Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

TIỂU LUẬN cải CÁCH THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ ở TRUNG QUỐC từ năm 1978 đến NAY và ý NGHĨA của nó đổi với VIỆC đổi mới THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.09 KB, 27 trang )

TIỂU LUẬN
CẢI CÁCH THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ Ở TRUNG
QUỐC
TỪ 1978 ĐẾN NAY VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI
VỚI VIỆC
ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

NỘI DUNG CHÍNH

3

I.

3

Sự cần thiết, phương hướng, mục tiêu và nhiệm vụ của cải
cách thể chế chính trị ở Trung Quốc
1. Sự cần thiết phải tiến hành cải cách thể chế chính trị

3

2. Phương hướng, mục tiêu và nhiệm vụ của cải cách thể chế

5



chính trị
II.

Những thành tựu và hạn chế của cải cách thể chế chính trị

9

ở Trung Quốc
1. Những thành tựu bước đầu

9

2. Những hạn chế và khó khăn đang đặt ra trong quá trình cải

14

cách thể chế chính trị
III. Những kinh nghiệm chủ yếu của cải cách thể chế chính trị

18

ở Trung Quốc và ý nghĩa của nó đối với việc đổi mới hệ
thống chính trị ở Việt Nam
1. Những kinh nghiệm chủ yếu

18

2. Ý nghĩa đối với việc đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam


20

KẾT LUẬN

23

TÀI LIỆU THAM KHẢO

24


MỞ ĐẦU

Thế giới trong những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX đầy biến
động. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ diễn ra hết sức mạnh mẽ, tác
động sâu sắc đến hầu hết các quốc gia dân tộc, thúc đẩy nhanh quá trình
quốc tế hóa nền kinh tế thế giới. Chủ nghĩa tư bản (CNTB) vận dụng được
những thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ, tiếp tục phát triển.
Chủ nghĩa xã hội (CNXH) bộc lộ những yếu kém khuyết tật, rơi vào khủng
hoảng và sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu.
Những năm cuối của thập kỷ 70, đầu những năm 80, trong quan hệ
quốc tế bắt đầu xuất hiện xu thế đối thoại chính trị, tạo điều kiện thuận lợi
cho quá trình quốc tế hóa nền kinh tế thế giới. Trong bối cảnh đó, tranh thủ
vốn, kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý của các quốc gia tiên tiến là thời cơ
và thách thức đối với các nước đang phát triển, trong đó có Trung Quốc và
Việt Nam.
Trên cơ sở phân tích tình hình quốc tế và ý thức đầy đủ về xuất phát
điểm kinh tế lạc hậu của đất nước, Trung Quốc và Việt Nam đã tiến hành
cải cách mở cửa và đổi mới.
Hơn 20 năm qua, Trung Quốc tiến nhanh trên con đường cải cách

mở cửa và đạt được những thành tựu đáng kể. Ngay trong thời gian gần
đây, khi mà nhiều quốc gia trong khu vực gặp phải những khó khăn do
hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ thì Trung Quốc vẫn tiếp
tục giữ vững tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức khá cao, sức mạnh đất
nước được tăng cường, đời sống nhân dân được cải thiện, vị thế quốc tế
được nâng cao.
Nguyên nhân đạt được những thành tựu to lớn nêu trên là do Trung
Quốc đã tiến hành công cuộc cải cách toàn diện đất nước, trong đó cải cách
thể chế kinh tế được coi là nhiệm vụ trọng tâm; đồng thời tiến hành từng
bước cải cách thể chế chính trị và các lĩnh vực tương ứng khác.
3


Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, có nhiều nét
tương đồng về lịch sử, văn hóa, kinh tế và chính trị. Công cuộc cải cách ở
Trung Quốc và đổi mới ở Việt Nam đã và đang được tiến hành đều do
Đảng cộng sản của hai nước khởi xướng và lãnh đạo. Trong lĩnh vực cải
cách thể chế chính trị, Đảng Cộng sản Trung Quốc nêu lên mục tiêu là:
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) có đặc sắc Trung Quốc;
còn Đảng Cộng sản Việt Nam cũng chỉ rõ: "mục tiêu của đổi mới hệ thống
chính trị là nhằm thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ
quyền làm chủ của nhân dân" (1).
Như việc, việc nghiên cứu về cải cách thể chế chính trị ở Trung
Quốc không chỉ có ý nghĩa khoa học, góp phần quan trọng vào việc tìm
hiểu công cuộc cải cách toàn diện ở đất nước này; mà còn có ý nghĩa gợi
mở những suy nghĩ về việc tiến hành công cuộc đổi mới hệ thống chính trị
ở nước ta hiện nay.

(


1) Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 71.

4


NỘI DUNG CHÍNH

I. SỰ CẦN THIẾT, PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ
CỦA CẢI CÁCH THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ Ở TRUNG QUỐC

1. Sự cần thiết phải tiến hành cải cách thể chế chính trị
Thể chế chính trị của Trung Quốc trước đây được hình thành và
phát triển trong thể chế kinh tế kế hoạch tập trung cao độ. Nó đã tồn tại
nhiều khuyết tật và ngày càng tỏ ra không thích ứng với công cuộc xây
dựng hiện đại hóa trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa... trói buộc
nghiêm trọng sự phát triển của sức sản xuất, vì vậy tất yếu phải cải cách.
- Cải cách thể chế chính trị là do yêu cầu của việc phát huy tính tích
cực của quảng đại quần chúng nhân dân. Khi tiến hành công cuộc cải cách
mở cửa, ông Đặng Tiểu Bình đã nhiều lần nhấn mạnh đến việc phát triển
sức sản xuất. Theo ông, bản chất của CNXH là giải phóng sức sản xuất,
phát triển sức sản xuất. Muốn thúc đẩy sức sản xuất thì phải phát huy đầy
đủ tính tích cực, tính sáng tạo của quảng đại quần chúng. Vì vậy, theo các
nhà khoa học Trung Quốc, cần phải cải cách những khâu, những phương
diện trói buộc và cản trở việc phát huy tính tích cực, sáng tạo của quần
chúng nhân dân trong thể chế chính trị, thiết thực xây dựng nền chính trị
dân chủ XHCN, xây dựng một thể chế mới; có thể phát huy và đảm bảo
được quyền làm chủ của nhân dân.
- Tiến hành cải cách thể chế chính trị còn do đòi hỏi của cải cách
thể chế kinh tế. Khuyết tật trong thể chế chính trị có quan hệ nhân quả với
những khuyết tật của thể chế kinh tế. Cải cách thể chế kinh tế càng phát

triển, càng đặt ra những đòi hỏi đối với cải cách thể chế chính trị. Những
đòi hỏi này được thể hiện trên ba mặt là:
+ Cuộc cải cách thể chế kinh tế phát triển theo chiều sâu, đòi hỏi
Chính phủ phải thay đổi chức năng, cải cách bộ máy Chính phủ và chế độ

