Tải bản đầy đủ (.doc) (141 trang)

luận văn thạc sĩ - THAM NHŨNG TRONG đầu tư xây DỰNG BẰNG NGUỒN vốn NHÀ nước THỰC TRẠNG và GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA của lực LƯỢNG CẢNH SÁT ĐIỀU TRA TỘI PHẠM VỀ QUẢN LÝ KINH TẾ và CHỨC VỤ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (549.5 KB, 141 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự nghiệp đổi mới về kinh tế ở nước ta đã tạo nên những thay đổi sâu
sắc trong lĩnh vực đầu tư xây dựng. Ngành xây dựng đã thực sự góp phần tạo
nên vóc dáng mới của đất nước với nhiều công trình hiện đại, góp phần tích
cực và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, bên
cạnh những thành tựu to lớn đó, trong lĩnh vực này đang tồn tại nhiều vấn đề
bức xúc. Một trong những vấn đề đó là nạn tham nhũng, tiêu cực, lãng phí,
tình trạng này diễn ra phổ biến và phức tạp ở hầu hết các công trình xây dựng,
gây ra những hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt, gây bất bình trong dư luận
xã hội. Theo báo cáo của Thanh tra Chính phủ, trong năm 2005 đã kết thúc
17.112 cuộc thanh tra, kiểm tra, phát hiện sai phạm 8.786 tỷ đồng, kiến nghị
xử lý kỷ luật hành chính hơn 1.000 người, chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra
xử lý 65 vụ với 112 người có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự. Trong quý
I/2006, đã tiến hành 800 cuộc thanh tra, phát hiện sai phạm kinh tế 169,496 tỷ
đồng, kiến nghị xử lý kỷ luật 109 trường hợp, chuyển hồ sơ sang cơ quan điều
tra 11 vụ việc. Tổng hội Xây dựng Việt Nam báo cáo về 59 công trình xây
dựng có biểu hiện lãng phí thất thoát cho thấy, có 27% số công trình chất lượng
kém phải bổ sung kinh phí mới sử dụng được; 36% các công trình không sử
dụng được do chọn địa điểm xây dựng không thích hợp; 25% các công trình do
quyết toán khống làm thất thoát gần 300 tỷ đồng. Điều đó đặt ra yêu cầu cho
các cơ quan bảo vệ pháp luật cần tập trung mọi nỗ lực để đấu tranh ngăn chặn
tình trạng này, đây là vấn đề rất cấp thiết và là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Trong những năm qua, lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự
quản lý kinh tế và chức vụ (gọi tắt là Cảnh sát điều tra tội phạm kinh tế) cả
nước đã có nhiều cố gắng trong công tác phòng ngừa, đấu tranh nạn tham



2

nhũng trong lĩnh vực đấu tranh xây dựng, thu hồi số lượng tài sản lớn cho
Nhà nước. Tuy nhiên so với tình hình mà dư luận xã hội đã phản ánh thì kết
quả đó chưa đáp ứng được yêu cầu.
Do tính đặc thù của hoạt động xây dựng cơ bản nên việc phòng ngừa,
phát hiện, điều tra khám phá tội phạm này thường gặp nhiều khó khăn. Đối
tượng phạm tội tham nhũng trong xây dựng cơ bản thường là những người có
chức vụ, quyền hạn trong quản lý tài sản, có mối quan hệ với những người có
chức quyền trong bộ máy nhà nước cùng thông đồng, móc ngoặc với những
thủ đoạn tinh vi để chiếm đoạt tài sản của Nhà nước.
Trong khi đó hoạt động phát hiện, điều tra khám phá tội phạm này của
lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm kinh tế (CSĐT TPKT) còn gặp nhiều
khó khăn, bất cập. Các biện pháp phòng ngừa cũng như các biện pháp phát
hiện, điều tra loại tội phạm này chưa phát huy hết vai trò, tác dụng. Mặt khác,
trong quá trình điều tra phát hiện, thu thập tài liệu, chứng cứ thường rất khó
khăn và phức tạp vì phải qua công tác giám định công trình xây dựng. Trong
khi đó nhiều phần của công trình xây dựng lại nằm sâu trong lòng đất, dưới
nước do đó để giám định được công trình là rất khó khăn.
Về phương diện lý luận, hoạt động phòng ngừa, đấu tranh chống tham
nhũng trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước chưa được nghiên
cứu một cách đầy đủ, toàn diện và hệ thống nên đã tác động tiêu cực đến hoạt
động thực tiễn của lực lượng CSĐT TPKT trong phòng ngừa, đấu tranh chống
tội phạm tham nhũng ở lĩnh vực này. Do vậy, đây là một vấn đề cần quan tâm
nghiên cứu.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: "Tham nhũng
trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước - Thực trạng và giải
pháp phòng ngừa, đấu tranh của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về
trật tự quản lý kinh tế và chức vụ" làm đề tài luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ luật

học của mình.


3

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm làm rõ những vấn đề lý luận
cơ bản về phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng trong đầu tư xây dựng;
đánh giá thực trạng tình hình tội phạm tham nhũng trong đầu tư xây dựng bằng
nguồn vốn nhà nước những năm gần đây và hoạt động phòng ngừa, đấu tranh
chống loại tội phạm này của lực lượng CSĐT TPKT. Trên cơ sở đó, tìm ra
nguyên nhân, điều kiện tồn tại của tình trạng tham nhũng trong đầu tư xây dựng,
đồng thời đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu
tranh chống tham nhũng trong đầu tư xây dựng của lực lượng CSĐT TPKT.
- Để đạt được mục đích đó, nhiệm vụ đặt ra của đề tài là:
+ Khái quát những vấn đề lý luận để làm rõ nhận thức về tội phạm tham
nhũng trong đầu tư xây dựng và hoạt động phòng ngừa, đấu tranh chống loại
tội phạm này của lực lượng CSĐT TPKT;
+ Nghiên cứu, khảo sát, đánh giá tình hình tội phạm tham nhũng trong lĩnh
vực đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước và thực trạng hoạt động phòng
ngừa, đấu tranh của lực lượng CSĐT TPKT, xác định những khó khăn, vướng
mắc và hạn chế của lực lượng CSĐT TPKT trong tổ chức thực hiện các hoạt
động đó;
+ Đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng
ngừa, đấu tranh chống tội phạm loại tội phạm này của lực lượng CSĐT
TPKT.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là lý luận về tội phạm hoạt động
phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm tham nhũng trong lĩnh vực đầu tư xây
dựng; thực trạng tình hình tội phạm tham nhũng trong lĩnh vực đầu tư xây

dựng bằng nguồn vốn nhà nước và hoạt động của lực lượng CSĐT TPKT
trong phòng ngừa, đấu tranh chống loại tội phạm này.


