Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

Sự thích hợp của chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế cho doanh nghiệp nhỏ và vừa áp dụng tại việt nam (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (957.83 KB, 33 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH


HỒ XUÂN THỦY

SỰ THÍCH HỢP CỦA CHUẨN MỰC BÁO CÁO TÀI
CHÍNH QUỐC TẾ CHO DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ
VỪA ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kế toán
Mã số: 62 34 03 01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Tp. Hồ Chí Minh - NĂM 2016


Công trình này được hoàn thành tại:
Trường Đại học Kinh tế. TP.HCM

Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS Nguyễn Xuân Hưng
2. TS. Lê Đình Trực

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Phản biện 3:

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp trường họp tại:



Vào hồi

giờ

ngày

tháng

năm

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
SMEs là thành phần kinh tế nhiều tiềm năng và ngày càng đóng vai trò quan trọng
trong sự phát triển kinh tế của các quốc gia. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho SMEs phát
triển, cùng với mục tiêu nỗ lực hài hòa những quy định BCTC cho SMEs, tháng 7/2009,
IASB đã ban hành IFRS for SMEs.
Tại VN, BTC cũng ban hành Quyết định số 48/2006/QĐ-BTC, Thông tư số
133/2016/TT-BTC cho phép SMEs áp dụng VAS với một số giảm trừ. Tuy nhiên, đối tượng
sử dụng thông tin và nhu cầu thông tin kế toán đối với SMEs mang tính đặc thù không giống
các DN niêm yết, DN có quy mô lớn. Do đó, áp dụng chung VAS với những quy định giảm
trừ dẫn đến thông tin kế toán dàn trải, không đáp ứng tập trung nhu cầu thông tin cho nhóm
đối tượng này. Hơn nữa, những VAS đầu tiên của VN được ban hành từ năm 2001 và mặc
dù VAS được xây dựng trên cơ sở của IFRS nhưng đã lạc hậu do không được cập nhật, sửa
đổi trong một thời gian dài nên không thể đảm bảo cung cấp thông tin có thể so sánh với các

DN khác trên thế giới. Mặt khác, trong xu thế hội nhập kế toán ngày càng mạnh mẽ, tương
tự các quốc gia khác, Việt Nam cũng đang có những áp lực về hài hòa với IFRS/IFRS for
SMEs. Tuy vậy, những thay đổi đáng kể trong hệ thống chuẩn mực kế toán VN, đặc biệt là
liên quan đến SMEs để đáp ứng xu hướng hội nhập vẫn chưa được giải quyết một cách toàn
diện trong thời gian vừa qua.
Khi IFRS for SMEs ban hành, một số các nhà nghiên cứu trên thế giới đã thực hiện
các nghiên cứu mang tính dự báo để đánh giá sự thích hợp của IFRS for SMEs đối với nhu
cầu BCTC của SMEs ở một số quốc gia, làm cơ sở cho quyết định áp dụng IFRS for
SMEs. Tuy nhiên, các nghiên cứu này vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Hơn nữa, chưa có
một nghiên cứu nào mang tính học thuật được công bố liên quan đến sự thích hợp của
IFRS for SMEs ở VN. Mặt khác, ngoài số lượng nghiên cứu về IFRS for SMEs trên thế
giới cũng như Việt Nam còn khan hiếm, quan điểm hội tụ với IFRS for SMEs của các quốc
gia cũng khác biệt nhau. Đồng thời, phần lớn các nghiên cứu thực hiện ở các nước phát
triển hoặc các nước đang phát triển nhưng đã áp dụng đầy đủ IFRS, thiếu nghiên cứu về
IFRS for SMEs ở các nước có nền kinh tế mới nổi và việc áp dụng IFRS còn khá hạn chế
như VN.
Như vậy, dựa trên bối cảnh của thế giới và điều kiện Việt Nam, để khắc phục khe
hổng nghiên cứu đã phân tích ở trên, nghiên cứu về “Sự thích hợp của Chuẩn mực báo
cáo tài chính quốc tế cho doanh nghiệp nhỏ và vừa áp dụng tại Việt Nam” là cần thiết.
2 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chính của luận án là nghiên cứu sự thích hợp của IFRS for SMEs và định
hướng áp dụng cho SMEs ở VN, được chia thành nhiều mục tiêu cụ thể:
1. Xác định nhu cầu cần áp dụng IFRS for SMEs của SMEs VN.
2. Đánh giá sự thích hợp của các chuẩn mực, chính sách kế toán, nguyên tắc ghi nhận
và đo lường của IFRS for SMEs đối với SMEs VN.
3. Xác định những nhân tố đặc điểm SMEs ảnh hưởng đến: nhu cầu cần áp dụng IFRS
for SMEs; sự thích hợp của các chuẩn mực, chính sách kế toán, nguyên tắc ghi nhận
và đo lường của IFRS for SMEs.



2

4. Nhận diện những thuận lợi, trở ngại ảnh hưởng đến khả năng áp dụng IFRS for
SMEs và phân tích hướng áp dụng IFRS for SMEs.
3
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
 IFRS for SMEs do IASB ban hành; CMBCTC cho SMEs của một số quốc gia trên
thế giới; VAS và các văn bản pháp quy đã ban hành và đang áp dụng cho SMEs VN.
 Các nhân tố thuộc đặc điểm của doanh nghiệp ảnh hưởng đến sự thích hợp của IFRS
for SMEs áp dụng cho SMEs VN.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận án chỉ tập trung nghiên cứu CMBCTC áp dụng cho SMEs theo định nghĩa SMEs
của IASB. Mặt khác, luận án đánh giá nhận thức của SMEs về sự thích hợp của IFRS for
SMEs dựa trên sự khác biệt cơ bản của IFRS for SMEs và VAS hiện hành áp dụng cho
SMEs VN.
Theo khái niệm của IASB, SMEs bao gồm những DN không có trách nhiệm giải trình
công khai và phát hành BCTC theo mục đích chung cho các đối tượng sử dụng thông tin
bên ngoài. IASB cho rằng tiêu chí định tính phải được tuân thủ và các quốc gia có thể sẽ tự
quyết định tiêu chí định lượng phù hợp. Trong luận án này, thống nhất với IASB, tác giả sử
dụng thuật ngữ SMEs theo khái niệm của IASB, tức là đề cập đến các công ty chưa niêm yết
nói chung (không kể công ty đại chúng) với những quy mô khác nhau xác định theo quy
định của VN (NĐ 56/2009/NĐ-CP). Do đó, các DN được nghiên cứu là các công ty chưa
niêm yết trên thị trường chứng khoán chính thức, không bao gồm các ngân hàng, công ty
bảo hiểm, chứng khoán, các tổ chức tương tự có nhận vốn từ công chúng.
Có nhiều nhóm nhân tố ảnh hưởng đến sự thích hợp của IFRS for SMEs, trong phạm
vi nghiên cứu này, tác giả chủ yếu đề cập đến các nhân tố thuộc đặc điểm của SMEs.
4
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng phương pháp hỗn hợp. Phương pháp này được áp dụng theo cách

thức kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng tiến hành đồng thời nhưng
riêng biệt trong thu thập và phân tích dữ liệu, chỉ hợp nhất kết quả trong phần phân tích kết
quả nghiên cứu chung.
5
Ý nghĩa của nghiên cứu
5.1 Ý nghĩa khoa học
 Hệ thống hóa cơ sở lý thuyết về CMBCTC khác biệt của IASB cũng như một số
quốc gia và các nghiên cứu liên quan đến sự thích hợp của IFRS for SMEs.
 Tổng hợp các quan điểm về tiêu chí phân loại SMEs. Đặc biệt, đóng góp quan trọng
nhất trong nghiên cứu này là xác lập tiêu chí SMEs phù hợp để áp dụng IFRS for
SMEs trên cơ sở kết hợp tiêu chí định tính và định lượng.
 Bổ sung vào khe hổng các nghiên cứu liên quan đến sự thích hợp của IFRS for SMEs
đối với SMEs có những đặc điểm khác nhau ở VN nói riêng và các quốc gia đang
phát triển nói chung.
 Cung cấp thêm một bằng chứng thực nghiệm về sự ảnh hưởng của các nhân tố thuộc
đặc điểm SMEs đến nhu cầu và sự thích hợp của các chính sách kế toán, nguyên tắc
ghi nhận và đo lường của IFRS for SMEs, qua việc thực hiện kiểm định 9 nhân tố thể


3

hiện môi trường hoạt động đa dạng, cơ cấu tổ chức, nguồn lực... của SMEs. Trong
đó, có ba nhân tố mới được phát hiện từ kết quả của nghiên cứu định tính.
 Xác lập định hướng phát triển CMBCTC phù hợp với SMEs VN.
5.2 Ý nghĩa thực tiễn
 Là nguồn thông tin cần thiết cho các cơ quan quan NN, cụ thể là BTC nhận định rõ
về thực trạng áp dụng VAS đối với SMEs trong thời gian vừa qua và đánh giá nhu
cầu của SMEs đối với IFRS for SMEs.
 Là tài liệu tổng hợp quan điểm đánh giá của SMEs, các chuyên gia trong lĩnh vực
kiểm toán, giảng dạy, nghiên cứu về sự khác biệt giữa IFRS for SMEs và VAS, bộ

chuẩn mực nào thích hợp hơn đối với yêu cầu BCTC của SMEs, tiêu chí SMEs áp
dụng, những thuận lợi và khó khăn gây cản trở cho hiệu quả áp dụng IFRS for SMEs.
Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu đó, có thể đánh giá mức độ thích hợp của IFRS
for SMEs đối với nhu cầu BCTC của SMEs Việt Nam để BTC có những chính sách
đổi mới các quy định kế toán và xây dựng kế hoạch hội tụ thích hợp cho bộ phận
SMEs.
 Là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà nghiên cứu, SMEs và các đối tượng khác
quan tâm đến BCTC SMEs, IFRS for SMEs và CMBCTC khác biệt.
6
Kết cấu của đề tài
Luận án có kết cấu bao gồm 5 chương và được trình bày theo bố cục như sau: Phần
mở đầu; Chương 1- Tổng quan về vấn đề nghiên cứu; Chương 2- Cơ sở lý thuyết về
CMBCTC quốc tế cho SMEs; Chương 3- Phương pháp nghiên cứu; Chương 4- Kết quả
nghiên cứu và bàn luận; Chương 5- Kết luận tổng hợp từ kết quả nghiên cứu định tính, định
lượng và gợi ý chính sách
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Giới thiệu
Mục đích của chương này là hệ thống hóa, phân tích các nghiên cứu trước, xác định
khe hổng nghiên cứu làm cơ sở thực hiện nghiên cứu.
1.2 Các nghiên cứu trên thế giới
1.2.1 Nghiên cứu về nhu cầu cần có IFRS for SMEs
Theo IASB, sự cần thiết của việc xây dựng CMBCTC quốc tế cho SMEs phát sinh từ
cơ cấu tổ chức liên quan quốc tế, hoạt động quốc tế, đối tượng và nhu cầu của người sử
dụng thông tin BCTC của SMEs (Otchere & Agbeibor, 2012). Dựa vào lập luận này, hàng
loạt các nghiên cứu đã được tiến hành khảo sát thực nghiệm ở các nước để đánh giá nhu cầu
của SMEs về IFRS for SMEs. Căn cứ vào kết quả nghiên cứu có thể chia các nghiên cứu
liên quan đến vấn đề này thành 3 nhóm: các nghiên cứu khẳng định SMEs cần có CMBCTC
quốc tế (Mazars, 2008; Ikahaimo et al, 2008; Atik, 2010; Schutte & Buys, 2010; Stainbank,
2010; Eierle & Haller, 2010; Otchere & Agbeibor, 2012), các nghiên cứu không ủng hộ
(Sian & Roberts, 2008; Aamir & Farooq, 2010) và nghiên cứu có quan điểm trung dung về

nhu cầu cần có chuẩn mực kế toán riêng cho SMEs (Chandet al, 2006; Quagli & Paoloni,
2012; Albu et al, 2013).


