân số Liên khu III khoảng 6 triệu ngƣời. Sự

11


phân bố dân cƣ ở đây không đồng đều, ở khu vực nông thôn dân số thƣa thớt,
trong khi đó ở đô thị, mật độ dân số lại khá cao.
Cƣ dân sống trong các đô thị chủ yếu là ngƣời Việt, ngoài ra còn có một
bộ phận ngƣời Hoa, ngƣời Thái, Tày, Mƣờng, tập trung sinh sống chủ yếu ở
các tỉnh Hòa Bình và Sơn Tây. Riêng ngƣời Hoa sống rải rác ở các địa
phƣơng của Liên khu III nhƣng tập trung đông nhất ở thành phố Hải Phòng.
Ngôn ngữ, phong tục tập quán có nét khác nhau nhƣng cƣ dân gắn bó mật
thiết với nhau, qua quá trình hàng nghìn năm dựng nƣớc và giữ nƣớc. Dân cƣ
ở Liên khu III là chủ nhân của nền văn hóa, văn minh sông Hồng, mang đậm
nét đặc sắc của văn hóa Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần bảo tồn
phát triển văn hóa dân tộc.
Về tôn giáo tín ngƣỡng, đạo Phật và đạo Thiên Chúa là hai đạo có số tín
đồ lớn nhất ở vùng Liên khu III, ngoài ra cƣ dân ở đây cũng theo một số đạo

khác nhƣng con số không đáng kể.
Đạo Phật thâm nhập vào Việt Nam từ rất sớm và có ảnh hƣởng lớn đến đời
sống tinh thần xã hội của ngƣời dân Việt. Đạo phật đặc biệt phát triển ở vùng
nông thôn đồng bằng và là một tôn giáo có nhiều đóng góp cho lịch sử dựng
nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc.
Bên cạnh đó, đạo Thiên Chúa cũng có ảnh hƣởng lớn đến đời sống của cƣ
dân ở Liên khu III. Thực dân Pháp đã xây dựng Bùi Chu, Phát Diệm thành
trung tâm Thiên Chúa giáo ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Vào năm 1890 riêng
Thái Bình, giáo dân chiếm 9,8% dân số với 19 xứ đạo, 61 linh mục và 641
các chức sắc. Đến năm 1936, tỉnh Thái Bình có 9 hạt, 50 xứ đạo, 380 nhà thờ,
80 linh mục, 550 tu sĩ. Riêng tỉnh Nam Định có 398 nhà thờ, có tòa giám mục
Bùi Chu, Trƣờng tiểu chủng viện Trung Linh, Trƣờng lý đoán Quần Phƣơng.
[25, tr.21]

12


* Truyền thống cách mạng của nhân dân Liên khu III
Dân cƣ đồng bằng Bắc Bộ có truyền thống yêu nƣớc và cách mạng, lịch sử
chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta đã ghi lại nhiều chiến công hiển hách
diễn ra trên vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Từ thế kỷ thứ VI đến cuối
thế kỷ XVIII, các cuộc khởi nghĩa diễn ra và giành thắng lợi, đã đƣợc nhân
dân trên địa bàn tham gia và có nhiều đóng góp đáng kể. Đến đầu thế kỷ XX,
các cuộc vận động yêu nƣớc của các chí sĩ đã khơi dậy lòng yêu nƣớc của
nhân dân vùng đồng bằng Bắc Bộ vùng lên đấu tranh mạnh mẽ.
Truyền thống lao động, truyền thống văn hóa, truyền thống yêu nƣớc đã
tạo cho Liên khu III có một thế mạnh căn bản và đƣợc nhân lên kể từ khi có
sự lãnh đạo của Đảng. Trong giai đoạn (1930-1945) các phong trào đấu tranh
chống sƣu thuế, bãi công, đòi thả tù chính trị, tự do ngôn luận… của nhân dân
đồng bằng Bắc Bộ đã gây đƣợc tiếng vang lớn. Đặc biệt là cuộc vận động