4

- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu thực trạng tình hình tội
phạm tham nhũng trong đầu tư xây dựng và hoạt động phòng ngừa, đấu tranh
của lực lượng CSĐT TPKT. Nghiên cứu khảo sát lấy số liệu từ năm 2001 đến
năm 2006.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với hệ thống những
quan điểm của Đảng, Nhà nước và ngành Công an trong đấu tranh phòng
chống tội phạm. Quá trình nghiên cứu đề tài tác giả sử dụng các phương pháp
cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp tổng kết thực tiễn, nghiên cứu điển hình.
- Phương pháp chuyên gia, trao đổi tọa đàm... và sử dụng các phương
pháp điều tra xã hội học khác.
6. Tình hình nghiên cứu
Đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong đầu tư xây dựng hiện nay
đang là vấn đề bức xúc của toàn xã hội, là đề tài được nhiều nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, dưới nhiều góc độ khác nhau các đề tài mới
chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề có liên quan đến công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm kinh tế nói chung và một số loại tội phạm cụ thể nói
riêng trong lĩnh vực đấu tranh xây dựng cơ bản (XDCB) và đưa ra được một
số giải pháp cho công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này. Đã có
một số công trình nghiên cứu về công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm

tham nhũng ở các khía cạnh khác nhau, trong đó đáng lưu ý là các công trình:
Tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng (Viện Khoa học Công an, Hà
Nội, năm 1997); Thực trạng tham nhũng trong lĩnh vực đầu tư xây dựng và


5

giải pháp phòng ngừa đấu tranh, Cục Cảnh sát kinh tế (CSKT), 1998; Nâng
cao hiệu quả hoạt động điều tra tội phạm tham nhũng của lực lượng Cảnh sát
điều tra Công an tỉnh Vĩnh Phúc, luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Ngọc
Phi và một số bài báo viết về vấn đề này.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu cho thấy các công trình đó đã giải quyết
được một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác đấu tranh phòng, chống
tội phạm tham nhũng trong đầu tư xây dựng ở những khía cạnh khác nhau. Cụ
thể là, có công trình nghiên cứu đề cập dưới góc độ của lực lượng CSKT
trước đây (lực lượng trinh sát), có công trình nghiên cứu dưới góc độ của
CSĐT (điều tra theo tố tụng) nhưng từ khi Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự
năm 2004 có hiệu lực đến nay chưa có công trình nào đề cập một cách sâu
sắc, có hệ thống và toàn diện về hoạt động phòng ngừa, đấu tranh chống tội
phạm tham nhũng trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước theo chức
năng của lực lượng CSĐT TPKT theo hướng gắn điều tra trinh sát với điều tra
tố tụng.
7. Những đóng góp mới của đề tài
Về lý luận, luận văn sẽ làm rõ thêm và bổ sung nhận thức lý luận về
tội phạm tham nhũng trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước; lý
luận về hoạt động phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm tham nhũng trong
lĩnh vực này.
Những kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm tham nhũng trong đầu tư xây dựng
bằng nguồn vốn nhà nước của lực lượng CSĐT TPKT trong tình hình hiện

nay. Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc
nghiên cứu, học tập trong các trường đào tạo lực lượng Cảnh sát nhân dân
(CSND).
8. Bố cục của đề tài


6

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được cấu trúc thành 3 chương, 6 tiết.


7

Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ THAM NHŨNG TRONG ĐẦU TƯ XÂY
DỰNG BẰNG NGUỒN VỐN NHÀ NƯỚC VÀ HOẠT ĐỘNG PHÒNG
NGỪA, ĐẤU TRANH CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT ĐIỀU TRA TỘI
PHẠM VỀ TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ VÀ CHỨC VỤ
1.1. Nhận thức về đầu tư xây dựng và tội phạm tham nhũng trong
đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước
1.1.1. Nhận thức về đầu tư xây dựng và những đặc điểm cơ bản của
lĩnh vực đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước liên quan đến công
tác đấu tranh phòng, chống tội phạm tham nhũng của lực lượng Cảnh sát
điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ
Nghiên cứu các văn bản pháp luật về quản lý đầu tư và xây dựng, cho
thấy: đầu tư và xây dựng là hai phạm trù khác nhau nhưng có quan hệ gắn bó
với nhau. Đầu tư là việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở
vật chất nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải
tiến, nâng cao chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác

định. Xây dựng là việc sử dụng vốn để tạo mới các công trình phục vụ cho
các hoạt động kinh tế - xã hội như: cầu, đường, nhà máy, xí nghiệp, các công
trình thủy lợi, cơ quan, trường học, bệnh viện... Công trình xây dựng là sản
phẩm của công nghệ xây lắp gắn liền với đất đai (bao gồm cả khoảng không,
mặt nước, mặt biển, thềm lục địa) được tạo thành bằng vật liệu xây dựng,
thiết bị và lao động, đồng thời, đó cũng là kết quả sử dụng vốn đầu tư cho công
trình xây dựng.
Như vậy, đầu tư xây dựng là toàn bộ quá trình sử dụng các nguồn vốn
gắn với quá trình xây dựng các công trình phục vụ cho sản xuất, kinh doanh và
cho các hoạt động khác của nền kinh tế xã hội. Đầu tư - xây dựng là lĩnh vực bao
gồm nhiều giai đoạn được tiến hành theo trình tự thống nhất rất chặt chẽ từ lập