4

1.2.2 Nghiên cứu về sự thích hợp của các chính sách kế toán, nguyên tắc ghi nhận và
đo lường theo quy định của IFRS for SMEs
IASB cho rằng IFRS for SMEs thích hợp đối với tất cả SMEs ở tất cả các quốc gia trên
thế giới cho dù đã áp dụng IFRS hay chưa. IASB nhấn mạnh thêm IFRS for SMEs thích hợp
với cả DN có quy mô siêu nhỏ vì cách trình bày đơn giản giúp DN có quy mô nhỏ có những
hướng dẫn áp dụng dễ dàng (IASB, 2009b, BC75, 76). Tuy nhiên, các nghiên cứu của Wyk
& Rossouw (2009); Schutte & Buys (2010); Eierle & Haller (2009, 2010); Otchere &
Agbeibor (2012); Bunea et al (2012); Chand et al (2015) đã khẳng định không phải tất cả
các chuẩn mực, chính sách kế toán của IFRS for SMEs đều thích hợp với bất kỳ quốc gia
nào. Đồng thời, kết luận từ các nghiên cứu cũng khác biệt, không thể khái quát chung cho
tất cả các quốc gia.
1.2.3 Nghiên cứu về nhân tố đặc điểm của DN ảnh hưởng đến nhu cầu và sự thích
hợp của các chính sách kế toán, nguyên tắc ghi nhận và đo lường theo quy định
của IFRS for SMEs
IASB khẳng định IFRS for SMEs là một bộ chuẩn mực thích hợp đối với tất cả DN
chưa niêm yết, bất kể quy mô, lập BCTC theo mục đích chung cho các các đối tượng sử
dụng thông tin bên ngoài (IASB, 2009b). Tuy nhiên, một số các nghiên cứu đã thực hiện
kiểm chứng để khẳng định không phải tất cả các DN chưa niêm yết đều thích hợp để áp
dụng. Các nghiên cứu này đã khám phá mối liên quan giữa các nhân tố đặc điểm của DN và
nhu cầu cũng như sự thích hợp về chuẩn mực, chính sách kế toán, nguyên tắc ghi nhận và
đo lường theo quy định của IFRS for SMEs đối với mục tiêu BCTC của họ. Dù vậy, số
lượng các nghiên cứu về vấn đề này còn khá khiêm tốn (Collis & Jarvis, 2000; Ikahaimo,
2008; Mazars, 2008; Nerudova & Bohusova, 2008; Sian & Robert, 2006, 2008;Wyk &
Rossouw, 2009, Eierle & Haller, 2009, Albu et al, 2010; Atik, 2010; Pascu & Vasiliu, 2011;

Stanbank & Tafuh, 2011, Neag et al, 2011; Otchere & Agbeibor, 2012; Quagli & Paoloni,
2012; Albu, 2013) và các nhân tố được kiểm định chỉ bao gồm: quy mô, cơ cấu tổ chức và
hoạt động liên quan quốc tế, lĩnh vực kinh doanh, hình thức pháp lý, số lượng chủ sở hữu.
1.2.4 Các nghiên cứu khác về những lợi ích, trở ngại có thể gây ảnh hưởng đến khả
năng áp dụng thích hợp IFRS for SMEs
Các nghiên cứu của Albu et al (2010, 2013); Mandilas (2010); Dang (2011);
Alexandrou et al (2012), Strouhal (2012); Uyar& Gungormus (2012); Kilic et al (2014),
Samujh & Devi (2015)… thực hiện khám phá quan điểm của các đối tượng liên quan đến
khả năng áp dụng, sự thích hợp của IFRS for SMEs cũng như xu hướng hội tụ chuẩn mực
kế toán quốc gia với IFRS for SMEs.
1.3 Các nghiên cứu trong nước
Hiện nay, chưa có nghiên cứu nào mang tính học thuật được công bố liên quan đến sự
thích hợp của IFRS for SMEs ở VN. Các nghiên cứu về IFRS for SMEs thời gian vừa qua
chủ yếu mang tính chất giới thiệu bộ chuẩn mực này và đề xuất VN nên áp dụng. Điển hình
như nghiên cứu của Chúc Anh Tú (2010); Phạm Quang Huy (2011); Nguyễn Vũ Việt &
Mai Ngọc Anh (2010); Mai Ngọc Anh (2011); Trần Thị Kim Anh & Trần Thị Phương Thảo
(2013); Trần Thị Trang (2013). Hoặc, nghiên cứu của Trần Thị Thanh Hải (2015) đã nêu
một phạm vi nghiên cứu khá rộng về khung pháp lý cho SMEs nhưng các vấn đề về IFRS


5

for SMEs cũng chỉ dừng ở nội dung giới thiệu tổng quát về bộ chuẩn mực này. Một nghiên
cứu khác của Trần Đình Khôi Nguyên (2011) khảo sát 283 SMEs Đà Nẵng nhằm kiểm định
mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến vận dụng chuẩn mực kế toán đối với SMEs. Tuy nhiên,
nghiên cứu này chỉ khảo sát về VAS, chưa thực hiện đối với IFRS for SMEs.
1.4 Kết quả đạt được từ các nghiên cứu đã thực hiện và những vấn đề cần tiếp tục
nghiên cứu
1.4.1 Kết quả đạt được
Phương pháp nghiên cứu: cả phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng đều được áp

dụng.
Nội dung và kết quả nghiên cứu:
 Thể hiện bức tranh về nhu cầu và sự cần thiết của IFRS for SMEs đối với các quốc
gia phát triển và đang phát triển.
 Các chuẩn mực, chính sách kế toán, nguyên tắc ghi nhận, đo lường và yêu cầu công
bố theo quy định của IFRS for SMEs thích hợp với yêu cầu BCTC của SMEs được
đánh giá, phân tích dựa trên quan điểm đa dạng của cả người lập và người sử dụng
BCTC.
 Một số nhân tố thuộc đặc điểm của DN như quy mô, hoạt động liên quan quốc tế,
lĩnh vực kinh doanh, hình thức pháp lý ảnh hưởng đến sự thích hợp của IFRS for
SMEs đã được phát hiện và kiểm định từ các nghiên cứu.
 Khái quát những thuận lợi, những nhân tố gây trở ngại trong quá trình áp dụng IFRS
for SMEs, khả năng và cách thức áp dụng làm nền tảng cho các quốc gia trong quyết
định hội tụ với IFRS for SMEs.
1.4.2 Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
Bên cạnh những kết quả đạt được, các nghiên cứu thuộc lĩnh vực này vẫn còn một số
hạn chế:
 Thứ nhất, các nghiên cứu đánh giá về tiêu chí phân loại SMEs để áp dụng IFRS for
SMEs hầu như khác nhau giữa các quốc gia, chưa có kết luận đồng nhất.
 Thứ hai, các nghiên cứu thực nghiệm xác định nhu cầu của SMEs đối với IFRS for
SMEs và sự thích hợp của các chuẩn mực, chính sách kế toán, nguyên tắc ghi nhận
và đo lường theo quy định của IFRS for SMEs không nhiều và kết luận của những
nghiên cứu này không hoàn toàn như nhau.
 Thứ ba, các nhân tố thuộc đặc điểm của DN ảnh hưởng đến nhu cầu cần IFRS for
SMEs và sự thích hợp về nội dung quy định của IFRS for SMEs được kiểm định
còn rời rạc, chủ yếu dừng ở phân tích thống kê mô tả hay đơn thuần chỉ là lược khảo
các nghiên cứu, chưa được khám phá và kiểm định một cách đầy đủ.
 Thứ tư, các nghiên cứu thực hiện thường gắn với từng quốc gia chưa thể kết luận
chung cho các quốc gia vì SMEs không phải là một khối đồng nhất.
 Cuối cùng, phần lớn các nghiên cứu thực hiện ở các nước phát triển hoặc đang phát

triển nhưng đã áp dụng IFRS, thiếu nghiên cứu về IFRS for SMEs ở các nước có
nền kinh tế mới nổi và việc áp dụng IFRS còn khá hạn chế như VN.
Từ những khe hổng nêu trên, tác giả cho rằng nhu cầu nghiên cứu bổ sung cho các
nghiên cứu trước về sự thích hợp của IFRS for SMEs vẫn rất cần thiết. Đặc biệt hơn,


6

nghiên cứu thực hiện trên cơ sở IFRS for SMEs phiên bản mới nhất năm 2015 vừa được
IASB hoàn tất sau 3 năm xem xét lại và càng có giá trị hơn trong điều kiện thiếu các
nghiên cứu tương tự ở VN.
1.5 Kết luận
Những nghiên cứu trước được phân tích, đánh giá, bàn luận trong chương này làm cơ
sở cho việc xác định mục tiêu nghiên cứu của luận án. Sự thích hợp của IFRS for SMEs
đánh giá từ góc độ của chính SMEs là vấn đề thu hút các nhà nghiên cứu khi bộ chuẩn mực
này được ban hành. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên vẫn tồn tại một số hạn chế cần tiếp tục
thực hiện các nghiên cứu bổ sung. Đó là, kết quả nghiên cứu chưa đồng nhất, mang đặc thù
của từng quốc gia, các nhân tố đặc điểm SMEs chưa được kiểm định đầy đủ. Hơn nữa, chưa
có một nghiên cứu nào mang tính học thuật tương tự ở VN. Vì thế, nghiên cứu sự thích hợp
của IFRS for SMEs áp dụng ở VN là thật sự cần thiết.
CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ CMBCTC QUỐC TẾ CHO DOANH NGHIỆP
NHỎ VÀ VỪA
2.1 Giới thiệu
Mục đích của chương này là hệ thống hóa cơ sở lý thuyết liên quan đến CMBCTC
quốc tế cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
2.2 SMEs và chuẩn mực BCTC khác biệt
2.2.1 Khái niệm SMEs
Chưa có một khái niệm nào về SMEs được sử dụng thống nhất. Các nhà nghiên cứu
đều gặp khó khăn trong việc xác định tiêu chí để phân loại SMEs. Theo Sian & Roberts
(2006), tiêu chí định tính mô tả toàn diện nhất đặc điểm của SMEs được sử dụng để khái

