ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------
VŨ THỊ NGỌC
ĐẢNG BỘ TỈNH HƯNG YÊN LÃNH ĐẠO CHIẾN
TRANH DU KÍCH TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP (1946 – 1954)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Hà Nội – 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------
VŨ THỊ NGỌC
ĐẢNG BỘ TỈNH HƯNG YÊN LÃNH ĐẠO CHIẾN
TRANH DU KÍCH TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP (1946 – 1954)
Chuyên ngành:Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 03 15
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN BÌNH
Hà Nội – 2015
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 5
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ............................................................................ 5
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ ......................................................... 7
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU .................................................................. 10
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ....................................... 10
5. NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................. 11
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN ............................................................. 12
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN ................................................................... 12
Chương 1: ĐẢNG BỘ TỈNH HƯNG YÊN LÃNH ĐẠO CHIẾN TRANH
DU KÍCH TỪ NĂM 1946 – 1950............................................................... 13
1.1. Khái quát về tỉnh Hưng Yên và chủ trương của Đảng bộ .............. 13
1.1.1. Khái quát về tỉnh Hưng Yên ........................................................... 13
1.1.2. Chủ trương của Đảng và Đảng bộ ................................................. 19
1.1.3. Chỉ đạo xây dựng lực lượng dân quân du kích từ tháng 09/1945
đến tháng 11/1946 .................................................................................... 25
1.2.
Lãnh đạo xây dựng lực lượng, tiến hành chiến tranh du kích
chống địch càn quét, giữ gìn lực lượng (12/1946 đến 12/1950) ............. 28
1.2.1. Lãnh đạo xây dựng lực lượng ........................................................ 28
1.2.2. Lãnh đạo tiến hành chiến tranh du kích chống địch càn quét, giữ
gìn lực lượng (tháng 12/1946 – 12/1950) ................................................. 32
Chương 2: ĐẢNG BỘ TỈNH HƯNG YÊN LÃNH ĐẠO CHIẾN TRANH
DU KÍCH TỪ NĂM 1951 – 1954............................................................... 48
2.1. Chủ trương mới của Đảng và Đảng bộ............................................ 48
2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử mới ................................................................... 48
2.1.2. Chủ trương mới của Đảng và Đảng bộ .......................................... 51
3
2.2. Lãnh đạo xây dựng lực lượng, đẩy mạnh chiến tranh du kích từ
năm 1951 – 1954 ...................................................................................... 56
2.2.1. Xây dựng, củng cố lực lượng, phát triển các khu du kích và căn cứ
du kích (1951-1953) ................................................................................. 56
2.2.2. Đẩy mạnh chiến tranh du kích góp phần đưa cuộc kháng chiếnđến
thắng lợi hoàn toàn (1953 – 1954) ........................................................... 66
Chương 3: NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHỦ YẾU ....... 76
3.1. Nhận xét ............................................................................................ 76
3.1.1. Những ưu điểm và hạn chế ............................................................ 76
3.1.2. Đặc điểm cuộc chiến tranh du kích trên địa bàn Hưng Yên .......... 79
3.2. Một số kinh nghiệm chủ yếu ............................................................ 84
3.2.1. Vận dụng và phát triển sáng tạo đường lối kháng chiến toàn dân,
toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh. ................................................ 84
3.2.2. Kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự các hình thức đấu tranh
khác, trong đó lấy đấu tranh quân sự là chủ yếu. ................................... 87
3.2.3. Kiên trì bám dân, bám đất để xây dựng, phát triển lực lượng chính
trị, vũ trang và lãnh đạo kháng chiến ...................................................... 89
3.2.4. Chú trọng xây dựng lực lượng dân quân, du kích trong quá trình
xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân .......................... 91
3.2.5. Tăng cường công tác Đảng, công tác chính trị trong xây dựng lực
lượng vũ trang và lãnh đạo chiến tranh du kích ..................................... 92
KẾT LUẬN ................................................................................................. 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 99
PHỤ LỤC.................................................................................................. 107
4
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là thiên anh
hùng ca bất hủ trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân
tộc ta. Âm hưởng của nó đã vượt qua không gian và trường tồn với thời gian.
Thắng lợi này còn là minh chứng hùng hồn cho truyền thống yêu nước quật
khởi, trí thông minh, sáng tạo của dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh
vì độc lập tự do của Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chống lại một trong những kẻ thù hùng mạnh vào bậc nhất thế giới lúc
bấy giờ là thực dân Pháp, lại được sự giúp sức của đế quốc Mỹ, chiến tranh
du kích là một hình thức chiến tranh tối ưu giúp Việt Nam - một dân tộc nhỏ
bé đối phó có hiệu quả với những thế lực xâm lược hùng mạnh đó. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nhận định trong tác phẩm “Cách đánh du kích” năm 1944:
“Du kích là cách đánh úp hay đánh lén lúc kẻ thù không ngờ, không phòng.
Du kích là cách đánh giặc của dân tộc bị áp bức chống đế quốc. Đế quốc có
khí giới tốt, có quân đội đàng hoàng; quân du kích không có khí giới tốt, chưa
hình thành quân đội đàng hoàng; nhưng quân du kích được dân chúng ủng hộ,
thuộc địa hình, địa thế, khéo léo lợi dụng đêm tối, mưa nắng, khéo xếp đặt kế
hoạch, nên quân du kích vẫn có thể đánh được đế quốc…” [67, tr.469]. Chiến
tranh du kích góp phần tiêu hao và tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, phân
tán lực lượng, phá thế kìm kẹp của địch, đánh đổ chính quyền địch ở cơ sở,
các kế hoạch và chiến lược chiến tranh của chúng, bảo vệ và rèn luyện quần
chúng cách mạng, có tác dụng tạo điều kiện thuận lợi cho chiến tranh chính
quy và đấu tranh chính trị phát triển.
Chiến tranh du kích trong kháng chiến chống thực dân Pháp kế thừa từ
truyền thống đánh giặc cứu nước nghìn xưa của cha ông ta, phát triển kinh
5
nghiệm hoạt động du kích trong những năm tiền khởi nghĩa của Cách mạng
tháng Tám. Nó được sự chỉ đạo của đường lối chiến tranh nhân dân, mang
tính chất toàn dân, toàn diện của Đảng và tuân theo quy luật phát triển của
chiến tranh toàn dân. Đảng ta đã tích cực học tập và vận dụng sáng tạo những
kinh nghiệm tiến hành chiến tranh du kích của Liên Xô, Trung Quốc và ngay
cả của nhân dân Pháp chống lại phát xít Đức vào thực tế cuộc chiến tranh du
kích của Việt Nam.