8

dự án, khảo sát, thiết kế, đấu thầu, thi công xây lắp cho đến nghiệm thu đưa
công trình vào khai thác sử dụng. Tất cả các giai đoạn này đều có mối liên hệ
chặt chẽ với nhau. Nghiên cứu các mối liên hệ đó có ý nghĩa rất quan trọng
đối với công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng của lực lượng CSĐT
TPKT.
Đầu tư - xây dựng là lĩnh vực kinh tế với những đặc điểm đặc thù, là yếu
tố tác động đến hoạt động phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm kinh tế nói
chung và tội phạm tham nhũng nói riêng trong lĩnh vực này của lực lượng CSĐT
TPKT. Vì vậy, trong phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng ở lĩnh vực này,
việc nghiên cứu nắm vững các đặc điểm đặc trưng của nó là rất cần thiết đối với
lực lượng CSĐT TPKT. Trong đó, chúng ta cần chú ý tới những đặc điểm cơ
bản sau đây:
- Thứ nhất, vốn đầu tư cho xây dựng rất lớn, đặc biệt là các công trình
trọng điểm của Nhà nước về giao thông vận tải như xây dựng cầu đường, thủy
điện, thủy lợi, xây dựng nhà máy, xí nghiệp, trường học, khu đô thị... Mặc dù,

nguồn vốn trong XDCB được huy động từ rất nhiều nguồn khác nhau nhưng
phần lớn từ ngân sách nhà nước (theo số liệu của Tổng cục Thống kê thì vốn
ngân sách nhà nước chiếm khoảng trên 50%). Các đối tượng tham nhũng chủ
yếu dùng thủ đoạn chiếm đoạt tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước vì công tác
quản lý loại tài sản này còn nhiều sơ hở.
Thực tế, hiện đang tồn tại nhiều loại vốn cho đầu tư xây dựng, nhưng
xét cho cùng, chỉ có hai loại vốn là vốn Nhà nước và vốn không phải của Nhà
nước. Vốn nhà nước bao gồm vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng do Nhà
nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn đầu tư phát
triển của doanh nghiệp nhà nước và các vốn khác do Nhà nước quản lý.
Tình trạng tham nhũng thường xảy ra đối với các nguồn vốn thuộc sở
hữu nhà nước. Theo quan niệm chung, đây là vốn "cho không", vì trách


9

nhiệm thanh toán không phải bằng tiền mà bằng chứng từ. Trong trường hợp
thông đồng, việc tạo ra chứng từ khống không phải là chuyện khó khăn.
Mặt khác, vốn đầu tư nhà nước hiện đang vận động theo cơ chế xin cho. Thực tế để nhận được tiền, chủ đầu tư, đơn vị thi công thường phải xin
(xin cấp phát, hỗ trợ vốn hoặc xin vay thông qua tín dụng ưu đãi). Có xin thì
có cho. Mà thông thường, để xin được tiền thì phải chi tiền. Hối lộ nhiều được
cấp phát nhiều, hối lộ ít được cấp phát ít. Chính vì thế, cơ chế xin - cho là
mảnh đất màu mỡ để tham nhũng tồn tại và phát triển.
- Thứ hai, để có một công trình xây dựng được triển khai thực hiện trong
thực tế thường phải trải qua nhiều khâu, với những thủ tục phức tạp như: lập dự
án, khảo sát, thiết kế; đấu thầu, giải phóng mặt bằng, thi công xây dựng, lắp đặt
thiết bị; kết thúc xây dựng, nghiệm thu công trình đưa vào sử dụng. Mặt khác,
vật tư, thiết bị dùng cho xây dựng rất phong phú, đa dạng và dễ thay thế. Thị
trường vật tư, thiết bị dùng cho xây dựng cơ bản rất đa dạng, nhiều chủng loại
đáp ứng nhu cầu sử dụng trong xã hội và dễ tiêu thụ. Giá vật tư, thiết bị dùng

trong xây dựng cơ bản phần lớn phụ thuộc vào giá thị trường và thường liên tục
biến động. Hơn nữa, trong thực tế nhiều trường hợp rất khó kiểm soát chất lượng
vì công trình nằm sâu trong lòng đất, khối bê tông... Bên cạnh đó, điều kiện bảo
vệ an toàn cho tài sản ở các công trình còn nhiều sơ hở, nhiều nơi kho tàng, bến
bãi không đảm bảo cho công tác bảo vệ an toàn tài sản. Lợi dụng tình hình đó,
các đối tượng phạm tội đã dùng nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt để chiếm đoạt
tài sản, hợp pháp hóa hành vi chiếm đoạt, thậm chí đổ lỗi cho khách quan để
biện minh cho những thất thoát về tài sản trong quá trình đầu tư xây dựng.
- Thứ ba, thời gian xây dựng công trình, đặc biệt là công trình trọng
điểm thường kéo dài, có nhiều đơn vị tham gia. Có công trình xây dựng kéo
dài đến hàng chục năm như các công trình thủy điện, có công trình trải dài hàng
ngàn km như công trình xây dựng giao thông. Có công trình vừa thiết kế, vừa


10

xây dựng, vừa hoàn thiện bàn giao từng phần, vừa xây dựng, vừa sử dụng đan
xen...
Trên đây là một số đặc điểm cơ bản có tính chất đặc thù của lĩnh vực
đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước có liên quan đến công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm tham nhũng, đòi hỏi lực lượng CSĐT TPKT cần nắm
vững những đặc điểm đó. Việc nắm vững những đặc điểm này có ý nghĩa rất
quan trọng trong việc xác định địa bàn trọng điểm, mối quan hệ giữa các khâu
trong đầu tư xây dựng để thực hiện các hoạt động nghiệp vụ cơ bản, đảm bảo
chủ động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và điều tra khám phá tội phạm.
1.1.2. Tham nhũng và tham nhũng trong xây dựng cơ bản bằng
nguồn vốn nhà nước
1.1.2.1. Khái niệm tham nhũng
Tham nhũng là một hiện tượng xã hội tiêu cực mang tính lịch sử, gắn
liền với sự hình thành giai cấp và sự ra đời, phát triển của bộ máy nhà nước.