niệm SMEs đưa ra đầu tiên trong báo cáo Bolton năm 1971. Ngoài tiêu chí định tính, các
tiêu chí định lượng như số lượng lao động, doanh thu hoặc tổng tài sản…hay kết hợp tiêu
chí định tính và định lượng cũng được sử dụng phổ biến để xác định SMEs (Sian & Robert.
2006; Ploybut, 2012).
Về phương diện quốc gia, các quốc gia thường sử dụng tiêu chí định lượng để phân
biệt SMEs dựa vào điều kiện kinh tế xã hội của từng quốc gia. Do đó, các tiêu chí định
lượng phân biệt SMEs thường khác nhau. IASB không dựa vào bất kỳ tiêu chí định lượng
nào để xác định SMEs thuộc phạm vi áp dụng chuẩn mực. IASB cho rằng SMEs là: “các
công ty không có trách nhiệm giải trình công khai và phát hành BCTC theo mục đích chung
cho đối tượng bên ngoài DN”.
2.2.1.1 Khái quát về CMBCTC khác biệt
Các cuộc tranh luận về CMBCTC khác biệt đã bắt đầu từ những năm 1980 (Schutte,
2011). Vấn đề chính của những cuộc tranh luận này là liệu nên có CMBCTC khác biệt (big
GAAP - little GAAP) cho các công ty niêm yết lớn và cho các công ty nhỏ hơn hay không.
Theo Harvey & Walson (1996), các DN khác nhau nên có những quy định về kế toán
khác nhau hay cần có những bộ chuẩn mực kế toán khác nhau. Nair & Rittenberg (1983) và
HKSA (2002) đều cùng quan điểm khi cho rằng CMBCTC khác biệt là quy định DN được
cho phép giảm trừ một số yêu cầu của chuẩn mực kế toán hay toàn bộ chuẩn mực kế toán
trong việc lập BCTC.
2.2.1.2 Các cách thức áp dụng CMBCTC khác biệt


7

Một số cách thức tiếp cận CMBCTC khác biệt đã được tranh luận trong các nghiên
cứu của McCaney & Ramsey (1989), Devi (2003), Eierle (2005); Wise & Faux (2005),
Baskerville & Cordery (2006) và Sian & Robert (2006). Có thể chia thành hai nhóm quan
điểm liên quan đến hình thức nói chung và nội dung bên trong của các CMBCTC khác biệt.
2.2.2 Mối liên hệ giữa các nhân tố đặc điểm SMEs và sự cần thiết của CMBCTC khác
biệt thích hợp cho nhu cầu BCTC của SMEs

Sian & Roberts (2006) đã tổng kết một số đặc trưng của SMEs, như quy mô nhỏ,
nguồn lực giới hạn cả về nhân lực và tài chính; đa số chủ sở hữu cũng trực tiếp tham gia
điều hành, nên thường không có sự chia tách giữa quyền sở hữu và điều hành; không có khả
năng hoạt động trong thị trường tài chính lớn, không có nghĩa vụ và trách nhiệm đối với các
nhà đầu tư như các công ty niêm yết vì vốn chủ yếu dựa vào ngân hàng, không dựa vào đầu
tư cổ phần. Những đặc điểm khác biệt này đã dẫn đến sự khác nhau giữa công ty niêm yết
và SMEs về đối tượng, nhu cầu của đối tượng sử dụng thông tin, sự cân nhắc giữa chi phí và
lợi ích khi tuân thủ chuẩn mực (Collis & Jarvis, 2000; Morris & Campell, 2006; Sian &
Robert, 2006; IASB, 2009b), mối quan hệ ủy nhiệm và sự phức tạp của chuẩn mực hiện
hành (Jarvis & Collis, 2003). Đó cũng chính là những nhân tố ảnh hưởng đến sự cần thiết
của CMBCTC khác biệt thích hợp với nhu cầu BCTC của SMEs.
2.3 Cơ sở lý thuyết về CMBCTC quốc tế cho SMEs
2.3.1 Quá trình nghiên cứu và xây dựng IFRS for SMEs
Trong năm 2001, IASB đã thực hiện dự án xây dựng CMBCTC cho SMEs. Tháng
6/2004, IASB đã ban hành tài liệu “Quan điểm sơ bộ ban đầu về chuẩn mực kế toán cho
SMEs” (IASB, 2004). Tháng 4/2005, IASB đã ban hành bảng câu hỏi để lấy ý kiến khảo sát
về các vấn đề liên quan đến nguyên tắc ghi nhận, đo lường, yêu cầu công bố và nội dung
nào của IFRS nên loại trừ cho SMEs. Sau đó, tháng 2/2007, IASB ban hành bản dự thảo
IFRS for SMEs cùng với tài liệu “Cơ sở để kết luận về dự thảo IFRS for SMEs” (IASB,
2007a, b). Đến cuối năm 2007, IASB đã nhận được 161 thư phản hồi đóng góp ý kiến về
bản dự thảo từ các nhà nghiên cứu và các tổ chức nghề nghiệp. Đồng thời, IASB cũng thực
hiện nhiều thử nghiệm với 116 SMEs ở 20 quốc gia khác nhau để xác định các khó khăn của
SMEs khi áp dụng bản dự thảo IFRS for SMEs (IASB, 2009d). Đến tháng 7/2009, IASB
chính thức ban hành IFRS for SMEs (IASB, 2009a).
2.3.2 Phạm vi và mục tiêu của IFRS for SMEs
Theo IFRS for SMEs, SMEs áp dụng bộ chuẩn mực này phải đáp ứng một số tiêu chí
là (IASB, 2009a, trang 10):
 Không có trách nhiệm giải trình công khai
 Phát hành BCTC theo mục đích chung cho đối tượng bên ngoài DN, như chủ sở hữu
không tham gia quản lý điều hành DN, chủ nợ hiện tại và tiềm năng, các tổ chức xếp

hạng tín dụng.
Do đó, SMEs thuộc phạm vi áp dụng chuẩn mực không phải là các công ty có cổ phiếu
niêm yết trên thị trường chứng khoán và cũng không bao gồm các tổ chức kinh doanh dịch
vụ tài chính như ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, các tổ chức tương hỗ và các tổ chức
tương tự có nhận vốn từ công chúng.
Về mục tiêu của BCTC theo IFRS for SMEs, IASB xác định:


8

“Mục tiêu BCTC của SMEs là cung cấp thông tin về tình hình tài chính, tình hình
kinh doanh và các luồng tiền của DN đáp ứng yêu cầu sử dụng thông tin hữu ích để
ra các quyết định kinh tế cho các đối tượng sử dụng thông tin mà không ở vị trí để có
thể yêu cầu cung cấp các báo cáo đặc biệt theo nhu cầu của họ” (IASB, 2009a, trang
12).
Mục tiêu chung BCTC theo IFRS for SMEs là hướng đến mục tiêu thông tin hữu ích
cho việc ra quyết định của các đối tượng bên ngoài.
2.3.3 Một số đặc điểm của IFRS for SMEs
IFRS for SMEs là bộ chuẩn mực độc lập được xây dựng dựa trên “Khuôn mẫu lý
thuyết cho việc lập và trình bày BCTC” của IFRS, dài 230 trang, trình bày thành 35 phần
cho từng chuẩn mực. IFRS for SMEs đơn giản hơn IFRS nguyên tắc ghi nhận, đo lường và
cả yêu cầu công bố, đồng thời chú ý đến sự cân đối giữa chi phí và lợi ích khi áp dụng cho
SMEs. Cụ thể:
 Các chuẩn mực không phù hợp với SMEs bị loại bỏ;
 Giảm bớt các lựa chọn theo IFRS, chỉ sử dụng lựa chọn đơn giản nhất;
 Một số các nguyên tắc ghi nhận, đánh giá tài sản, nợ phải trả, thu nhập, chi phí cũng
như các chính sách kế toán đơn giản hơn quy định của IFRS;
 Các yêu cầu trình bày thông tin cũng đơn giản hơn.
Theo kế hoạch đề ra ban đầu, IFRS for SMEs sẽ được soát xét mỗi ba năm một lần.
IASB bắt đầu thực hiện quá trình soát xét lại toàn bộ IFRS for SMEs từ năm 2012 đến 2014.

Tháng 5/2015, IASB đã ra công bố cuối cùng về các nội dung xem xét. IASB kết luận IFRS
for SMEs không có thay đổi nhiều so với phiên bản ban hành năm 2009 do các quy định của
chuẩn mực này cũng còn khá mới. Các thay đổi chủ yếu liên quan đến giải thích các quy
định, vì thế các thay đổi này không ảnh hưởng đến việc xử lý các giao dịch cụ thể.
2.3.4 Sự thích hợp của IFRS for SMEs với nhu cầu BCTC của SMEs
Trong nghiên cứu này, tác giả kết hợp quan điểm của IASB và các nghiên cứu của
Ceustermans et al (2012), Eierle & Haller (2009); Otchere & Agbeibor (2012), Samujh &
Devi (2015), Shutte (2011). Theo đó, đánh giá, phân tích sự thích hợp và khả năng áp dụng
của IFRS for SMEs đối với nhu cầu BCTC của SMEs là đánh giá nhu cầu cần áp dụng IFRS
for SMEs, sự thích hợp về nội dung quy định của chuẩn mực này và tìm ra DN có các đặc
tính thỏa mãn theo định nghĩa SMEs của IASB, có nhu cầu áp dụng IFRS for SMEs, nhận
thấy các chuẩn mực, chinh sách kế toán, nguyên tắc ghi nhận và đo lường của IFRS for
SMEs đáp ứng yêu cầu thông tin BCTC hữu ích cho các đối tượng sử dụng thông tin của họ.
Với nhu cầu cần minh bạch thông tin BCTC, sự cân đối chi phí-lợi ích khi chọn lựa các
chính sách kế toán, SMEs sẽ thiết lập các yêu cầu công bố thông tin phù hợp với các đối
tượng sử dụng thông tin. Bên cạnh đó, do SMEs không phải là một khối đồng nhất nên
những đặc tính của SMEs cũng phải được đặt trong bối cảnh môi trường hoạt động của
SMEs ở mỗi quốc gia để đánh giá lợi ích, khó khăn khi áp dụng IFRS for SMEs.
2.3.5 Áp dụng IFRS for SMEs của các quốc gia trên thế giới
Theo kết quả thống kê của IASB đến tháng 3/2016, 80 quốc gia đã áp dụng IFRS for
SMEs, 11 quốc gia đang cân nhắc lộ trình áp dụng trong tương lai. Trong số các quốc gia đã
áp dụng, 72 quốc gia áp dụng hoàn toàn IFRS for SMEs, không điều chỉnh; về CMBCTC