Chiến thuật chiến tranh du kích được Đảng ta sử dụng hiệu quả trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trên phạm vi cả nước nói
chung và địa bàn tỉnh Hưng Yên nói riêng.
Trên nền tảng chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích ởHưng Yên phát
triển từ không đến có, từ nhỏ hẹp đến rộng lớn, phát triển cả ở nông thôn và
đô thị. Đặc biệt, trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ở Hưng Yên đã xuất
hiện những hình thức đấu tranh sáng tạo, kết hợp đấu tranh quân sự với đấu
tranh chính trị và các hình thức đấu tranh khác; đồng thời cũng sớm xuất hiện
thế trận lòng dân, bám đất kiên cường, vững chắc và cách đánh sâu, đánh
hiểm của các đội cảm tử quân, thanh niên xung phong... xuất quỷ nhập thần,
khiến cho quân thù phải khiếp vía kinh hoàng... Đó chính là những bài học
kinh nghiệm ban đầu hết sức quý báu đã được kế thừa, vận dụng và phát triển
lên trình độ cao trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc.
Cho đến nay, vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện,
có hệ thống về sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương đối với chiến tranh du
kích ở Hưng Yên. Xuất phát từ lý do đó, tôi quyết định chọn đề tài “Đảng bộ
tỉnh Hưng Yên lãnh đạo chiến tranh du kích trong kháng chiến chống thực
dân Pháp (1946 – 1954)” làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam.
6
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Lịch sử quân sự dân tộc ta để lại một kho tàng kinh nghiệm vô giá,
những bài học sâu sắc cho muôn đời.Càng tự hào và trân trọng di sản quá
khứ, chúng ta càng phải khai thác, khơi dậy nguồn sức mạnh của bao thế hệ
người Việt Nam của cả dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Trong công cuộc đổi mới, đất nước bước sang thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chúng ta cần vận dụng sáng tạo những bài học
lịch sử, phát huy tinh thần anh hùng dân tộc, tinh thần yêu nước nồng nàn
cũng như truyền thống lãnh đạo, chiến đấu dũng cảm và sáng tạo của toàn
Đảng, toàn quân và toàn dân ta để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Mỗi người Việt Nam chúng ta phải luôn luôn ghi nhớ và thực hiện lời
dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác
cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” [70, tr. 59]. Trong những năm tháng
kháng chiến chống thực dân Pháp, nghệ thuật quân sự của ta đã phát triển
từng bước từ thấp đến cao, từ chưa hoàn chỉnh đến hoàn chỉnh và trở thành
một nền nghệ thuật quân sự tiên tiến của chiến tranh nhân dân.Đó là nghệ
thuật quân sự của chiến tranh yêu nước, lấy nhỏ thắng lớn, lấy yếu thắng
mạnh, trong đó tiến hành chiến tranh du kích là một nội dung quan trọng của
chiến tranh cách mạng.
Chính vì vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu về chiến tranh du kích
của các học giả trong nước. Có thể tổng hợp các công trình nghiên cứu và tác
phẩm có liên quan đến vấn đề này như sau:
Thứ nhất: là những công trình tổng kết mang tính lý luận về cuộc chiến
tranh nhân dân nói chung và chiến tranh du kích nói riêng. Tiêu biểu như:
công trình “Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, thắng lợi và bài
học” do Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị biên soạn
(NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, xuất bản năm 1996), “Vị trí chiến lược của
7
chiến tranh nhân dân ở địa phương và của các lực lượng vũ trang địa
phương” của Võ Nguyên Giáp (NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, xuất bản
năm 1972) và “Chiến tranh du kích trong kháng chiến chống Pháp (19451954) của Vũ Văn Ba chủ biên (NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, xuất bản
năm 1991). Những tác phẩm này chủ yếu đi vào tổng kết những vấn đề mang
tính chất lý luận về cuộc chiến tranh nhân dân nói chung và chiến tranh du
kích nói riêng mà chưa đi sâu nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng đối với
chiến tranh du kích.
Thứ hai: là những công trình nghiên cứu về vấn đề có liên quan tới
chiến tranh du kích như: tác phẩm “Đảng lãnh đạo xây dựng căn cứ du kích ở
đồng bằng Bắc Bộ (1946 – 1954)” của tác giả Vũ Quang Hiển (NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2001). Tác phẩm này đề cập tới quá trình lãnh đạo xây
dựng căn cứ du kích ở đồng bằng Bắc Bộ trong kháng chiến chống Pháp,
nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển các căn cứ du kích ở đồng bằng
Bắc Bộ, qua đó đưa ra nhận xét về thành công và hạn chế trong quá trình xây
dựng các căn cứ du kích, đặc điểm hình thành và phát triển của các căn cứ du
kích và vị trí chiến lược của các căn cứ du kích ở đồng bằng Bắc Bộ và rút ra
một số bài học, kinh nghiệm.
Tác phẩm “Đặc trưng của chiến tranh du kích ở vùng đồng bằng Liên
khu 3 trong kháng chiến chống Pháp” của Bộ Tổng Tham mưu do Nhà xuất
bản Quân đội nhân dân xuất bản năm 1998. Đây là công trình nghiên cứu có
tính chất chuyên khảo về đặc trưng của chiến tranh du kích ở đồng bằng Bắc
Bộ dưới góc độ lịch sử, là tài liệu quý giúp tác giả luận văn có cách nhìn tổng
quát, so sánh, đối chiếu được khi thực hiện đề tài Đảng bộ tỉnh Hưng Yên
lãnh đạo chiến tranh du kích trong kháng chiến chống Pháp.
Thứ ba: là những cuốn sách lịch sử và lịch sử Đảng bộ các địa phương ở
Hưng Yên như:
8
Tác phẩm “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hưng Yên (1929 – 1954)” Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.Công trình “Lịch sử Đảng bộ quân sự
tỉnh Hưng Yên” (bản thảo lần thứ hai) do Đảng bộ Tỉnh Hưng Yên phối hợp
với Đảng ủy Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh soạn thảo tháng 06/2013. Đây là những
tài liệu quan trọng cung cấp cho tác giả luận văn những thông tin hữu ích về
quá trình chuẩn bị lực lượng, những chủ trương, chỉ đạo của Đảng bộ Hưng
Yên về mọi mặt trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở địa phương.
Các tác phẩm về lịch sử Đảng bộ huyện, xã trong tỉnh như: Lịch sử Đảng
bộ huyện Kim Động, Lịch sử Đảng bộ huyện Tiên Lữ, Lịch sử Đảng bộ huyện
Văn Giang, Lịch sử Đảng bộ Thị xã Hưng Yên, Lịch sử Đảng bộ huyện Mỹ
Hào…
Ngoài ra còn có một số sách chuyên khảo, các luận văn thạc sĩ, luận án
tiến sĩ, những công trình nghiên cứu về vấn đề chiến tranh nhân dân và chiến
tranh du kích.