Tham nhũng xảy ra ở mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, văn hóa, nó len lỏi vào
mọi mặt của đời sống xã hội. Tham nhũng gây ra những hậu quả hết sức tai
hại về mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, nó cản trở sự phát triển đi lên
của xã hội, có khi dẫn đến sự sụp đổ của cả một thể chế.
Có nhiều quan điểm, nhìn nhận tham nhũng từ nhiều khía cạnh khác nhau.
Nhìn từ khía cạnh đạo đức, tham nhũng là hành động phi đạo đức, bất nghĩa,
trái với luân thường đạo lý, trái với nguyên tắc đạo đức của con người và xã
hội. Nếu xét từ khía cạnh kinh tế thì tham nhũng là hành vi quan chức sử
dụng quyền lực của mình để lái hoạt động sản xuất, kinh doanh... vào lĩnh vực
mà việc thu lời, nhận hối lộ, lấy của cải được dễ dàng nhưng khó bị phát hiện.
Nếu xét tham nhũng dưới khía cạnh nhà nước, pháp luật thì tham nhũng là
những tệ nạn gắn liền với quyền lực nhà nước, không thể có tham nhũng ngoài
nhà nước, tách khỏi bộ máy quản lý, cai trị; là một trong những thuộc tính xấu
của nhà nước. Thuộc tính đó biểu hiện đậm, nhạt khác nhau ở mỗi kiểu nhà


11

nước cụ thể, cũng như ở các thời kỳ khác nhau của một nhà nước. Mức độ phát
triển của tham nhũng tùy thuộc vào sức đề kháng của nhà nước. Nhà nước nào
non kém, có nhiều tiêu cực, quản lý xã hội yếu thì tham nhũng càng có nhiều cơ
hội phát triển.
Ở nước ta hiện cũng đang tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về khái
niệm này. Trong các văn bản pháp luật, khái niệm tham nhũng đã được đề cập
tại Điều 1 Pháp lệnh chống tham nhũng (được Ủy ban Thường vụ Quốc hội
thông qua ngày 26/02/1998), theo đó: "Tham nhũng là hành vi của người có
chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc
cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản của Nhà
nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ
chức". Hành vi tham nhũng theo Pháp lệnh quy định có thể là hành vi phạm

tội được quy định trong Bộ luật Hình sự (BLHS) hoặc có thể là hành vi chưa
đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, phải bị xử lý về mặt hành chính.
Pháp lệnh cũng quy định rõ các hành vi tham nhũng bao gồm:
1. Tham ô tài sản;
2. Nhận hối lộ;
3. Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản;
4. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ vì vụ lợi;
5. Lạm quyền trong khi thi hành công vụ vì vụ lợi;
6. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để
trục lợi;
7. Giả mạo trong công tác vì vụ lợi.
Ngày 29 tháng 11 năm 2005 Quốc hội đã thông qua Luật Phòng, chống
tham nhũng, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 6 năm 2006, thay thế cho Pháp
lệnh Chống tham nhũng. Tại khoản 2 Điều 1 Luật Phòng, chống tham nhũng


12

có quy định: "Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi
dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi". Đồng thời, tại Điều 3 của Luật này
cũng xác định các hành vi tham nhũng bao gồm:
1. Tham ô tài sản.
2. Nhận hối lộ.
3. Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.
4. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ
vì vụ lợi.
5. Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
6. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi.
7. Giả mạo trong công tác vì vụ lợi.
8. Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ,

quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa
phương vì vụ lợi.
9. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà
nước vì vụ lợi.
10. Nhũng nhiễu vì vụ lợi.
11. Không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
12. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi
phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra,
thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.
Qua phân tích tính chất của hoạt động tham nhũng, có thể đưa ra khái
niệm về tham nhũng như sau:
Tham nhũng là tập hợp những hành vi tiêu cực do người có chức vụ,
quyền hạn thực hiện bằng cách sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình để vụ


13

lợi, gây thiệt hại tài sản, lợi ích của Nhà nước, tập thể là người lao động,
xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan nhà nước, các tổ chức.
Từ khái niệm về tham nhũng, chúng ta có thể khái quát các đặc trưng
của tham nhũng được thể hiện như sau:
1- Tham nhũng là hoạt động nguy hiểm cho xã hội; đó là những hoạt
động đã xâm hại đến các quan hệ xã hội đã được pháp luật bảo vệ. Đó là hành
vi trực tiếp xâm hại đến uy tín chế độ, xâm hại đến quyền lợi hợp pháp của
công dân, gây hậu quả nghiêm trọng; bị coi là tội phạm và được quy định
trong BLHS.
2- Tham nhũng là tập hợp những hành vi tiêu cực trái đạo đức xã hội,
pháp luật. Đó là những hành vi phản ánh về mặt khách quan đã xâm hại đến
các quan hệ xã hội. Từ tính chất của phương pháp, thủ đoạn, phương tiện phạm
tội... và các hành vi tham nhũng của người có chức vụ, quyền hạn rất tinh vi,

trắng trợn, họ lợi dụng chức vụ để trực tiếp hoặc gián tiếp chiếm đoạt tài sản
của nhà nước, của người lao động. Hành vi đó trái với quy định của Nhà nước
và chức trách của bộ máy công quyền, trái đạo đức xã hội.
3- Tham nhũng được thực hiện bởi những người có chức vụ, quyền hạn.
Chủ thể của tội phạm tham nhũng phải là những người có chức vụ, quyền
hạn. Chức vụ, quyền hạn là điều kiện quyết định loại tội phạm này, những
người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn để xâm hại các
quan hệ xã hội một cách trắng trợn, bất chấp các trật tự, uy tín chế độ đến giá
trị đạo đức con người trong xã hội để chiếm đoạt tài sản.
4- Tham nhũng là hành vi trục lợi cá nhân, động cơ vụ lợi. Hành vi
tham nhũng đều bắt nguồn từ động cơ trục lợi, vụ lợi dưới mọi hình thức nhằm
vào vật chất là tài sản, tiền bạc để mưu cầu lợi ích cá nhân một cách trái pháp
luật.