Cách mạng tháng Tám năm 1945, từ những tổ chức Đảng ở các địa phƣơng đã
tập hợp đƣợc đông đảo nhân dân đồng bằng vùng lên “phá kho thóc, giải
quyết nạn đói”, phong trào chống Nhật đã diễn ra sôi nổ, mạnh mẽ trên toàn
vùng. Từ ý thức đấu tranh, ý thức theo Đảng của nhân dân vùng đồng bằng,
Đảng đã chủ trƣơng xây dựng trên địa bàn Liên khu III những chiến khu quan
trọng (chiến khu Quang Trung và chiến khu Trần Hƣng Đạo), là chỗ dựa
vững chắc cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền vào tháng 9 năm
1945. Với tinh thần và khí thế cách mạng cao, đƣợc sự lãnh đạo của Đảng,
tháng 8 năm 1945 nhân dân vùng đồng bằng đã cùng nhân dân cả nƣớc chớp
thời cơ giành đƣợc chính quyền. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám ở các
tỉnh, thành thuộc Liên khu III đã góp phần vào thắng lợi chung của cuộc Tổng
khởi nghĩa trong cả nƣớc.
Vị trí địa lý và tiềm năng về sức ngƣời, sức của, tạo cho Liên khu III có
một thế mạnh căn bản cả về chính trị, kinh tế và quốc phòng. Nhân dân Liên

13


khu III đã thực hiện tốt các chủ trƣơng đƣờng lối lãnh đạo của Đảng, kết hợp
đấu tranh trên nhiều mặt cả chính trị và kinh tế, quân sự, xây dựng hậu
phƣơng kháng chiến ngay trong lòng địch… Đó là tất cả cơ sở để quân và dân
Liên khu III đứng lên cùng cả nƣớc kháng chiến chống thực dân Pháp và
giành thắng lợi.
*Phong trào phụ nữ Liên khu III trước năm 1946
Những yếu tố địa lý, điều kiện kinh tế và xã hội cùng với truyền thống
yêu nƣớc, anh hùng của nhân dân Liên khu III đã tạo ra những ngƣời phụ nữ
nơi đây có những đức tính kiên cƣờng và bất khuất trong mọi hoàn cảnh.
Ngay từ những ngày đầu vận động thành lập Đảng Cộng sản, phụ nữ ở
vùng trung tâm tổ quốc đã đƣợc đồng chí Nguyễn Ái Quốc đánh giá cao và
chỉ thị cho Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội thành lập các cơ sở ở Hải

Phòng, Nam Định, Thái Bình, Hà Đông, Sơn Tây, Hà Nam…nhằm thu hút
đông đảo chị em phụ nữ tham gia để tiếp thu chủ nghĩa Mác Lênin và tƣ
tƣởng cách mạng vô sản. Đƣợc tiếp thu những tri thức và lí tƣởng tiến bộ của
chủ nghĩa cộng sản, chị em phụ nữ Liên khu III cả nông thôn và thành thị đều
hiểu rõ đƣợc mục tiêu của mình là đánh đổ chế độ áp bức để giải phóng cho
bản thân và giải phóng xã hội. Chị em phụ nữ ở thành thị tham gia các cuộc
bãi công, biểu tình đòi tăng lƣơng giảm giờ làm. Các chị em ở vùng thôn quê
đấu tranh chống sƣu cao thuế nặng, chống phu dịch, chống cƣớp đoạt ruộng
đất…
Những năm 1930-1935, Đảng thành lập các tổ chức nhƣ Công Hội đỏ,
Nông Hội đỏ và Hội phụ nữ giải phóng đã thu hút đƣợc hàng ngàn phụ nữ
thuộc nhiều tầng lớp khác nhau tham gia. Phong trào đòi quyền lợi cho phụ
nữ đã nổ ra mạnh mẽ ở Nam Định, Hà Nam, Hƣng Yên, Thái Bình, Hà Nội,
Hải Phòng, Kiến An…gây đƣợc tiếng vang lớn.

14


Thời kỳ 1936-1939, Đảng chủ trƣơng thành lập các tổ chức Phụ nữ dân
chủ, các hội cứu tế giúp đỡ nhau trong đời sống và trong đấu tranh cách
mạng. Các Hội Phụ nữ dân chủ phát triển mạnh nhất ở Hà Nội, Hƣng Yên,
Hải Dƣơng, Ninh Bình, Sơn Tây, Hà Đông.
Từ năm 1939-1941, Đảng thành lập Hội phụ nữ phản đế, nhiều chị em
phụ nữ trung kiên đƣợc kết nạp vào Đảng và sau này là lãnh đạo phong trào
phụ nữ của Liên khu III nhƣ các đồng chí Hoàng Ngân, Minh Nhã, Khuất Thị
Bƣởi… sau này đồng chí Hoàng Ngân là bí thƣ phụ vận xứ Bắc Bộ. Tại các
địa phƣơng này, có những Hội phụ nữ phản đế có tới 20 hội viên, hoạt động
tích cực trong các lĩnh vực nhƣ tuyên truyền vận động nhân dân chống chủ
nghĩa đế quốc, làm liên lạc, vận chuyển thƣ từ tài liệu và bảo vệ các cơ quan
của Đảng. Thời kỳ này các chị bị địch bắt, tù đày và chịu nhiều cực hình dã

