Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

TIỂU LUẬN cơ cấu xã hội, BIẾN đổi cơ cấu xã hội ở nước TA TRONG GIAI đoạn HIỆN NAY và tác ĐỘNG của nó đối với xây DỰNG nền QUỐC PHÒNG TOÀN dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.99 KB, 26 trang )

MỞ ĐẦU
`

Trong thời kỳ trước đổi mới, ở nước ta tồn tại nền kinh tế tập trung

quan liêu, bao cấp, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể với hai thành
phần kinh tế chủ yếu: kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Trên nền tảng kinh
tế đó, hình thành cơ cấu xã hội giản đơn - "hai giai, một tầng” ("hai giai": chỉ
có giai cấp công nhân và giai cấp nông dân; "một tầng": tầng lớp trí thức).
Bước vào thời kỳ đổi mới, nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế này ở nước ta được dựa trên 3 chế độ sở
hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân) với nền kinh tế nhiều thành phần. Sự biến đổi
của cơ cấu kinh tế tất yếu dẫn tới sự biến đồi của cơ cấu xã hội, cơ cấu xã hội
- giai cấp.
Sau 30 năm thực hiện đổi mới đất nước, cùng với những thành tựu to
lớn trên các lĩnh vực, những biến đổi mạnh mẽ của xã hội thời gian qua cũng
đang đặt ra nhiều vấn đề, thách thức gay gắt. Đó là, sự mất cân đối về cơ cấu
của nền kinh tế, cơ cấu giai cấp, cơ cấu dân cư, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu
dân tộc, tôn giáo…; sự phân hoá giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng
và miền núi, giữa giàu và nghèo trong phát triển; sự bất bình đẳng giữa các
tầng lớp, các giới, các nhóm xã hội. Điều này tác động không nhỏ đến xây
dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Nghiên cứu cơ cấu xã hội, sự biến đổi cơ cấu xã hội giúp chúng ta hiểu
được những đặc trưng, đặc tính của xã hội, đánh giá được trình độ phát triển
của xã hội, chỉ ra được sự cân bằng hay những sai lệch trong xã hội, từ đó đưa
ra được những dự báo xã hội. Đây là những cơ sở khoa học cần thiết giúp cho
Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể xã hội đề ra các chính sách, giải
pháp nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng tích cực, tiến bộ. Với ý
nghĩa đó, tôi chọn vấn đề“Cơ cấu xã hội, biến đổi cơ cấu xã hội của nước
ta trong giai đoạn hiện nay và tác động của nó đối với xây dựng nền


quốc phòng toàn dân” để nghiên cứu.
1. Khái quát chung về cơ cấu xã hội


1.1. Quan niệm về cơ cấu xã hội (Social structure) là mối liên hệ
vững chắc của các thành tố trong hệ thống xã hội. Các cộng đồng xã hội (dân
tộc, giai cấp, nhóm xã hội,...) là những thành tố cơ bản. Về phần mình, mỗi
cộng đồng xã hội lại có cơ cấu phức tạp với những tầng lớp bên trong và
những mối liên hệ giữa chúng. Một số nhà lý thuyết xã hội còn đưa ra định
nghĩa: "Cơ cấu xã hội là mô hình của các mối liên hệ giữa các thành phần cơ
bản trong một hệ thống xã hội. Những thành phần này tạo nên bộ khung cho
tất cả các xã hội loài người, mặc dầu tính chất của các thành phần và các mối
quan hệ giữa chúng biến đổi từ xã hội này đến xã hội khác. Những thành phần
quan trọng nhất của cơ cấu xã hội là vị trí, vai trò, nhóm và các thiết chế,...".
Cơ cấu xã hội là một khái niệm rộng không chỉ liên quan tới hành vi xã
hội mà còn là mối tương tác giữa các yếu tố khác nhau của hệ thống xã hội.
Cơ cấu xã hội cũng bao gồm cả các thiết chế gia đình, dòng họ, tôn giáo, kinh
tế, chính trị, văn hóa, hệ thống chuẩn mực giá trị, cũng như hệ thống các vị
trí, vai trò xã hội, v.v... Xã hội là một tổ chức phức tạp, đa dạng của các mối
liên hệ cá nhân, tổ chức xã hội và xã hội. Cơ cấu xã hội có mối quan hệ chặt
chẽ, hữu cơ với các quan hệ xã hội. Cơ cấu xã hội là nội dung có tính chất bản
thể luận của các quan hệ xã hội, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của các
quan hệ xã hội.
1.2. Quan niệm của một số nhà xã hội học về cơ cấu xã hội
Quan niệm của J.H.Fischer (nhà XHH người Mỹ)
J.H.Fischer coi cơ cấu xã hội của xã hội là sự sắp đặt các thành phần xã
hội hoặc các đơn vị xã hội. Do đó, theo ông khi nghiên cứu cơ cấu xã hôi phải
xem xét các trạng thái tĩnh và trạng thái động, nghĩa là xem xét, sự sắp đặt các
địa vị xã hội của các đoàn thể xã hội và sự tương tác giữa các địa vị xã hội tạo
nên sự biến đổi bên trong của hệ thống xã hội.

Quan niệm của V.A.Dobrianov (nhà XHH người Bungaria)
2


Theo Dobrianov, cơ cấu xã hội theo giác độ phân tích của xã hội học
chính là cơ cấu xã hội nhiều chiều, nhiều khía cạnh, và sự trừu tượng hóa
phạm trù cơ cấu xã hội là tiêu chuẩn “ba ngôi một thể” gồm hoạt động xã hội,
quan hệ xã hội và thiết chế xã hội.
Quan niệm của I.Robertsons (nhà XHH người Mỹ)
Theo I.Robertsons, cơ cấu xã hội là mô hình của mối quan hệ giữa các
thành phần cơ bản trong một hệ thống xã hội. Những thành phần này tạo ra bộ
khung cho tất cả các xã hội loài người. Mặc dầu tính chất của các thành phần
và các quan hệ giữa chúng biến đổi từ xã hội này đến xã hội khác. Những thành
phần quan trọng nhất của cơ cấu xã hội là vị thế, vai trò, nhóm và các thiết chế.
Quan niệm của Viện Xã hội học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh
Trên cơ sở tổng kết, khái quát, phê phán và tiếp thu các quan niệm đã
có về cơ cấu xã hội, các nhà khoa học xã hội Việt Nam đã đưa ra định nghĩa
về cơ cấu xã hội như sau: Cơ cấu xã hội là một “mô hình cấu trúc”, một
chỉnh thể thống nhất, “động”, tương đối ổn định giữa các quan hệ xã hội và
các nhóm xã hội cơ bản (giai cấp, nghề nghiệp, nhân khẩu, dân tộc, tôn
giáo), đan kết vào nhau, và được sắp xếp theo cấu trúc “ngang” và cấu trúc
“dọc” tạo ra “bộ khung” cho sự vận động và phát triển của xã hội. Những
thành tố cơ bản của cơ cấu xã hội là nhóm, vị thế, vai trò, mạng lưới và các
thiết chế.
Như vậy, cơ cấu xã hội phải được hiểu như là mô hình cấu trúc, trong đó
các đơn vị cấu thành của nó được sắp xếp, phân bố, liên hệ với nhau không phải
một cách ngẫu nhiên mà theo một trật tự cấu trúc nhất định được hiểu như một
“hình mẫu”, một mô hình cấu trúc tương đối xác định, được sắp xếp hợp lý và có
khả năng lặp lại ở những khách thể vật chất xã hội đa dạng. Bài viết cũng cho

rằng cấu trúc xã hội là một cấu trúc tự nhiên, có nét chung về mặt cơ cấu phổ
biến trong tất cả các khách thể vật chất tự nhiên và xã hội, cơ cấu xã hội có mối
3


