Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Nghiên cứu giải pháp phát triển nhượng quyền thương mại của các doanh nghiệp may thời trang Việt Nam ở địa bàn Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.96 KB, 20 trang )

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ NHƯỢNG
QUYỀN THƯƠNG MẠI
1.1. Các công trình nghiên cứu đã thực hiện
Trong phần này, luận văn đã tổng quan tình hình nghiên cứu về NQTM ở
Việt Nam. Theo đó, có 5 luận văn thạc sỹ nghiên cứu về đề tài này. Hai luận văn
đầu tiên chưa tập trung nghiên cứu về mô hình franchise mà nhượng quyền chỉ là
một nội dung liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Luận văn thứ 3 và thứ 4 nghiên
cứu NQTM trong lĩnh vực thực phẩm. Luận văn thứ 5 nghiên cứu khái quát chung
về nhượng quyền của các doanh nghiệp Việt Nam. Tác giả nhận thấy rằng số
lượng các đề tài nghiên cứu về NQTM là rất ít.
1.2. Các vấn đề còn tồn tại và hướng nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu và đánh giá các đề tài đã nghiên cứu, tác giả thấy rằng
chưa có một đề tài nào nghiên cứu về NQTM trong lĩnh vực may thời trang. Vì
vậy trong đề tài “Nghiên cứu giải pháp phát triển NQTM của các doanh nghiệp
may thời trang Việt Nam ở địa bàn Hà Nội”, tác giả muốn phân tích tình hình
NQTM trong lĩnh vực may thời trang ở Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng
để từ đó đề ra các giải pháp phát triển mô hình NQTM trong lĩnh vực này.
1.3. Phương pháp nghiên cứu và mô hình nghiên cứu
Phương pháp sử dụng để phân tích đề tài tác giả đã trình bày ở phần trên.
Luận văn có tham khảo các mô hình nhượng quyền điển hình ở Việt Nam và trên
thế giới, những mô hình này có thể không thuộc lĩnh vực may thời trang.

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CHO PHÁT TRIỂN NHƯỢNG
QUYỀN THƯƠNG MẠI
2.1. Tổng quan về nhượng quyền thương mại
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của nhượng quyền thương mại
Trên thế giới, NQTM đã xuất hiện rất sớm vào khoảng thể kỷ 17-18 tại Châu
Âu. Tử những năm 1960 trở đi, NQTM đã phát triển rất mạnh ở Mỹ và một số nước
phát triển khác. Bắt đầu từ những năm 1990, mô hình này đã phát triển trên phạm vi



quốc tế và mở rộng sang cả các nước đang phát triển. Và cho tới nay, NQTM đã
phát triển ở rất nhiều quốc gia trên thế giới và trong rất nhiều các ngành nghề khác
nhau.
NQTM mới chỉ manh nha xuất hiện ở Việt Nam từ giữa những năm 1990
của thế kỷ trước. Cho đến nay ngày càng có nhiều doanh nghiệp kể cả trong và
ngoài nước thực hiện kinh doanh theo phương thức NQTM. Theo điều tra của hội
đồng nhượng quyền thế giới (WFC) vào năm 2004 Việt Nam chỉ có 70 hệ thống
franchising, trong đó đa số là các thương hiệu nước ngoài. Theo thống kê hiện nay
ở Việt Nam có khoảng hơn 120 doanh nghiêp trong lĩnh vực NQTM.
2.1.2 Khái niệm nhượng quyền thương mại
Ở Việt Nam, tại Điều 284, Mục 8, Chương IV Luật Thương mại năm 2005
có định nghĩa như sau:
“Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng
quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mau bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây:
1. Việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức
tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu
hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng
kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền.
2. Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận nhượng
quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh”
Dựa vào định nghĩa trên chúng ta có thể thấy NQTM theo pháp luật Việt
Nam có một số đặc điểm sau đây: NQTM là một hoạt động thương mại mà chủ thể
gồm có hai bên là bên nhượng quyền và bên nhận nhượng quyền. Đối tượng của
NQTM là quyền thương mại. Luôn có sự kiểm soát của bên nhượng quyền trong
việc điều hành công việc kinh doanh của bên nhượng quyền. Luôn có mối quan hệ
hỗ trợ giữa bên nhượng quyền và bên nhận nhượng quyền.
Qua phân tích khái niệm trên, tác giả cho rằng đối tượng trong quan hệ
nhượng quyền rất rộng, nó khác biệt hoàn toàn so với các phương thức kinh doanh