9

lựa chọn áp dụng, 52 quốc gia cho phép SMEs chọn lựa áp dụng IFRS for SMEs hoặc IFRS
(IFRS Foundation, 2015a; IFRS Foundation, 2016). Việt Nam ngày càng hòa nhập với kế
toán quốc tế, vì thế cũng không thể đứng ngoài những sự kiện quan trọng gây nhiều tranh
luận này. Từ kinh nghiệm của các quốc gia đã thực hiện hệ thống CMBCTC khác biệt, có

thể rút ra bốn vấn đề cần cân nhắc để có thể thực hiện trong bối cảnh ở VN, cụ thể là:
(1)Tiêu chí xác định DN áp dụng, (2) Cách thức tiếp cận, (3) Sự cân nhắc về chi phí và lợi
ích, (4) Sự lựa chọn phương thức áp dụng CMBCTC khác biệt.
2.4 Các lý thuyết nền về việc áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế
Các lý thuyết nền được sử dụng gồm lý thuyết thể chế xã hội học hiện đại (new
institutional sociology theory), lý thuyết ủy nhiệm (agency theory), lý thuyết thông tin hữu
ích (decision usefulness theory). Các lý thuyết nền được sử dụng để thiết lập các giả thuyết
về mối quan hệ giữa các đặc điểm DN với nhu cầu cần áp dụng IFRS for SME, với sự thích
hợp của các chuẩn mực, chính sách kế toán, nguyên tắc ghi nhận và đo lường theo quy định
của IFRS for SMEs. Đồng thời, tác giả còn dựa vào lý thuyết thể chế xã hội học hiện đại để
biện luận hướng áp dụng IFRS for SMEs.
2.5 Cơ sở xây dựng mô hình nghiên cứu lý thuyết
Trên cơ sở các lý thuyết nền là lý thuyết thể chế xã hội học hiện đại, lý thuyết ủy
nhiệm, lý thuyết thông tin hữu ích, kế thừa kết quả của các nghiên cứu chủ yếu đã thực
hiện và kinh nghiệm xây dựng CMBCTC khác biệt thích hợp với nhu cầu BCTC SMEs
của các quốc gia, hình 2.1 trình bày mô hình nghiên cứu của luận án.
Sự thích hợp của IFRS for SMEs

Nhu cầu cần IFRS
for SMEs

Các nhân tố đặc điểm của
SMEs











Hình thức pháp lý
Hình thức sở hữu
Quy mô
Lĩnh vực kinh doanh
Sự chia tách quyền sở
hữu và điều hành
Cơ cấu tổ chức liên
quan quốc tế
Hoạt động liên quan
quốc tế
BCTC được kiểm toán
Tổ chức kiểm toán

Sự thích hợp của các
chuẩn mực kế toán

Sự thích hợp của các
chính sách, nguyên tắc
ghi nhận và đo lường

Những lợi ích mong
đợi

Những nhân tố gây trở
ngại

Hình 2.1 Mô hình nghiên cứu lý thuyết

2.6 Kết luận chương 2


10

Khái niệm SMEs vẫn chưa thống nhất trong các nghiên cứu cũng như quy định của
các quốc gia. Tuy nhiên, xuất phát từ tầm quan trọng của SMEs đối với sự phát triển kinh tế,
nhiều quốc gia cũng như IASB đã thực thi các chính sách nhằm giảm sự phức tạp của
CMBCTC cũng như ban hành các quy định kế toán phù hợp với yêu cầu BCTC của SMEs.
Đó chính là vấn đề gây ra những cuộc tranh luận về sự cần thiết của CMBCTC khác biệt
được trình bày trong chương này.
Những nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển hệ thống CMBCTC khác
biệt được tổng quát từ các nghiên cứu. Đồng thời, trên cơ sở các lý thuyết nền về áp dụng
chuẩn mực kế toán quốc tế, kế thừa kết quả các nghiên cứu trước cũng như tổng kết kinh
nghiệm từ xây dựng và áp dụng CMBCTC khác biệt ở các quốc gia, tác giả đã thiết lập mô
hình nghiên cứu của luận án.
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Giới thiệu
Mục đích của chương này là trình bày thiết kế nghiên cứu để trả lời cho các câu hỏi
nghiên cứu
3.2 Phương pháp nghiên cứu
3.2.1 Xác định phương pháp
Nghiên cứu sử dụng phương pháp hỗn hợp xuất phát từ mục tiêu nghiên cứu của đề tài
luận án và những ưu điểm của phương pháp nghiên cứu này.
3.2.2 Thiết kế nghiên cứu
Tác giả sử dụng thiết kế hỗn hợp song hành hội tụ được mô tả như hình 3.1:
VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu sự thích hợp của IFRS for SMEs ở VN

CƠ SỞ LÝ THUYẾT

Hệ thống CMBCTC khác biệt, lý thuyết nền về áp dụng
chuẩn mực kế toán quốc tế và các nghiên cứu liên quan

1.
2.
3.
4.

NGHIÊN CỨU ĐỊNH TÍNH
Thiết lập dàn bài thảo luận
Phỏng vấn thử
Phỏng vấn chính thức chuyên gia
Khám phá các kiến thức mới về sự thích hợp của IFRS
for SMEs bằng phương pháp GT

BÀN LUẬN KẾT QUẢ VÀ
GỢI Ý CHÍNH SÁCH
1.

1.
2.
3.
4.
5.

NGHIÊN CỨU ĐỊNH LƯỢNG
Xây dựng bảng câu hỏi ban đầu
Kiểm tra bảng câu hỏi
Điều tra sơ bộ
Khảo sát chính thức

Phân tích kết quả nghiên cứu: thống kê mô tả, kiểm
định Chi-bình phương, hệ số tương quan Spearman’s,
hồi quy Binary Logistic

2.

Kết hợp kết quả nghiên
cứu định tính và định
lượng
Đề xuất gợi ý chính sách

Hình 3.1. Khung thiết kế nghiên cứu của luận án
3.3 Nghiên cứu định tính
3.3.1 Quy trình nghiên cứu


11

Quy trình nghiên cứu định tính thực hiện qua các bước như sau (xem hình 3.2):
Mục tiêu
nghiên cứu

Dàn bài
thảo luận

Chọn
mẫu NC

Thu thập dữ
liệu


Phân tích dữ liệu

So sánh với lý thuyết
đã có để tìm ra quan
điểm mới

Phỏng vấn thử

Mô tả hiện tượng (mã hóa
dữ liệu)

Phỏng vấn
chỉnh thức

Phân loại, nhóm các hiện
tượng giống nhau

Kết nối các hiện tượng

Hình 3.2. Quy trình nghiên cứu định tính của luận án
3.3.2 Bảng câu hỏi phỏng vấn (dàn bài thảo luận)
Bảng câu hỏi phỏng vấn được thiết kế thành 4 bản khác nhau, dành cho đại diện cơ
quan ban hành chuẩn mực và kiểm toán, ngân hàng, giảng viên và một bản còn lại cho KTT
của SMEs. Các nội dung chính trong bảng câu hỏi đều giống nhau cho các đối tượng phỏng
vấn, nhưng cũng có một số nội dung khác, mở rộng cho từng nhóm riêng biệt.
3.3.3 Chọn mẫu
3.3.3.1 Phương pháp chọn mẫu
Sử dụng kỹ thuật lấy mẫu theo chủ đích (purposive sampling). Các cuộc phỏng vấn
được thực hiện với một số lượng mẫu chọn lọc đa dạng các chuyên gia liên quan đến quá

trình xây dựng và áp dụng chuẩn mực kế toán của SMEs, gồm cả người ban hành quy định,
người lập và người sử dụng thông tin BCTC.
3.3.3.2 Đặc điểm mẫu phỏng vấn
Trên cơ sở kỹ thuật lấy mẫu có chủ đích, 5 nhóm đối tượng được lựa chọn để phỏng
vấn bao gồm: các chuyên gia nghiên cứu và giảng dạy trong các trường đại học, giám đốc,
phó giám đốc của các ngân hàng thương mại, giám đốc kiểm toán, trưởng phòng kiểm toán
của các công ty kiểm toán, KTT của SMEs, đại diện cơ quan xây dựng, ban hành các quy
định về kế toán và các tổ chức nghề nghiệp.
3.3.3.3 Kích cỡ mẫu
Trong nghiên cứu này, tác giả xác định cỡ mẫu nằm trong khoảng từ 5-20 cuộc phỏng
vấn là thuộc điểm bảo hòa dữ liệu.
3.3.4 Thu thập dữ liệu
Tác giả thực hiện phỏng vấn bán cấu trúc. Trước khi phỏng vấn thử, dàn bài thảo luận
ban đầu cũng được kiểm tra thử lần đầu tiên với các chuyên gia là giảng viên trong Khoa Kế
toán- kiểm toán của ĐH Kinh tế-Luật quan tâm đến nghiên cứu về chuẩn mực kế toán. Sau
đó, nghiên cứu thực hiện phỏng vấn thử với 2 KTT của SMEs để hoàn chỉnh bảng câu hỏi
lần cuối cùng chuẩn bị cho phỏng vấn chính thức.
Tất cả các cuộc phỏng vấn chính thức (trừ hai chuyên gia do không sắp xếp được thời
gian nên trả lời phỏng vấn bằng email) đều được thực hiện thảo luận tay đôi, và ghi âm lại.


12

Sau hơn 4 tháng thực hiện phỏng vấn, 17 cuộc phỏng vấn đã tiến hành và không còn thu
được thông tin gì mới liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
3.3.5 Phân tích dữ liệu
3.3.5.1Phương pháp phân tích dữ liệu
Nghiên cứu áp dụng phương pháp GT để phân tích dữ liệu phỏng vấn định tính. Trong
nghiên cứu này, dữ liệu định tính thu thập từ các cuộc phỏng vấn bán cấu trúc được phân
tích theo quy trình đề nghị của Strauss & Corbin (1998) gồm 3 bước là phân tích mở, phân

tích tập trung và phân tích chọn lọc.
3.3.5.2Quy trình phân tích dữ liệu
Trong luận án này, quy trình phân tích dữ liệu thực hiện dựa trên quy trình chung của
Creswell (2003) và được điều chỉnh cụ thể theo phương pháp phân tích GT của Strauss &
Corbin (1998) để đảm bảo kết quả nghiên cứu đạt sự tin cậy và có giá trị.
3.4 Nghiên cứu định lượng
3.4.1 Quy trình nghiên cứu định lượng
Quy trình nghiên cứu định lượng được thực hiện qua các bước như hình 3.3
Mục tiêu
nghiên

Bảng
câu hỏi

Chọn
mẫu NC

Thu thập dữ
liệu

Phân tích dữ liệu

Kết luận

cứu

Kiểm tra
(pretest)
Điều tra sơ bộ
(pilot test)


Bảng câu hỏi
hoàn chỉnh

Thống kê mô tả

Kiểm định Chi –square
Hệ số tương quan
Spearman’s
Hồi quy Logistic

Hình 3.3. Quy trình nghiên cứu định lượng
3.4.2 Cấu trúc bảng câu hỏi khảo sát
Bảng câu hỏi bao gồm 4 phần, gồm:
 Phần 1- Thông tin chung về DN
 Phần 2- Đánh giá VAS hiện hành áp dụng cho SMEs
 Phần 3- Quan điểm về CMBCTC thích hợp cho SMEs
 Phần 4- Những khó khăn và hướng áp dụng IFRS for SMEs
Bảng câu hỏi thiết kế gồm cả các câu hỏi đóng và các câu hỏi mở, sử dụng chủ yếu câu
hỏi đóng dạng danh sách, dạng phân loại, dạng mức độ và các thang đo được sử dụng là
thang đo định danh, thứ bậc và thang đo khoảng.
3.4.3 Chọn mẫu
Nghiên cứu lấy mẫu theo xác suất và chọn kỹ thuật lấy mẫu theo cụm. Tổng mẫu gồm
có 1.043 DN, trong đó DN tham gia câu lạc thuế của DN có VĐTNN là 180, DN hội viên
của VCCI tham gia CLB TAF gồm 863 DN hoạt động nhiều ngành nghề, nhiều hình thức
pháp lý khác nhau, chủ yếu là tập trung ở TP.HCM và một số tỉnh lân cận như Bình Dương,