quan hệ khăng khít hữu cơ với hệ thống xã hội, nó là kết cấu và hình thức tổ
chức bên trong của một hệ thống xã hội, là bộ “khung”, “bộ dàn” của xã hội. Chỉ
có thể hiểu được cơ cấu xã hội khi chúng ta đặt nó vào hệ thống xã hội để xem
xét. Cơ cấu xã hội là mô hình của các quan hệ giữa các thành phần cơ bản của
một hệ thống xã hội, là mặt tương đối ổn định của xã hội.
Khi phân tích những biến đổi trong cơ cấu xã hội giai cấp và sự tác
tác động của nó đến những biến đổi lịch sử, quá trình tiến hóa, chúng ta thấy
có sự tác động biện chứng qua lại ngày càng tăng của những biến đổi trong cơ
cấu xã hội, cơ cấu kinh tế, sự phân công lao động xã hội với sự phụ thuộc lẫn
nhau về những xung đột xã hội, sự phân tích cơ cấu - chức năng của các phân
hệ cơ cấu xã hội cơ bản như cơ cấu xã hội nghề nghiệp, lãnh thổ, nhân khẩu,
dân tộc v.v...Sự thay đổi vị thế, vai trò của các cá nhân, nhóm, tổ chức xã hội
giúp giải thích động thái của cơ cấu xã hội, cội rễ sâu xa của những đấu tranh,
xung đột, những sai lệch và sự chống đối, những biến đổi nhiều mặt, nhiều
chiều, nhiều khía cạnh và sự tác động trong không gian đa chiều của các
nhóm xã hội khác nhau.
Trong phân tích cơ cấu xã hội dưới góc độ xã hội học đòi hỏi phải phân
tích cả cấu trúc “dọc” và cấu trúc “ngang” của xã hội. Xã hội không phải là
thuần nhất về vị thế, vai trò, địa vị, cơ hội thăng tiến hay sụt giảm giữa các
thành viên mà xã hội luôn luôn được sắp xếp, tổ chức, phân chia thành các
tầng bậc cao thấp theo một cấu trúc “dọc” nhất định. Bên cạnh đó là cấu trúc
ngang nằm trong mỗi giai cấp, tầng lớp cũng như trên bình diện toàn xã hội.
Cấu trúc ngang bao gồm những cá nhân và nhóm xã hội có vị thế vai trò
tương đối ngang nhau, bằng nhau (học vấn, trình độ chuyên môn, nguồn thu
nhập, mức sống, địa vị xã hội).

Phân tích cơ cấu xã hội của bất kỳ một hệ thống xã hội nào cũng đi từ
sự phân tích các nhóm xã hội với vai trò, vị thế, các thiết chế và mạng lưới xã
4


hội. Đó là bộ khung, là mô hình, khuôn mẫu cho sự phân tích cơ cấu xã hội.
Cơ cấu xã hội luôn vận động và biến đổi. Sự vận động và biến đổi này
có nguồn gốc từ sự thống nhất và đấu tranh của các thành phần xã hội và các
quan hệ xã hội. Nghiên cứu cơ cấu xã hội một mặt chỉ ra được bức tranh về
thực trạng xã hội, mặt khác cũng cần thiết phải chỉ ra những đặc trưng xu
hướng vận động, biến đổi của xã hội đó. Tuy nhiên nếu chỉ nhấn mạnh một
chiều hoặc là các thực trạng xã hội hoặc chỉ là xu hướng vận động biến đổi
của xã hội thì sẽ là khiếm khuyết trong việc nghiên cứu cơ cấu xã hội.
Nghiên cứu xã hội học chỉ ra rằng cơ cấu xã hội là kết cấu và hình thức
tổ chức bên trong của một hệ thống nhất định – biểu hiện là sự thống nhất
tương đối bền vững của các nhân tố, các mối liên hệ, các thành phần cơ bản
nhất của hệ thống xã hội. Các thành phần này tạo ra bộ khung cho tất cả các
xã hội loài người. Mỗi xã hội luôn luôn là một hệ thống đa cơ cấu. Các nhà xã
hội học thường nghiên cứu 5 phân hệ cơ cấu xã hội cơ bản; đó là: Cơ cấu giai
cấp - xã hội, cơ cấu nghề nghiệp - xã hội, cơ cấu xã hội - dân số, cơ cấu xã hội
- dân tộc, cơ cấu xã hội - lãnh thổ.
Cơ cấu XH giai cấp: Cơ cấu xã hội giai cấp là cơ cấu xã hội mà trong
đó các nhóm xã hội được xem xét dưới góc độ giai tầng, tầng lớp.Theo quan
điểm xã hội học Mác xít cơ cấu xã hội – giai cấp có thể được xem xét ở 2
phương diện sau:
Một là: Đòi hỏi phải được xem xét không chỉ các giai cấp xã hội mà
còn tất cả các tầng lớp các tập đoàn xã hội khác. Vai trò của chế độ sở hữu tư
liệu sản xuất được coi trọng đặc biệt khi xem xét cơ cấu giai cấp xã hội.
Hai là: Nhấn mạnh đến việc nghiên cứu những tập đoàn người hợp
thành những giai cấp cơ bản, chiếm vị trí quyết định đến sự phát triển và biến

đổi của xã hội, quan hệ giai cấp, mâu thuẫn giai cấp, đấu tranh giai cấp được
coi là động lực vận động và biến đổi xã hội.
5


Cơ cấu xã hội – nghề nghiệp: Hình thành chủ yếu do sự phát triển của
lực lượng sản xuất và sự phân công lao động xã hội. Cơ cấu xã hội được hình
dung là một hệ thống gồm các nhóm người, các tầng lớp khác nhau về nghề
nghiệp. Cơ cấu xã hội nghề nghiệp được xem xét theo các ngành nghề trong
xã hội.
Cơ cấu xã hội – dân số: Nghiên cứu cơ cấu xã hội dân số, xã hội học
chủ yếu tập trung phân tích các biến số cơ bản như mức sinh, mức tử, di dân,
tỷ lệ giới tính v.v...thông qua đó để dự báo được quy mô biến đổi và những
đặc trưng xu hướng xã hội, sự tác động của cơ cấu xã hội dân số đến số lượng
và chất lượng cuộc sống con người.
Cơ cấu xã hội lãnh thổ: Được nhận diện chủ yếu thông qua đường phân
ranh giới về lãnh thổ. Đó là những khác biệt về điều kiện sống, trình độ sản
xuất, đặc trưng văn hoá, mật độ dân cư, thiết chế xã hội và các đặc trưng khác
như thói quen sinh hoạt, thị hiếu nghệ thuật v.v...
Cơ cấu xã hội dân tộc: Hình thành chủ yếu dựa trên sự khác biệt dấu
hiệu dân tộc quy định, nội dung nghiên cứu là quy mô, tỷ trọng và sự biến đổi
về số lượng, chất lượng cũng như các đặc trưng, xu hướng biến đổi của cơ cấu
xã hội trong nội bộ mỗi dân tộc và tương quan giữa chúng trong cộng đồng,
sự tương tác và ảnh hưởng qua lại lẫn nhau của sự biến đổi về cơ cấu giữa các
dân tộc và các mặt khác của đời sống xã hội. Cơ cấu xã hội dân tộc được xem
xét là sự phân chia các tộc người trong hệ thống xã hội.
Các phân hệ cơ cấu xã hội phản ánh tính đa dạng, phong phú của cơ
cấu xã hội. Trong hệ thống xã hội, mỗi phân hệ đều có vị trí, vai trò và giữa
chúng có mối quan hệ lệ thuộc lẫn nhau. Song vị trí, vai trò của các phân hệ
cơ cấu không ngang bằng nhau. Trong các phân hệ cơ cấu xã hội thì phân hệ

cơ cấu xã hội - giai cấp là quan trọng nhất giữ vị trí then chốt nhất.
Tính đa dạng, đa chiều nhiều khía cạnh, nhiều cấp độ của cơ cấu xã hội
một mặt thể hiện sự phong phú, đa dạng của các phân hệ cơ cấu xã hội, mặt
6