14

5- Tham nhũng là những hành vi vi phạm có độ ẩn rất cao, khó phát
hiện, xử lý. Những gì chúng ta biết được chỉ là phần nhỏ của một bức tranh
rất tối và rộng. Người ta đã nói nhiều đến sự liên kết "gắn bó" giữa người
nhận hối lộ và người đưa hối lộ; có khi người đưa hối lộ do sự sách nhiễu, bị
bức bách, nhưng cũng không hiếm các trường hợp "muốn được mất tiền", tức
là mong muốn người nhận "vui lòng" mà nhận cho. Vì vậy, quá trình điều tra,
khám phá các tội phạm về tham nhũng là rất khó khăn.
1.1.2.2. Tội phạm tham nhũng trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn
nhà nước
- Tội phạm tham nhũng
Trong quá trình hoàn thiện pháp luật hình sự, để đáp ứng nhu cầu đòi
hỏi của thực tiễn đấu tranh chống tham nhũng, các nhà làm luật đã hệ thống
các tội phạm về tham nhũng thành một mục riêng (mục A) trong Chương 21 Phần Các tội phạm BLHS 1999, bao gồm 7 tội danh được coi là tội phạm về

tham nhũng, từ Điều 278 đến 284:
1. Tội tham ô tài sản (Điều 278);
2. Tội nhận hối lộ (Điều 279);
3. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 280);
4. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 281);
5. Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ (Điều 282);
6. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác
để trục lợi (Điều 283);
7. Tội giả mạo trong công tác (Điều 284).
Đây là nhóm tội phạm được sắp xếp và phân loại dựa trên căn cứ chủ
yếu là dấu hiệu chủ thể của tội phạm (đây là điểm khác biệt căn bản so với việc
xây dựng các chương khác của BLHS. Đa số các chương khác được sắp xếp và


15

phân loại căn cứ vào khách thể của tội phạm, do vậy nhóm tội phạm đó chỉ xảy
ra trên một hoặc một số lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội). Cách sắp xếp và
phân loại này phản ánh một thực tế là các tội phạm tham nhũng có mặt trên hầu
khắp các lĩnh vực quản lý nhà nước, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trên cơ sở các nội dung đã phân tích và quy định của BLHS 1999 chúng
ta có thể hiểu: "Tội phạm về tham nhũng là những tội phạm quy định trong
BLHS do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện một cách cố ý, vì mục đích vụ
lợi, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản, lợi ích hợp pháp khác, xâm phạm trật
tự quản lý kinh tế và hoạt động đúng đắn của cơ quan nhà nước, tổ chức".
- Tội phạm tham nhũng trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà
nước và các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của nó.
Tội phạm tham nhũng trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước
là hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự
gây ra, xâm hại đến trật tự quản lý kinh tế, xâm hại đến tài sản và các lợi ích

hợp pháp của Nhà nước, tập thể và của công dân trong lĩnh vực đầu tư xây
dựng bằng nguồn vốn nhà nước.
Theo qui định của pháp luật hiện hành và thực tiễn công tác phòng ngừa,
đấu tranh chống tội phạm tham nhũng trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn
nhà nước, thường xảy ra một số loại tội phạm: tội tham ô tài sản (Điều 278);
tội nhận hối lộ (Điều 279); tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành
công vụ (Điều 281); tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với
người khác để trục lợi (Điều 283). Căn cứ vào các dấu hiệu pháp lý đặc trưng
của tội phạm tham nhũng trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước có
thể khái quát như sau:
- Khách thể của tội phạm: đó chính là các quan hệ xã hội được BLHS
bảo vệ, khách thể của các tội phạm về tham nhũng trong đầu tư xây dựng
bằng nguồn vốn nhà nước chính là quyền sở hữu tài sản của Nhà nước cũng
như sự hoạt động đúng đắn, uy tín của các cơ quan nhà nước, của chế độ; các


16

quyền, lợi ích hợp pháp trong đó có quyền sở hữu tài sản và các quyền hợp
pháp khác của công dân.
- Chủ thể của tội phạm: chủ thể của các tội phạm về tham nhũng trong
đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước là chủ thể đặc biệt - những người
có chức vụ, quyền hạn nhất định trong bộ máy nhà nước. Dấu hiệu về chức
vụ, quyền hạn là dấu hiệu bắt buộc của chủ thể đối với các tội phạm về tham
nhũng trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước, đó là điều kiện để chủ
thể thực hiện các tội phạm. Phần lớn họ là những người có trình độ, kiến thức
về kinh tế và quản lý kinh tế, hiểu biết về đường lối, chủ trương phát triển kinh
tế -xã hội, có kiến thức pháp luật, có trình độ trong lĩnh vực đầu tư xây dựng.
- Mặt khách quan của tội phạm: là những hành vi nguy hiểm cho xã hội
xâm phạm vào sự hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức. Người phạm

tội có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền được giao, làm
trái các qui định của Nhà nước trong đầu tư xây dựng nói chung và đầu tư xây
dựng bằng nguồn vốn nhà nước nói riêng.
- Mặt chủ quan: cũng như các tội phạm tham nhũng nói chung, các tội
phạm về tham nhũng trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước đều có
dấu hiệu pháp lý đặc trưng về mặt chủ quan đó là lỗi cố ý trực tiếp. Động cơ
mục đích phạm tội đều xuất phát từ vụ lợi hoặc động cơ tư lợi khác để thỏa
mãn mưu cầu tiền tài, địa vị, danh vọng, uy tín... ở các mức độ khác nhau một
cách trái pháp luật.
Yếu tố chủ quan này là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm, nhưng
bộc lộ: đây chính là đặc trưng mà tính chất thủ đoạn của hành vi phạm tội quyết
liệt, tinh vi, trắng trợn... Động cơ trục lợi, vụ lợi thôi thúc người có hành vi phạm
tội gia tăng, bằng mọi giá, do vậy thường gây ra hậu quả xã hội rất nghiêm trọng.
Tuy nhiên, dấu hiệu đặc trưng của các tội phạm này được phân biệt
bởi dấu hiệu khách quan của hành vi và chủ thể vi phạm:


17

Tội tham ô: (Điều 278) về mặt khách quan là hành vi của người có
chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mình đang quản lý, lợi dụng chức vụ,
quyền hạn được giao như là một phương tiện để biến tài sản do mình trực tiếp
hoặc gián tiếp quản lý thành tài sản của mình hoặc người khác. Hành vi phạm
tội là có thể thực hiện không đúng hoặc vượt thẩm quyền được giao như lập
dự toán vượt xa nhu cầu thực tế để ấy tiền chênh lệch, xác nhận, kê khai
khống, sửa chữa hóa đơn, chúng từ về giá cả, khối lượng vật tư, đền bù, đo
đạc, xác nhận thiệt hại sai về diện tích, chủng loại...
Về chủ thể của tội tham ô là các cán bộ có thẩm quyền trong cơ quan
chủ đầu tư, các Ban quản lý dự án, Hội đồng đền bù, giải phóng mặt bằng,
Hội đồng tư vấn... chuyên viên lập dự toán.