Đây là những tài liệu tham khảo có giá trị định hướng và tư liệu quý cho
tác giả luận văn triển khai nghiên cứu đề tài này. Song những cuốn sách đó
còn trình bày một cách tổng thể, khái quát, chưa có công trình nào nghiên cứu
chuyên sâu về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên trong việc xây dựng
lực lượng, lãnh đạo tiến hành chiến tranh du kích trên địa bàn tỉnh, những hạn
chế trong lãnh đạo xây dựng lực lượng tiến hành chiến tranh du kích cũng như
sự phối hợp của Hưng Yên với các chiến trường khác, đặc điểm và một số
kinh nghiệm về lãnh đạo chiến tranh du kích của Đảng bộ Hưng Yên. Do đó,
việc nghiên cứu đề tài này là hoàn toàn mới mẻ, tư liệu tham khảo chủ yếu là
những tư liệu được lưu tại Phòng lưu trữ tư liệu Văn phòng Tỉnh ủy Hưng
Yên, Phòng nghiên cứu Lịch sử Đảng - Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Hưng Yên,
Thư viện Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Hưng Yên và Thư viện tỉnh Hưng Yên
cùng một số tài liệu kể trên.
9
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Mục đích
- Làm sáng tỏ những chủ trương, đường lối của Đảng bộ Hưng Yên
trong lãnh đạo chiến tranh du kích ở địa phương (1946 – 1954).
- Đánh giá những ưu điểm, hạn chế và bước đầu đúc rút những bài học,
kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh du kích ở Hưng Yên thời kỳ
này, góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh đối với công tác quân
sự địa phương.
Nhiệm vụ
- Tập hợp những tư liệu lịch sử cơ bản có liên quan đến vấn đề Đảng bộ
lãnh đạo chiến tranh du kích ở Hưng Yên.
- Làm rõ các phong trào quần chúng trong việc thực hiện chủ trương của
Đảng bộ.
- Tái hiện quá trình Đảng bộ Hưng Yên lãnh đạo quân và dân trên địa
bàn tỉnh tiến hành cuộc chiến tranh du kích trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
- Chủ trương, đường lối của Đảng bộ Hưng Yên lãnh đạo, chỉ đạo chiến
tranh du kích trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở địa phương.
- Những diễn biến chính của chiến tranh du kích ở Hưng Yên.
- Những thành công và hạn chế của Đảng bộ Hưng Yên trong lãnh đạo
chiến tranh du kích.
Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu của đề tài: cuộc kháng chiến chống Pháp của
nhân dân Việt Nam diễn ra từ năm 1945. Tuy nhiên, trong giới hạn đề tài này
tác giả chỉ giới hạn bắt đầu từ tháng 12/1946, khi cuộc kháng chiến toàn quốc
10
bùng nổ cho đến khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết. Tuy nhiên, để làm rõ sự
lãnh đạo của Đảng bộ Hưng Yên đối với cuộc chiến tranh du kích ở địa
phương, luận văn cũng đề cập đến một số vấn đề trong thời gian từ sau ngày
Cách mạng tháng Tám thành công đến tháng 12/1946.
- Không gian nghiên cứu của đề tài: trên phạm vi toàn tỉnh Hưng Yên.
- Luận văn tập trung nghiên cứu những chủ trương của Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh về lãnh đạo chiến tranh du kích trong kháng chiến chống Pháp
và quá trình triển khai thực hiện những chủ trương, đường lối của Đảng ở các
cấp huyện, xã.
- Trong quá trình nghiên cứu và trình bày luận văn, tác giả cũng đề cập
đến những vấn đề có liên quan đến đề tài như vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên,
kinh tế, chính trị, dân cư, truyền thống lịch sử của Hưng Yên cũng như bối
cảnh chung của cuộc kháng chiến trên chiến trường chính Bắc Bộ và trong
toàn quốc nhằm mục đích thực hiện nhiệm vụ của đề tài đã đặt ra.
5. NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nguồn tài liệu
Để nghiên cứu đề tài, tác giả dựa vào các nguồn tư liệu sau:
- Các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam có liên quan đến đề tài
được in trong Văn kiện Đảng toàn tập của Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
- Các tài liệu lưu trữ của Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh, gồm các Báo
cáo, Chỉ thị, Nghị quyết về những vấn đề có liên quan đến đề tài được lưu tại
Phòng lưu trữ tư liệu, Văn phòng Tỉnh ủy Hưng Yên.
- Các sách lịch sử kháng chiến chống Pháp trên địa bàn tỉnh Hưng Yên.
- Một số sách chuyên khảo vể chiến tranh du kích.
- Một số luận văn, luận án đã thực hiện.
11
Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận sử học Mác - xít, tác giả sử dụng phương
pháp nghiên cứu của khoa học lịch sử là: kết hợp giữa phương pháp lịch sử và
phương pháp logic. Ngoài ra, đề tài bước đầu tiếp cận và vận dụng các
phương pháp: phương pháp phân tích, so sánh lịch sử, thống kê…
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Trình bày có hệ thống về chủ trương, đường lối của Đảng bộ Hưng Yên
về tiến hành chiến tranh du kích trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược (1946 – 1954).
- Nêu lên một số đặc điểm, ưu điểm và những hạn chế của Đảng bộ
Hưng Yên trong lãnh đạo chiến tranh du kích trong cuộc kháng chiến chống
Pháp, qua đó đúc rút một số kinh nghiệm lịch sử.
- Góp phần làm phong phú thêm nguồn tư liệu cho chiến tranh nhân dân
địa phương nói riêng và nguồn tư liệu lịch sử dân tộc trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp, giúp thế hệ trẻ Hưng Yên hiểu rõ hơn tội ác của thực
dân Pháp và càng thêm tự hào với những chiến công vang dội, những trang sử
vẻ vang của thế hệ cha anh.
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm ba chương.
Chương 1: Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo chiến tranh du kích từ năm
1946 – 1950.
Chương 2: Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo chiến tranh du kích từ năm
1951 – 1954.
Chương 3: Nhận xét và một số kinh nghiệm.
12
Chương 1:
ĐẢNG BỘ TỈNH HƯNG YÊN LÃNH ĐẠO CHIẾN TRANH DU
KÍCH TỪ NĂM 1946 – 1950
1.1. Khái quát về tỉnh Hưng Yên và chủ trương của Đảng bộ
1.1.1. Khái quát về tỉnh Hưng Yên
Hưng Yên là một tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng sông Hồng. Đây là
vùng địa linh, nhân kiệt, giữ vị trí chiến lược quan trọng trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc.