13


Đồng Nai, Bình Thuận, Long An…. Kết quả thu được 356 bảng trả lời đủ điều kiện để phân
tích.
3.4.4 Thu thập dữ liệu
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp điều tra khảo sát qua bảng câu hỏi. Trước khi
khảo sát chính thức, bảng câu hỏi cũng đã được thực hiện kiểm tra thử lần đầu và pilot test
để đảm bảo việc khảo sát thu được dữ liệu thích hợp cho phân tích định lượng. Để giúp việc
thu thập dữ liệu đa dạng và kịp thời, nghiên cứu sử dụng kết hợp các cách thức phổ biến
nhất để gửi bảng câu hỏi là email và phỏng vấn trực diện.
3.4.5 Phương pháp xử lý dữ liệu thu thập
3.4.5.1 Thống kê mô tả
Sử dụng phần mềm SPSS 20 là công cụ hỗ trợ cho việc phân tích thống kê dữ liệu. Các
phương pháp thống kê phù hợp như đồ thị, bảng thống kê, tính giá trị trung bình, phương
sai, độ lệch chuẩn… được sử dụng để mô tả xu hướng trung tâm và đánh giá sự phân tán
của dữ liệu.
3.4.5.2 Kiểm định thống kê
Để thực hiện kiểm định các giả thuyết, luận án sử dụng các kiểm định phi tham số như
Chi-square, Kendall’s tau c, và tính hệ số tương quan hạng Spearman rs.
3.4.5.3 Mô hình Logistic
Bên cạnh việc sử dụng kiểm định thống kê, với biến phụ thuộc là biến định danh (biến
nhị phân), nghiên cứu còn thiết lập mô hình hồi quy Logistic để kiểm định giả thuyết mối
tương quan giữa các đặc điểm của DN và nhu cầu cần áp dụng IFRS for SMEs để tìm ra
SMEs có đặc điểm gì có nhiều lợi ích khi áp dụng IFRS for SMEs.
3.5 Giả thuyết nghiên cứu và mô tả các biến
3.5.1 Xây dựng giả thuyết
3.5.1.1Các giả thuyết liên quan nhu cầu của SMEs cần áp dụng IFRS for SMEs
H1-1a Hoạt động XK có mối liên hệ với nhu cầu cần IFRS for SMEs
H1-1b Hoạt động NK có mối liên hệ với nhu cầu cần IFRS for SMEs
H1-1c Cơ cấu vốn nước ngoài có mối liên hệ với nhu cầu cần IFRS for SMEs
H1-1d Việc vay nợ từ ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính ở nước ngoài có mối liên
hệ với nhu cầu cần IFRS for SMEs

H1-1e Hoạt động cạnh tranh với các DN ở nước ngoài có mối liên hệ với nhu cầu cần
IFRS for SMEs
H1-2
Cơ cấu tổ chức quốc tế của SMEs có mối liên hệ với nhu cầu cần IFRS for
SMEs
H1-3
Quy mô có mối liên hệ với nhu cầu cần IFRS for SMEs
H1-4
Lĩnh vực kinh doanh có mối liên hệ với nhu cầu cần IFRS for SMEs
H1-5
Việc thực hiện kiểm toán BCTC có mối liên hệ với nhu cầu cần IFRS for
SMEs
H1-6
Tổ chức kiểm toán có mối liên hệ với nhu cầu cần IFRS for SMEs
H1-7

Sự chia tách quyền sở hữu và điều hành có mối liên hệ với nhu cầu cần
IFRS for SMEs


14

H1-8
Hình thức pháp lý có mối liên hệ với nhu cầu cần IFRS for SMEs
H1-9
Hình thức sở hữu có mối liên hệ với nhu cầu cần IFRS for SMEs
3.5.1.2 Các giả thuyết liên quan đến sự thích hợp của các chuẩn mực, chính sách kế
toán, nguyên tắc ghi nhận và đo lường theo quy định của IFRS for SMEs
H2-1a Hoạt động XK có mối liên hệ với sự thích hợp của các chuẩn mực IFRS for
SMEs

H2-1b Hoạt động NK có mối liên hệ với sự thích hợp của các chuẩn mực IFRS for
SMEs
H2-1c Cơ cấu vốn nước ngoài có mối liên hệ với sự thích hợp của các chuẩn mực
IFRS for SMEs
H2-1d Việc vay nợ từ ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính ở nước ngoài có mối
liên hệ với sự thích hợp của các chuẩn mực IFRS for SMEs
H2-1e Hoạt động cạnh tranh với các DN ở nước ngoài có mối liên hệ với sự thích
hợp của các chuẩn mực IFRS for SMEs
H2-2
Cơ cấu tổ chức quốc tế của SMEs có mối liên hệ với sự thích hợp của các
chuẩn mực IFRS for SMEs
H2-3
Quy mô có mối liên hệ với sự thích hợp của các CM IFRS for SMEs
H2-4
Lĩnh vực kinh doanh có mối liên hệ với sự thích hợp của các chuẩn mực
IFRS for SMEs
H2-5
Việc thực hiện kiểm toán BCTC có mối liên hệ với sự thích hợp của các
chuẩn mực IFRS for SMEs
H2-6
Tổ chức kiểm toán có mối liên hệ với sự thích hợp của các chuẩn mực IFRS
for SMEs
H2-7
Sự chia tách quyền sở hữu và điều hành có mối liên hệ với sự thích hợp của
các chuẩn mực IFRS for SMEs
H2-8
Hình thức pháp lý có mối liên hệ có mối liên hệ với sự thích hợp của các
chuẩn mực của IFRS for SMEs
H2-9 Hình thức sở hữu có mối liên hệ với sự thích hợp của các chuẩn mực của
IFRS for SMEs

Các giả thuyết được đặt ra trả lời câu hỏi liên quan đến sự thích hợp của các chính
sách kế toán, nguyên tắc ghi nhận và đo lường đối với SMEs là:
H3-1a Hoạt động XK có mối liên hệ với sự lựa chọn các chính sách kế toán,
nguyên tắc ghi nhận và đo lường thích hợp đối với SMEs
H3-1b Hoạt động NK có mối liên hệ với sự lựa chọn các chính sách kế toán,
nguyên tắc ghi nhận và đo lường thích hợp đối với SMEs
H3-1c Cơ cấu vốn nước ngoài có mối liên hệ với sự lựa chọn các chính sách kế
toán, nguyên tắc ghi nhận và đo lường thích hợp đối với SMEs
H3-1d Việc vay nợ từ ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính ở nước ngoài của
SMEs có mối liên hệ với sự lựa chọn các chính sách kế toán, nguyên tắc ghi
nhận và đo lường thích hợp đối với SMEs
H3-1e Hoạt động cạnh tranh với các DN ở nước ngoàicủa SMEs có mối liên hệ với
sự lựa chọn các chính sách kế toán, nguyên tắc ghi nhận và đo lường thích


15

hợp đối với SMEs
H3-2
Cơ cấu tổ chức quốc tế có mối liên hệ với sự lựa chọn các chính sách kế
toán, nguyên tắc ghi nhận và đo lườngthích hợp đối với SMEs
H3-3
Quy mô có mối liên hệ với với sự lựa chọn các chính sách kế toán, nguyên
tắc ghi nhận và đo lường thích hợp đối với SMEs
H3-4
Lĩnh vực kinh doanh có mối liên hệ với với sự lựa chọn các chính sách kế
toán, nguyên tắc ghi nhận và đo lường thích hợp đối với SMEs
H3-5
Việc thực hiện kiểm toán BCTC có mối liên hệ với với sự lựa chọn các
chính sách kế toán, nguyên tắc ghi nhận và đo lường thích hợp đối với

SMEs
H3-6
Tổ chức kiểm toán có mối liên hệ với với sự lựa chọn các chính sách kế
toán, nguyên tắc ghi nhận và đo lường thích hợp đối với SMEs
H3-7
Sự chia tách quyền sở hữu và điều hành có mối liên hệ với với sự lựa chọn
các chính sách kế toán, nguyên tắc ghi nhận và đo lường thích hợp đối với
SMEs
H3-8
Hình thức pháp lý có mối liên hệ có mối liên hệ với với sự lựa chọn các
chính sách kế toán, nguyên tắc ghi nhận và đo lường thích hợp đối với
SMEs
H3-9
Hình thức sở hữu có mối liên hệ có mối liên hệ với với sự lựa chọn các
chính sách kế toán, nguyên tắc ghi nhận và đo lường thích hợp đối với
SMEs
3.5.2 Mô tả các biến
Tên biến
Giải thích
Tham chiếu
Biến phụ thuộc
Nhu cầu cần IFRS for Biến nhị phân, 1- Có nhu cầu; 0- Không Eierle
&
Haller
SMEs
có nhu cầu
(2009), Otchere &
Agbeibor (2012)
Các chuẩn mực kế Các chuẩn mực kế toán thích hợp với Eierle
&

Haller
toán
SMEs. Thang đo Likert, 1- Không quan (2009), Schutte &
trọng đến 5- Rất quan trọng (34 chuẩn Buys (2010), Otchere
mực theo quy định của IFRS for SMEs)
& Agbeibor (2012)
Các chính sách kế Chính sách kế toán khác nhau cơ bản Eierle
&
Haller
toán
giữa IFRS for SMEs và VAS, so sánh ở (2009)
các đặc điểm về chi phí tạo ra thông tin
và lợi ích cung cấp thông tin hữu ích cho
việc ra quyết định. Đo lường biến này
bằng thang đo so sánh: 1- Thấp hơn
nhiều, 5- Cao hơn nhiều
Các biến độc lập
Hoạt động quốc tế
Hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, vốn đầu Eierle
&
Haller
tư nước ngoài, vay nợ nước ngoài: thang (2009)
đo Likert 5 điểm từ 1-Không liên quan
đến 5- liên quan rất cao
Riêng biến cạnh tranh với doanh nghiệp
ở nước ngoài sử dụng biến dummy, 1Có, 0- Không


16


Cơ cấu tổ chức quốc Doanh nghiệp có một hoặc nhiều chủ sở
tế
hữu là người nước ngoài;
Doanh nghiệp có chi nhánh ở nước
ngoài;
Doanh nghiệp có công ty mẹ ở nước
ngoài.
1- SMEs có một trong 3 đặc điểm và 0không có đặc điểm nào
Quy mô
DN được chia thành 3 nhóm theo quy mô
nhỏ và siêu nhỏ, vừa, lớn dựa trên vốn
(NĐ 56/2009/NĐ-CP). Chọn quy mô nhỏ
là cơ sở, có hai biến dummy được sử
dụng.
Lĩnh vực kinh doanh
Lĩnh vực sản xuất chia thành 3 nhóm:
SX công nghiệp và xây dựng, lĩnh vực
thương mại và dịch vụ, nông, lâm nghiệp
và thủy sản.
Hai biến dummy được sử dụng với biến
lĩnh vực hoạt động nông, lâm nghiệp và
thủy sản là cơ sở
Tổ chức kiểm toán
1- Nếu một trong số các big 4 thực hiện
kiểm toán và 0- các công ty kiểm toán
khác không phải big 4 thực hiện kiểm
toán.
Hình thức pháp lý
1- Nếu SMEs là công ty cổ phần và 0 là
các hình thức pháp lý khác