Tội nhận hối lộ: (Điều 279) là hành vi nhận hối lộ để thực hiện một
việc thuộc trách nhiệm của mình vì lợi ích vật chất hoặc theo yêu cầu của
người đưa hối lộ như nhận hối lộ để quyết định đầu tư, phê duyệt thiết kế, xác
nhận khống về diện tích, tình trạng tài sản trên diện tích đất bị thu hồi để nhận
tiền đền bù hoặc nhận cao hơn mức qui định...
Hay hành vi nhận hối lộ để không làm một việc mà theo qui định phải
làm vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, như không lập biên bản
vi phạm thiết kế trong quá trình thi công...
Chủ thể của tội nhận hối lộ là các cán bộ công chức nhà nước được
giao nhiệm vụ nghiên cứu quyết định đầu tư, phê duyệt thiết kế, giám sát thi
công... như cán bộ Ban quản lý dự án, chủ đầu tư dự án, công trình, cán bộ
tham mưu và người ký phê duyệt các dự án xây dựng... Bên cạnh các chủ thể
trên có thể cộng phạm trong các tội phạm này là các đối tượng trung gian, môi
giới làm các thủ tục, hồ sơ.
Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ: (Điều 281)
Hành vi khách quan của tội phạm này thể hiện ở chỗ làm trái với nhiệm
vụ được giao bằng cách lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Làm trái nhiệm vụ được


18

giao ở đây là làm không đúng với nhiệm vụ được giao hoặc không thực hiện
nhiệm vụ được giao gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân như quyết định đầu tư sai địa điểm gây lãng
phí vì lý do cục bộ địa phương; thay cho đấu thầu thì chỉ định thầu cho công
ty "sân sau"; làm ngơ khi phát hiện thấy các sai phạm trong quá trình thi công
công trình vì bên thi công là anh em, người nhà...
Về chủ thể, loại tội phạm này được thực hiện bởi những người có
chức vụ, quyền hạn được giao nhiệm vụ quyết định đầu tư, tổ chức đấu thầu,
giám sát thi công...

Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người
khác để trục lợi: (Điều 283)
Mặt khách quan của tội phạm này thể hiện ở hành vi lợi dụng chức vụ,
quyền hạn nhận trực tiếp hoặc qua trung gian tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất
khác dưới bất kỳ hình thức nào để thông qua chức vụ, quyền hạn của mình mà
gây ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn khác, thúc đẩy người này
làm hay không làm một việc thuộc trách nhiệm liên quan trực tiếp đến công
việc của họ hoặc làm một việc không được phép làm theo yêu cầu của người
đưa tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất. Cụ thể là dùng chức vụ, quyền hạn của
mình để gây sức ép đối với người có trách nhiệm duyệt dự án, ký cấp vốn, cấp
vốn, cấp phép... cho thắng thầu, nhận tiền, cho nghiệm thu, quyết toán...
Chủ thể của tội phạm này là người có chức vụ, quyền hạn nhưng họ
không có trách nhiệm trong việc đầu tư cũng như thi công công trình, song
với chức vụ, quyền hạn của mình họ có khả năng gây ảnh hưởng đối với
những người có thẩm quyền duyệt dự án, ký cấp vốn, cấp vốn, cấp phép... cho
thắng thầu, cho nghiệm thu, quyết toán...
Trên đây là đặc điểm dấu hiệu khách quan và chủ thể của một số tội
phạm tham nhũng phổ biến trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước.
Còn các loại tội phạm tham nhũng khác như lạm dụng chức vụ, quyền hạn


19

chiếm đoạt tài sản, lạm quyền trong khi thi hành công vụ và giả mạo trong công
tác chưa thấy xuất hiện trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước.
1.1.2.3. Hậu quả của tham nhũng trong đầu tư xây dựng bằng nguồn
vốn nhà nước
1- Hậu quả về kinh tế - kỹ thuật
Hậu quả đầu tiên mà tham nhũng trong đầu tư xây dựng bằng nguồn
vốn nhà nước đem lại là gây thiệt hại đến tài sản, tức là làm Nhà nước mất

tiền. Như đã phân tích ở trên, dù tham nhũng có diễn ra dưới hình thức nào,
tham ô hay hối lộ, chi cho bất kỳ ai... thì tất cả các khoản đó cuối cùng đều
được hạch toán vào công trình, tức là vào nguồn vốn nhà nước. Ở công trình
nhỏ, tham ô, hối lộ... ít thì Nhà nước mất tiền ít; ở công trình to, tham ô, hối
lộ... nhiều thì Nhà nước mất tiền nhiều.
Hậu quả thứ hai mà tham nhũng đem lại là làm giảm chất lượng công
trình vì tất cả các khoản chi hối lộ, tham ô... đều biến thành xi măng, sắt
thép... khống. Tham ô, hối lộ ít thì chất lượng công trình giảm ít; tham ô, hối
lộ nhiều thì chất lượng công trình giảm nhiều. Giảm ở mức độ nào đó thì sau
khi nghiệm thu, công trình sử dụng được một thời gian ngắn đã phải duy tu,
bảo dưỡng, sửa chữa. Giảm ở mức độ lớn hơn thì chưa sử dụng đã bị nứt,
lún... và thậm chí có khi chưa kịp nghiệm thu đã sụp đổ, hư hỏng nặng, buộc
phải đầu tư xây dựng lại.
Hậu quả thứ ba mà tham nhũng đem lại là cung cấp cho đất nước
những công trình với máy móc, thiết bị, kỹ thuật, công nghệ lạc hậu của thế
giới. Điều này thường xảy ra đối với các công trình xây dựng cơ bản có nhập
máy móc, thiết bị và kỹ thuật công nghệ của nước ngoài.
Còn hậu quả thứ tư, đó là tham nhũng thường làm chậm tiến độ đầu tư
xây dựng, tức là làm chậm lại việc đưa công trình vào sử dụng, mà công trình
chậm được đưa vào khai thác, sử dụng ngày nào thì có nghĩa là Nhà nước mất
tiền ngày ấy.