Trải qua nhiều thời đại, vùng đất này đã có những thay đổi về địa lý
hành chính.Từ trước công nguyên, thời Hùng Vương đây là vùng đất thuộc bộ
Dương Tuyền.Đến thời kỳ Bắc thuộc, đời Hán thuộc quận Giao Chỉ trong
huyện Chu Diên, đời Lương thuộc quận Vũ Bình. Khi giành được quyền độc
lập tự chủ, các triều đại Ngô, Đinh và Tiền Lê đặt là phủ Thái Bình; thời Lý
Cao Tông đặt là châu Đằng, châu Khoái; triều Trần đặt là lộ Long Hưng, rồi
đặt là lộ Khoái. Thời nhà Minh đô hộ, vùng đất này thuộc phủ Kiến Xương.
Thời Lê Thuận Thiên thuộc Nam Đạo và đầu thời Nguyễn, phủ Khoái Châu
thuộc trấn Sơn Nam Thượng.
Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), nhà Nguyễn chia lại tỉnh hạt, thành lập
tỉnh Hưng Yên gồm vùng đất của hai phủ: phủ Khoái Châu thuộc trấn Sơn
Nam và phủ Tiên Hưng thuộc trấn Nam Định. Tỉnh Hưng Yên ban đầu có 8
huyện là Đông Yên, Thiên Thi, Kim Động, Phù Cừ, Tiên Lữ, Hưng Nhân,
Duyên Hà và Thần Khê. Phố Hiến trước đó là một trung tâm thương mại, khi
lập tỉnh được lập sở, xây thành và là tỉnh lị Hưng Yên. Khi quân Pháp đánh
Hưng Yên lần thứ nhất (tháng 08/1873) và hạ thành Hưng Yên lần thứ hai
(tháng 03/1883), địa giới Hưng Yên vẫn như khi mới thành lập. Đến năm
1894, tỉnh Hưng Yên có thêm vùng đất của Bắc Ninh (một số tổng của huyện
13
Lương Tài và Siêu Loại), Hải Dương (huyện Mỹ Hào); ranh giới phía Bắc tới
sông Chu Đậu, phía Tây là sông Hồng, phía Đông là sông Cửu Yên và sông
Luộc trở thành ranh giới tự nhiên phía Nam của tỉnh. Địa giới hành chính này
giữ từ năm 1894 đến cách mạng tháng Tám 1945.
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời, từ tháng 06/1947 đến tháng 04/1999, Hưng Yên có sự thay
đổi địa giới hành chính tới 26 lần lớn, nhỏ. Năm 1949, Hưng Yên có 10 đơn
vị hành chính cấp huyện là Văn Giang, Văn Lâm, Mỹ Hào, Yên Mỹ, Khoái
Châu, Kim Động, Tiên Lữ, Phù Cừ và thị xã Hưng Yên với 117 xã. Đến tháng
01/1968, Ủy ban Thường vụ Quốc Hội ra Nghị quyết số 544/NQ-TVQH hợp
nhất hai tỉnh Hưng Yên và Hải Dương thành tỉnh Hải Hưng gồm 10 huyện, thị
xã của Hưng Yên và 12 huyện, thị xã của Hải Dương. Đến tháng 11/1996,
Quốc hội khóa IX đã phê chuẩn tách Hải Hưng thành hai tỉnh là Hưng Yên và
Hải Dương sau 29 năm hợp nhất. Ngày 01/01/1997 tỉnh Hưng Yên được tái
lập gồm thị xã Hưng Yên và 5 huyện là Mỹ Văn, Châu Giang, Phù Tiên, Ân
Thi và Kim Động. Đến tháng 04/1999, tỉnh Hưng Yên có 10 đơn vị cấp huyện
là thị xã Hưng Yên, Phù Cừ, Tiên Lữ, Văn Lâm, Mỹ Hào, Kim Động, Ân Thi,
Văn Giang, Yên Mỹ, Khoái Châu với 160 đơn vị hành chính cấp cơ sở (xã,
phường, thị trấn).
Nằm ở tả ngạn sông Hồng thuộc châu thổ đồng bằng Bắc Bộ, phía Bắc
của tỉnh giáp với Bắc Ninh và Thành phố Hà Nội.Sông Luộc từ ngã ba Tuần
Vương đến Hạ Đồng dài hơn 21km là ranh giới tự nhiên phía Nam của tỉnh
tiếp giáp với Thái Bình.Ranh giới tự nhiên phía Tây là sông Hồng tiếp giáp
với Hà Nội và Hà Nam.Phía Đông tiếp giáp với Hải Dương.
Hưng Yên là vành đai bảo vệ trực tiếp thủ đô Hà Nội; cùng với Hải
Dương là tuyến trong của thành phố cảng Hải Phòng. Địa giới phía Nam của
tỉnh tiếp giáp với Thái Bình, ngăn cách bởi dòng sông Luộc, là tuyến đường
14
thủy quan trọng nối Hải Phòng với thành phố Hưng Yên, rồi ngược sông
Hồng lên Hà Nội rồi xuôi xuống thành phố Nam Định, ra cửa Ba Lạt. Sông
Hồng là ranh giới tự nhiên phía Tây của Hưng Yên, phía bên kia sông là
Thành phố Hà Nội, tỉnh Hà Nam. Đoạn sông Hồng chảy qua địa bàn của tỉnh
từ Bát Tràng đến ngã ba Tuần Vương dài 42km, các loại ca nô, tàu chiến có
thể hoạt động dễ dàng trong cả bốn mùa. Khi các phương tiện vận tải đường
không, đường sắt, đường bộ chưa phát triển thì mạng lưới đường sông trên đất
Hưng Yên có vị trí quan trọng trong vận tải nói chung, đặc biệt là trong vận
tải quân sự và ngày nay vẫn có ý nghĩa về chiến lược.