5


nhân sự cán bộ. Chính phủ trong thể chế truyền thống không những là
người nắm giữ thực tế toàn bộ tài sản toàn dân, mà còn bao biện mọi hoạt
động kinh tế vĩ mô và vi mô, từ đó đẻ ra khuyết tật như hiệu quả thấp, quan
liêu chủ nghĩa. Giờ đây, việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường về mặt
khách quan đòi hỏi Chính phủ phải thay đổi chức năng của mình, chuyển
biến từ điều tiết trực tiếp mọi hoạt động kinh tế sang điều tiết gián tiếp đối
với kinh tế vĩ mô. Cùng với việc đó, việc sắp xếp bộ máy và nhân sự của
Chính phủ cũng phải phù hợp với nền kinh tế thị trường.
+ Những thành quả của cải cách kinh tế đòi hỏi thể chế chính trị
phải được củng cố. Không cải cách thể chế chính trị sẽ không thể đảm bảo
được những thành quả của cải cách kinh tế. Bởi vì cải cách kinh tế đòi hỏi
phải nới rộng quyền lực, phát huy tính tích cực của các doanh nghiệp.
Nhưng nếu cải cách thể chế chính trị không thích ứng, bộ máy vẫn phình
to, thâu tóm quyền lực... như vậy bên dưới rất khó hoạt động. Một bên nới
rộng quyền lực, một bên thâu tóm quyền lực, đương nhiên sẽ cản trở cải
cách thể chế kinh tế. Những thành quả mà cải cách thể chế kinh tế đã đạt
được cũng không thể củng cố và phát huy.
+ Sự phát triển của kinh tế thị trường đòi hỏi phải thực hiện dân chủ
hóa chính trị. Trong thể chế chính trị của Trung Quốc trước đây đã tồn tại
nhiều khuyết tật. Một trong những nguyên nhân căn bản là kinh tế thị
trường chưa phát triển. Tiền đề cho sự phát triển của kinh tế thị trường là
dân chủ hóa kinh tế. Dân chủ hóa kinh tế một mặt đòi hỏi phải được bảo

đảm bằng dân chủ hóa chính trị, mặt khác cũng tạo điều kiện cho dân chủ
hóa chính trị. Bởi vì, một khi người dân đã tiếp nhận được những bài học
về tự do cạnh tranh, bình đẳng trong đời sống kinh tế, thì năng lực lý giải
về dân chủ chính trị và thực hiện quyền dân chủ sẽ được nâng cao.
Vì vậy, để thích ứng với yêu cầu khách quan của kinh tế thị trường,
cần phải tích cực và thận trọng thúc đẩy quá trình dân chủ hóa về chính trị.
- Tiến hành cải cách thể chế chính trị còn do nhu cầu nâng cao trình
độ quản lý của toàn bộ đất nước Trung Quốc, bao gồm trình độ quản lý của
6


các cơ quan Đảng và chính quyền các cấp từ Trung ương đến địa phương.
Muốn vậy, phải xây dựng thể chế lãnh đạo hiện đại, bao gồm hệ thống
quyết sách, hệ thống chấp hành, hệ thống giám sát và hệ thống tư vấn, sao
cho việc ra quyết định đúng đắn, chấp hành nghiêm chỉnh, giám sát có hiệu
quả và tư vấn khách quan.
Muốn đạt những điều trên, phải tiến hành cải cách thể chế chính trị.
Tóm lại, công cuộc cải cách mở cửa và tiến hành xây dựng hiện đại hóa
XHCN ở Trung Quốc đã đặt ra những yêu cầu đòi hỏi phải tiến hành cải
cách thể chế chính trị. Ngược lại, cải cách thể chế chính trị sẽ làm cho kiến
trúc thượng tầng phù hợp với yêu cầu khách quan của cơ sở kinh tế, từ đó
phát huy tính ưu việt của chế độ XHCN.
2. Phương hướng, mục tiêu và nhiệm vụ của cải cách thể chế
chính trị
a) Phương hướng chung và mục tiêu của cải cách thể chế chính
trị
Sau Hội nghị Trung ương 3 khóa XI (1978), Đảng Cộng sản Trung
Quốc đã nhận thức lại về CNXH, thay đổi căn bản khuynh hướng coi nhẹ
xây dựng nền chính trị dân chủ, từ đó đặt vấn đề xây dựng nền chính trị dân
chủ XHCN ở mức độ cần thiết. Năm 1979 Đặng Tiểu Bình đã nêu lên luận

điểm quan trọng: không có dân chủ sẽ không có CNXH, không có hiện đại
hóa XHCN.
Trong một bài phát biểu khác, ông lại chỉ ra: "Cuộc cải cách chế độ
chính trị và chế độ kinh tế của Trung Quốc phải tiếp tục tiến hành kiên
định, có bước đi. Phương hướng chung của những cải cách lần này là nhằm
phát huy và bảo đảm dân chủ của nhân dân" (1). Đây là lần đầu tiên, ông đặt
vấn đề phát triển nền dân chủ XHCN thành phương hướng chung của cải
cách, bao gồm cả cải cách thể chế kinh tế và cải cách thể chế chính trị.

(

1) Văn tuyển Đặng Tiểu Bình 1975-1982, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 282.

7


Căn cứ vào tư tưởng của Đặng Tiểu Bình, các văn kiện quan trọng
của Đảng và của Nhà nước Trung Quốc sau này đều coi việc xây dựng nền
dân chủ XHCN thành mục tiêu cơ bản và nhiệm vụ căn bản của Trung
Quốc. Đại hội XIII Đảng Cộng sản Trung Quốc (1986) đã coi những luận
điểm trên là tư tưởng chỉ đạo cải cách thể chế chính trị, chính thức đưa vấn
đề cải cách thể chế chính trị vào chương trình nghị sự của Đảng.
Đại hội XIII nêu lên mục tiêu lâu dài của cải cách thể chế chính trị
là "xây dựng thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa dân chủ cao độ, pháp chế
hoàn bị, có hiệu quả cao, tràn đầy sức sống" (1).
Đây là mục tiêu đòi hỏi phải có thời gian nhất định mới thực hiện
được. "Dân chủ cao độ" là nội dung thực chất của nền chính trị dân chủ
XHCN, là yêu cầu của CNXH. "Pháp chế hoàn bị" là sự bảo đảm của nền
dân chủ cao độ, là điều kiện cần thiết đầy đủ để giải quyết vấn đề "pháp trị"
và "nhân trị". "Có hiệu quả cao" chỉ sự vận hành chính trị có thể phát triển