khác mỗi phân hệ lại chính là một hệ thống trong đó chứa đựng các yếu tố cấu
thành nó.
Nghiên cứu biến đổi cơ cấu xã hội ở nước ta hiện nay, chúng ta phải chỉ
ra được những nguyên nhân của sự biến đổi cơ cấu xã hội, điều này chỉ có thể
thấy được khi chúng ta phân tích mối quan hệ giữa cơ cấu xã hội và cơ cấu
kinh tế, có quan hệ biện chứng với nhau. Cơ cấu xã hội được hình thành trên
cơ sở của sản xuất, cơ cấu kinh tế. Sự biến đổi của cơ cấu xã hội có nguyên
nhân sâu xa từ những biến đổi trong sản xuất, trong cơ cấu kinh tế. Sản xuất
phát triển dẫn đến cơ cấu kinh tế biến bổi, sẽ kéo theo sự biến đổi của cơ cấu
xã hội. Cơ cấu xã hội cũng có sự tác động trở lại đến cơ cấu kinh tế, đến sản
xuất cũng như cơ cấu quyền lực chính trị và các yếu tố khác của thượng tầng
kiến trúc. Cơ cấu xã hội có thể tham gia tích cực vào quá trình phân bố lại
kinh tế, kích thích tính tích cực của người lao động, điều hòa các quan hệ lợi
ích, tạo ra sự liên doanh liên kết và sự thống nhất, đồng bộ trong lao động,
thúc đẩy việc nghiên cứu và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đổi mới cơ
chế quản lý và vận hành kinh tế. Nó cũng có thể góp phần hình thành nên một
cơ cấu quyền lực chính trị mới, hướng tới sự công bằng, tiến bộ, văn minh xã
hội. Ngược lại, nó có thể kìm hãm sự phát triển của sản xuất, làm méo mó cơ
chế kinh tế, quan liêu hóa, xơ cứng bộ máy, nuôi dưỡng sự bất bình, xung đột,
tích tụ nguy cơ rối loại, đổ vỡ xã hội.
Sự phát triển hay thoái bộ của xã hội có nguồn gốc nội sinh từ những
biến đổi của cơ cấu xã hội mà nguyên nhân sâu xa suy cho cùng là những biến
đổi trong sản xuất, trong kinh tế, sự thống nhất và đấu tranh của những mặt
đối lập, xung đột lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp, tập đoàn xã hội.

1.3. Các thành tố cơ bản cấu thành cơ cấu xã hội
Nhóm xã hội
Có khá nhiều những định nghĩa, khái niệm, quan niệm khác nhau về
nhóm. Theo I.Robertson thì nhóm là một tập hợp người được liên hệ với nhau
7


theo một kiểu nhất định. Hay nói một cách khác, nhóm là một tập hợp người
có liên hệ với nhau về mặt vị thế, vai trò, những nhu cầu lợi ích và những
định hướng giá trị nhất định.
Theo tính chất và lĩnh vực hoạt động có thể phân biệt những nhóm
nghề nghiệp, học vấn, lứa tuổi, giới tính lãnh thổ, dân tộc, sắc tộc, tôn giáo,
hiệp hội, nhóm cơ bản và không cơ bản, nhóm chính thức và thứ yếu, nhóm
chỉ huy - lãnh đạo và nhóm bị chỉ huy, nhóm quyền uy và nhóm phục tùng…
Vị thế xã hội
Cũng theo I.Robertsons, vị thế là một vị trí xã hội. Mỗi vị thế quyết định
chỗ đứng của một cá nhân hay nhóm xã hội trong kết cấu xã hội cũng như
phương thức quan hệ của cá nhân và nhóm xã hội đó với xã hội xung quanh.
Vị thế không nhất thiết gắn với những người có uy tín và địa vị cao.
Đồng thời cũng không thuần túy phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của mỗi
người về chính mình. Vị thế của mỗi người cần đối chiếu hay gắn với những
tiêu chuẩn khách quan của xã hội. Vị thế xã hội của mỗi người có tính ổn định
tương đối, nó không đơn giản phụ thuộc vào những ý kiến đánh giá thay đổi
thất thường của những người xung quanh.
Tùy theo những lát cắt phân tích khác nhau mà ta có những vị thế khác
nhau. Theo dấu hiệu nguồn gốc tự nhiên và xã hội mà chúng ta có hai loại vị
thế là vị thế tự nhiên và vị thế xã hội. Các nhà xã hội học cũng phân biệt vị
thế ra thành vị thế then chốt và không then chốt.
Nhìn chung các vị thế khác nhau của một cá nhân thường hòa hợp với
nhau, tác động đồng chiều với nhau, củng cố lẫn nhau, song đôi khi chúng

cũng có những mâu thuẫn khác nhau.
Vai trò xã hội
I.Robertsons cho rằng, vai trò là một tập hợp các chuẩn mực, hành vi,
nghĩa vụ và quyền lợi gắn với một vị thế nhất định.Vị thế và vai trò gắn bó
mật thiết với nhau. Không thể nói tới vị thế mà không nói tới vai trò và ngược
lại. Vai trò và vị thế là hai mặt của cùng một vấn đề. Trong mối quan hệ giữa
8


vị thế và vai trò thì vị thế thường ổn định hơn, ít biến đổi hơn, còn vai trò thì
động hơn, hay biến đổi hơn.
Sự biến đổi của vai trò phụ thuộc vào sự biến đổi của vị thế. Vị thế biến
đổi thì vai trò cũng biến đổi… Sự biến đổi của vai trò phụ thuộc vào sự biến
đổi của vị thế qua mỗi giai đoạn cụ thể của từng cá nhân cũng như nhóm xã
hội. Vai trò và vị thế thường thống nhất với nhau song đôi khi cũng có mâu
thuẫn. Về phân loại vai trò thì tùy theo những dấu hiệu phân tích khác nhau
mà có vai trò chỉ định, vai trò lựa chọn, vai trò then chốt, vai trò tổng quát.
Mạng lưới xã hội
Mạng lưới xã hội là phức hợp các mối quan hệ của các cá nhân trong
các nhóm, các tổ chức, các cộng đồng. Các mạng lưới xã hội bao gồm các
quan hệ đan chéo chằng chịt từ quan hệ gia đình, thân tộc, bè bạn, láng giềng,
cho tới các quan hệ trong tổ chức, đoàn thể, tầng lớp, hiệp hội, đảng phái,
nghề nghiệp…
Trong các nhóm xã hội, mỗi thành viên luôn có một vị thế, vai trò và
những nghĩa vụ, quyền lợi hoặc những định hướng giá trị nhất định. Đặc biệt
là trong các nhóm nhỏ, mỗi cá nhân luôn có sự phối hợp, trao đổi hành động
với nhau, gắn bó trực tiếp với nhau… Trong mạng lưới xã hội, con người phải
xử lý một phức hợp rất nhiều các quan hệ xã hội, mà phần lớn các quan hệ đó
không mang tính bắt buộc và đòi hỏi phải thực hiện một cách cứng nhắc. Tuy
nhiên, không một cá nhân nào có thể đứng ngoài các mạng lưới xã hội.