Sự chia tách quyền 1- Nếu chủ sở hữu trực tiếp điều hành
quản lý và điều hành
hoạt động kinh doanh và 0- Nếu chủ sở
hữu không trực tiếp điều hành hoạt động
kinh doanh
Báo cáo tài chính 1- Báo cáo tài chính được kiểm toán và
được kiểm toán
0- Báo cáo tài chính không được kiểm
toán
Hình thức sở hữu
SMEs là DNNN được mã hóa là 1, 0không phải là DNNN

Francis et al (2008);
Otchere & Agbeibor
(2012)

Francis et al (2008),
Morris et al (2012),
Guerreiro et al (2012)

Street
&
Gray
(2002), Francis et al
(2008)

Street
&
Gray
(2002), Guerreiro et

al (2012)
Francis et al (2008)
Tác giả xây dựng

Tác giả xây dựng

Tác giả xây dựng

3.6 Kết luận chương 3
Chương này biện luận về phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện mục tiêu
nghiên cứu của luận án. Tác giả đã thực hiện 17 cuộc phỏng vấn tay đôi với 5 nhóm chuyên
gia chọn lọc theo kỹ thuật chọn mẫu có chủ đích. Dữ liệu định tính thu thập qua phỏng vấn
được xử lý phân tích bằng phương pháp GT. Song song đó, nghiên cứu cũng thực hiện khảo
sát GĐTC, KTT và KTTH của SMEs để cung cấp thêm bằng chứng cụ thể cho mục tiêu
nghiên cứu này. Bảng câu hỏi sau khi hiệu chỉnh qua hai lần pretest và pilot được khảo sát
SMEs theo kỹ thuật chọn mẫu xác suất theo cụm bằng phương pháp phỏng vấn trực diện và
email. 358 bảng câu hỏi đủ điều kiện sử dụng để phân tích Dữ liệu sau khi thu thập được xử
lý bằng phân tích phi tham số Chi-square, hệ số tương quan Spearman rs và mô hình
Logistic.
CHƯƠNG 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
4.1 Giới thiệu


17

Chương này gồm hai phần phân tích và bàn luận những kết quả nghiên cứu định tính
và định lượng.
4.2 Phân tích và bàn luận kết quả nghiên cứu định tính
4.2.1 VAS hiện hành áp dụng cho SMEs
4.2.1.1 Vai trò của chuẩn mực kế toán (theo chủ đề 1.1, phụ lục D3)

Các chuyên gia đại diện cho cơ quan ban hành chuẩn mực, tổ chức nghề nghiệp và các
giám đốc kiểm toán đều cho rằng chuẩn mực kế toán đóng vai trò quan trọng trong việc lập
BCTC có chất lượng. SMEs tuân thủ chuẩn mực kế toán sẽ cải thiện thông tin hữu ích của
BCTC, đồng thời tạo sự yên tâm và tin tưởng cho các đối tượng sử dụng thông tin.
(RG1) BCTC của SMEs phải tuân thủ chuẩn mực kế toán và các quy định liên quan. Những yêu
cầu này nhằm mục đích đảm bảo SMEs cung cấp BCTC có chất lượng.

Tuy nhiên, chỉ có các DN có vốn đầu tư nước ngoài nhận thức được lợi ích của VAS,
còn lại đa số SMEs lại thiếu quan tâm và phần lớn không nhận thức được vai trò của chuẩn
mực kế toán. Điều này là một trong những nguyên nhân dẫn đến chất lượng BCTC SMEs
không đáng tin cậy.
4.2.1.2 Quan điểm về chuẩn mực kế toán giảm trừ hiện hành áp dụng cho SMEs (theo
chủ đề 1.2, phụ lục D3)
Các chuyên gia đều đánh giá chuẩn mực giảm trừ áp dụng cho SMEs như hiện hành là
không phù hợp, thiếu các quy định cần thiết nên DN khó khăn khi áp dụng. Điều này dẫn
đến giảm khả năng so sánh của BCTC và ở một khía cạnh nào đó làm giảm chất lượng
thông tin BCTC. Mặt khác, với việc ban hành tiêu chí SMEs áp dụng chuẩn mực giảm trừ
nhưng lại không bắt buộc đối với SMEs đáp ứng yêu cầu nên đa số SMEs không chọn và
vẫn áp dụng bộ chuẩn mực đầy đủ cũng như ít quan tâm đến quy định giảm trừ này. Với
thực tế như vậy, mục tiêu ban hành QĐ 48/2006/-QĐ-BTC để làm giảm rào cản khó khăn
cho SMEs khi tuân thủ chuẩn mực kế toán đã không phát huy tác dụng như kỳ vọng. Điều
này cũng có thể sẽ xảy ra tương tự đối với TT 133/2016/TT-BTC vừa ban hành.
4.2.1.3 Đối tượng sử dụng thông tin BCTC và mục đích sử dụng thông tin BCTC (theo
chủ đề 2.1, 2.2, phụ lục D3)
Ý kiến của các chuyên gia đều khẳng định SMEs chủ yếu lập BCTC để đáp ứng yêu
cầu pháp lý đối với NN. BCTC hầu như không được sử dụng cho việc ra quyết định mà chỉ
đơn thuần là DN phải lập và nộp theo quy định của NN, chủ yếu là cho mục đích thuế, đặc
biệt đối với DN quy mô nhỏ và DN không có kế toán mà chỉ thuê công ty dịch vụ kế toán để
lập BCTC, báo cáo thuế. Ngân hàng cũng không xem BCTC là kênh thông tin quan trọng để
ra quyết định cho vay đối với SMEs.

(BA2) BCTC là giấy tờ bắt buộc phải có trong bộ hồ sơ vay, là cơ sở để phân tích, đánh giá
tình hình tài chính, tình hình kinh doanh, khả năng trả nợ của DN. Tuy nhiên, đối với ngân hàng
chúng tôi, BCTC không phải là nguồn thông tin quyết định để cho vay.

Việc BCTC ít được sử dụng và không hỗ trợ người sử dụng thông tin trong việc ra
quyết định đã phản ánh phần nào thông tin BCTC không hữu ích đối với các đối tượng sử
dụng thông tin. Đối tượng sử dụng thông tin ít quan tâm cũng là một trong những nguyên
nhân làm chất lượng BCTC thấp.


18

4.2.1.4 Mức độ tuân thủ chuẩn mực và chất lượng thông tin BCTC (theo chủ đề 1.3,
1.4, 2.4, phụ lục D3)
 Tuân thủ chuẩn mực kế toán
5/7 chuyên gia đều khẳng định mức độ tuân thủ chuẩn mực của SMEs thấp, hai chuyên
gia còn lại đánh giá cao mức độ tuân thủ chuẩn mực của các DN có vốn đầu tư nước ngoài.
Theo phản hồi của các chuyên gia là đại diện cơ quan ban hành các quy định kế toán, tổ
chức nghề nghiệp và các giám đốc kiểm toán, mức độ tuân thủ chuẩn mực chịu ảnh hưởng
bởi nhiều nhân tố như quy mô DN, hình thức pháp lý, quy định pháp quy của NN, nhận thức
và trình độ của kế toán viên, tác động của công ty kiểm toán, kiểm soát của công ty mẹ, tài
liệu hướng dẫn chuẩn mực và ảnh hưởng của cơ quan thuế.
 Chất lượng thông tin BCTC
Với mức độ tuân thủ chuẩn mực được đánh giá không cao và tuân thủ chuẩn mực thực
chất mang tính hình thức, nhiều chuyên gia đồng thuận chất lượng thông tin BCTC của
SMEs cũng không đáng tin cậy, thông tin BCTC không hữu ích cho việc ra quyết định,
ngoại trừ các DN có vốn đầu tư nước ngoài.
Nhiều nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề này, một trong số đó, ảnh hưởng của thuế cũng
được tất cả các chuyên gia thừa nhận. Các chuyên gia cho rằng thuế đã tác động đến việc
lựa chọn các chính sách kế toán khi ghi nhận và trình bày thông tin BCTC của SMEs, đặc

biệt DN có quy mô nhỏ thì ảnh hưởng này càng mạnh mẽ. Ngoài tác động của thuế, trình
độ, nhận thức của kế toán viên, quan điểm của chủ DN, quy định pháp quy của NN, văn hóa
kinh doanh của DN, quy mô và hình thức pháp lý của DN là các nhân tố khác ảnh hưởng
đến chất lượng thông tin BCTC cũng được phát hiện qua phỏng vấn chuyên gia.
Ngoài ra, những khó khăn nảy sinh từ chính những bất cập trong quy định về kế toán
cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến tuân thủ chuẩn mực kế toán và chất lượng thông tin
BCTC. Các chuyên gia đã phản hồi SMEs gặp nhiều khó khăn khi áp dụng VAS, đó là ngôn
ngữ chuẩn mực khó hiểu, chuẩn mực lạc hậu và mâu thuẫn với hướng dẫn của chế độ kế
toán, thiếu sự hỗ trợ, hướng dẫn từ phía BTC tới từng DN dẫn tới việc triển khai khó khăn,
sự tuyên truyền cũng không hiệu quả...
4.2.2 CMBCTC khác biệt
4.2.2.1 Sự cần thiết và các nhân tố ảnh hưởng đến việc xây dựng CMBCTC khác
Tất cả các chuyên gia đều thống nhất quan điểm cần thiết phải có CMBCTC phù hợp
cho SMEs vì tầm quan trọng của SMEs, những bất cập trong quy định kế toán hiện hành áp
dụng cho bộ phận DN này và nhu cầu cải thiện chất lượng thông tin BCTC. Chuẩn mực kế
toán riêng với những quy định phù hợp, cân đối giữa chi phí và lợi ích sẽ khuyến khích
SMEs tuân thủ. Thông tin BCTC của SMEs sẽ hữu ích hơn đối với các đối tượng sử dụng
thông tin.
(RG1) Theo tôi ban hành riêng CMBCTC cho SMEs là tốt nhất vì sẽ phù hợp và đáp ứng tốt hơn
yêu cầu quản lý đối với các DN này. Trên cơ sở đó, xác định các nguyên tắc và các chính sách kế
toán phù hợp đối với SMEs.
(AU2) Theo số liệu thống kê của VCCI thì hơn 95% DN Việt Nam là SMEs nên rất cần tập
trung các giải pháp cho số đông này, do đó rất cần bộ chuẩn mực kế toán riêng cho SMEs để có
thể áp dụng phù hợp.