lành mạnh hài hòa, làm cho công tác của các cơ quan Đảng và Nhà nước
đạt hiệu quả cao. "Tràn đầy sức sống" chỉ cơ chế vận hành của thể chế
chính trị có tính thích ứng mạnh mẽ.
Đại hội XIII (1986) còn đề ra mục tiêu ngắn hạn của cải cách thể
chế chính trị ở Trung Quốc. Đại hội chỉ rõ: "Xây dựng thể chế lãnh đạo có
lợi cho việc nâng cao hiệu suất, tăng cường sức sống và tính tích cực của
nhiều phương diện". Việc đề ra mục tiêu ngắn hạn chính là căn cứ vào yêu
cầu tổng thể của mục tiêu lâu dài, vào điều kiện cụ thể và nhất là những
khuyết tật của thể chế chính trị Trung Quốc. Mục tiêu ngắn hạn là những
bước đi cần thiết để đạt được mục tiêu lâu dài. Như vậy, Đại hội XIII Đảng
Cộng sản Trung Quốc đã chính thức nêu lên vấn đề xây dựng nền chính trị
dân chủ XHCN có đặc sắc Trung Quốc, đồng thời đề ra mục tiêu lâu dài và
ngắn hạn của cải cách thể chế chính trị.
Đại hội XIV (1992) và Đại hội XV (1997) đã phân tích một cách
sâu sắc và định ra quy hoạch rõ ràng về cải cách thể chế chính trị. Báo cáo
(

1) Cải cách thể chế chính trị, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 68.

8


chính trị tại Đại hội XV chỉ rõ: Tiếp tục thúc đẩy cải cách thể chế chính trị,
mở rộng hơn nữa dân chủ XHCN, kiện toàn pháp chế XHCN, dựa vào luật
mà trị nước, xây dựng Nhà nước pháp trị XHCN. Đây là lần đầu tiên, Đảng
Cộng sản Trung Quốc thống nhất một cách hữu cơ giữa cải cách thể chế
chính trị và xây dựng nhà nước pháp trị XHCN, chỉ ra nhiệm vụ căn bản và
mô hình, mục tiêu của cải cách thể chế chính trị ở Trung Quốc.
b) Những nhiệm vụ chủ yếu của cải cách thể chế chính trị
Đại hội XV (1997) đề ra nhiệm vụ chủ yếu của cải cách thể chế

chính trị là: Phát triển dân chủ, tăng cường pháp chế, thực hiện chính quyền
và xí nghiệp tách rời nhau, tinh giản bộ máy, hoàn thiện chế độ giám sát
dân chủ, duy trì ổn định, đoàn kết.
- Về kiện toàn chế độ dân chủ, Báo cáo chính trị tại Đại hội XV
khẳng định: Đảng cộng sản cầm quyền chính là lãnh đạo và ủng hộ nhân
dân nắm quyền quản lý nhà nước, thực hiện bầu cử dân chủ, quyết sách dân
chủ, quản lý dân chủ và giám sát dân chủ, bảo đảm cho nhân dân dựa vào
pháp luật hưởng các quyền lợi và tự do rộng rãi, tôn trọng và bảo đảm nhân
quyền. Phát huy dân chủ XHCN, chế độ càng phải có tính căn bản, tính
toàn cục, ổn định và lâu dài.
Đối với chế độ Đại hội đại biểu nhân dân: Kiên trì và hoàn thiện
chế độ Đại hội đại biểu nhân dân, bảo đảm cho Đại hội Đại biểu nhân dân
và Ban thường vụ của nó dựa vào pháp luật thực hiện chức năng của cơ
quan quyền lực nhà nước, tăng cường công tác lập pháp và giám sát, liên hệ
mật thiết giữa đại biểu nhân dân với nhân dân; Phải kết hợp chặt chẽ giữa
lập pháp với những quyết sách quan trọng của cải cách và phát triển, dần
dần hình thành cơ chế quyết sách hiểu rõ dân tình, phản ánh đầy đủ ý kiến
của nhân dân, tập trung rộng rãi trí tuệ của nhân dân.
Đối với chế độ hợp tác nhiều đảng: kiên trì và hoàn thiện chế độ
hợp tác nhiều đảng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và chế độ hiệp
thương chính trị.

9


Trong quá trình kiện toàn chế độ dân chủ, Đảng Cộng sản Trung
Quốc rất coi trọng việc mở rộng dân chủ ở cơ sở. Quan điểm của Đảng
Cộng sản Trung Quốc là: Mở rộng dân chủ ở cơ sở, bảo đảm cho quần
chúng nhân dân trực tiếp thực hiện quyền dân chủ, dựa vào pháp luật quản
lý công việc của mình, tạo nên cuộc sống hạnh phúc cho mình, đó chính là

thực tiễn rộng rãi nhất của nền dân chủ XHCN. Các cơ quan chính quyền
cơ sở và tổ chức chính trị quần chúng cơ sở ở thành thị và nông thôn đều
phải kiện toàn chế độ bầu cử dân chủ, thực hiện công khai các công việc,
tài vụ công khai để quần chúng tham gia thảo luận và quyết định các công
việc chung.
- Về nhiệm vụ tăng cường pháp chế: Tăng cường công tác lập pháp,
nâng cao chất lượng lập pháp, đến năm 2010 hình thành hệ thống pháp luật
XHCN có đặc sắc Trung Quốc; bảo vệ sự tôn nghiêm của Hiến pháp và
pháp luật, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; tăng cường ý thức
pháp luật của toàn dân, kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng pháp chế với văn
minh tinh thần.
- Về nhiệm vụ cải cách bộ máy chính quyền: Đây là một nội dung
quan trọng của cải cách thể chế chính trị. Nhiệm vụ cải cách bộ máy là phải
căn cứ theo yêu cầu của kinh tế thị trường XHCN, chuyển biến chức năng
của Chính phủ, thực hiện chính quyền và xí nghiệp tách rời nhau, giao
quyền quản lý sản xuất kinh doanh cho xí nghiệp; Căn cứ vào nguyên tắc
tinh giản, thống nhất, hiệu quả mà tiến hành cải cách bộ máy, xây dựng hệ
thống hành chính làm việc hiệu quả cao; Đi sâu cải cách thể chế hành
chính, thực hiện quy hoạch hóa trình tự tổ chức, chức năng, biên chế, trình
tự công tác của bộ máy nhà nước, khống chế chặt chẽ việc bộ máy phình
to, kiên quyết cắt giảm nhân viên; Đi sâu cải cách chế độ nhân sự, chấp
nhận cơ chế khuyến khích cạnh tranh, hoàn chỉnh chế độ công vụ viện, xây
dựng đội ngũ cán bộ quản lý hành chính nhà nước chuyên nghiệp hóa có
trình độ cao.
- Về nhiệm vụ hoàn thiện chế độ giám sát dân chủ:
10