khác. Luôn có mối quan hệ chặt chẽ, không thể tách rời giữa các bên trong quan
hệ nhượng quyền.
2.1.3 Các phương thức nhượng quyền
Có rất nhiều phương thức nhượng quyền tùy thuộc vào cách phân chia.
Trong phần này tác giả đưa ra 4 tiêu chí để phân loại nhượng quyền. Một là, căn
cứ theo nội dung của hoạt động kinh doanh NQTM gồm: nhượng quyền phân phối
sản phẩm và nhượng quyền phương thức kinh doanh. Hai là, căn cứ theo tính chất
mối quan hệ giữa bên nhượng và bên nhận quyền NQTM gồm: nhượng quyền đơn
nhất hay nhượng quyền trực tiếp, nhượng quyền mở rộng, nhượng quyền khởi
phát. Ba là, căn cứ theo hình thức phát triển hoạt động nhượng quyền NQTM gồm
có: nhượng quyền độc quyền, nhượng quyền vùng, nhượng quyền phát triển khu
vực, nhượng quyền riêng lẻ. Thứ tư, căn cứ vào phạm vi lãnh thổ NQTM gồm có
hai hình thức là NQTM trong nước và NQTM quốc tế.
2.2. Sự khác nhau giữa nhượng quyền thương mại với một số hình thức kinh
doanh khác
2.2.1 Nhượng quyền thương mại và chuyển giao công nghệ
Trong NQTM bên nhận quyền phải kinh doanh với một nhãn hiệu theo quy
trình thống nhất đã cam kết với bên nhượng quyền. Còn trong hoạt động chuyển
giao công nghệ, bên nhận quyền có thể ứng dụng công nghệ để sản xuất ra bất kì
sản phẩm nào. Đối tượng của chuyển giao công nghệ là “chuyển giao các kiến
thức tổng hợp của công nghệ hoặc cung cấp các máy móc, thiết bị, dịch vụ, đào
tạo…kèm theo các kiến thức công nghệ cho bên mua”. Đối tượng chuyển giao của
NQTM là quyền thương mại. Trong NQTM, bên nhượng quyền vừa có quyền
kiểm soát, vừa có nghĩa vụ hỗ trợ đối với bên nhận quyền. Trong hoạt động
chuyển giao công nghệ bên chuyển giao không có quyền và nghĩa vụ này.
2.2.2 Nhượng quyền thương mại và hoạt động li-xăng
Đối tượng của hoạt động li-xăng là quyền sử dụng các đối tượng sở hữu
công nghiệp. Quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp chỉ là một phần
của quan hệ nhượng quyền. Mục đích mà bên nhận li-xăng hướng tới là quyền sở



hữu công nghiệp, còn trong NQTM, mục tiêu mà bên nhượng quyền và bên nhận
quyền hướng tới là phát triển một hệ thống kinh doanh, trong đó quyền sở hữu
công nghiệp chỉ là một bộ phận. Trong hoạt động li-xăng sự hỗ trợ của bên chuyển
giao cho bên nhận li-xăng chỉ là sự hỗ trợ ban đầu, còn trong NQTM, sự hỗ trợ
của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền là toàn diện và liên tục. Trong
NQTM, bên nhượng quyền có quyền kiểm tra sâu sát, toàn diện đối với hoạt động
của bên nhận quyền. Còn trong hoạt động li-xăng quyền kiểm soát này chỉ là trong
phạm vi rất nhỏ gắn với đối tượng sở hữu công nghiệp mà thôi.