19

Mặt khác, việc xây dựng chuẩn mực kế toán riêng cho SMEs là cần thiết vì những đặc
điểm đặc thù của SMEs về khả năng và nguồn lực, đối tượng sử dụng thông tin và nhu cầu

sử dụng thông tin của SMEs khác với công ty niêm yết. Hơn nữa, yêu cầu công bố thông tin
của các công ty niêm yết nghiêm ngặt hơn, đòi hỏi sự minh bạch, công khai và mức độ quan
tâm của các đối tượng sử dụng thông tin BCTC cao hơn vì ảnh hưởng đến lợi ích của một số
lượng lớn công chúng. Ngoài ra, chi phí tuân thủ cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến việc
thiết lập CMBCTC khác biệt được các chuyên gia đề cập.
4.2.2.2 Tiêu chí phân loại SMEs
Phần đông quan điểm của các chuyên gia tán thành kết hợp tiêu chí quy mô và tình
trạng niêm yết hay không niêm yết để xác định tiêu chí SMEs hiện tại khi ban hành các quy
định về kế toán phù hợp, đồng thời cũng hướng tới chỉ theo tiêu chí phân loại của IASB khi
áp dụng hoàn toàn IFRS for SMEs.
4.2.2.3 Mục tiêu và quan điểm xây dựng CMBCTC khác biệt
Tương tự như mục tiêu phát triển CMBCTC khác biệt của IASB, các chuyên gia cũng
thống nhất mục tiêu của CMBCTC khác biệt nhằm giảm khó khăn cho SMEs khi lập
BCTC. Trên cơ sở đó, quan điểm xây dựng CMBCTC khác biệt là cân đối giữa chi phí và
lợi ích khi tuân thủ chuẩn mực để phù hợp với nhu cầu thông tin, khả năng và môi trường
kinh doanh của SMEs VN. Đặc tính thông tin BCTC đáng tin cậy được quan tâm hàng đầu
và đáp ứng nhu cầu thông tin hữu ích cho chủ DN, ngân hàng, nhà đầu tư,... không phải sử
dụng cho mục đích thuế.
Dựa vào quan điểm đã xác lập, nhiều ý kiến tranh luận về cách thức tiếp cận
CMBCTC khác biệt cho SMEs đều tán thành bộ chuẩn mực kế toán phù hợp cho SMEs
không nên giảm trừ về số lượng chuẩn mực, mà chỉ nên giảm trừ về chính sách kế toán,
nguyên tắc ghi nhận và đo lường hay yêu cầu công bố. Tuy nhiên, nội dung giảm trừ vẫn là
vấn đề chưa có được quan điểm thống nhất.
4.2.3 Sự thích hợp của IFRS for SMEs
4.2.3.1 Đặc điểm SMEs và nhu cầu áp dụng IFRS for SMEs (theo chủ đề 4.1, 4.2, phụ
lục D3)
Một số đặc điểm quan trọng của SMEs cần phải xem xét đến khi áp dụng CMBCTC
khác biệt cũng được các chuyên gia đề cập. Về cấu trúc sở hữu, các chuyên gia đánh giá hầu
hết SMEs có chủ sở hữu là người cung cấp vốn và cũng trực tiếp là giám đốc điều hành, đặc
biệt là các công ty gia đình. Vì vậy, mức độ chia tách quyền quản lý và điều hành thấp.

Ngoài ra, quy mô của SMEs VN cũng không lớn so với SMEs của các quốc gia khác, nguồn
lực tài chính và con người cũng giới hạn, nên các nghiệp vụ kinh tế phức tạp cũng không
nhiều. Hơn nữa, SMEs cũng ít tham gia những hoạt động liên quan quốc tế như xuất khẩu,
nhập khẩu, trừ một số DN có vốn đầu tư nước ngoài. Mặc dù vậy, các chuyên gia đều tán
thành cần thiết phải áp dụng IFRS for SMEs với một số các lý do như SMEs đóng vai trò
quan trọng trong nền kinh tế VN, SMEs cần phải minh bạch thông tin đề thu hút các nguồn
vốn đầu tư và xu hướng hội nhập trong khu vực và quốc tế ngày càng mạnh mẽ.
4.2.3.2Quan điểm về các chuẩn mực, chính sách kế toán, nguyên tắc ghi nhận và đo
lường thích hợp với SMEs ( theo chủ đề 4.3, 4.4, phụ lục D3)
 Các chuẩn mực kế toán


20

Tương tự IASB, các chuẩn mực hợp đồng bảo hiểm, báo cáo bộ phận, BCTC giữa niên
độ, lãi trên cổ phiếu không cần áp dụng cho SMEs theo quy định của VN. Quan điểm của
các chuyên gia cũng khá đồng nhất là chưa nên áp dụng đối với các chuẩn mực còn lại theo
quy định của IFRS for SMEs nhưng chưa được ban hành ở VN như tài trợ của Chính phủ,
thanh toán trên cơ sở cổ phần, lợi ích của người lao động và BCTC trong nền kinh tế siêu
lạm phát. Những chuẩn mực này được xem là hiếm khi xảy ra nên chưa cần thiết cũng như
chưa thể áp dụng cho DN lớn thì càng không thể áp dụng cho SMEs. Tuy nhiên, các chuyên
gia có quan điểm khá đa dạng về áp dụng các chuẩn mực như công cụ tài chính, tổn thất tài
sản, nông nghiệp.
Ngoài ra, các chuẩn mực tương đồng giữa VN và IFRS for SMEs nhưng theo quy định
hiện hành không áp dụng hoàn toàn hoặc áp dụng một phần cho SMEs cũng được bàn luận.
Quan điểm chung của các chuyên gia đều thống nhất là các chuẩn mực nên được áp dụng
đầy đủ cho SMEs, không nên áp dụng một phần. Có thể đây là các chuẩn mực ít xảy ra đối
với SMEs nhưng vẫn phát sinh vì thế bắt buộc phải ban hành quy định để tránh tình trạng
thiếu cơ sở pháp quy tham chiếu khi cần và ảnh hưởng đến chất lượng thông tin BCTC.
 Các chính sách kế toán, nguyên tắc ghi nhận và đo lường

Các chính sách kế toán theo quy định của IFRS for SMEs khác biệt với VAS như
không vốn hóa chi phí đi vay, chi phí nghiên cứu và phát triển, ghi nhận bất động sản đầu tư
theo giá trị hợp lý, bắt buộc lập BCLCTT, bắt buộc ghi nhận thuế hoãn lại, doanh thu và chi
phí của hợp đồng xây dựng ghi nhận theo tiến độ kế hoạch, áp dụng hồi tố với thay đổi
chính sách kế toán đều được sự ủng hộ của các chuyên gia vì thông tin cung cấp hữu ích đối
với việc ra quyết định.
Trái lại, việc lựa chọn giữa mô hình giá gốc và đánh giá lại đối với TSCĐ hữu hình và
vô hình là một trong những chính sách kế toán gây tranh cãi. Tuy nhiên, dựa trên cơ sở phân
tích chi phí và lợi ích khi áp dụng các mô hình đánh giá, 8/10 chuyên gia chuyên môn nghề
nghiệp còn lại đều có khuynh hướng thích chọn mô hình giá gốc hơn. Lý do ủng hộ là do
chính sách kế toán này đơn giản, không phức tạp như mô hình đánh giá lại, SMEs không tốn
nhiều chi phí để định giá tài sản, tránh tình trạng xác định không chính xác giá trị hợp lý của
tài sản và đặc biệt DN không cần thiết sử dụng mô hình này trong trường hợp DN không có
ý định bán tài sản.
4.2.3.3 Những nhận định về lợi ích, khó khăn khi áp dụng IFRS for SMEs và hướng
áp dụng thích hợp (theo chủ đề 4.5, 4.6, 4.7, phụ lục D3)
Tất cả các chuyên gia đều tin tưởng rằng áp dụng hiệu quả IFRS for SMEs sẽ làm tăng
tính minh bạch và chất lượng thông tin BCTC. Ngoài ra, những lợi ích khác cũng được
khám phá là áp dụng IFRS for SMEs sẽ làm tăng các cơ hội kinh tế cho SMEs trong nước
cũng như quốc tế, cải thiện môi trường kinh doanh ở phạm vi trong nước, đáp ứng nhu cầu
thông tin hữu ích cho các đối tượng sử dụng thông tin và quan trọng là thay đổi quan điểm
của kế toán SMEs từ phục vụ chủ yếu cho thuế chuyển sang phục vụ cho nhu cầu ra quyết
định kinh doanh.
Bên cạnh những lợi ích, có không ít những khó khăn gây trở ngại khi áp dụng IFRS for
SMEs. Những khó khăn này xuất phát từ nền tảng cơ sở hạ tầng kế toán còn kém phát triển.
Những khó khăn từ trình độ của kế toán, nhận thức của chủ DN, tổ chức nghề nghiệp non


21


yếu. Mặt khác, sự khác biệt giữa VN và các quốc gia khác về môi trường văn hóa, kinh tế,
xã hội mà SMEs hoạt động cũng sẽ ảnh hưởng đến việc xây dựng CMBCTC riêng cho
SMEs. Ngoài ra, một số nhân tố khác gây trở ngại cho việc áp dụng trong môi trường đặc
trưng của VN cũng được các chuyên gia đề cập, đó là mối liên hệ chặt chẽ giữa kế toán và
thuế, chi phí cho dịch vụ kế toán thấp nên chất lượng dịch vụ cung cấp bị hạn chế, tư duy
của SMEs quen với cách xử lý kế toán cũ, không quen với các chính sách kế toán theo IFRS
for SMEs cần phải xét đoán, sự thiếu liên kết giữa SMEs và các cơ quan ban hành chuẩn
mực.
Với những lợi ích, khó khăn từ những nhân tố môi trường kế toán, phần lớn các
chuyên gia đều thống nhất xây dựng một lộ trình hội tụ không hoàn toàn (not fully
converged) (Zeff & Nobes, 2010), đó là trong giai đoạn đầu, giai đoạn chuyển tiếp, tạm thời
nên điều chỉnh IFRS for SMEs cho phù hợp với điều kiện của VN, tiến tới hội tụ hoàn toàn
trong tương lai.
4.2.4 Kết luận từ kết quả của nghiên cứu định tính
Các chuyên gia nhận diện những đặc điểm và môi trường hoạt động của SMEs ảnh
hưởng đến sự phức tạp của nghiệp vụ kinh tế phát sinh, chi phí tuân thủ chuẩn mực kế toán,
từ đó dẫn đến cần phải xây dựng CMBCTC thích hợp cho SMEs. Mục tiêu xây dựng chuẩn
mực riêng cho SMEs nhằm giảm những khó khăn cho SMEs khi lập BCTC, đảm bảo cân
đối về chi phí và lợi ích khi tuân thủ và đáp ứng nhu cầu thông tin hữu ích cho các đối tượng
sử dụng thông tin, không phải chỉ cho cơ quan thuế. Tiêu chí SMEs áp dụng được tán thành
nhiều là kết hợp giữa tiêu chí định tính theo quy định của IASB và tiêu chí định lượng dựa
trên số lượng lao động, vốn hay doanh thu.
IFRS for SMEs được xem là một trong những giải pháp thích hợp với SMEs VN. Tuy
nhiên, khả năng áp dụng thích hợp tùy thuộc vào bối cảnh kinh tế, xã hội của từng quốc gia.
Các chuyên gia đều ủng hộ điều chỉnh IFRS for SMEs trước mắt và hướng tới áp dụng hoàn
toàn IFRS for SMEs đối với các công ty chưa niêm yết theo đúng tiêu chí quy định phạm vi
áp dụng IFRS for SMEs của IASB.
4.3 Phân tích và bàn luận kết quả nghiên cứu định lượng
4.3.1 Thống kê đặc điểm của DN khảo sát
4.3.1.1 Hình thức pháp lý, hình thức sở hữu, lĩnh vực kinh doanh, kiểm toán BCTC