Báo cáo chính trị tại Đại hội XV nêu rõ: quyền lực thuộc về nhân
dân, chịu sự giám sát của nhân dân và pháp luật; Đi sâu cải cách hoàn thiện

pháp chế giám sát, xây dựng kiện toàn cơ chế dựa vào luật pháp chế ước
quyền lực; Kiên trì nguyên tắc công bằng, công chính, công khai, các
ngành trực tiếp liên quan đến lợi ích thiết thân của quần chúng đều phải
thực hiện chế độ công khai làm việc; kết hợp chặt chẽ giám sát trong Đảng,
giám sát của pháp luật và giám sát của quần chúng, phát huy vai trò của
giám sát dư luận; Tăng cường sự giám sát đối với việc thực thi Hiến pháp
và pháp luật, duy trì pháp chế thống nhất của Nhà nước; Tăng cường sự
giám sát đối với việc quán triệt phương châm chính sách của Đảng và Nhà
nước, bảo đảm chính lệnh thông suốt; Tăng cường sự giám sát đối với cán
bộ (nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp), đề phòng lợi dụng quyền lực, trừng trị
nghiêm khắc phạm pháp...
Tóm lại: Bằng việc nêu lên những nhiệm vụ căn bản của cải cách
thể chế chính trị, Đại hội XV Đảng Cộng sản Trung Quốc đã góp phần
thúc đẩy công cuộc cải cách thể chế chính trị của Trung Quốc bước sang
giai đoạn mới trên tiến trình thực hiện mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp
trị XHCN.
II. NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ CỦA CẢI CÁCH THỂ CHẾ
CHÍNH TRỊ Ở TRUNG QUỐC

1. Những thành tựu bước đầu
Từ Hội nghị Trung ương 3 khóa XI (1978) đến nay, công cuộc cải
cách thể chế chính trị ở Trung Quốc đã đạt những thành tựu bước đầu, thể
hiện trên một số lĩnh vực:
a) Cải cách thể chế lãnh đạo Đảng
- Tình trạng tổ chức của Đảng bao biện, làm thay trong các cơ quan
hành chính sự nghiệp đã thay đổi một cách căn bản. Trong các doanh nghiệp
thực hiện chế độ phụ trách của giám đốc, còn trong các đơn vị sự nghiệp
thực hiện chế độ phụ trách của người lãnh đạo hành chính dưới sự lãnh đạo
11



của Đảng ủy. Đảng ủy các cấp và tổ chức cơ sở của Đảng trong các cơ
quan nhà nước không lãnh đạo công tác nghiệp vụ của các đơn vị này.
Về quan hệ giữa Đảng với các cơ quan nhà nước và các tổ chức
khác, đã thay đổi tình trạng chức trách không rõ ràng trước đây, bước đầu
làm hài hòa mối quan hệ giữa Đảng với các cơ quan lập pháp, cơ quan hành
chính, cơ quan tư pháp của nhà nước và các đoàn thể quần chúng, các đơn
vị và doanh nghiệp cùng với các đoàn thể quần chúng, các đơn vị và doanh
nghiệp cùng với các tổ chức xã hội khác, mỗi cơ quan có chức trách riêng;
đồng thời định rõ Đảng phải hoạt động trong phạm vi Hiến pháp, pháp luật.
Về vấn đề dân chủ trong Đảng, cũng có những cải cách quan trọng:
Đã xây dựng được chế độ lãnh đạo tập thể, chế độ giám sát và chế độ bầu
cử. Đảng còn quy định rõ ràng những vấn đề quan trọng cần phải căn cứ
vào tình hình thực tế đưa ra tổ chức Đảng thảo luận xem xét quyết định,
không để cho cá nhân độc đoán quyết định. Tổ chức Đảng các cấp từ Trung
ương đến địa phương đều phải thực hiện chế độ kết hợp lẫn nhau giữa lãnh
đạo tập thể với phân công phụ trách cá nhân. Ở Trung ương là cơ quan
công tác hàng ngày dưới sự lãnh đạo của Bộ Chính trị; Xây dựng chế độ
báo cáo định kỳ giữa Ban thường vụ Bộ Chính trị với Bộ Chính trị, giữa Bộ
Chính trị với Ban Chấp hành Trung ương, cùng với các quy tắc và chế độ
sinh hoạt của Bộ Chính trị, Ban Thường vụ Bộ Chính trị và Ban Bí thư
Trung ương, từ đó làm cho lãnh đạo được chế độ hóa, tăng cường sự giám
sát và chế ước đối với người lãnh đạo của Đảng. Ngoài ra, nhằm bảo đảm
việc thực hiện điều lệ Đảng và các quy định của Đảng, tăng cường sự giám
sát đối với đảng viên, Đảng ủy các cấp từ Trung ương đến địa phương đều
thành lập Ban Kiểm tra kỷ luật để thanh lọc những phần tử thoái hóa biến
chất trong tổ chức Đảng.
Theo số liệu của Tiến sĩ Đỗ Tiến Sâm - Trung tâm Nghiên cứu
Trung Quốc (Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia), trong
nhiệm kỳ từ Đại hội XIV đến Đại hội XV, cơ quan kiểm tra kỷ luật các cấp

của Đảng trong cả nước đã lập hơn 731.000 vụ án, kết án hơn 121.500
12


người, số người vừa bị khai trừ khỏi Đảng vừa chịu xử lý hình sự là 37.492
người.
Như vậy: Thời gian qua, Trung Quốc đã từng bước xóa bỏ hiện
tượng Đảng thay thế chính quyền; Vấn đề quyền lực quá tập trung cũng có
những thay đổi nhất định; Vấn đề dân chủ trong Đảng bước đầu được phát
huy. Cải cách chế độ lãnh đạo của Đảng đã góp phần nâng cao trình độ
lãnh đạo, trình độ cầm quyền của Đảng, bảo đảm cho Đảng xứng đáng
ngang tầm với thời kỳ lịch sử mới.
b) Hoàn thiện chế độ Đại hội Đại biểu nhân dân (Quốc hội)
Chế độ Đại hội Đại biểu nhân dân là chế độ chính trị căn bản của
Trung Quốc. Việc phát triển và hoàn thiện chế độ này là tiêu chí quan trọng
thể hiện mức độ dân chủ hóa đời sống chính trị của Trung Quốc. Từ sau
Hội nghị Trung ương 3 khóa XI (1978), chế độ Đại biểu nhân dân đã bước
vào thời kỳ mới, phát huy vai trò ngày càng lớn trong đời sống chính trị
Trung Quốc.
Cụ thể là:
- Bản thân chế độ Đại hội Đại biểu nhân dân đã không ngừng được
phát triển và hoàn thiện.
Về mặt xây dựng chế độ tổ chức và cơ cấu công tác, Đại hội Đại
biểu nhân dân đạt những thành tựu sau: Cải tiến và hoàn thiện chế độ bầu
cử, mở rộng phạm vi bầu cử trực tiếp đại biểu nhân dân đến cấp huyện.
Hiến pháp năm 1992 quy định Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc
được thiết lập thêm các ủy ban chuyên môn, phụ trách nghiên cứu thẩm
định các dự án có liên quan. Từ khóa VI đến khóa XI, các ủy ban chuyên
môn của Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc đã tăng từ 6 lên 9 ủy ban như
hiện nay.

- Vai trò của Đại hội Đại biểu nhân dân và Ban Thường vụ của nó
trong đời sống chính trị Trung Quốc không ngừng được tăng cường.