man nhƣng đã anh dũng, kiên cƣờng giữ bí mật cho tổ chức, cho cách mạng.
Năm 1941, Đảng chủ trƣơng thành lập mặt trận Việt Nam độc lập đồng
minh (gọi tắt là Việt Minh), phát động quần chúng nhân dân đấu tranh vũ
trang. Để tăng cƣờng sức mạnh đấu tranh của các tổ chức trong mặt trận Việt
Minh, Đảng thành lập Đoàn Phụ nữ Cứu quốc trên cơ sở hợp nhất các tổ chức
Phụ nữ giải phóng, Phụ nữ dân chủ và Phụ nữ phản đế.
Đoàn phụ nữ Cứu quốc Liên khu III hoạt động mạnh nhất là trong cuộc
vận động cách mạng tháng Tám, nhiều hội viên phụ nữ là cốt cán trong công
tác tham gia kháng chiến. Dƣới sự lãnh đạo của Đảng, Đoàn Phụ nữ Cứu quốc
Liên khu III gia nhập các đoàn thể cứu quốc đánh Pháp, đuổi Nhật, tham gia
hoạt động bí mật, gây dựng cơ sở, liên lạc chắp nối cho các cơ sở Đảng; hoạt
động liên lạc, xây dựng và bảo vệ cơ sở cách mạng, là lực lƣợng hùng hậu
tham gia tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi trong Cách mạng tháng
Tám.

15


*Bối cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng đối với phong trào phụ nữ
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nƣớc Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời, mở ra kỉ nguyên mới: độc lập, tự do, thống nhất. Tuy nhiên
không khí vui mừng đó không kéo dài đƣợc bao lâu khi thực dân Pháp theo
chân quân đội Anh tiến chiếm Nam Bộ. Ngày 23. 9.1945, thực dân Pháp nổ
súng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lƣợc nƣớc ta lần thứ hai, sau đó chiếm
Trung Bộ, đầu năm 1946 chiếm Tây Nguyên. Trung ƣơng Đảng, Chính Phủ
kêu gọi cả nƣớc chi viện cho Nam Bộ, Nam Trung Bộ kháng chiến. Với ý chí
sắt đá vì độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc, quân dân miền Nam dũng cảm
đứng lên chiến đấu ngăn chặn bƣớc tiến quân của kẻ thù, nhƣng do lực lƣợng
quân sự chênh lệch nên quân Pháp đã từng bƣớc đánh chiếm, mở rộng chiến
tranh ra toàn nam vĩ tuyến 16.

Vừa theo dõi, chỉ đạo cuộc kháng chiến ở miền Nam, Đảng và Chính
phủ ta vừa lãnh đạo công cuộc củng cố, bảo vệ chính quyền, xây dựng chế độ
mới. Nhận rõ âm mƣu thâm độc của quân Trung Hoa dân quốc cùng bọn tay
sai, Trung ƣơng Đảng và Chính phủ vừa kiên trì nguyên tắc bảo vệ chủ quyền
vừa khôn khéo vận dụng sách lƣợc mềm dẻo với quân Tƣởng, ngăn chặn hành
động chống phá của bọn phản động tay sai, nhằm tập trung vào kẻ thù chính
trƣớc mắt là thực dân Pháp xâm lƣợc.
Thực hiện sách lƣợc “hoà để tiến”, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa kí với Chính phủ Pháp Hiệp định Sơ bộ Việt- Pháp (6.3.1946), tạo điều
kiện đƣa sự nghiệp kháng chiến kiến quốc tiến lên một bƣớc mới. Với dã tâm
xâm lƣợc nƣớc ta, Pháp trắng trợn phá hoại Hiệp định, ráo riết tăng cƣờng mở
rộng chiến tranh xâm lƣợc. Sau Hội nghị Phôngtenblô tan vỡ, Chủ tịch Hồ
Chí Minh ký với Chính phủ Pháp bản Thoả ước tạm thời (14.9.1946), nhằm
tăng thêm thời gian hoà hoãn, tiếp tục chuẩn bị về mọi mặt, sẵn sàng bƣớc
vào cuộc kháng chiến trên phạm vi cả nƣớc. Đến giữa tháng 12 năm 1946,