2.2.3 Nhượng quyền thương mại và đại lý thương mại
Trong quan hệ đại lý thương mại, quyền sở hữu đối với hàng hóa hoặc tiền
bán hàng thuộc về bên giao đại lý, bên đại lý chỉ bán sản phẩm để hưởng thù lao.
Đối với NQTM thì quyền sở hữu hàng hóa dịch vụ thuộc bên nhận quyền. Bên
nhận quyền cũng là người trực tiếp xác lập quan hệ thương mại với khác hàng,
chịu trách nhiệm về các vấn đề phát sinh từ sản phẩm, dịch vụ do mình cung cấp.
2.2.4 Nhượng quyền thương mại và ủy thác mua bán hàng hóa
Hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa không bắt buộc phải chuyển giao các đối
tượng sở hữu công nghiệp, quy trình kinh doanh, huấn luyện… cũng như không tồn
tại nghĩa vụ kiểm soát/hỗ trợ kinh doanh toàn diện, chặt chẽ giữa các bên như NQTM.
2.2.5 Nhượng quyền thương mại và hợp tác kinh doanh
Điểm giống nhau giữa 2 phương thức này là các bên tham gia không thành
lập pháp nhân mới, doanh nghiệp đã kinh doanh thành công trên thị trường phải
đóng vai trò hỗ trợ mạnh mẽ hơn cho doanh nghiệp vừa tham gia vào thị trường.
Điểm khác biệt cơ bản giữa hai hình thức kinh doanh này là trong NQTM vai trò
hỗ trợ và kiểm soát của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền mang tính ràng
buộc cao hơn so với hợp tác kinh doanh.
2.3. Những yếu tố cần thiết để doanh nghiệp có thể nhượng quyền thương mại
Không phải doanh nghiệp nào cũng có thể tiến hành NQTM. Doanh nghiệp

chỉ có thể và nên tiến hành nhượng quyền khi có đủ các yếu tố cần thiết sau đây:


Thứ nhất, doanh nghiệp phải có thương hiệu mạnh. Vì bên đối tác chỉ muốn nhận
quyền của doanh nghiệp có thương hiệu và hiếm khi nhận quyền của doanh nghiệp
không có tên tuổi. Thứ hai, doanh nghiệp phải tạo ra được sự tin cậy cho người
nhận quyền. Thứ ba, doanh nghiệp phải có khả năng chuyển tải được kiến thức.
Tức là nếu mô hình kinh doanh quá phức tạp thì sẽ rất khó để nhượng quyền vì
khó có thể hướng dẫn cho đối tác nhận quyền được. Thứ tư, mô hình kinh doanh
của doanh nghiệp phải có khả năng thích nghi. Tức là có khả năng nhân rộng ra ở
nhiều thị trường khác nhau. Thứ năm, mô hình hoạt động ban đầu của doanh
nghiệp đã được kiểm chứng và thành công. Thứ sáu, mô hình nhượng quyền phải
có khả năng sinh lãi sau khi đầu tư. Thứ bảy, doanh nghiệp phải có tiềm lực tài
chính để đảm bảo có thể xây dựng, quảng bá thương hiệu và phát triển mô hình
nhượng quyền. Thứ tám, doanh nghiệp phải có năng lực quản lý để đảm bảo hệ
thống nhượng quyền sẽ thành công.
2.4. Xây dựng và phát triển nhượng quyền thương mại
Xây dựng và phát triển NQTM không đơn giản. Nó đòi hỏi doanh nghiệp
phải có sự đầu tư và chuẩn bị kỹ càng thì mới có thể tạo ra một hệ thống nhượng
quyền thành công. Theo tác giả, việc xây dựng và phát triển NQTM cần qua
những bước sau: 1. Xây dựng thương hiệu mạnh. 2. Đánh giá tính khả thi của việc
nhượng quyền. 3. Thiết lập mô hình franchise ở tầm chiến lược. 4. Chuẩn bị
những yếu tố cần thiết để tiến hành nhượng quyền bao gồm: Xây dựng các điều
khoản, chính sách thương mại; thiết lập mô hình tài chính; xây dựng cẩm nang
điều hành franchise; xây dựng các công cụ và thủ tục tuyển dụng bên nhận quyền.
5. Tiếp thị franchise và tuyển dụng franchisee. 6. Doanh nghiệp cần có phương
thức để kiểm soát hoạt động của bên nhận quyền.
2.5. Căn cứ pháp lý cho hoạt động nhượng quyền thương mại
2.5.1 Căn cứ pháp lý cho hoạt động nhượng quyền thương mại tại Việt Nam
Trước khi Luật Thương mại năm 2005 có hiệu lực thì chưa có một văn bản

pháp lý nào chính thức quy định về hoạt động NQTM. Tuy nhiên, hoạt động này
cũng được nhắc tới với nội dung rất ngắn trong một số văn bản quy định về chuyển