13


Nhiệm vụ chủ yếu của Đại hội Đại biểu nhân dân và Ban Thường
vụ của nó là lập pháp và giám sát.
+ Về công tác lập pháp: Từ năm 1979 đến tháng 12-1998, Đại hội
Đại biểu nhân dân toàn quốc và Ban Thường vụ đã thông qua được 343 văn
bản bao gồm Hiến pháp, luật và các quy định về những vấn đề có liên quan
đến pháp luật. Nhờ vậy, đời sống chính trị, kinh tế và xã hội ở Trung Quốc
đã có luật để dựa vào.
+ Về mặt giám sát: Công tác giám sát của Đại hội Đại biểu nhân dân
chủ yếu là giám sát pháp luật. Kỳ họp thứ III của Ban Thường vụ Đại hội
Đại biểu nhân dân toàn quốc khóa VIII đã thông qua văn bản "Những quy
định về tăng cường giám sát tình hình thực thi pháp luật", làm cho công tác
kiểm tra chấp hành pháp luật được quy phạm hóa, chế độ hóa thêm một bước.
c) Cải cách bộ máy Chính phủ
Từ khi cải cách mở cửa đến nay, Trung Quốc đã tiến hành bốn lần
cải cách bộ máy Chính phủ với quy mô lớn. Mỗi lần cải cách bộ máy Chính
phủ đều được triển khai trong những thời điểm mấu chốt của công cuộc cải
cách thể chế kinh tế và phát triển kinh tế.
Bốn lần cải cách này đều có một mục tiêu giống nhau là tinh giản
bộ máy, cắt giảm nhân viên, chuyển biến chức năng. Các nhà lãnh đạo
Trung Quốc coi cuộc cải cách này là một cuộc cách mạng thực sự.
- Cải cách bộ máy Chính phủ lần thứ nhất năm 1982 đạt thành quả
cụ thể là:
+ Cải cách thể chế lãnh đạo Quốc vụ viện. Số Phó Thủ tướng Quốc
vụ viện đã từ 13 người giảm xuống còn 2 người; đồng thời đặt thêm chức

danh Ủy viên Quốc vụ, Hội nghị Thường vụ Quốc vụ viện gồm Thủ tướng,
các Phó Thủ tướng, Ủy viên Quốc vụ và Tổng thư ký Quốc vụ viện.
+ Tinh giản cơ cấu và nhân viên. Bộ máy công tác của Quốc vụ
viện từ 100 người giảm xuống còn 61; nhân viên giảm từ 18 vạn xuống còn
12 vạn người.
14


+ Đổi mới đội ngũ lãnh đạo, quy định rõ số lượng chức vụ, tuổi đời
và trình độ văn hóa của ban lãnh đạo cơ quan các cấp; thực hiện phương
châm trẻ hóa, trí thức hóa và chuyên nghiệp hóa.
Tuy nhiên, cuộc cải cách bộ máy lần này do tiến hành trong hoàn
cảnh cuộc cải cách thể chế kinh tế chưa được phát triển toàn diện, cho nên
nó mới chỉ giải quyết được những vấn đề nổi cộm trước mắt, chưa có được
những đột phá thực chất.
- Năm 1988, Trung Quốc tiếp tục cải cách lần thứ hai.
Qua điều chỉnh, bộ máy công tác của Quốc vụ viện là 72 giảm
xuống còn 68 đầu mối (trong đó số Bộ và Ủy ban từ 45 giảm xuống còn 41;
bộ máy trực thuộc từ 22 giảm xuống còn 19; số cán bộ công chức giảm từ 6
vạn xuống 5 vạn người.
- Cải cách bộ máy Chính phủ lần thứ ba năm 1993 đạt kết quả là: số
Bộ, Ủy ban và cơ cấu trực thuộc Quốc vụ Viện từ 86 giảm xuống còn 59
mối, tinh giản 20% trong tổng số 48.000 cán bộ công chức của Quốc vụ viện.
- Tháng 3/1998, kỳ họp thứ nhất Đại hội đại biểu nhân dân toàn
quốc thông qua phương án cải cách quốc vụ viện. Đây được xem là bước
đột phá quan trọng trong tiến trình cải cách thể chế chính trị ở Trung Quốc.
So với những lần cải cách trước, lần này có sự thay đổi lớn, số người bị
điều chỉnh khá đông.
Trước cải cách, số các cơ quan trực thuộc và giúp việc của Quốc vụ
viện là 59 đầu mối, trong đó gồm Văn phòng Quốc vụ viện, 40 Bộ và Ủy

ban, 13 cơ quan trực thuộc, 5 văn phòng giúp việc. Sau cải cách, số cơ quan
trực thuộc và giúp việc của Quốc vụ viện giảm xuống còn 53, trong đó bao
gồm Văn phòng Quốc vụ viện, 29 Bộ và Ủy ban, 17 cơ quan trực thuộc và
6 văn phòng giúp việc khác (1).
Điều quan trọng là Đảng, Chính phủ và đông đảo nhân dân Trung
Quốc đều nhận thức được sự cấp thiết và cấp bách của vấn đề, nếu không

1) Đỗ Tiến Sâm, Hai mươi năm cải cách thể chế chính trị ở Trung Quốc, Tạp chí Nghiên cứu Trung
Quốc, số 5, 1999.
(

15


tiến hành cải cách thì cũng không còn con đường nào khác để đưa đất nước
tiếp tục tiến lên.
d) Hoàn thiện chế độ hiệp thương chính trị và hợp tác nhiều
đảng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Hội nghị Hiệp thương chính trị và chế độ hợp tác nhiều Đảng là
những trụ cột lớn của thể chế chính trị Trung Quốc.
Sau Hội nghị Trung ương 3 khóa XI (1978), hai tổ chức này ngày
càng hoàn thiện và phát huy vai trò ngày càng lớn trong đời sống chính trị
Trung Quốc. Biểu hiện cụ thể như sau:
- Tính chất, địa vị của chế độ Hiệp thương chính trị và hợp tác
nhiều Đảng được làm rõ.
Tháng 10/1992, Đại hội XIV Đảng cộng sản Trung Quốc đưa "Chế
độ Hiệp thương chính trị và hợp tác nhiều Đảng dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản" vào bản "Điều lệ Đảng cộng sản Trung Quốc"; đồng thời xác
định mục tiêu của cải cách thể chế chính trị ở Trung Quốc là: Lấy việc
hoàn thiện chế độ Đại hội đại biểu nhân dân, chế độ Hiệp thương chính trị

và hợp tác nhiều Đảng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản là nội dung chủ
yếu của cải cách thể chế chính trị, phát triển nền chính trị dân chủ XHCN.
- Tăng cường công tác Hiệp thương chính trị nhân dân.
- Ủng hộ các nhân sĩ của các đảng phái dân chủ và không đảng phái
tham gia đảm nhận chức vụ lãnh đạo của cơ quan Nhà nước. Nh vậy, Hội
nghị Hiệp thương chính trị nhân dân đã trở thành tổ chức mặt trận thống
nhất rộng rãi nhất ở Trung Quốc. Số ủy viên của tổ chức này đã lên tới 50
vạn người. Chế độ hợp tác nhiều đảng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
là một nét đặc sắc của thể chế chính trị ở Trung Quốc. Từ khi cải cách mở
cửa đến nay, Đảng cộng sản Trung Quốc thường thông qua các hình thức
như Hội nghị Hiệp thương chính trị, Hội nghị tọa đàm với nhân sĩ thuộc
các đảng phái dân chủ và nhân sĩ không đảng phái để bàn chung việc nước,
góp phần thúc đẩy quá trình dân chủ hóa chính trị ở Trung Quốc.