Không chỉ quan trọng về đường thủy, Hưng Yên còn giữ vị trí chiến lược
về giao thông đường bộ, đường sắt, đặc biệt là tuyến đường sắt, quốc lộ 5 nối
Hà Nội với Hải Phòng. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, địch đã coi
tuyến đường này là cái “yết hầu” để nối cái “cuống họng Hải Phòng” với cái
“dạ dày Hà Nội”. Cùng với hai tuyến đường chiến lược nói trên, Hưng Yên
còn có mạng lưới đường bộ khá phát triển chạy khắp tỉnh có ý nghĩa lớn trong
chiến tranh cũng như trong phát triển sản xuất như đường 39 từ cửa biển
Diêm Điền qua thành phố Thái Bình nối thành phố Hưng Yên, nối với quốc lộ
số 5 ở ngã tư Phố Nối. Trong kháng chiến chống Pháp, với ưu thế về binh khí
kỹ thuật và phương tiện cơ động, Pháp đã triệt để lợi dụng hệ thống đường sá,
sông lạch như những lợi thế của chúng ở đồng bằng Bắc bộ thực hiện các ý đồ
chiến dịch, chiến thuật trong tổ chức chiến đấu.
Hưng Yên là tỉnh hoàn toàn đồng bằng duy nhất của Bắc bộ, không có
đồi núi, không có rừng và không có biển. Đất đai của Hưng Yên có độ cao
trung bình 4m so với mực nước biển. Phần lớn đất đai ven sông Hồng, sông
Luộc là đất phù sa, vùng tiếp giáp là đất thịt pha cát, còn ở vùng nội đồng như
các huyện Ân Thi, Yên Mỹ, Mỹ Hào, phía bắc huyện Văn Lâm, Tiên Lữ; phía
đông các huyện Văn Giang, Khoái Châu, Kim Động chủ yếu là đất thịt. Đất
15
đai của Hưng Yên nghiêng dần từ Tây sang Đông bởi phù sa bồi lắng do
nhiều lần lụt lội.
Hưng Yên nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, mưa nhiều lại chịu
ảnh hưởng của thủy triều hay gây úng nên nhìn chung khó cấu trúc công sự
ngầm, khó khăn trong việc lập kho tàng, cất giữ tài sản. Bên cạnh đó, mạng
lưới sông ngòi, kênh lạch chằng chịt còn tạo thêm trở ngại lớn là địa bàn bị
chia cắt, chiến trường dễ bị bao vây, cô lập.
Những yếu tố đất đai, nguồn nước, thời tiết, khí hậu đã tạo nên những
khu dân cư khác nhau và cảnh cư trú, sinh sống cũng khác nhau. Việc định cư
vốn theo quy luật bám trụ theo nguồn nước nên nhân dân Hưng Yên đã ưu
tiên chọn nơi sinh sống theo các triền sông. Các vùng ven sông Hồng, sông
Luộc đã hình thành các khu vực làng mạc dày đặc, thuận tiện cho việc trú và
giấu quân, cơ động lực lượng và tổ chức chiến đấu liên hoàn. Tuy nhiên, làng
mạc ở những vùng này phần nhiều trống trải, ít có lũy tre kiên cố, nhiều
đường ngang, lối tắt dễ tiếp cận làng này sang làng khác, không thuận lợi cho
việc tổ chức chiến đấu theo lối cố thủ.
Do có vị trí và địa thế tự nhiên như vậy, cho nên trong suốt quá trình
dựng nước và giữ nước, vùng đất Hưng Yên luôn là vị trí có ý nghĩa chiến
lược.
Theo nhiều thư tịch cổ và lịch sử thành văn thì nhân dân Hưng Yên đã
sớm cùng nhân dân cả nước đứng lên đánh đuổi giặc ngoại xâm. Thời cổ đại
và trung đại, Hưng Yên được coi là “cửa ngõ Kinh thành”, “phụ quách” của
Kinh đô, được đặt là một trong năm đạo rồi tứ trấn cơ bản, được xác định
“tỉnh này là một khu vực phòng ngự” [44, tr.16]. Nhân dân Hưng Yên đã sớm
cùng nhân dân cả nước đứng lên đánh đuổi giặc Ân, giặc Tần từ trước công
nguyên; hăng hái tham gia cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm 40 sau
công nguyên. Khi Lý Bí khởi nghĩa chống quân Lương năm 542, đến năm
16
548 Triệu Quang Phục lên thay đã rút quân về lập căn cứ ở Đầm Dạ Trạch giữ
nền độc lập trong 20 năm. Năm 938, Ngô Quyền từng lập đại bản doanh ở
phố Vương, tiếp tục chuẩn bị lực lượng để đánh thắng trận thủy chiến ở Bạch
Đằng. Khi Lê Hoàn đánh thắng quân Tống, ông cũng giao cho 3 con trai chia
quân đóng giữ tại Đằng Châu và hai nơi khác thuộc phía Bắc Hưng Yên. Năm
1069, Lý Thánh Tông tổ chức luyện quân ở vùng đất thuộc Kim Động ngày
nay, để đánh thủy quân Chiêm Thành khi chúng từ cửa Ba Lạt tiến vào đánh
Thăng Long. Đặc biệt là cả 3 lần chống quân Nguyên – Mông mạnh nhất thế
giới lúc đó, khi chúng đánh vào nước ta vào các năm 1258, 1285, 1287-1288,
nhà Trần theo kế sách rút lui chiến lược, xuôi sông Hồng về vùng Long Hưng
– Thiên Trường, bảo toàn lực lượng để phản công giành thắng lợi cuối cùng,
đã lập phòng tuyến chống giặc ở Thiên Mạc, Hàm Tử, Đông Kết, Tây Kết…
Giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược nước ta. Một bộ phận tiến bộ
trong triều đình đã không cam chịu mất nước, đứng lên kháng chiến “Chiếu
Cần Vương” được nhân dân Hưng Yên hưởng ứng, khởi đầu là cụ Đinh Gia
Quế (quê ở Khoái Châu) giương cờ “Bình Tây phạt tội” đánh Pháp trong 2
năm; tiếp theo đó là khởi nghĩa Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật (quê ở Xuân
Dục, Mỹ Hào) lãnh đạo nghĩa quân Bãi Sậy chiến đấu trong 8 năm. Đây là
một trong những cuộc nổi dậy chống Pháp lớn nhất thời Cần Vương tại một
vùng đông dân, nhiều của khiến kẻ thù khiếp sợ, chúng phải thành lập riêng
Đạo Bãi Sậy – một đơn vị quản quân tương đương cấp tỉnh – và lập 2 Binh
đoàn tác chiến để chống lại nghĩa quân. Hưng Yên cũng là nơi sinh thành và
nuôi dưỡng nhà yêu nước Hoàng Hoa Thám (quê ở Dị Chế, Tiên Lữ).Ông là
người lãnh đạo nghĩa quân Yên Thế, một trong những thủ lĩnh nổi tiếng sau
thời Cần Vương.