Mạng lưới xã hội là một thành tố quan trọng của cơ cấu xã hội. Thông
qua mạng lưới, các thành viên trong xã hội có thể chia sẻ, trao đổi “cho” và
“nhận” những thông tin, kiến thức nguồn lực, từ đó làm tăng cường sức mạnh
cho cá nhân cũng như cho cả xã hội.
Thiết chế xã hội
Theo I.Robertsons, thiết chế là một tập hợp bền vững các giá trị chuẩn
mực, vị thế, vai trò và nhóm vận động xung quanh một nhu cầu cơ bản của xã
hội.
9


Các thiết chế là những tổ thành đặc thù đảm bảo tính kế thừa và tính ổn
định nhất định của những mối liên hẹ và những mối quan hệ trong khuôn khổ
của một tổ chức, xã hội nhất định, là biểu hiện vật chất của các giá trị và
chuẩn mực xã hội, là cơ quan điều hòa việc tuân theo các chuẩn mực xã hội
của mọi thành viên. Nói cách khác, các giá trị, chuẩn mực là cơ sở tác động
của các thiết chế cũng như những chức năng xã hội mà thiết chế thực hiện.
Thiết chế là một cấu trúc và một chức năng. Thiết chế xã hội là sự
thống nhất của hai mặt: cơ cấu bên ngoài - hình thức vật chất của thiết chế; cơ
cấu bên trong - nội dung hoạt động của thiết chế. Thiết chế xã hội được hình
thành và thiết lập nên là do những nhu cầu khách quan cơ bản của xã hội.
Thiết chế xã hội không chỉ là những mô hình của hành vi, nó còn là công cụ
để kiểm soát và quản lý xã hội.
Thiết chế có 2 chức năng chủ yếu:
Thứ nhất, khuyến khích, điều chỉnh, điều hòa hành vi của con người
phù hợp với quy phạm và chuẩn mực của thiết chế và tuân thủ thiết chế.
Thứ hai, ngăn chặn kiểm soát, giám sát, trừng phạt những hành vi lệch
lạc. Các hình phạt có thể chia làm hai loại: hình phạt hình thức là các hình
phạt của thiết chế pháp luật và hình phạt phi hình thức là các hình phạt của
thiết chế đạo đức và dư luận xã hội.

Thiết chế có tính bền vững tương đối và thường biến đổi chậm. Các
thiết chế có mối quan hệ tương tác qua lại với nhau và có xu hướng phụ thuộc
vào nhau, đặc biệt là các thiết chế cơ bản. Sự lạc hậu và biến đổi chậm chễ
của thiết chế thường trở thành tiêu điểm của những vấn đề xã hội bức xúc.
Trong mỗi xã hội nhất định có nhiều loại thiết chế, trong đó những thiết
chế quan trọng là thiết chế chính trị, pháp luật, kinh tế, gia đình, giáo dục.
Ngoài ra, còn có một loạt thiết chế xã hội cơ bản khác như: thiết chế khoa
học, quân đội thể thao, y tế, đạo đức, dư luận xã hội… Mỗi một loại thiết chế
lại có những đặc điểm và chức năng riêng.
2. Sự biến đổi cơ cấu xã hội ở nước ta trong giai đoạn giai đoạn hiện nay.
10


Trải qua gần 30 năm đổi mới, cơ cấu xã hội nước ta đã có những thay
đổi đáng kể theo chiều hướng tiến bộ, cả từ giác độ nhận thức lẫn giác độ thực
tế. Tuy nhiên, cho đến nay, cơ cấu ấy vẫn chưa đáp ứng được những chuẩn
mực của một cơ cấu xã hội hiện đại. Trong quá trình hình thành và phát triển,
cơ cấu ấy còn ít nhiều chịu ảnh hưởng của những yếu tố mang tính cố hữu của
nền kinh tế tiểu nông, tâm lý của người sản xuất nhỏ, sự phân tầng xã hội
không hợp thức, sự phân bố dân cư và cơ cấu lao động xã hội chưa hợp lý,
nguồn lực con người chưa hội tụ đủ các tố chất cần thiết cho sự phát triển và
hội nhập.
Về cơ cấu kinh tế chúng ta đang trong quá trình chuyển từ nền kinh tế
nông nghiệp lạc hậu sang nền kinh tế công nghiệp, dịch vụ theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và phấn đấu chuyển sang một nền kinh tế tri thức.
Về cơ chế quản lý chúng ta đã từ bỏ quản lý nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Về
thành phần kinh tế chúng ta đã chuyển sang một nền kinh tế có nhiều thành
phần, nhiều hình thức sở hữu. Các chủ thể kinh tế nhà nước, tập thể, tư nhân,
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài v.v...xuất hiện và cạnh tranh với nhau trên

thị trường. Cùng với việc dân chủ hóa đời sống kinh tế đã tạo điều kiện giải
phóng sức sản xuất, khơi dậy các tiềm năng kinh tế, động viên và tạo điều
kiện cho mọi thành phần kinh tế phát triển, tăng cường và mở rộng giao lưu
hợp tác khu vực và quốc tế. Tất cả những yếu tố trên đã tạo ra những biến đổi
sâu sắc trong đời sống xã hội.
2.1. Sự biến đổi Cơ cấu xã hội – giai cấp:
Trước đổi mới, ở nước ta tồn tại nền kinh tế tập trung quan liêu, bao
cấp, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể với hai thành phần kinh tế chủ
yếu: kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Kinh tế cá thể rất không đáng kể và
được coi là đối tượng cần cải tạo xã hội chủ nghĩa. Trên nền tảng kinh tế đó,
hình thành cơ cấu xã hội giản đơn - "hai giai, một tầng” ("hai giai": chỉ có giai
11


cấp công nhân và giai cấp nông dân; "một tầng": tầng lớp trí thức). Bước vào
thời kỳ đổi mới, chúng ta đã và đang chuyển dần nền kinh tế đó sang nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế này ở nước ta được
dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, tập thể và tư nhân. Từ đó, xuất hiện 3 hình
thức sở hữu tương ứng là sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân.
Tương ứng với 6 thành phần kinh tế là: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh
tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài. Sự biến đổi của cơ cấu kinh tế tất yếu dẫn tới sự biến
đồi của cơ cấu xã hội, cơ cấu xã hội - giai cấp.
Sau đổi mới, cơ cấu xã hội nước ta đã có những thay đổi đáng kể theo
chiều hướng tiến bộ, cả từ giác độ nhận thức lẫn giác độ thực tế. Về nhận
thức, cùng với quan niệm truyền thống thường chỉ quy giản cơ cấu xã hội vào
cơ cấu xã hội - giai cấp, dần dần đã hình thành quan niệm mới, theo đó, xã hội
được hiểu và thừa nhận là một hệ thống đa cơ cấu. Cơ cấu xã hội - giai cấp
tuy vẫn được coi là giữ vị trí then chốt, song các phân hệ cơ cấu xã hội khác
cũng đã được chú trọng. Trên thực tế, cơ cấu xã hội mới đang hình thành và

bắt đầu phát huy tác dụng, kích thích tính tích cực xã hội của người lao động,
góp phần tạo ra sự liên kết và thống nhất trong hoạt động kinh tế - xã hội,
thúc đẩy việc nghiên cứu và áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, đổi mới cơ
chế quản lý và vận hành kinh tế.
Nếu trong cơ chế bao cấp, Cơ cấu xã hội – giai cấp chỉ gồm 2 giai cấp
cơ bản (giai cấp công nhân công nghiệp quốc doanh và giai cấp nông dân tập
thể ) và thành phần trí thức XHCN thì trong cơ chế mới CCXH – giai cấp đã
được bổ xung thêm một loạt các giai cấp và thành phần xã hội mới hay nói
chính xác hơn là sự xuất hiện trở lại của một số giai cấp và thành phần xã hội
với những đặc điểm và chất lượng mới khác trước (đó là giai cấp tư sản gồm
TS công nghiệp, tư sản thương nghiệp và cả tư sản nông nghiệp trong nước).
Ngoài ra còn phải kể đến sự xuất hiện các giai cấp xã hội và thành phần xã