16


2. Những hạn chế và khó khăn đang đặt ra trong quá trình cải
cách thể chế chính trị
Hơn 20 năm qua, công cuộc cải cách thể chế chính trị ở Trung
Quốc đã đạt những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Tuy nhiên, muốn
thực hiện mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp trị XHCN, Trung Quốc vẫn
phải tiếp tục giải quyết những vấn đề rất căn bản.
a) Vấn đề "quyền lực quá tập trung"
Đây là một vấn đề lớn và rất khó giải quyết. Từ khi cải cách mở cửa
đến nay, vấn đề này vẫn chưa được giải quyết về căn bản.
Ông Đặng Tiểu Bình cho rằng hiện tượng quyền lực quá tập trung
chính là dưới khẩu hiệu tăng cường sự lãnh đạo nhất nguyên hóa của Đảng,
đã thâu tóm quyền lực vào trong tay đảng ủy, quyền lực của Đảng ủy lại
tập trung vào mấy vị Bí thư, đặc biệt là Bí thư thứ nhất. Sự lãnh đạo nhất

nguyên hóa của Đảng vì thế trở thành sự lãnh đạo của cá nhân. Vấn đề này
không được giải quyết căn bản thì sẽ dẫn đến chủ nghĩa quan liêu làm tổn
hại đến sinh hoạt dân chủ, lãnh đạo tập thể, chế độ tập trung dân chủ và chế
độ phân công phụ trách cá nhân của Đảng và chính quyền các cấp.
b) Vấn đề "Đảng và chính quyền không tách rời"
Đây là vấn đề đã tồn tại lâu dài ở Trung Quốc, đồng thời cũng là
vấn đề mấu chốt cần giải quyết trong quá trình cải cách thể chế chính trị.
Tuy nhiên, trong tiến trình cải cách thể chế chính trị trong thời gian
qua, việc cải cách này gặp khá nhiều khó khăn và trì trệ. Thậm chí những
năm trước đây ở Trung Quốc còn xuất hiện chủ trương và cách làm "hợp
nhất Đảng với chính quyền", "nhất thể hóa Đảng với chính quyền"; có ý
kiến còn cho rằng tách rời Đảng và chính quyền là không phù hợp, không
khoa học.
Hiện nay vấn đề này vẫn tiếp tục được đặt ra, song giải quyết thì
hoàn toàn không đơn giản.

17


c) Vấn đề đi từ "nhân trị" tới "pháp trị"
Trung Quốc là nước có truyền thống chuyên chế phong kiến lâu dài,
thâm căn cố đế, tàn dư của rất nặng nề.
Sau khi lập nước, mặc dù Đảng cộng sản Trung Quốc đã cầm quyền
(1949), nhưng trong một thời gian dài vẫn tồn tại nhận thức cho rằng: Pháp
luật là do con người chế định ra, cuối cùng cũng dựa vào con người để chấp
hành và tuân thủ. Do vậy, trong quan hệ giữa pháp luật với con người, cần
phải chủ yếu dựa vào con người, phát huy vai trò của con người. Do ảnh
hưởng của nhận thức này nên trong một thời gian dài, Trung Quốc coi nhẹ
việc xây dựng pháp chế XHCN, thậm chí trong gần 30 năm kể từ khi lập
nước, trong lịch sử lập pháp của Trung Quốc chỉ vẻn vẹn 2 bộ luật là bản

Hiến pháp và Luật hôn nhân. Thời kỳ Cách mạng văn hóa, Hiến pháp cũng
bị chà đạp nghiêm trọng, cuối cùng không còn luật pháp, xã hội rối loạn,
kinh tế đình trệ. Bi kịch của cách mạng văn hóa không rời tình trạng một
thời gian dài Trung Quốc coi nhẹ dân chủ, xem thường pháp luật.
Việc chuyển từ "Nhà nước nhân trị" sang xây dựng "nhà nước pháp
chế" và cuối cùng là xây dựng "nhà nước pháp trị" đánh dấu sự thay đổi
phương thức cầm quyền của Đảng cộng sản Trung Quốc, đồng thời chứng
tỏ Đảng cộng sản Trung Quốc đã nhận thức và nắm vững một cách sâu sắc
địa vị, chức năng và vai trò của pháp luật trong quá trình hiện đại hóa đất
nước.
Tuy nhiên, đi từ "nhân trị" tới "pháp trị" không phải đơn thuần là
thay đổi khái niệm, mà là một quá trình chuyển đổi từ thể chế "nhân trị" tập
quyền cao độ của cá nhân sang thể chế "pháp trị" dân chủ. Nó đòi hỏi phải
lấy xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật làm cơ sở. Thực tiễn cho
thấy, công tác lập pháp của Trung Quốc thời gian qua tuy đã đạt những
thành tựu tương đối lớn, nhưng so với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp trị
thì vẫn còn nhiều điều bất cập: Một số luật cần phải chế định nhưng vẫn
chưa ra đời, làm cho nhiều lĩnh vực đòi hỏi pháp luật quy phạm vẫn bị bỏ
trống, nhất là một số lĩnh vực của kinh tế thị trường vẫn chưa có luật để
18


dựa vào; Trong một số bộ luật hiện hành vẫn còn mang theo màu sắc của
kinh tế kế hoạch, ngày càng tỏ ra không thích ứng với yêu cầu phát triển
của kinh tế, chính trị hiện nay; một số luật do hạn chế về điều kiện lập
pháp, chưa tính đến yêu cầu phải tiếp cận với nền kinh tế thế giới, nên tồn
tại tình trạng không ăn nhập hoặc mâu thuẫn với tập quán thông lệ của thế
giới v.v...
Như vậy: Tăng cường công tác lập pháp, bao gồm chế định, sửa đổi
và hoàn thiện hệ thống pháp luật đã và đang đặt ra như một yêu cầu bức