Kế thừa truyền thống vẻ vang đó, được Đảng Cộng sản và Chủ tịch Hồ
Chí Minh lãnh đạo, nhân dân Hưng Yên đã cùng với cả nước đấu tranh để
17
giành và giữ được độc lập, tự do. Từ khi Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của
Hưng Yên ra đời tại Thuần Hưng (Khoái Châu) năm 1929 đến trước ngày
Tổng khời nghĩa tháng 08/1945, phong trào cách mạng của nhân dân Hưng
Yên tuy bị địch đàn áp dã man, nhiều lần tổ chức và cơ sở bị phá vỡ; nhiều
đảng viên, cán bộ, quần chúng cách mạng bị giết hại và tù đày… nhưng
không ngừng được củng cố và phát triển.
Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền về tay nhân dân nhưng
công việc của cách mạng còn đang bộn bề và mới mẻ, lực lượng cán bộ cách
mạng còn mỏng, chưa có kinh nghiệm giữ chính quyền, quản lý xã hội. Trong
khi đó, tàn dư của chính quyền và chế độ cũ còn khá mạnh và rất phức tạp,
giặc ngoài lại đang dòm ngó. Cũng như cả nước, quân và dân Hưng Yên lại
đứng trước những khó khăn mới và hăng hái hoàn thành những nhiệm vụ mới
khi người dân đã thực sự được làm chủ cuộc sống và vận mệnh đối với quốc
gia, dân tộc, địa phương và gia đình.
Hưng Yên có số dân không lớn, nhưng tốc độ phát triển nhanh và mật độ
khá cao. Sau cách mạng tháng Tám 1945, toàn tỉnh có 480.000 người, đến
năm 1949 có 589.800 người.
Sau gần 8 năm cùng cả nước kháng chiến chống Pháp, ngày 08/10/1954,
khi tên lính Pháp cuối cùng rút khỏi vị trí Cống Ao Sầu (Văn Giang), quân ta
vào tiếp quản, Hưng Yên được giải phóng hoàn toàn.
Nằm trên một vùng địa - kinh tế thuận tiện, từ lâu đời, Hưng Yên đã có
một nền thương mại phát triển.Không những có nhiều làng biết buôn bán,
giao lưu kinh tế tổng hợp.Hưng Yên còn sớm giao lưu quốc tế thông qua
thương cảng Phố Hiến – một phố cổ sầm uất vào hàng nhất, nhì Bắc Hà “thứ
nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến”. Một thời gian dài, Hưng Yên nằm giữa ba
thành phố lớn Hà Nội - Hải Phòng - Nam Định nên sớm tiếp thu những tinh
hoa thương mại và khoa học công nghệ đô thị; ngày nay lại nằm trong tam
18
giác chiến lược về phát triển công nghiệp Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh
nên càng thuận lợi trong giao lưu và phát triển kinh tế nhằm phục vụ đời sống
và quốc phòng.
1.1.2. Chủ trương của Đảng và Đảng bộ
Cách mạng tháng Tám thành công, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch
sử dân tộc Việt Nam.Nhà nước Việt Nam mới – Nhà nước dân chủ cộng hòa
đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời.Chính quyền cách mạng được xây dựng từ
Trung ương đến địa phương.Nhưng thực dân Pháp một lần nữa quay lại xâm
lược nước ta, mở đầu bằng cuộc đánh chiếm Sài Gòn ngày 23/09/1945.
Ngày 28/02/1946, Pháp bắt tay với Chính phủ Trung Hoa dân quốc ký
hiệp ước Pháp – Hoa tại Trùng Khánh. Theo hiệp ước này, Pháp trả lại cho
Chính phủ Trung Hoa dân quốc các tô giới và đất nhượng ở Trung Quốc; bán
lại đoạn đường sắt Côn Minh – Hồ Kiều; cho quân đội Quốc dân Đảng Trung
Hoa chở hàng về nước qua cảng Hải Phòng được miễn thuế (đó là những thứ
quân cướp bóc đổi chác được qua 6 tháng “Hoa quân nhập Việt”). Trung Hoa
dân quốc đồng ý rút quân, giao lại cho Pháp tiếp quản Việt Nam và Lào.Như
vậy, cách mạng Việt Nam đứng trước một tình thế mới hết sức phức tạp.Đất
nước bớt đi được một số kẻ thù là quân Anh và quân đội Quốc dân Đảng
Trung Hoa nhưng thực dân Pháp lại được tạo điều kiện ráo riết thực hiện âm
mưu xâm lược nước ta.
Sau khi Hiệp ước Pháp – Hoa được ký kết, ngày 03/03/1946, Ban
Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Tình hình và Chủ trương.Chỉ thị nhận
định, Hiệp ước Pháp – Hoa là biểu hiện của sự thỏa hiệp giữa bọn đế quốc với
nhau; Chỉ thị phân tích vấn đề lúc này không phải là muốn đánh hay không
muốn đánh.Vấn đề là biết mình, biết người, nhận định một cách khách quan
những điều kiện lợi hại trong và ngoài nước mà chủ trương cho đúng. Trung
ương Đảng quyết định chọn giải pháp hòa hoãn, đàm phán với Pháp để buộc
19
quân đội Trung Hoa dân quốc phải rút về nước, tránh được tình thế một lúc ta
phải đối mặt với nhiều kẻ thù, bảo toàn lực lượng tranh thủ thời gian hòa hoãn
để xây dựng lực lượng chuẩn bị cho một cuộc chiến đấu mới, tiến tới giành
thắng lợi hoàn toàn. Lập trường của ta trong cuộc đàm phán với Pháp được
Trung ương Đảng vạch ra là: Pháp phải thừa nhận quyền độc lập tự quyết của
của dân ta, công nhận chính phủ, quân đội, nghị viện, tài chính, ngoại giao…
và sự thống nhất của đất nước ta.
Thế nhưng, thực dân Pháp đã bội ước. Với khí thế sục sôi của cả nước
sau Cách mạng tháng Tám, với lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang đã
phát triển sau gần một năm tranh thủ xây dựng, toàn thể nhân dân Việt Nam
đoàn kết một lòng cùng với Đảng và Chính phủ quyết tâm chiến đấu đến cùng
vì nền độc lập và thống nhất của tổ quốc.
Ngày 12/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Toàndân
kháng chiến. Bản Chỉ thị đã vạch rõ mục đích, tính chất và đường lối chung
chỉ đạo toàn bộ cuộc kháng chiến chống Pháp là toàn dân, toàn diện, trường
kỳ và tự lực cánh sinh.
Ngày 17 và 18 tháng 12 năm 1946, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương
Đảng mở rộng họp tại Vạn Phúc (Hà Đông – Hà Nội) dưới sự chủ tọa của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hội nghị đã phát động cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp trên quy mô cả nước và đề ra những vấn đề cơ bản về đường lối
kháng chiến với Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí
Minh ngày 19/12/1946.