12


hội với qui mô lớn hơn trước rất nhiều như : giai cấp tiểu tư sản, tiểu thương,
tiểu chủ, dịch vụ XH ...
Cho đến nay nước ta xuất hiện nhiều nhóm xã hội mới như: các hội có
tính chất nghề nghiệp ngày càng gia tăng, sự xuất hiện của đội ngũ những
người thất nghiệp, những người lao động tự do, những người vô gia cư lang
thang đường phố ....
Nguyên nhân chính đưa đến sự xuất hiện trở lại các giai cấp và tầng lớp
xã hội mới là do sự thừa nhận nhiều loại hình sở hữu và hình thức sở hữu
khác nhau đối với tư liệu sản xuất, thừa nhận sự tồn tại của nhiều thành phần
kinh tế. Đó là quá trình phát triển hợp quy luật và phù hợp với đặc điểm và
các điều kiện đặc thù của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Sự biến đổi của cơ cấu xã hội – giai cấp còn được biểu hiện ở sự thay
đổi số lượng trong nội bộ mỗi giai cấp và mỗi thành phần xã hội.
Đầu tiên phải kể đến là giai cấp công nhân tăng nhanh về số lượng ,

chất lượng (kể cả số lượng tuyệt đối cũng như tỷ trọng trong dân cư). Hàm
lượng lao động có trình độ công nghệ cao, tay nghề cao gia tăng một cách
đáng kể. Giai cấp nông dân vẫn tăng mạnh về mặt số lượng song tỷ trọng
trong dân cư giảm. Lao động dịch vụ tăng và sẽ còn tiếp tục tăng mạnh trong
những năm tới
Đặc biệt sự gia tăng nhanh chóng thành phần kinh tế tư nhân trong đó
có sự lớn mạnh đáng kể của tầng lớp doanh nhân. Cho đến nay, cả nước đã
có hàng trăm ngàn doanh nghiệp, có trên 3 triệu hộ sản xuất kinh doanh, trên
500000 doanh nghiệp với hàng trệu doanh nhân. Sự lớn mạnh không ngừng
của tầng lớp doanh nhân cũng như sự đa dạng, phong phú của nó (nguồn gốc
xuất thân, tuổi tác, các đặc trưng theo giới, trình độ học vấn, quy mô, loại
hình, vốn đầu tư hoạt động, liên kết tổ chức, vùng miền sản xuất đầu tư, kinh
doanh...) sẽ tạo ra một cục diện mới cho nền kinh tế cũng như đặt ra những
yêu cầu bức bách hơn đối với những thay đổi trong chính sách, thể chế pháp
13


luật cho phù hợp. Sự lớn mạnh này diễn ra không chỉ ở các địa bàn đô thị,
trong các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ tài chính, kỹ thuật, công nghệ cao mà
cả ở các địa bàn nông thôn, rừng núi, biên cương, hải đảo, cả các lĩnh vực
nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, cả những nơi chưa đòi hỏi nhiều đến công
nghệ cao, kỹ thuật cao, nguồn nhân lực chất lượng cao. Một số tác giả của các
bài báo gọi họ là "tầng lớp trung lưu” và họ nhận định rằng: Sự lớn mạnh của
tầng lớp này sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng cường sức mạnh
tổng hợp của đất nước; tạo ra được nhiều việc làm, hạn chế thất nghiệp góp
phần ổn định xã hội, giảm thiểu những căng thẳng xã hội, nhất là áp lực về
việc làm; thúc đẩy cải cách kinh tế, đổi mới thể chế, thủ tục hành chính, hoàn
thiện các chính sách, thúc đẩy sự liên kết 4 nhà: nhà nông, nhà nước, nhà
doanh nghiệp, nhà khoa học; đóng góp to lớn vào nguồn thu ngân sách nhà
nước thông qua việc nộp thuế cũng như nhiều hoạt động phúc lợi xã hội, cứu

trợ xã hội, từ thiện xã hội... Phải thấy rằng, tầng lớp doanh nhân đang trở
thành một lực lượng chủ công, đội quân xung kích trong công cuộc phát triển
kinh tế - xã hội nước ta.
Đội quân này cùng với những người lao động ưu tú khác đang “nổi
lên", trội vượt lên từ khắp các giai cấp, tầng lớp xã hội hợp thành một tầng
lớp xã hội "ưu trội"- tầng lớp bao gồm những phần tử năng động nhất, tài hoa,
xuất sắc nhất. Họ trở thành những mạnh thường quân, những đầu tàu thật sự
sung mãn, khoẻ mạnh, đi tiên phong trong tất cả các hoạt động xã hội. Họ sẽ
là người lôi kéo, dẫn dắt mỗi nhóm xã hội cũng như toàn xã hội đi lên.
Sự hình thành tầng lớp xã hội "ưu trội" gắn chặt với quá trình hình
thành cấu trúc phân tầng xã hội hợp thức. Tầng lớp ưu tú này cần phải được
Đảng, Nhà nước và các đoàn thể xã hội nhìn nhận một cách đúng đắn, đánh
giá đúng tài năng, công lao và những giá trị đóng góp của họ, tôn vinh họ,
vinh danh họ. Đồng thời, cần phải chú ý theo dõi, thu hút, đào tạo, sắp xếp, bổ
nhiệm họ vào các vị trí then chốt trong bộ máy của Đảng và Nhà nước. Nếu
họ là doanh nhân, nhà khoa học, chúng ta cần có các chính sách an toàn,
14


thông thoáng, tạo điều kiện để họ có thể phát huy cao nhất năng lực kinh
doanh và sáng tạo của mình. Cần phải tạo ra cho họ những hành lang, môi
trường rộng rãi, những ưu đãi về thuế, vốn, những tư vấn và hỗ trợ pháp lý và
những chế tài bảo vệ họ khi lợi ích của họ bị đe dọa, xâm hại.
Song hành với sự hình thành nhóm xã hội "vượt trội", tầng lớp xã hội
"ưu trội" là sự xuất hiện một cách tất yếu, không tránh khỏi các nhóm xã hội
"yếu thế", tầng lớp xã hội "yếu thế”. Những nhóm xã hội này được hình thành
từ khắp các giai cấp, tầng lớp, tổ chức, nghề nghiệp như công nhân, nông dân,
tri thức, công chức, thợ thủ công, tiểu thương, tiểu chủ... Đó là những người
không có nghề nghiệp ổn định, học vấn, tay nghề thấp, không có tay nghề
hoặc có nghề rồi song chưa kiếm được việc làm... Đó là những người sống

trong các gia đình đông con, ít nhân lực lao động, đông nhân khẩu phụ thuộc,
sức khoẻ yếu, hay ốm đau, hoặc gia đình có nhiều người đau bệnh, tàn tật,
gặp nhiều rủi ro, thiên tai, địch họa... Đó là những người sống ở vùng sâu,
vùng xa, đất đai cằn cỗi, thời tiết khắc nghiệt, đia hình chia cắt, giao thông đi
lại khó khăn, cơ sở hạ tầng thấp kém, phong tục làm ăn lạc hậu... Họ có thể là
những người dân ở diện "giải toả" đất đai, nhà ở..., sang môi trường sống mới
họ chưa được đào tạo nghề nghiệp, chưa được chuẩn bị về mặt tâm lý để thích
nghi và hội nhập với nơi ở mới.
Họ có thể là những doanh nhân, những tiểu thương, tiểu chủ, thợ thủ
công làm ăn thua lỗ, tụt hậu về mặt kỹ thuật, công nghệ, không theo kịp hoặc
không đủ năng lực cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Họ cũng có thể là
những người thuộc diện chính sách xã hội như thương binh, gia đình liệt sĩ,
những người có công với cách mạng..., nay thiếu sức khoẻ, học vấn, chuyên
môn nghề nghiệp...
Những người thuộc các nhóm xã hội, tầng lớp xã hội "yếu thế” này khá
đông đảo và đang là một hiện tượng xã hội nhức nhối, là nỗi băn khoăn, lo
lắng và mối quan ngại cho nhiều nhà lãnh đạo, quản lý ở các tổ chức, địa
phương cũng như Đảng Nhà nước và các tổ chức xã hội.
15