thiết của cải cách thể chế chính trị hiện nay ở Trung Quốc.
d) Vấn đề cải cách bộ máy: Tinh giản cơ cấu, cắt giảm nhân viên,
chuyển biến chức năng của chính quyền các cấp
Như đã trình bày, từ khi cải cách mở cửa đến nay, Trung Quốc đã
tiến hành 4 lần cải cách bộ máy Chính phủ. Ba lần cải cách quy mô tương
đối lớn diễn ra vào năm 1982, 1988 và 1983; lần cải cách năm 1998 được
coi là có quy mô lớn nhất, mức độ lớn nhất, song kết quả đều không
được lý tưởng.
Thực tế, Trung Quốc đang phải đối mặt với không ít khó khăn và
thách thức:
- Một trở lực không thể xem thường là số người hưởng lợi ích và có
thế lực vẫn tồn tại khách quan. Nếu họ chưa thông thì sẽ chống lại, trở
thành lực cản ngày càng lớn. Mấy lần cải cách trước vì vấp phải lực cản lớn
nên cuối cùng trở lại điểm ban đầu.
Bên cạnh đó, vấn đề sắp xếp nhân viên dôi thừa cũng đang đặt ra.
Nếu không sắp xếp công việc cho số cán bộ bị tinh giản, tỷ lệ thất nghiệp bị
tăng lên sẽ dễ dẫn tới sự mất ổn định kinh tế - xã hội.
- Một trở lực khác là vấn đề chuyển biến chức năng của Chính phủ:

19


Theo các nhà khoa học Trung Quốc, cải cách bộ máy là phải điều
chỉnh và hợp lý hóa các chức năng quyền hạn của Chính phủ. Sau cải cách,
bộ máy có rất nhiều cơ quan bị sát nhập hoặc thu hẹp lại. Nếu chức năng
vẫn như cũ, vẫn là bao biện tất cả, như vậy cải cách vẫn đi theo lối mòn cũ.
Vì vậy, cải cách bộ máy không chỉ dừng lại ở sự thay đổi về lượng mà
quan trọng hơn là sự thay đổi về chất. Cơ sở kinh tế đã biến thành kinh tế
thị trường, thì Chính phủ với tư cách là kiến trúc thượng tầng cũng phải
xác định lại chức năng của mình. Các căn bệnh của Chính phủ như cơ cấu

phình to, nhân viên thừa thãi, hiệu quả thấp vẫn chưa được chữa trị một
cách căn bản.
III. NHỮNG KINH NGHIỆM CHỦ YẾU CỦA CẢI CÁCH THỂ CHẾ
CHÍNH TRỊ Ở TRUNG QUỐC VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC ĐỔI
MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM

1. Những kinh nghiệm chủ yếu
Thực tiễn hơn 20 năm tiến hành cải cách thể chế chính trị, Trung
Quốc đã để lại những kinh nghiệm sau:
a) Khi tiến hành cải cách thể chế chính trị cần xác định rõ tính
chất chất, nội dung và phương thức thực hiện
Về tính chất, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã xác định rõ: Cải cách
thể chế chính trị là tự hoàn thiện chế độ XHCN.
Về nội dung, ngay từ tháng 9/1996, ông Đặng Tiểu Bình đã nêu lên
3 nội dung của cải cách thể chế chính trị: Đầu tiên là Đảng và chính quyền
phải tách rời, giải quyết vấn đề Đảng thiên về lãnh đạo như thế nào. Nội
dung thứ hai là quyền lực phải hạ phóng, giải quyết vấn đề quan hệ giữa
Trung ương và địa phương, đồng thời các cấp địa phương cũng có vấn đề
quyền lực. Nội dung thứ ba là tinh giản cơ cấu.
Về phương thức tiến hành, các nhà lãnh đạo Trung Quốc cho rằng:
Cải cách thể chế chính trị vừa phải kiên quyết, lại phải thận trọng, tiến hành
20


có trật tự dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bởi vì cải cách thể chế chính trị là
một sự nghiệp hoàn toàn mới mẻ, nếu không mạnh dạn tìm tòi, kiên quyết
thử nghiệm thì không thể thành công được.
Cải cách thể chế chính trị không phải là làm thay đổi chế độ chính
trị cơ bản của CNXH ở Trung Quốc, mà là hoàn thiện chế độ đó. Cho nên,
cải cách cần phải được tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng, phải được tiến

hành có kế hoạch, có trật tự trong một môi trường chính trị ổn định.
b) Cải cách thể chế chính trị phải phối hợp với cải cách thể chế
kinh tế, phục vụ cho mục tiêu phát triển sức sản xuất và xây dựng hiện đại
hóa
Cải cách thể chế chính trị cũng như cải cách thể chế kinh tế đều
được bắt đầu tư Hội nghị Trung ương 3 khóa IX (1978). Tuy nhiên, thời
gian đầu công cuộc cải cách ở Trung Quốc nghiêng về cải cách thể chế
kinh tế, chủ yếu là cải cách nông thôn, còn cải cách thể chế chính trị chưa
được đưa vào chương trình của toàn Đảng với những nhiệm vụ cụ thể. Đến
năm 1984, khi cải cách thể chế kinh tế được triển khai toàn diện và ngày
càng đi sâu, nó đặt ra những yêu cầu bức thiết phải cải cách thể chế chính
trị.
Cải cách thể chế chính trị và cải cách thể chế kinh tế phải thích ứng
với nhau, dựa vào nhau, phối hợp với nhau. Điều đó thể hiện ở chỗ: Mộtlà
về mặt nội dung hoặc thực chất, hai cuộc cải cách này phải thống nhất với
nhau, thúc đẩy nhau chứ không phải mâu thuẫn nhau. Hai là trong tiến trình
thực hiện, cải cách thể chế chính trị và cải cách thể chế kinh tế phải đồng
bộ với nhau thì mới bảo đảm sự phối hợp với nhau, thúc đẩy nhau về mặt
nội dung.
c) Phát triển dân chủ phải dưới tiền đề chính trị ổn định, không
chạy theo dân chủ hình thức, không rập khuôn theo mô hình phương Tây
Sau Đại hội XIII Đảng cộng sản Trung Quốc, các nhà lãnh đạo
Trung Quốc chủ trương đẩy nhanh tiến trình cải cách thể chế chính trị.