20

2- Hậu quả về kinh tế - chính trị - xã hội
Xét ở góc độ kinh tế - chính trị - xã hội, có thể thấy hậu quả mà tham
nhũng trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước đem lại như sau:
Thứ nhất, nó làm lãng phí nguồn của cải vật chất của đất nước ở mức
độ rất lớn. Ngoài những thiệt hại về kinh tế - kỹ thuật như đã nói ở trên, điều

này còn được thể hiện qua việc cấp phép, cấp vốn, thi công xây dựng những
công trình không phù hợp với quy hoạch phát triển, không cần thiết; những công
trình mà giá trị sử dụng của nó không có tính khả thi; những công trình không
nằm trong hướng ưu tiên của đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước. Mặc
dù các công trình được xây dựng lên còn đó, nghĩa là nguồn vốn nhà nước
không bị mất đi, nhưng rõ ràng bằng việc xây dựng các công trình như vậy,
nguồn vốn của Nhà nước đã được sử dụng không hiệu quả, thậm chí lãng phí.
Những lãng phí này thường có giá trị lớn hơn rất nhiều so với những gì người
ta tham ô, nhận hối lộ, vụ lợi trong đầu tư xây dựng.
Chính vì vậy, hậu quả thứ hai mà tham nhũng đem lại là làm chệch
hướng các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và tác động tiêu cực đến mọi
mặt của đời sống xã hội. Vì sao vậy? Vì hướng ưu tiên chủ yếu của nguồn
vốn nhà nước là dành cho các dự án đầu tư công cộng, kết cấu hạ tầng, phát
triển ngành mũi nhọn, phát triển nguồn nhân lực và đầu tư cho các vùng, các
khu vực khó khăn. Trong bối cảnh đất nước còn nghèo, điều này càng trở nên
quan trọng. Tiền vốn nhà nước nếu được sử dụng đúng mục đích, được đầu tư
đúng nơi, đúng lúc và đem lại hiệu quả sử dụng cao sẽ tạo điều kiện để các
ngành kinh tế và các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh; giảm bớt
chênh lệch giữa nông thôn và thành thị, giữa miền xuôi và miền ngược; thu
ngắn khoảng cách giàu nghèo. Còn ngược lại, khi nguồn vốn đó được đầu tư
vào các dự án không phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội, các
dự án không cần thiết, các dự án không có tính khả thi... hoặc bị tham nhũng
làm cho không đảm bảo chất lượng, chậm được đưa vào sử dụng... thì các tác


21

động tích cực nêu trên sẽ giảm thiểu hoặc không còn. Thậm chí tham nhũng
còn làm tăng thêm phân hóa giàu nghèo, bất công xã hội và làm nhiều giá trị
đạo đức bị đảo lộn.

Hậu quả thứ ba mà tham nhũng đem lại là đồng thời với việc tạo ra
một lớp người sống phè phỡn trên mồ hôi nước mắt của quảng đại quần
chúng nhân dân, vi tham nhũng là có chức vụ, quyền hạn, lợi dụng chức vụ,
quyền hạn để thực hiện "tích lũy nguyên thủy tư bản", nó tạo ra một lớp người
chi phối hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp và do đó, làm cho nguy cơ
chệch hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng tăng.
Hậu quả thứ tư không thể không nói đến là vì vậy, nó gây bất bình
trong quần chúng nhân dân và làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với chính
quyền. Đây là điều dễ hiểu bởi vì, thứ nhất, thông qua tham nhũng, nhân dân
nhìn thấy một bộ phận không nhỏ cán bộ thoái hóa biến chất và do đó, hiệu
lực quản lý của Nhà nước bị suy giảm; thứ hai, tham nhũng là cái cớ để các
thế lực thù địch kích động nhân dân chống lại chính quyền, thực hiện "diễn
biến hòa bình"; thứ ba, vì nguồn vốn nhà nước được huy động chủ yếu thông
qua các khoản đóng thuế của dân nên bất kỳ hành vi tham nhũng nào xảy ra
trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước cũng đều là lấy tiền của dân.
Vì vậy, tham nhũng xảy ra càng nhiều bao nhiêu thì sự bất bình trong các tầng
lớp dân cư càng tăng bấy nhiêu và lòng tin của dân đối với chính quyền càng
giảm bấy nhiêu. Đến một mức độ nào đó, hậu quả mà tham nhũng mang lại có
thể gây nên các điểm nóng về chính trị, dân biểu tình chống chính quyền, đe
dọa sự tồn vong của chế độ.
1.2. Nhận thức cơ bản về hoạt động phòng ngừa, đấu tranh chống
tham nhũng trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước của lực
lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ
1.2.1. Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của lực lượng Cảnh
sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ


22

1.2.1.1. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của lực lượng Cảnh sát

điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ
Căn cứ Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự đã được Ủy ban Thường
vụ Quốc hội thông qua ngày 20/8/2004, căn cứ vào Nghị định số 136/2003/NĐCP ngày 14/11/2003 của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ
chức bộ máy của Bộ Công an; Quyết định số 1438/2004/QĐ-BCA(X13) ngày
14/12/2004 của Bộ trưởng Bộ Công an về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
tổ chức bộ máy của Tổng cục Cảnh sát; căn cứ Quyết định số 189/2005/QĐBCA(X13) ngày 02/3/2005 của Bộ trưởng Bộ Công an về chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và tổ chức của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản
lý kinh tế và chức vụ; Quyết định 1164 và 1172/QĐ-X11(X13) ngày 01/4/2005
của Tổng cục trưởng Tổng cục Xây dựng lực lượng CAND về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Phòng và Đội Cảnh sát điều tra
tội phạm về trật tự quản lý kinh tế về chức vụ, có thể xác định lực lượng
CSĐT TPKT có những nhiệm vụ cơ bản sau đây:
+ Tổ chức các hoạt động nghiệp vụ cơ bản để chủ động nắm tình
hình; đề xuất với các cấp ủy Đảng và các cấp chính quyền ban hành và tổ
chức thực hiện các chủ trương, kế hoạch đấu tranh; trực tiếp tiến hành các
hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ đối với các tội phạm thuộc chức năng đấu
tranh của lực lượng;
+ Tổ chức và tiến hành các hoạt động nghiệp vụ trinh sát để phát hiện,
ngăn chặn và khám phá các tội phạm thuộc chức năng đấu tranh của lực lượng;
+ Tổ chức và tiến hành các hoạt động theo quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự (BLTTHS) để điều tra, xử lý các tội phạm các tội phạm thuộc
chức năng đấu tranh của lực lượng;
+ Tổ chức mối quan hệ phối hợp với các lực lượng khác trong và
ngoài ngành trong đấu tranh phòng, chống tội phạm về kinh tế và chức vụ.