Tầng lớp trí thức Việt Nam trong thời kỳ đổi mới cũng có những biến
đổi quan trọng. Trí thức Việt Nam tăng nhanh về số lượng, đa dạng hóa trong
cơ cấu nghề nghiệp và lĩnh vực hoạt động. Tầng lớp trí thức phát triển mạnh
trong công nghệ thông tin, lĩnh vực dầu khí, điện tử, bưu chính viễn thông.
Đánh chú ý là đã có một lực lượng lớn trí thức làm việc trong các khu vực
kinh tế tư nhân, với nước ngoài và làm việc ở ngoài nước. Trí thức không chỉ
làm việc gián tiếp mà ngày càng tăng lên nhiều hơn lực lượng tham gia lao
động trực tiếp tạo ra của cải vật chất, sản phẩm hang hóa, dịch vụ, không chỉ
làm việc trong lĩnh vực văn hóa, tinh thần, giáo dục, đào tạo mà còn trực tiếp

tham gia sản xuất vật chất, tham gia rộng rãi trong các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, ngoại giao, quan sự, các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp cũng như
các hoạt động lãnh đạo, quản lý ở các cấp. Đã có nhiều tri thức trở thành các
doanh nhân, cùng đồng hành “ bốn nhà” với doanh nhân, người lao động và
đang dần lớn mạnh trở thành một lực lượng xã hội quan trọng thời đổi mới.
Vậy do đâu mà có sự thay đổi mạnh mẽ trong cơ cấu giai cấp ở Việt
Nam. Thực tế cho thấy nguyên nhân tự nhiên là do mức tăng lên trong các bộ
phận dân cư theo đà tăng dân số và mức thu nạp lao động tăng lên hàng năm
do nhu cầu nội tại của nền kinh tế thì còn một nguyên nhân đặc biệt quan
trọng khác đó là do sự dịch chuyển hàng ngang ngay càng nhiều hơn với quy
mô và tốc độ ngày càng lớn và nhanh hơn. Đó là sự dịch chuyển của người
lao động từ nhóm xã hội này sang nhóm xã hội khác, từ thành phần kinh tế
này sang thành phần kinh tế khác, từ giai cấp này sang giai cấp khác, từ tầng
lớp này sang tầng lớp khác. Sự dịch chuyển làm tăng lên hay giảm đi về số
lượng thực tế ở mỗi thành phần xã hội và giai cấp.
Song hành với những biến đổi trong cơ cấu giai cấp hiểu theo nghĩa
truyền thống nói trên là sự vận động theo “chiều dọc”, “đi lên”, “đi xuống”
trong cấu trúc của xã hội. Đó là quá trình phân hóa, phân tầng xã hội mạnh
mẽ. Từ một cấu trúc về cơ bản và phổ biến là ngang hang nhau trước đổi mới
16


thì cho đến nay đã xuất hiện một xã hội có “cấu trúc tầng bậc” ngày càng rõ
ràng, thay vì cho một mặt bằng xã hội nhìn chung là sang sàn bằng nhau thì
nay đã hình thành những giai tầng xã hộ khác nhau về thu nhập, mức sống,
địa vị kinh tế, hưởng thụ văn hóa, quyền lực kinh tế, uy tín xã hội. Những giai
tầng xã hội này chưa có tên gọi và cũng không đồng nhất với các giai cấp hay
tầng lớn xã hội hiện có, nó cũng không phải một phép cộng cơ học, giản đơn
của hai giai cấp và tầng lớn mà là sự hình thành phức tạp “đan kết” nhiều
chiều thông qua những cơ động “ngang”,”dọc”, “vào” , “ra” của những cá

nhân nhóm từ khắp các giai cấp, tầng lớp, tổ chức, đoàn thể xã hội.
Ở Việt Nam hiện nay đang hình thành một mô hình cấu trúc cơ cấu xã
hội- giai tầng xã hội. Cấu trúc giai tầng xã hội ở nước ta không phải là một
cấu trúc đơn giản theo nghĩa là một giai cấp tầng lớp đó ở vị trí cao nhất, còn
các giai cấp tầng lớp khác có thứ tự thấp dần xuống dưới mà đây là một cấu
trúc tầng bậc “đan kết”.
Cùng với quá trình đổi mới, đặc biệt là sau đại hội Đảng XI bắt đầu đi
vào cuộc sống, cấu trúc “tầng bậc”sẽ còn tiếp tục diễn tiến. Tuy nhiên, quá
trình đó diễn ra không đơn giản, đơn tuyến mà có sự đan xen phức tạp giữa
hai cấu trúc phân tầng xã hội “hợp thức” và phân tầng xã hội “không hợp
thức” - một cấu trúc xã hội phù hợp với công bằng, đạo lý, pháp lý và một cấu
trúc xã hội bất công, bất đạo lý và không phù hợp với pháp luật. Chúng ta có
nhiều cơ sở để kỳ vọng vào cấu trúc phân tầng xã hội hợp thức sẽ ngự trị bởi
con đường đổi mới của chúng ta là phát triển kinh tế thị trường, giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Nhà nước
Pháp quyền xã hộ chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân điều hành quản lý.
Song cũng không bì vậy mà chúng ta buông lỏng kỷ cương pháp luật,chủ
quan mất cảnh giác, xem nhẹ cuộc dấu tranh đối với những thói hư, tật xấu,
những kẻ tha hóa, tham lam, trục lợi, biến chất, tham nhũng sâu mọt đang

17


hình thành cũng như những quán tính xấu, phi đạo lý của quá khứ không dễ gì
nhổ gốc, bứt rễ trong ngày một, ngày hai được.
Ngoài những biến đổi lớn như phân tích ở trên, cũng diễn ra những
biến đổi hết sức quan trọng trong các phân hệ cơ cấu xã hội cơ bản của xã hội
Việt Nam từ khi đổi mới đến nay như sự biến đổi cơ cấu dân số, cơ cấu lãnh
thổ, cơ cấu tôn giáo, cơ cấu nghề nghiệp.
2.2. Sự biến đổi cơ cấu dân số

Sự biến đổi cơ cấu dân số ở nước ta trong vài thập kỷ qua biểu hiện rõ
nhất và đáng chú ý nhất là trong cơ cấu tuổi, cùng với đó là những biến đổi
nhẹ trong cơ cấu giới tính, sau nữa và gắn với nó là sự biến đổi trong mức
sinh, mức tử.
Do thành quả của công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình trên phạm
vi toàn xã hội, đặc biệt rõ nét là từ sau Nghị quyết Trung ương 4 khoá VII
(năm 1993), mức sinh giảm liên tục, mức tử cũng giảm, đời sống nhân dân
không ngừng được cải thiện, tuổi thọ bình quân của người dân tăng đáng kể...
đã dẫn đến sự thay đổi lớn trong cơ cấu tuổi của dân số nước ta.
Đáng chú ý là tỷ lệ trẻ em trong các nhóm tuổi (từ 0 đến 14 tuổi) giảm
mạnh, trong khi các nhóm tuổi từ 25 đến 49 và 65 trở lên đang tăng lên khá rõ
ràng - điều góp phần vào sự chuyển đổi từ tỷ số phụ thuộc sang “cơ cấu dân
số vàng”. Cơ cấu dân số theo giới tính thì dần cân bằng nhưng tình trạng mất
cân bằng giới tính ở trẻ sơ sinh tăng lên; tỷ lệ dân số đô thị thấp nhưng đang
tăng lên, báo hiệu tích tụ dân số vào đô thị ngày càng mạnh, v.v...
Tỷ trọng dân số thuộc độ tuổi lao động ở nước ta năm 2009 chiếm
66,1%. Tỷ trọng này đang luôn biến đổi cùng với sự biến đổi của cơ cấu dân
số ở nước ta trong thời kỳ quá độ dân số hiện nay. Nước ta đang ở trong thời
điểm mà tỷ trọng dân số lao động ở mức cao nhất trong lịch sử. Tỷ trọng dân
số lao động năm 2010 chiếm 66,2 %. Việt nam đang ở trong thời kỳ mà các
nhà Nhân khẩu học gọi là thời kỳ cơ cấu dân số “vàng” . Từ sau năm 2010,
18


sau khi đạt ngưỡng dân số “vàng”, tỷ trọng dân số của nước ta bắt dầu có xu
hướng giảm. Đồng thời, tỷ trọng dân số phụ thuộc bao gồm dân số trong độ
tuổi từ 0-14 tuổi, và 60 tuổi trở lên có xu hướng tăng lên, đặc biệt là tỷ trọng
dân số từ 60 tuổi trở lên tăng rất nhanh.
Với cơ cấu dân số này đã và đang tác động mạnh mẽ đến sự phát triển
kinh tế xã hội nước ta. Đó có thể sẽ là cơ hội để chúng ta cất cánh tăng