21


Tuy nhiên, công cuộc cải cách thể chế chính trị ở Trung Quốc đang
được tiến hành thì phải đối mặt với những thử thách to lớn của tình hình
trong nước và ngoài nước. Đó là sự kiện Thiên An Môn mùa hè 1989 và

biến động chính trị mang tính lịch sử ở Liên Xô, Đông Âu 1991. Đứng
trước trào lưu đòi hỏi phủ định sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, phủ định
chế độ XHCN, ông Đặng Tiểu Bình đã nêu lên những luận điểm quan trọng
về cải cách thể chế chính trị ở Trung Quốc, trong đó nhấn mạnh vấn đề ổn
định chính trị trên cơ sở phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân.
Đại hội XV năm 1997, trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, đã
xác định mục tiêu của cải cách thể chế chính trị ở Trung Quốc là xây dựng
nền chính trị dân chủ XHCN có đặc sắc Trung Quốc. Nêu lên mục tiêu này,
Đảng cộng sản Trung Quốc muốn khẳng định rằng nền dân chủ mà Trung
Quốc xây dựng là nền dân chủ mang tính chất XHCN, là nền dân chủ mà
quảng đại quần chúng nhân dân được hưởng, chứ không phải là nền dân
chủ của giai cấp tư sản, dân chủ của chủ nghĩa cá nhân hoặc dân chủ của
chủ nghĩa vô chính phủ. Muốn vậy, phát triển dân chủ cần phải tôn trọng
kinh nghiệm thực tiễn và sự sáng tạo của quần chúng, cần phải tiến hành
đồng thời với việc tăng cường xây dựng pháp chế, dựa vào pháp luật bảo
đảm và thúc đẩy dân chủ. Bởi vì kinh nghiệm lịch sử ở Trung Quốc đã cho
thấy rằng việc xây dựng dân chủ XHCN là rất quan trọng, nhưng vẫn phải
có một cơ chế bảo đảm cho việc xây dựng đó. Nếu không dân chủ XHCN
cũng khó mà thực hiện được, thậm chí có thể còn bị phá hoại nghiêm trọng.
Tóm lại, hơn 20 năm qua, nhờ không ngừng tìm tòi lý luận và
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, công cuộc cải cách thể chế chính trị của
Trung Quốc bước đầu đã đạt những thành tựu rất quan trọng, đặt nền
móng cho việc xây dựng nền chính trị dân chủ có đặc sắc Trung Quốc.
Mặc dù còn nhiều hạn chế và khó khăn nhất định, nhưng những kinh
nghiệm chủ yếu được rút ra từ cải cách thể chế chính trị ở Trung Quốc
trong thời gian qua rất xứng đáng được chúng ta tiếp tục tìm hiểu, nghiên
cứu và tham khảo.

22



2. Ý nghĩa đối với việc đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam
Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay gồm có Đảng cộng sản, Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội, hoạt
động theo cơ chế bảo đảm quyền lực của nhân dân lao động dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Hệ thống chính trị được tổ chức chặt chẽ, có chức năng,
nhiệm vụ rõ ràng, phối hợp hoạt động nhịp nhàng thì quyền lực c ủa nhân
dân được thực hiện, lợi ích của nhân dân bảo đảm, xã hội phát triển.
Trong thời gian qua, thực tế hoạt động của hệ thống này đã bộc lộ
những nhược điểm mà biểu hiện của nó là sự bao biện, chồng chéo chức
năng, nhiệm vụ giữa các tổ chức Đảng, Nhà nước ở các cấp các ngành; là
sự lẫn lộn giữa bộ máy lãnh đạo và quản lý; giữa quản lý hành chính nhà
nước với quản lý sản xuất kinh doanh; là quá trình hành chính hóa Đảng
và các đoàn thể nhân dân; là tệ quan liêu, tham nhũng ngày càng trầm
trọng. Những biểu hiện tiêu cực này làm suy yếu hệ thống chính trị. Bởi
vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định sự cần thiết phải đổi mới hệ
thống chính trị.
a) Trước hết, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ nội dung,
phương hướng cụ thể của việc đổi mới kiện toàn hệ thống chính trị
- Về Đảng: Đảng có sứ mệnh lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời
là bộ phận của hệ thống ấy, thường xuyên chịu sự kiểm soát của nhân dân.
Vì vậy phải làm cho Đảng luôn xứng đáng là một Đảng cách mạng theo
chủ nghĩa Mác - Lênin, vững mạnh về tư tưởng chính trị và tổ chức, có
kinh nghiệm và bản lĩnh, không phạm sai lầm về đường lối, gắn bó máu
thịt với nhân dân, nêu tấm gương sáng cho nhân dân về trí tuệ và đạo đức,
xứng đáng là Đảng cầm quyền.
- Về xây dựng Nhà nước
Để Nhà nước ta là một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân,
một Nhà nước trong sạch vững mạnh, có hiệu lực và hiệu quả, phải thực


23


hiện đồng bộ các nhiệm vụ: đổi mới, nâng cao chất lượng công tác lập pháp
và giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Cải cách nền hành chính nhà nước bao gồm cải cách thể chế hành
chính, tổ chức bộ máy và kiện toàn bộ máy cán bộ công chức; cải cách tổ
chức và hoạt động tư pháp.
Một trong những quan điểm cơ bản của Đảng ta làm cơ sở cho việc
thực hiện nhiệm vụ trên đây là quan điểm về tăng cường pháp chế, xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Về xây dựng khối đoàn kết toàn dân:
Thành bại của chế độ là do dân có ủng hộ và bảo vệ hay không. Do
vậy phải chăm lo xây dựng khối đoàn kết đó mà nòng cốt là liên minh công
nông trí thức. Đây là cơ sở xã hội của Đảng, của Nhà nước, là sự quyết
định cho sự bền vững hay sụp đổ của thể chế. Mất dân là mất tất cả. Đó là
bài học lịch sử về sự đổ vỡ của Liên Xô và Đông Âu.
b) Ổn định và phát triển kinh tế phải gắn liền với tăng cường ổn
định chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước
đổi mới chính trị
Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới tư
duy về chính trị trong việc hoạch định đường lối và các chính sách đối nội,
đối ngoại. Không có sự đổi mới đó thì không có mọi sự đổi mới khác.
Song, Đảng ta đã đúng khi tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng kinh tế xã hội, tạo tiền
đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng
và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác
của đời sống xã hội.
c) Không ngừng hoàn thiện và phát huy dân chủ XHCN
Xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN là một trong những

điều kiện góp phần tạo sự ổn định chính trị xã hội.

24


Ở nước ta, trong 15 năm đổi mới, quá trình dân chủ hóa mọi mặt
đời sống xã hội đã đạt nhiều kết quả quan trọng. Bầu không khí dân chủ
bước đầu đã được khởi sắc. Tuy nhiên, xét về nhiều mặt, nền dân chủ ở
nước ta vẫn còn trong quá trình tìm tòi, thử nghiệm. Trong thực tế, quyền
làm chủ của nhân dân vẫn bị vi phạm, thậm chí bị và phạm nghiêm trọng,
kéo dài, chậm được khắc phục. Tình trạng này nếu cứ tiếp tục kéo dài sẽ
ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định chính trị xã hội.
Vì vậy, ổn định chính trị - xã hội không thể không gắn với quá trình
hoàn thiện và phát huy dân chủ XHCN. Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục
khẳng định phương hướng cơ bản của việc đổi mới hệ thống chính trị và
thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội ở Việt Nam. Trong điều kiện CNXH
bị khủng hoảng, kẻ thù tăng cường diễn biến hòa bình, Việt Nam đã thận
trọng, làm từng bước không gây rối loạn xã hội, không làm mất phương
hướng chính trị, dựa trên sự đổi mới có hiệu quả về kinh tế góp phần ổn
định, phát triển xã hội.

25


×