Tháng 02/1947, đồng chí Trường Chinh – Tổng Bí thư Đảng đã viết một
loạt bài giải thích về đường lối kháng chiến của Đảng đăng trên báo Sự thật
như: “Chúng ta đánh ai?”, “Đánh để làm gì?”, “Tính chất cuộc kháng chiến
của ta”… Trong dịp kỷ niệm lần thứ hai ngày Nam Bộ kháng chiến
23/09/1947, những bài báo này đã được bổ sung và in thành sách “Kháng
20
chiến nhất định thắng lợi”. Và như vậy, một lần nữa, đường lối kháng chiến
của Đảng được xác định và được giải thích cụ thể trong tác phẩm “Kháng
chiến nhất định thắng lợi” của đồng chí Trường Chinh.
Đường lối kháng chiến ấy bên ngoài thì “Đoàn kết với hai dân tộc Miên,
Lào và các dân tộc bị áp bức trong khối Liên hiệp Pháp. Thân thiện với các
dân tộc Trung Hoa, Xiêm, Ấn Độ, Miến Điện, Nam Dương và các dân tộc yêu
chuộng hòa bình dân chủ trên thế giới” [70, tr.198]. Bên trong thì đoàn kết
chặt chẽ toàn dân thành một mặt trận rộng rãi có liên minh công – nông làm
nền tảng, thực hiện toàn dân kháng chiến.
Có thể nói, đây là lần đầu tiên Đảng ta đã lãnh đạo quân dân ta tiến hành
một cuộc chiến tranh vừa mang tính chất bảo vệ Tổ quốc, vừa mang tính chất
giải phóng dân tộc trên quy mô cả nước, phải đương đầu với thực dân Pháp
hùng mạnh, lại có sự giúp đỡ của đế quốc Mỹ. Đảng ta đã không phát động
một cuộc chiến tranh quy ước mà phát động chiến tranh nhân dân, huy động
lực lượng toàn dân tham gia đánh giặc, bảo vệ nền độc lập cho dân tộc.
Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Trung ương Đảng, Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, và tác phẩm Kháng chiến nhất
định thắng lợi của đồng chí Trường Chinh là những văn kiện lịch sử, định
hình đường lối kháng chiến của Đảng một cách cơ bản. Đó là đường lối tiến
hành chiến tranh cách mạng trên cơ sở động viên và tổ chức quần chúng sâu
rộng để tiếp tục sự nghiệp của cách mạng tháng Tám, xây dựng một nước
Việt Nam mới, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh để sánh vai với các
cường quốc năm châu giống như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó cũng
là đường lối kết hợp cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc giành độc lập cho
nhân dân ta với cuộc đấu tranh chung của của giai cấp vô sản và nhân dân các
dân tộc thuộc địa chống chủ nghĩa đế quốc trong phong trào cách mạng thế
giới sau chiến tranh thế giới thứ hai.
21
Như vậy, ngay khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Trung ương
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm đề ra những vấn đề cơ bản về đường
lối kháng chiến, đoàn kết toàn dân đánh giặc cứu nước. Toàn dân kháng chiến
là nội dung của chiến tranh nhân dân Việt Nam, là tinh thần xuyên suốt mọi
chủ trương, là tư tưởng, chỉ đạo mọi kế hoạch tác chiến và xây dựng lực
lượng. Toàn diện kháng chiến là kháng chiến cả về chính trị, quân sự, kinh tế,
văn hóa, ngoại giao, nhằm huy động mọi khả năng, phát huy mọi sức mạnh,
sử dụng và kết hợp mọi hình thức đấu tranh, liên hiệp với mọi lực lượng cách
mạng và tiến bộ trên thế giới để đánh bại kẻ thù. Trường kỳ kháng chiến là
chiến lược của chiến tranh nhân dân Việt Nam đánh kẻ thù có ưu thế về lực
lượng quân sự, vừa đánh vừa vũ trang thêm, vừa đánh vừa bồi dưỡng sức dân,
vừa đánh vừa học hỏi kinh nghiệm, dần chuyển hóa so sánh lực lượng, đồng
thời lợi dụng những chuyển biến của tình hình quốc tế có lợi cho cuộc kháng
chiến của ta, từng bước đánh bại từng kế hoạch của kẻ thù để giành thắng lợi
cuối cùng. Kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỷ là bước phát triển mới
của bạo lực cách mạng và là những quy luật tiến hành chiến tranh nhân dân
Việt Nam.
Đầu năm 1947, nhiệm vụ phát động toàn dân đánh giặc lấy lực lượng vũ
trang làm nòng cốt được đặt ra cấp bách. Nghị quyết Hội nghị chính trị ủy
viên khu và trung đoàn vào tháng 02/1947 đã xác định: “Dù trong trường hợp
nào cũng phải nắm vững bộ đội; rèn luyện bộ đội, củng cố du kích, chỉnh đốn
dân quân; kiên quyết thay đổi cách đánh, tẩy trừ hình thức dồn đống và lối bố
trí chính quy hóa” [37, tr. 40]. Tháng 03/1947, các Ban chỉ huy tỉnh đội,
huyện đội, xã đội thuộc ủy ban kháng chiến các cấp được thành lập khắp các
tỉnh đồng bằng Khu 3.
22
Tháng 04/1947, Hội nghị cán bộ Trung ương chủ trương: “phát triển du
kích chiến ngay trong vùng địch kiểm soát và ngay trong các thành phố địch
tạm thời làm chủ” [37, tr. 41].
Hội nghị dân quân toàn quốc lần thứ nhất họp ngày 24/05/1947 tại Việt
Bắc, bàn về công tác tổ chức dân quân, đã xác định: “dân quân du kích là đội
quân cách mạng, và đã là đội quân cách mạng thì phải có công tác chính trị để
giữ vững đường lối chính trị, để nâng cao trình độ giác ngộ và tinh thần chiến
đấu cho đội viên. Đội dân quân du kích thường hay phân tán, sống tản mạn
trong làng và khi chiến đấu cũng thường cá nhân tác chiến hoặc từng tốp nhỏ
tác chiến. Cho nên, muốn đội du kích có tinh thần tích cực, tự mình tìm địch
để đánh thì vấn đề công tác chính trị phải được chú trọng hơn cả về quân
sự.Hội nghị cũng xác định “sự phối hợp tác chiến giữa bộ đội chính quy và
dân quân du kích là một trong những điều kiện thắng lợi cuối cùng của chúng
ta” [44, tr. 97]. Trong đó quan trọng nhất là: “nhiệm vụ xây dựng hậu phương
kháng chiến, đánh bại các cuộc phản công, tiến công của địch, phát triển
chiến tranh du kích trong vùng địch kiểm soát” [37, tr. 41].