khoảng 1/3 mức tăng trưởng kinh tế hàng năm và kéo dài khoảng 30 năm như
những con hổ châu Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc) mấy thập kỷ trước
đây nhờ nguồn lao động dồi dào, đông đảo, lại "mang vác” nhóm dân số phụ
thuộc ít nhất.
Một số nhà khoa học cho rằng, thời kỳ vận hội do dư lợi dân số ở Việt
Nam mang lại sẽ kéo dài khoảng 30 năm: từ năm 2010 đến năm 2040. Với
vận hội này, nếu Chính phủ có chính sách tốt trên cả 3 lĩnh vực: giáo đức đào tạo, kinh tế - xã hội và quản lý thì ước mơ hoá rồng của nước ta không
còn chỉ là mong muốn mà có thể sẽ trở thành hiện thực. Chính sách giáo dục,
đào tạo tốt nhằm sớm đưa nhóm dân số trẻ nước ta trở thành một lực lượng
lao động có trình độ học vấn, tay nghề cao, chuyên môn giỏi, năng động thị
trường, lao động có năng suất cao. Chính sách kinh tế và chính sách xã hội tốt
để khuyến khích các doanh nghiệp mở mang đầu tư và tạo ra nhiều việc làm;
tạo môi trường thông thoáng, linh hoạt để lực lượng lao động trẻ tìm được
việc làm, cơ động, linh hoạt trong thị trường việc làm. Chính sách quản lý vĩ
mô và vi mô tốt nhằm tăng cường pháp luật, đổi mới thể chế, tăng hiệu lực
quản lý, giảm thiểu sự phiền hà, tham nhũng, kết hợp tốt giữa các nhà (nhà
nước, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học), kết hợp tốt giữa các chủ doanh
nghiệp với chính quyền sở tại và người lao động...
Nhưng "cơ cấu dân số vàng" của chúng ta cũng có thể sẽ là một thách
thức lớn, nếu chúng ta không làm tốt ba vấn đề nói trên. Bởi lực lượng lao
động đạt mức tối đa (ước tính mỗi năm tăng thêm khoảng 1,6 triệu lao động),
song Nhà nước, các tổ chức đoàn thể xã hội không tạo đủ việc làm cho người
19


lao động hoặc chỉ tạo ra những việc làm nhàm chán, thu nhập thấp, điều kiện
làm việc yếu kém, tham nhũng tràn lan... thì nguy cơ khủng hoảng, đổ vỡ, rối
loạn xã hội sẽ là điều bất khả kháng.
4.3 Biến đổi cơ cấu xã hội lãnh thổ và các phân hệ cơ cấu xã hội cơ bản khác
Cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mạng lưới đô thị

quốc gia đã được mở rộng, từ 629 đô thị chiếm 20,7% (năm 1999) tăng lên
754 đô thị chiếm xấp xỉ 30% (năm 2009). Đô thị loại một tăng thêm 5 đô thị,
trong khi đó đô thị loại năm tăng thêm 99 đô thị. Kéo theo đó là sự gia tăng
liên tục quy mô dân số đô thị, từ 14,9 triệu người (năm 1998) lên 23,9 triệu
người chiếm 20,7% dân số cả nước (năm 2005), ước tính khoảng 25-26 triệu
người chiếm khoảng 29% dân số cả nước (năm 2009). Tăng trưởng kinh tế
trung bình ở khu vực đô thị đạt từ 12 - 15%, cao gấp 1,5 - 2 lần so với mặt
bằng chung của cả nước (năm 2007), và đạt khoảng 8-10% (năm 2009). Hiện
nay, nguồn thu đô thị chiếm tỷ lệ 70% trong cơ cấu GDP cả nước. Sự phát
triển kinh tế đô thị đã và đang tạo ra hàng triệu việc làm cho người lao động,
góp phần quan trọng trong việc duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.
Ngoài 3 vùng kinh tế trọng điểm, hàng chục khu kinh tế với hàng trăm
các đô thị lớn, nhỏ mọc lên và được mở rộng, kéo theo là sự phát triển cơ sở
hạ tầng nhà xưởng, khu công nghiệp... đã làm cho cơ cấu lãnh thổ nước ta có
sự thay đổi khá mạnh mẽ. Cư dân nông thôn giảm, cư dân đô thị, lối sống đô
thị tăng. Đây là thời kỳ đô thị hoá mạnh mẽ nhất ở nước ta. Nó sẽ còn mang
lại nhiều thay đổi căn bản (cả những cơ hội, cũng như thách thức) cho con
người Việt Nam, xã hội Việt Nam. Nó sẽ là dấu hiệu tốt, triển vọng tốt nếu
quá trình đô thị hoá được gắn kết chặt chẽ với quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa phản ánh tính tất yếu kinh tế - chính trị, xã hội và được quy hoạch,
điều hành, quản lý một cách bài bản, khoa học, không "nhảy cóc". Nếu
không, nó sẽ là nguy cơ của những vấn nạn về ô nhiễm môi trường, ách tắc
giao thông, tệ nạn xã hội, tình trạng thiếu việc làm, thiếu điện, thiếu nước, lai
căng văn hoá và những vấn đề bức xúc đáng cảnh báo khác... Biến đổi cơ cấu
20


xã hội lãnh thổ là một trong những chỉ báo hết sức quan trọng để có thể xem
xét và dự báo bao giờ Việt Nam sẽ trở thành con rồng, con hổ của khu vực.
Đó cũng là chỉ báo đánh giá trình độ văn minh mà chúng ta sẽ đạt được ở mức

độ nào sau nhiều năm tìm tòi, đổi mới.
Nghiên cứu sự biến đổi cơ cấu xã hội, chúng ta cũng cần phải xem xét
những biến đổi trong cơ cấu xã hội tôn giáo ở nước ta - một quốc gia đa tôn
giáo (với 6 tôn giáo lớn: Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Tin Lành giáo, Hồi giáo,
Hòa Hảo giáo, Cao Đài giáo) trong thời kỳ mở cửa đang có rất nhiều sự biến
đổi. Từ năm 2007 đến nay, đã có thêm nhiều tôn giáo với hàng chục các tổ
chức tôn giáo "nhánh phái tôn giáo" khác nhau được Nhà nước chính thức
thừa nhận và đi vào hoạt động. Chính trong bối cảnh này, Đảng và Nhà nước
ta cần chăm chú theo dõi và có những chính sách thông minh, trí tuệ nhằm
hoá giải được những mâu thuẫn, xung đột, tăng tính đồng thuận xã hội, xây
dựng vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp hài hoà giữa đời và
đạo, đạo pháp và CNXH.
Song hành với sự biến đổi cơ cấu xã hội tôn giáo là sự biến đổi không
kém phần quan trọng trong cơ cấu xã hội dân tộc. Một quốc gia 54 dân tộc
phải đối mặt với rất nhiều thách thức của đổi mới, mở cửa, hội nhập khu vực,
quốc tế. Các lực lượng thù địch luôn tìm mọi cách "chọc" vào những điểm
yếu, những sơ hở trong các chính sách và sự vận hành chính sách dân tộc, tôn
giáo ở nước ta để kích động chủ nghĩa dân tộc cực đoan, gây chia rẽ, mất
đoàn kết làm yếu đi sức mạnh của quốc gia, dân tộc chúng ta. Trước bối cảnh
hiện nay, việc nắm chắc các quan điểm về đoàn kết dân tộc của Đảng, những
chỉ đạo sâu sắc và chân thực trong các Di huấn tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, tập hợp một cách thông minh, khoa học, nhất quán, trung thực các dân
tộc xung quanh ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng dưới ánh sáng
của đổi mới - đó là những điều kiện tiên quyết và con đường duy nhất đúng
đắn đưa đất nước đi đến xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, một xã hội
tươi đẹp, nhân văn, "nhân đạo hoàn bị” mà chúng ta quyết tâm hướng tới.
21