16


khả năng hoà hoãn không còn, nguy cơ chiến tranh đã phát triển tới đỉnh
điểm, Thƣờng vụ Trung ƣơng Đảng hạ quyết tâm phát động toàn dân kháng
chiến và quyết định đánh trƣớc để giành chủ động. Đêm 19.12.1946, quân và
dân Thủ đô Hà Nội cùng các đô thị bắc vĩ tuyến 16, đồng loạt tiến công địch mở đầu Toàn quốc kháng chiến. Cuộc chiến đấu tại các đô thị bắc vĩ tuyến 16
hồi đầu kháng chiến toàn quốc diễn ra trong suốt gần 3 tháng với hàng trăm
trận đánh lớn nhỏ, đã giành đƣợc những thắng lợi vẻ vang, đáp ứng yêu cầu
mở đầu toàn quốc kháng chiến.
Theo đƣờng lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện, trƣờng kỳ và tự lực
cánh sinh”, toàn quân, toàn dân ta thực hiện phá hoại, tiêu thổ để kháng chiến,
sơ tán khỏi vùng có chiến sự; gia nhập quân đội, dân quân, xây dựng nếp sống
chiến đấu, sản xuất tự túc. Các cơ quan, kho tàng, nhà máy, nguyên vật liệu

đƣợc di chuyển về vùng căn cứ, chuẩn bị kháng chiến lâu dài. Lực lƣợng vũ
trang thực hiện vừa chiến đấu vừa xây dựng.
Thu - Đông năm 1947, ta mở chiến dịch phản công, đánh bại cuộc tiến
công quy mô lớn của địch vào căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc, giữ đƣợc căn
cứ kháng chiến của cả nƣớc, bảo vệ an toàn cơ quan đầu não kháng chiến và
lực lƣợng chủ lực.
Sau thất bại ở Việt Bắc, thực dân Pháp đứng trƣớc rất nhiều khó khăn
cả trong nƣớc và nhất là ở Đông Dƣơng. Để lấy lại ƣu thế trên chiến trƣờng,
quân Pháp tiến hành nhiều chính sách về chính trị và quân sự. Về chính trị,
thực dân Pháp xúc tiến việc thành lập chính phủ bù nhìn trung ƣơng, dựng lên
“Quốc gia Việt Nam” do Bảo Đại đứng đầu; về quân sự Pháp ráo riết phát
triển nguỵ quân, thực hiện bình định các vùng tạm chiếm, tiến công đánh
chiếm vùng tự do của ta. Để chống lại chiến lƣợc mới của địch, về phía ta
thực hiện chủ trƣơng “phát triển chiến tranh du kích khắp nơi”, “biến hậu
phƣơng địch thành tiền phƣơng ta”, quân và dân đã tiến hành kháng chiến

17


toàn diện, kết hợp cả quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá và ngoại giao. Cuối
năm 1948, khắp các vùng tạm chiếm, cuộc đấu tranh chống phá hội tề - chính
quyền bù nhìn cơ sở của địch phát triển rầm rộ. Du kích cùng nhân dân đã nổi
dậy chống phá hội tề bằng nhiều hình thức và biện pháp, lập lại chính quyền
kháng chiến ở nhiều nơi. Cùng với sự phát triển của chiến tranh du kích, các
cơ sở chính trị, tổ chức lực lƣợng du kích và vũ trang quần chúng trong các
vùng tạm chiếm đƣợc khôi phục, củng cố. Làng chiến đấu, khu du kích, căn
cứ du kích xuất hiện ở nhiều nơi. Song song với phát triển chiến tranh du
kích, bộ đội chủ lực phối hợp với lực lƣợng vũ trang địa phƣơng từng bƣớc
thực hiện “vận động chiến”, mở các chiến dịch, đợt hoạt động quy mô nhỏ và
vừa trên khắp các chiến trƣờng.