giao công nghệ. Căn cứ pháp lý hiện hành điều chỉnh hoạt động NQTM là Luật
Thương mại 2005 và các văn bản hướng dẫn kẻm theo như: Nghị định 35/2006/NĐCP ngày 31/3/2006 của chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động
NQTM. Thông tư 09/2006/TT-BTM ngày 25/5/2006 của Bộ Thương mại hướng dẫn
hoạt động NQTM. Quyết định 106/2008/QĐ – BTC ngày 17/11/2008 của Bộ Tài
chính về quy định mức thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí đăng ký hoạt động NQTM.
Nghị định số 120/2011/NĐ-CP ngày 16 tháng 12 năm 2011 của Chính phủ về sửa
đổi, bổ sung thủ tục hành chính tại một số Nghị định của Chính phủ quy đinh định chi
tiết Luật Thương mại. Tuy nhiên, nếu việc NQTM có liên quan đến đối tượng sở hữu
trí tuệ thì phải thực hiện thêm các quy định pháp lý về pháp luật Sở hữu trí tuệ.
2.5.2 Căn cứ pháp lý cho hoạt động nhượng quyền thương mại từ Việt Nam
ra nước ngoài
Đối với hoạt động NQTM có yếu tố nước ngoài pháp luật thương mại Việt
Nam không ấn định hệ thống pháp luật sẽ được áp dụng mà các bên có thể tự thỏa
thuận lựa chọn hệ thống pháp luật của nước nào đó.
Tóm lại, việc Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động
NQTM cho thấy càng ngày NQTM càng phát triển và điều đó cũng tạo thuận lợi cho
các bên khi tham gia vào quan hệ này. Tuy nhiên, do hoạt động NQTM còn mới nên
vẫn còn tồn tại rất nhiều bất cập trong hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ này.

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI CỦA
CÁC DOANH NGHIỆP MAY THỜI TRANG VIỆT NAM
TẠI ĐỊA BÀN HÀ NỘI
3.1. Tổng quan về ngành may thời trang của Việt Nam
Trong những năm gần đây, ngành dệt may Việt Nam đã có những bước tiến
đáng kể với tốc độ tăng trưởng bình quân trên 20%, là ngành đứng đầu trong hoạt
động xuất khẩu của cả nước. Bên cạnh phát triển thị trường xuất khẩu, các doanh

nghiệp dệt may trong những năm gần đây rất chú ý đến phát triển thị trường nội
địa. Doanh thu từ thị trường nội địa của các doanh nghiệp liên tục tăng. Tuy nhiên,


vẫn còn khoảng cách rất lớn giữa thương hiệu Quốc tế và nội địa. Hiện các thương
hiệu nội địa chỉ chiếm 40% thị trường .
Tóm lại, cơ hội phát triển cho các doanh nghiệp may thời trang Việt Nam rất
nhiều. Vấn đề chỉ còn phụ thuộc vào năng lực của các doanh nghiệp Việt Nam mà thôi.


3.2. Thực trạng nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực may thời trang của
các doanh nghiệp Việt Nam ở Hà Nội
3.2.1 Thực trạng nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực may thời trang
Thực trạng NQTM trong lĩnh vực may thời trang của các doanh nghiệp Việt
Nam tại Hà Nội được đánh giá chủ yếu thông quả việc khảo sát và điều tra thực tế.
Qua đó cho thấy đã có một số doanh nghiệp trong lĩnh vực này tham gia vào quan
hệ NQTM. Tuy nhiên, nhìn chung NQTM vẫn chưa phát triển trong lĩnh vực may
thời trang. Qua điều tra, tác giả thấy rằng mức độ hiểu biết của các doanh nghiệp
về NQTM còn hạn chế. Thậm chí vẫn còn tới 20% doanh nghiệp chưa biết tới
phương thức này.
Nhượng quyền thương hiệu may thời trang ở trong nước còn nhiều hạn chế
được thể hiện tóm tắt qua bảng số liệu sau:
Thực trạng nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực may thời trang của các doanh
nghiệp Hà Nội
Thực trạng

Minh họa

Doanh nghiệp tham gia NQTM rất ít, tốc
độ phát triển NQTM chậm


Khoảng 5 doanh nghiệp, chiếm gần 10%
14% có ý định tham gia nhượng quyền
thương mại, 78% chưa xác định