Cơ cấu xã hội - nghề nghiệp: Nếu xem xét cơ cấu nghề nghiệp theo

nhóm ngành kinh tế, thì sự biến đổi cơ cấu đó trong giai đoạn đang có sự
chuyển dịch tích cực từ nông, lâm, ngư nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ,
từ các ngành có năng suất thấp sang ngành có năng suất cao hơn. Còn xem xét
cơ cấu nghề nghiệp theo thành phần kinh tế thì tỷ lệ lao động thuộc kinh tế
nhà nước giảm xuống, trong khi tỷ lệ lao động ngoài nhà nước và khu vực đầu
tư nước ngoài tăng lên; theo khu vực thì tỷ lệ lao động ở thành thị tăng lên,
trong khi lao động ở nông thôn giảm xuống, v.v...
3. Tác động của biến đổi cơ cấu xã hội đến xây dựng nền quốc
phòng toàn dân
Trong gần 30 năm đổi mới, nước ta đã có nhiều biến đổi về cơ cấu xã
hội; rõ nét nhất là biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp, phân hóa, phân tầng xã
hội, biến đổi hệ giá trị, thang giá trị, định hướng xã hội. Những biến đổi về cơ
cấu xã hội đã tác động không nhỏ đến nhiệm vụ quân sự quốc phòng.
Sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới đòi hỏi phải có một
chiến lược tổng hợp xây dựng, củng cố về lực lượng, về tiềm lực và thế trận
quốc phòng, trong đó xây dựng quân đội về chính trị là một nội dung chiến
lược quan trọng.
3.1. Xây dựng cơ sở chính trị - xã hội của nền quốc phòng toàn dân
Cơ sở chính trị - xã hội của nền quốc phòng toàn dân là nền tảng của
sức mạnh bảo vệ Tổ quốc từng bước được hình thành trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội; có vai trò quyết định trong giữ vũng ổn định chính trị
- xã hội, phát triển đất nước. Xây dựng cơ sở chính trị - xã hội bao gồm nhiều
nội dung, trong đó tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà
nước, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng nền văn hóa tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc.Nền quốc phòng của Việt Nam là nền quốc phòng
toàn dân, sức mạnh để bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh của toàn dân tộc. Vì vậy,
22



phải không ngừng chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân làm nòng cốt
cho việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc là một nội dung trong xây
dựng cơ sở chính trị - xã hội của nền quốc phòng toàn dân. Vấn đề đố càng
phải được coi trọng trong điều kiện biến đổi cơ cấu xã hội – giai cấp, phân
hóa, phân tầng xã hội ở nước ta hiện nay. Tính đan xen, phức hợp của giai
tầng xã hội ngày càng tăng lên trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, trong
quá trình toàn cầu hóa kinh tế. Kết cấu giai cấp – xã hội có nhiều biến động
ảnh hưởng đến liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và trí
thức, nền tảng xã hội của xã hội xã hội chủ nghĩa.Xây dựng cơ sở chính trị xã hội của nền quốc phòng toàn dân trong quá trình biến đổi cơ cấu xã hội,
phân hóa, phân tầng xã hội càng cần phải quan tâm phát triển số lượng và chất
lượng giai cấp công nhân; xây dựng và củng cố liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức.

23


KẾT LUẬN
Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội là những khái niệm cơ bản then chốt
của xã hội học, là chìa khóa để hiểu được những vấn đề thuộc về bản chất xã hội.
Nó không chỉ được xem như là những tiếp cận lý thuyết để nhận thức và luận
giải những vấn đề thuộc về bản chất của xã hội mà còn có thể được coi như là
khái niệm công cụ để nắm bắt và phân tích thực trạng xã hội, từ đó đưa ra những
giải pháp đối với những vấn đề bức xúc mà thực tiễn xã hội đang đặt ra.
Qua những phân tích trên đây cho chúng ta thấy chặng đường đổi mới
mà đất nước ta đã trải qua 26 năm, với biết bao thăng trầm và những thành
công đã đạt được. Những biến đổi đó đã tác động cả tích cực và tiêu cực đến
quá trình phát triển đất nước, cụ thể trên các mặt: kinh tế, văn hoá, chính trị
và xã hội.
Về mặt kinh tế: sự biến đổi cơ cấu xã hội đó đã góp phần thúc đẩy sự

phát triển kinh tế của đất nước, qua đó góp phần nâng cao đời sống mọi mặt
của đại đa số các tầng lớp nhân dân.
Về mặt chính trị, sự biến đổi cơ cấu xã hội (như tự do hóa các ngành
nghề, nhiều tầng lớp xã hội mới xuất hiện...) đã góp phần nâng cao địa vị
cũng như ý thức dân chủ của người dân. Như vậy, mô hình cơ cấu xã hội ở
giai đoạn mới này, về cơ bản, là có lợi cho sự ổn định xã hội và phát triển đất
nước về lâu, về dài.
Về mặt văn hoá: Việc giao lưu ngày càng gia tăng giữa các tộc người
trong nước, cũng như giữa trong nước và nước ngoài, sự phục sinh của nhiều
tín ngưỡng dân gian, sự du nhập và nảy sinh nhiều tôn giáo mới... đang làm
cho văn hoá Việt Nam ngày thêm đa dạng và phong phú - mà đa dạng và
phong phú chính là một nguyên nhân không thể thiếu để phát triển.
Biến đổi cơ cấu xã hội ở Việt Nam cho thấy tính phong phú đa dạng
của sự kết hợp giữa lao động - nghề nghiệp, giới tính, lứa tuổi, thế hệ, dân tộc,
24


tôn giáo... Trong nền kinh tế thị trường, sự hình thành tầng lớp doanh nhân là
một tất yếu tự nhiên, sự hình thành nhóm xã hội ưu trội này là một xu hướng
tích cực đối với phát triển. Tầng lớp này có vị trí và vị thế quan trọng cả về
kinh tế và xã hội, nhất là trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, cùng với những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới,
những biến đổi mạnh mẽ của xã hội thời gian qua cũng đang đặt ra nhiều vấn
đề, thách thức gay gắt. Đó là, sự mất cân đối về cơ cấu của nền kinh tế, cơ cấu
giai cấp, cơ cấu dân cư, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu dân tộc, tôn giáo…; sự
phân hoá giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, giữa giàu
và nghèo trong phát triển; sự bất bình đẳng giữa các tầng lớp, các giới, các
nhóm xã hội…; đặc biệt, sự phân hoá giàu nghèo, sự phân tầng xã hội ngày
càng trở nên gay gắt. Bên cạnh đó là sự xuất hiện những vấn đề mới như: dân
số tăng, việc làm và di cư tự do; sự tăng nhanh của giai cấp công nhân và sự

giảm sút nguồn lực lao động ở nông thôn; các tệ nạn xã hội; sự bất bình đẳng
giới và nguy cơ khủng hoảng gia đình; sự thay đổi chuẩn mực đạo đức và lối
sống ở lớp trẻ…
Biến đổi cơ cấu xã hội đang làm gia tăng những mâu thuẫn và xung
đột - dù mới ở mức độ cục bộ - song cũng đã tạo ra những nguy cơ tiềm ẩn
đối với sự ổn định và phát triển của xã hội: đó là mâu thuẫn giữa chủ và thợ,
giữa thế hệ già và thế hệ trẻ, giữa chủ đầu tư và những người nông dân mất
đất, là xung đột giữa một số tổ chức tôn giáo và chính quyền địa phương, giữa
các bộ phận tộc người di dân tự do và cư dân địa phương.
Rõ ràng, cả hai mặt tích cực và tiêu cực đã, đang và sẽ còn tồn tại trong
quá trình biến đổi cơ cấu xã hội ở mô hình đổi mới ở nước ta. Đây không chỉ
là vấn đề thực tiễn, mà còn là vấn đề lý luận cần nghiên cứu và giải quyết.

25


×