Nhìn chung, các DN tham gia khảo sát đầy đủ các hình thức pháp lý, nhưng phần lớn
(68,5%) là công ty TNHH. Các lĩnh vực kinh doanh chính của DN khảo sát cũng đa dạng.
DN có thực hiện kiểm toán BCTC chiếm đa số (67,7%).
4.3.1.2 Quy mô và cấu trúc sở hữu
Các DN tham gia khảo sát đa dạng về quy mô. Tuy nhiên, DN có lao động < 50 và DN
có số lao động từ 50 đến dưới 300 gần như chênh lệch nhau không nhiều (37,4% và 36,8%).
Mặc dù, DN có quy mô vốn vừa và lớn chiếm tỷ lệ cao trong mẫu khảo sát, nhưng có đến
71,3% DN có chủ sở hữu cũng đồng thời tham gia điều hành. Ngoài ra, DN chỉ có một chủ
sở hữu, số DN có chủ sở hữu > 10 chiếm tỷ lệ không cao 15,8%. Kết quả phân tích về số
lượng chủ sở hữu và sự tham gia của chủ sở hữu trong điều hành SMEs đã phản ánh sự chia
tách quyền quản lý và điều hành có mức độ thấp trong các SMEs của VN.
4.3.1.3 Cơ cấu tổ chức và hoạt động liên quan quốc tế


22

61,2% SMEs không có cơ cấu tổ chức liên quan NN (gồm chủ sở hữu là người NN,
công ty mẹ hay văn phòng chính ở NN, công ty con hoặc chi nhánh ở NN) cũng như các
hoạt động liên quan quốc tế (chỉ trừ NK, cạnh tranh DN NN còn các hoạt động XK, vay nợ
NN) đều có trên 50% SMEs không liên quan). Điều này thể hiện sự hạn chế của đa số SMEs
VN khi không có nhiều các hoạt động liên quan quốc tế.
4.3.1.4 Kiến thức của đối tượng khảo sát về VAS và IFRS for SMEs
Chỉ có 21,1% đối tượng khảo sát nhận thức tốt về tác động của VAS đối với DN của
họ. Ngoài ra, trong số các DN khảo sát, hầu hết không biết hoặc có kiến thức kém về IFRS
for SMEs (43%). Điều này cũng không có gì đáng ngạc nhiên vì IFRS for SMEs chỉ mới
được ban hành năm 2009 và bộ chuẩn mực này cũng không phổ biến ở VN.
4.3.2 Đánh giá VAS hiện hành áp dụng cho SMEs Việt Nam
4.3.2.1 Đối tượng sử dụng thông tin BCTC của SMEs và mục đích sử dụng thông tin
của SMEs
Đối tượng sử dụng thông tin BCTC SMEs được các DN khảo sát đồng tình ở mức cao

là cơ quan thuế (96,9%), chủ DN (86%), ngân hàng (67,1%) và ở mức tương đối là nhà đầu
tư (43,5%). Một loạt kết quả kiểm định Chi-square đã khẳng định có sự khác nhau trong
nhận thức giữa SMEs có quy mô khác nhau về đối tượng sử dụng thông tin chính của BCTC
SMEs là nhà đầu tư (Chi-square = 15,820, df = 2, Sig. = 0,000), ngân hàng (Chi-square =
19,008, df = 0, Sig. = 0,000), các đối tượng còn lại như cơ quan thuế, chủ DN, nhân viên,
nhà cung cấp, khách hàng không có sự khác biệt.
Khác với kỳ vọng về mục đích sử dụng BCTC theo quy định của chuẩn mực kế toán,
DN tham gia khảo sát đều xác nhận sử dụng BCTC chủ yếu để tính thuế TNDN để hoàn
thành BC thuế và đáp ứng yêu cầu quản lý từ các cơ quan NN (> 80%). Tỷ lệ này nhất quán
với nhận định về đối tượng sử dụng thông tin BCTC của SMEs đã phân tích ở trên. Điều đó
càng khẳng định vai trò của BCTC đối với SMEs VN vẫn thật sự chỉ quan trọng để phục vụ
cho yêu cầu quản lý từ cơ quan NN, BCTC cũng chưa thật sự phát huy vai trò cung cấp
thông tin để ra quyết định cho các đối tượng sử dụng thông tin. Một loạt kết quả kiểm định
Chi-square xác định có sự khác nhau trong nhận thức giữa các SMEs có quy mô khác nhau
về mục đích sử dụng BCTC SMEs là để tăng mức tín nhiệm từ nhà cung cấp (Chi-square =
7,155, df = 2, Sig. = 0,028), để nộp hồ sơ vay vốn ngân hàng (Chi-square = 11,030, df = 2,
Sig. = 0,004) và để đáp ứng yêu cầu quản lý nội bộ (Chi-square = 19,678, df = 2, Sig. =
0,000).
4.3.2.2 Mức độ tuân thủ chuẩn mực và chất lượng thông tin BCTC SMEs
Mức độ tuân thủ chuẩn mực của SMEs được đa số đối tượng khảo sát đánh giá ở mức
cao. Kiểm định Chi-square kết luận có sự liên hệ giữa quy mô (Chi-square = 27,522, df = 4,
Sig. = 0,000), hình thức sở hữu vốn (Chi-square = 40,354, df = 2, Sig. = 0,000) và mức độ
tuân thủ chuẩn mực. SMEs có quy mô lớn, DN có VĐTNN có mức độ tuân thủ chuẩn mực
cao hơn SMEs còn lại. Các lý do được đề nghị nhiều là kế toán viên nhận thức tốt vể chuẩn
mực kế toán (67,0%), trình độ chuyên môn của KTT cao (54,1%) và chủ DN/ nhà quản lý
quan tâm đến công việc kế toán (52,7%). Tuy nhiên, chỉ có 19,4% DN khẳng định việc tuân
thủ cao là do DN nhận thức được lợi ích cao hơn chi phí khi tuân thủ.


23


21,3% SMEs tham gia khảo sát thừa nhận mức độ tuân thủ không cao chủ yếu do
chuẩn mực kế toán phức tạp và chủ DN/nhà quản lý không nhận thấy lợi ích khi tuân thủ
chuẩn mực kế toán (>50%). Hơn nữa, gần 50% ý kiến cho rằng SMEs có mức tuân thủ
chuẩn mực không cao vì BCTC không hữu ích cho việc ra quyết định. Hơn nữa, 62,7% đối
tượng khảo sát tán đồng ở mức cao là BCTC lập theo VAS hiện hành chỉ đáp ứng yêu cầu
cung cấp thông tin hữu ích do cho các đối tượng sử dụng thông tin ở mức thấp và trung
bình. Lý do được đề cập gồm chi phí cao hơn lợi ích khi áp dụng chuẩn mực, quy mô của
DN không phù hợp để áp dụng (đa phần DN có quy mô nhỏ khẳng định đều này) và chủ yếu
là các DN khảo sát phàn nàn về khả năng xử lý của VAS đối với các vấn đề liên quan đến
hoạt động SXKD của DN còn thấp (71,2%). Ngoài ý kiến về sự hữu ích của thông tin
BCTC lập theo VAS hiện hành, SMEs còn đánh giá độ tin cậy về thông tin cung cấp trên
BCTC chỉ ở mức trung bình (Mean = 3,00). Lý giải tại sao BCTC theo VAS hiện hành
không đáp ứng yêu cầu thông tin hữu ích và mức độ tin cậy của thông tin BCTC thấp, ngoài
lý do chuẩn mực không phù hợp, DN không thấy lợi ích khi áp dụng chuẩn mực, SMEs thừa
nhận kế toán của DN quan tâm đến việc tuân thủ các quy định của thuế nhiều hơn các chuẩn
mực kế toán và tỷ lệ cũng khá cao khẳng định chủ DN cũng chỉ quan tâm đến kê khai thuế
hơn là chất lượng thông tin BCTC (69,2%).
4.3.3 Sự cần thiết của CMBCTC riêng cho SMEs và IFRS for SMEs
4.3.3.1 Thống kê mô tả
Phần lớn DN khảo sát cho rằng cần thiết phải xây dựng CMBCTC riêng cho SMEs
(73,6%). Một số nhân tố tác động làm nảy sinh nhu cầu này. Cụ thể là, chuẩn mực hiện hành
phức tạp, đối tượng sử dụng thông tin và mức độ phức tạp các nghiệp vụ kinh tế phát sinh
của SMEs khác với công ty niêm yết, chi phí vượt quá lợi ích khi SMEs tuân thủ chuẩn mực
hiện hành. Trong đó, sự khác biệt về đối tượng sử dụng thông tin giữa SMEs và các công ty
niêm yết là nhân tố quan trọng nhất trong quyết định cho rằng CMBCTC riêng thật sự cần
thiết đối với SMEs (58,3%).
Mặc dù SMEs VN có một số đặc tính không thuận lợi cho việc áp dụng IFRS for
SMEs vì đa số SMEs có quy mô khá nhỏ, hoạt động chủ yếu ở thị trường trong nước, chủ sở
hữu cũng là người điều hành, thông tin BCTC dường như hiếm khi được sử dụng cho việc

ra quyết định đối với SMEs tổ chức dưới dạng công ty gia đình…, nhưng khoảng 60% DN
đánh giá IFRS for SMEs cần thiết đối với nhu cầu của họ trong xu hướng VN ngày càng hội
nhập với kế toán quốc tế.
4.3.3.2 Kiểm định các giả thuyết liên quan nhu cầu của SMEs cần áp dụng IFRS for
SMEs
Phân tích sâu hơn về tác động của các nhân tố thuộc đặc điểm của DN đến nhu cầu áp
dụng IFRS for SMEs, tác giả sử dụng kiểm định Chi-square để kiểm định tương quan giữa
các biến độc lập và phụ thuộc trong mô hình. Kết quả cho thấy nhu cầu cần áp dụng IFRS
for SMEs khác nhau đáng kể ở hầu hết tất cả các đặc điểm của SMEs, chỉ có 2 biến lĩnh vực
kinh doanh, hình thức sở hữu là không có tương quan với nhu cầu cần IFRS for SMEs.
Kết quả này là dấu hiệu ban đầu khẳng định đặc điểm SMEs (môi trường kinh doanh
quốc tế, cơ cấu tổ chức quốc tế, quy mô…) có ảnh hưởng đến nhu cầu cần áp dụng IFRS for
SMEs. Đối với hình thức pháp lý, kết quả khá thú vị là 100% DN tư nhân đều chọn không


×