Hưng Yên nằm sát thủ đô Hà Nội và trên tuyến đường giao thông chiến
lược nên những ngày sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, tình hình cũng rất
sôi động. Cùng với khí thế cách mạng sôi sục và niềm phấn khởi, tin tưởng
của người dân vừa được giải phóng thoát khỏi ách áp bức, bóc lột của thực
dân phong kiến, Đảng bộ và nhân dân Hưng Yên cũng đứng trước muôn vàn
những khó khăn.
Lúc này, nhân dân trong tỉnh đang gặp nhiều khó khăn sau nạn đói
khủng khiếp và nạn lụt năm 1945.Nông thôn, nông nghiệp tiêu điều; công
nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp đình đốn. Bộ máy chính quyền vừa
mới thành lập, cán bộ tuy hăng say nhiệt tình với cách mạng nhưng còn nhiều
bỡ ngỡ trước những công tác mới mẻ. Ngày 20/11/1945, hơn 3.000 quân Nhật
23
từ các nơi dồn về, cùng với số quân đã đồn trú trước tháng 08/1945 chờ ngày
quân Đồng Minh đến tước vũ khí về nước cũng gây cho địa phương nhiều
khó khăn. Cùng ngày đó, hơn 800 quân đội Trung Hoa dân quốc kéo vào thị
xã để giải giáp quân đội Nhật. Quân đội Trung Hoa dân quốc cũng không giấu
mưu đồ tập hợp, xây dựng lực lượng phản động tại chỗ để lật đổ chính quyền
cách mạng và vơ vét của cải.
Tổng khởi nghĩa thắng lợi, để chuẩn bị bước vào thời kỳ đấu tranh và
xây dựng mới, Xứ ủy Bắc kỳ đã tăng cường cho Hưng Yên một đội ngũ cán
bộ có uy tín và năng lực, cử đồng chí Vũ Duy Hiệu làm Bí thư Tỉnh ủy. Bên
cạnh việc quán triệt sâu sắc đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài
và tự lực cánh sinh của Đảng, Đảng bộ tỉnh còn đề ra nhiều nhiệm vụ cụ thể
để củng cố và xây dựng bộ máy chính quyền nhân dân các cấp; mở rộng và
củng cố mặt trận Việt Minh và các tổ chức quần chúng như tổ chức Thanh
niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nông dân cứu quốc, …; tổ chức, xây dựng
và phát triển các lực lượng vũ trang cách mạng.
Lực lượng vũ trang ở địa phương được Đảng bộ quan tâm xây dựng và
củng cố. Những hội viên hăng hái, nhiệt tình trong các đoàn thể cứu quốc
được lựa chọn, bổ sung vào lực lượng vũ trang, bán vũ trang. Nhờ đó, các đội
tự vệ và du kích phát triển nhanh chóng. Tổ chức chỉ huy quân sự đã hình
thành nhưng chức năng và nhiệm vụ chưa rõ ràng. Cấp tỉnh có Ủy ban bảo vệ,
huyện có Ban bảo vệ, trực tiếp chỉ huy lực lượng cảnh vệ làm nhiệm vụ bảo
vệ công sở.
Cùng với việc xây dựng cảnh vệ, Tỉnh ủy đã chỉ đạo xây dựng lực lượng
công an. Tháng 04/1946, lực lượng công an tỉnh Hưng Yên chính thức được
thành lập bao gồm đội viên ở các đội “Việt Minh danh dự”, “Đội danh dự trừ
gian”. Nhiệm vụ chủ yếu lúc này là giữ gìn trật tự an ninh, trấn áp lực lượng
phản cách mạng, bảo vệ Đảng, chính quyền và nhân dân. Ngoài lực lượng vũ
24
trang của tỉnh còn có bộ đội chủ lực. Thực hiện Sắc lệnh 33/SL tháng 05/1946
và Sắc lệnh 71/SL tháng 06/1946 của Chính phủ, chiến khu 3 đã cải tổ các chi
đội Vệ quốc đoàn, thành lập 3 Trung đoàn vệ quốc đoàn của chiến khu, trong
đó, Trung đoàn 44 đứng chân và hoạt động ở Hưng Yên và Hải Dương.
Được sự lãnh đạo trực tiếp và chặt chẽ của Trung ương, Xứ ủy, tháng
10/1946, Tỉnh ủy Hưng Yên tổ chức Hội nghị cán bộ các huyện tại Thổ Cốc –
Yên Mỹ kiểm điểm công tác từ sau khi Cách mạng tháng Tám thành công và
phổ biến tình hình nhiệm vụ mới, quan triệt tinh thần “nhất định không sớm
thì muộn Pháp sẽ đánh mình, và mình cũng nhất định phải đánh Pháp” [51, tr.
133]. Hội nghị đề ra khẩu hiệu “chuẩn bị kháng chiến là trên hết” và bàn kỹ
nhiệm vụ mở rộng lực lượng vũ trang.Sau Hội nghị tỉnh, các huyện đều họp
quán triệt tình hình và nhiệm vụ, gấp rút chuẩn bị mọi mặt cho kháng chiến
ngay trong tháng 11 và 12/1946. Toàn tỉnh đã tập trung vào các nhiệm vụ lớn:
tăng cường củng cố phát triển Đảng, củng cố chính quyền, các đoàn thể cứu
quốc; thực hiện chủ trương của Trung ương về củng cố và tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân, mở rộng mặt trận và lực lượng vũ trang; khẩn trương
huấn luyện quân sự, phát động phong trào tự trang bị vũ khí, lập “quỹ nghĩa
thương”, “quỹ bảo vệ” tích trữ lương thực, chuẩn bị cho lực lượng vũ trang…
Trong khoảng thời gian hơn một năm, từ Cách mạng tháng Tám đến cuối
năm 1946, Đảng bộ và nhân dân Hưng Yên đã giành được những thắng lợi
bước đầu rất quan trọng trong việc xây dựng và củng cố chính quyền cách
mạng, phát triển tiềm lực về mọi mặt để chuẩn bị cho kháng chiến.
1.1.3. Chỉ đạo xây dựng lực lượng dân quân du kích từ tháng 09/1945
đến tháng 11/1946
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa ra đời đã phải đương đầu với
biết bao khó khăn, trở ngại về kinh tế - xã hội, các ngành sản xuất bị đình đốn,
tài chính kiệt quệ, di sản văn hóa thực dân phong kiến cùng các tệ nạn xã hội
25