Quy mô của hệ thống NQTM không lớn

60% hệ thống nhượng quyền dưới 50 cửa
hàng, 40% từ 50-100 cửa hàng

Lợi ích của DN nhượng quyền chưa nhiều

Phí NQ thấp, 80% áp dụng phí NQ ban
đầu, thậm chí không thu phí

Mức độ rủi ro của DN nhận quyền tương
đối cao

-Cửa hàng tồn tại ngắn nhất của 40% DN là
dưới 1 năm
-Không cam kết khả năng sinh lời

Hình thức NQ chủ yếu là NQ phân phối
sản phẩm

100% DN tiến hành NQ phân phối sản
phẩm

Mô hình NQTM thiếu tính chuyên nghiệp


Nhân viên, quản lý, bán hàng

Qua đây cho thấy mới chỉ có khoảng gần 10% số doanh nghiệp tham gia
NQTM. Điều này chứng tỏ kinh doanh theo mô hình này chưa thu hút các doanh
nghiệp hoặc có thể các doanh nghiệp Việt Nam chưa có đủ điều kiện tiến hành


nhượng quyền. Quy mô của hệ thống nhượng quyền không lớn. Lợi ích của doanh
nghiệp nhượng quyền chưa nhiều do phí nhượng quyền thấp và hầu hết các doanh
nghiệp đều không thu phí franchise hàng tháng. Mức độ rủi ro khi tiến hành nhận
quyền của các thương hiệu may thời trang trong nước là tương đối cao. Vẫn có rất
nhiều các cửa hàng franchise phải đóng cửa do làm ăn thua lỗ. Hiện nay, hình thức
nhượng quyền được hầu hết tất cả các doanh nghiệp may thời trang áp dụng đó là
nhượng quyền phân phối sản phẩm. Mô hình nhượng quyền của các thương hiệu
may thời trang của các doanh nghiệp Việt Nam chưa chuyên nghiệp.
Nhượng quyền thương hiệu thời trang từ nước ngoài vào Việt Nam còn rất
ít. Hai thương hiệu thời trang được mọi người biết đến nhiều nhất đó là: Pierre
Cardin của Pháp được nhượng quyền cho công ty An Phước và Manhattan của
Mỹ được nhượng quyền cho tổng công ty cổ phần may Việt Tiến. Ngoài ra còn có
một số thương hiệu khác nhưng quy mô không lớn.
Hiện tại, NQTM từ Việt Nam ra nước ngoài còn rất hạn chế. Trong ngành
may thời trang thì mới chỉ có một vài doanh nghiệp và các doanh nghiệp này vẫn
còn đang trên con đường chinh phục thị trường nước ngoài như: Ninomaxx,
Foci…
Tóm lại, NQTM trong ngành may thời trang chưa phát triển và các mô hình
nhượng quyền chưa toàn diện.
3.2.2 Những lợi ích và thách thức khi phát triển phương thức nhượng quyền
trong lĩnh vực may thời trang
Khi tham gia vào quan hệ NQTM, lợi ích mà doanh nghiệp nhượng quyền
có được là: có thể nhanh chóng mở rộng mô hình kinh doanh, có được sự hợp tác

tốt của bên nhận quyền, thúc đẩy quảng bá thương hiệu, giảm chi phí quảng cáo,
thu thập được kinh nghiệm địa phương thông qua phương thức nhượng quyền, tạo
ra được hệ thống phân phối chuyên nghiệp, chia sẽ được áp lực quản trị, nâng cao
lợi nhuận. Bên cạnh đó, bên nhượng quyền cũng phải đối mặt với những thách
thức sau: Một là khi mạng lưới phân phối dày đặc với một số lượng lớn các cửa
hàng nhượng quyền cách trở về địa lý, thông tin thì việc quản lý của bên nhượng