23

+ Thực hiện các nhiệm vụ khác có liên quan đến công tác của lực
lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ.

Theo quy định của Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự 2004 và Thông
tư số 12/2004/TT-BCA(V19) của Bộ Công an hướng dẫn một số quy định của
Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004 trong Công an nhân dân, Quyết
định số 189/2005/QĐ-BCA của Bộ trưởng Bộ Công an ngày 02 tháng 3 năm
2005 về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về
trật tự quản lý kinh tế và chức vụ; Quyết định 1164 và 1172/QĐ-X11(X13)
ngày 01/4/2005 của Tổng cục trưởng Tổng cục Xây dựng lực lượng CAND
về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Phòng và Đội
Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế về chức vụ, thì lực lượng
CSĐT TPKT được tiến hành điều tra các vụ án hình sự về những tội phạm
được quy định tại các chương XIV, XVI, XVII, XXI của BLHS thuộc thẩm
quyền xét xử của Tòa án nhân dân các cấp trừ các tội phạm thuộc thẩm quyền
điều tra của Cơ quan an ninh điều tra trong Công an nhân dân (CAND). Theo
quy định hiện hành lực lượng CSĐT TPKT được tiến hành hoạt động điều tra
đối với các tội phạm được qui định tại 60 điều của BLHS:
- Các tội phạm được qui định từ Điều 153 đến 181 thuộc Chương XVI
Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.
- Các tội phạm về tham nhũng qui định tại các điều từ Điều 278 đến 284
thuộc mục A và các tội phạm sau thuộc mục B Chương XVI các tội phạm
chức vụ: Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 258); Tội đưa
hối lộ (Điều 289); Tội làm môi giới hối lộ (Điều 290); Tội lợi dụng ảnh
hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi (Điều 291).
- Các tội phạm xâm phạm sở hữu chương XIV: Tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản (Điều 139); Tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140);
Tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 141); Tội sử dụng trái phép tài sản (Điều


24

142); Tội thiếu tinh thần trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản

nhà nước (Điều 144); Tội vô ý gây thiệt hại tài sản của nhà nước (Điều 145)
trong trường hợp đối tượng lợi dụng tư cách pháp nhân của cơ quan, tổ chức,
doanh nghiệp, lợi dụng việc ký kết hợp đồng kinh tế để phạm tội.
- Các tội phạm từ Điều 182 đến 191 thuộc Chương XVII. Các tội
phạm về môi trường.
- Các tội phạm thuộc chương XIX. Các tội phạm: Tội tạo ra và lan
truyền, phát tán các chương trình vi-rút tin học (Điều 224); Tội vi phạm các
qui định về vận hành, khai thác và sử dụng mạng máy tính điện tử (Điều 225);
Tội sử dụng trái phép thông tin trên mạng và trong máy tính (Điều 226); Tội
hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có (Điều 251) mà nguồn gốc tiền,
tài sản do phạm tội kinh tế mà có.
Căn cứ vào các quy định trên có thể xác định lực lượng CSĐT TPKT
là chủ thể được giao nhiệm vụ phòng ngừa, đấu tranh với các tội phạm về
tham nhũng quy định từ Điều 278 đến Điều 284, Mục A, Chương XXI Bộ
luật hình sự 1999.
Như vậy, theo qui định của pháp luật hiện hành, lực lượng CSĐT TPKT
là chủ thể tiến hành hoạt động phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm tham
nhũng trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước. Khi lực lượng
chuyên trách chống tội phạm tham nhũng được thành lập thì lực lượng này sẽ
trở thành chủ thể chính tiến hành hoạt động phòng ngừa, đấu tranh chống tội
phạm tham nhũng nói chung và tội phạm tham nhũng trong đầu tư xây dựng
bằng nguồn vốn nhà nước nói riêng.
1.2.1.2. Tổ chức bộ máy của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về
trật tự quản lý kinh tế và chức vụ
Tổ chức bộ máy của lực lượng CSĐT TPKT được triển khai từ Trung
ương đến cơ sở:


25


- Ở cấp Bộ có Cục CSĐT TPKT (C15) với 11 đơn vị: Phòng Tham
mưu (P1); Phòng Phòng ngừa, đấu tranh án kinh tế công nghiệp, xây dựng
(P2); Phòng Phòng ngừa, đấu tranh án kinh tế nông nghiệp, nông thôn (P3);
Phòng Phòng ngừa, đấu tranh án kinh tế tổng hợp (P4); Phòng Phòng ngừa,
đấu tranh án kinh tế giao thông, bưu điện (P5); Phòng Phòng ngừa, đấu tranh
án kinh tế tài chính (P6); Phòng Phòng ngừa, đấu tranh chống buôn lậu (P7);
Phòng Phòng ngừa, đấu tranh chống xâm phạm sở hữu trí tuệ (P8); Phòng
Phòng ngừa, đấu tranh tội phạm công nghệ cao (P9); Phòng Hướng dẫn và
điều tra án tham nhũng và chức vụ (P10); Phòng Hướng dẫn và điều tra án
kinh tế khác (P11); Bộ phận thường trú tại cụm II; cụm III.
(có sơ đồ kèm theo)
Việc tổ chức các phòng như hiện nay theo lĩnh vực và đối tượng đấu
tranh có khác nhau nhưng tất cả các đơn vị đều có chức năng tổ chức hoạt
động nghiệp vụ phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm tham nhũng trong đầu
tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước. Trong đó Phòng 2 chuyên trách phòng
chống tội phạm trong xây dựng; Phòng 10 hướng dẫn và điều tra án tham
nhũng và chức vụ.


×