Đầu năm 1950, Chính phủ Trung Quốc, Liên Xô và các nƣớc Xã hội
Chủ nghĩa công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ Việt Nam, đây
là một thắng lợi lớn của Chính phủ ta về mặt chính trị. Thu - Đông 1950 ta
mở Chiến dịch Biên Giới (16.9-14.10.1950), tiến công địch trên tuyến Cao
Bằng- Lạng Sơn, tiêu diệt và tiêu hao nhiều sinh lực và phƣơng tiện chiến
tranh của địch, giải phóng khu vực biên giới từ Cao Bằng đến Đình Lập (Lạng
Sơn).
Trên địa bàn Chiến khu II, Chiến khu III, sau thắng lợi của Tổng tuyển
cử, các địa phƣơng tiến hành bầu Hội đồng nhân dân các cấp tỉnh, huyện, xã,
Ủy ban Hành chính thay thế cho Ủy ban Cách mạng lâm thời. Do đó, hệ
thống chính quyền các cấp từng bƣớc đƣợc củng cố hoàn thiện dần, đó là
thành những thành quả cơ bản mà quân và dân các Chiến khu giành đƣợc sau
cách mạng tháng Tám. Khí thế và tinh thần cách mạng đƣợc thể hiện khắp
nơi, ở cả đô thị, nông thôn, mọi ngƣời dân không phân biệt giai cấp, đảng
phái, già trẻ, gái trai, tùy theo khả năng đều tích cực tham gia giữ gìn bảo vệ
thành quả cách mạng, xây dựng cuộc sống mới. Song song với việc củng cố

18


chính quyền, xây dựng cuộc sống mới, nhân dân hai thành phố Hà Nội và Hải
Phòng và các địa phƣơng hƣởng ứng lời kêu gọi kháng chiến của Chủ tịch Hồ
Chính Minh, tích cực chuẩn bị chiến đấu.
Ngày 20.11.1946, tƣớng Valluy ra lệnh thiết lập quyền kiểm soát cảng
Hải Phòng. Quân Pháp đã xả súng vào công an và nhân viên hải quan, đánh
chiếm một số địa điểm trong thành phố.
Sau hơn hai tuần sau bùng nổ Toàn quốc kháng chiến, ngày 6 tháng 1
năm 1947 Trung đoàn Thủ đô đƣợc thành lập gồm gần 2.000 ngƣời. Trung
đoàn đã cùng nhân dân Thủ đô chiến đấu trong 2 tháng, làm cho quân Pháp
không những không đánh úp đƣợc cơ quan đầu não nào của ta mà còn bị thất

bại nặng nề. Tổng kết 60 ngày đêm cầm cự tại Hà Nội (19.12.194618.2.1947) với gần 200 trận đánh, quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu
2.000 quân Pháp, phá hủy trên 100 xe các loại, bắn chìm một ca nô, bắn rơi và
phá hủy 5 máy bay, thu nhiều quân trang, quân dụng [92, tr.866].
Để tăng cƣờng lãnh đạo, chỉ đạo trong chiến tranh, ngày 25 tháng 11
năm 1947, Trung ƣơng Đảng đã kiện toàn các cấp Khu, tỉnh, huyện, sát nhập
thành Liên khu. Ngày 25 tháng 1 năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí sắc
lệnh 120/SL sát nhập các Chiến khu II, III và XI thành Liên khu III. Lúc đầu
bao gồm cả Hà Nội, đến năm 1949 Hà Nội tách riêng thành đặc khu. Lúc này
Liên khu III gồm 11 tỉnh: Hòa Bình, Sơn Tây, Hà Đông, Hà Nam, Nam Định,
Ninh Bình, Hƣng Yên, Hải Dƣơng, Thái Bình, Hải Phòng và Kiến An. Ban
Chấp hành Đảng bộ Liên khu III đƣợc thành lập do ông Nguyễn Văn Trân
làm Bí thƣ kiêm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính Liên khu III [39,
tr.205-206].
Đến năm 1948 toàn Liên khu có 480 làng kháng chiến [79, tr.186], mỗi
làng có một lũy tre dày đặc bao quanh, có hào giao thông, hầm hố chiến đấu,
hầm cất giấu lƣơng thực, hầm bí mật, trạm canh gác. Những làng kháng chiến

19


×