quyền sẽ gặp rất nhiều trở ngại. Hai là nguy cơ bị mất cắp bí quyết kinh doanh
trong quá trình nhượng quyền.
Khi tham gia vào quan hệ nhượng quyền, bên nhận quyền có những lợi ích
sau: Một là giảm thiểu rủi ro so với tự thành lập cơ sở kinh doanh. Hai là được sử
dụng thương hiệu uy tín với số vốn nhỏ. Ba là tận dụng được các nguồn lực của
bên nhượng quyền. Bốn là có thể được mua nguyên liệu, sản phẩm với giá ưu đãi.
Ngoài ra, bên nhận nhượng quyền còn có những lợi ích khác như: được hỗ trợ từ
các chương trình tiếp thị và khuyến mại của thương hiệu, quảng cáo tại nơi bán
hàng, các họat động hỗ trợ trọn gói, thống nhất, có phương pháp kiểm soát chất
lượng sản phẩm đồng bộ, hệ thống tài chính và số sách kế toán được thực hiện theo
một chuẩn mực… Bên cạnh đó, doanh nghiệp nhận quyền cũng phải đổi mặt với
những thách thức sau: Một là không được tự ý điều chỉnh việc kinh doanh như thay
đổi thực đơn, hạ giá thành sản phẩm, trang trí lại cửa hàng… mặc dù việc điều chỉnh
này có thể là hợp lý. Hai là phải báo cáo doanh thu và tình hình hoạt động định kỳ. Ba
là đôi khi trong một số trường hợp bên nhượng quyền sẽ chỉ định nguồn nguyên liệu
hoặc sẽ do chủ thương hiệu cung ứng, do đó sẽ không chủ động được giá cả, thậm chí
ảnh hưởng đến tiến độ công việc thay vì có thể sử dụng nguồn nguyên liệu sẵn có mà
chất lượng ngang bằng thì phải đợi để có được nguồn nguyên liệu theo quy định…
Bốn là nguy cơ bị tổn hại do các bên nhận quyền khác trong hệ thống hoạt động
không hiệu quả. Năm là không chủ động được khi chủ thương hiệu cắt hợp đồng khi
hết hạn
Như vậy, tất cả các bên trong quan hệ nhượng quyền đều có thể có lợi ích

và gặp phải những rủi ro khi tham gia quan hệ nhượng quyền. Doanh nghiệp cần
cân nhắc thật kỹ lưỡng trước các quyết định của mình để có thể tận dụng tối ưu
những lợi ích mà nhượng quyền mang lại và hạn chế những rủi ro không mong
muốn.
3.3. Đánh giá hoạt động nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực may thời trang
3.3.1 Những kết quả đạt được trong quá trình nhượng quyền


Franchise trong lĩnh vực may thời trang ở Hà Nội chưa thực sự phát triển
nhưng cũng đạt được một số thành tựu sau: So với giai đoạn trước các doanh
nghiệp tham gia vào NQTM nhiều hơn, số lượng cửa hàng trong hệ thống nhượng
quyền của các hãng đã tăng lên và ngày càng nhiều các doanh nghiệp muốn tìm
hiểu và xây dựng mô hình kinh doanh bằng NQTM. Người tiêu dùng Hà Nội có
thể mua các thương hiệu thời trang nổi tiếng nước ngoài vào Việt Nam thông qua
franchise. Thương hiệu may thời trang Việt đã và đang xây dựng được thương
hiệu mang tầm cỡ quốc tế. Nhà nước cũng đã bắt đầu quan tâm đến hoạt động
nhượng quyền bằng việc ban hành những văn bản pháp lý để điều chỉnh hoạt động
này
3.3.2 Những hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những thành tựu đạt được thì hoạt động NQTM trong lĩnh vực
may thời trang ở Hà Nội còn có những hạn chế sau: Hoạt động NQTM trong lĩnh
vực may thời trang ở Hà Nội vẫn còn mang tính tự phát cao, chưa thể hiện sự
chuyên nghiệp. Hệ thống nhượng quyền trong lĩnh vực may thời trang vẫn còn rất
ít. Hình thức nhượng quyền mà các doanh nghiệp đang sử dụng phần lớn đó là
nhượng quyền không toàn diện. Hiểu biết của các doanh nghiệp Việt Nam về
NQTM còn hạn chế. Chưa có sự kết hợp giữa bên nhượng quyền và ngân hàng
trong việc tạo điều kiện cho vay vốn phục vụ cho hoạt động nhượng quyền được
dễ dàng và nhanh chóng. Cơ sở pháp lý cho hoạt động nhượng quyền vẫn còn
chồng chéo và chưa đầy đủ.
Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trên là lĩnh vực may thời trang

của Việt Nam còn thiếu các thương hiệu mạnh. Nguyên nhân thứ hai là các thương
hiệu thời trang của Việt Nam còn phải đối mặt với sự cạnh tranh rất mạnh mẽ của
các thương hiệu nước ngoài đặc biệt là các sản phẩm của Trung Quốc về mẫu mã và
giá cả. Nguyên nhân thứ ba là ở Việt Nam nói chung và ở Hà Nội nói riêng còn rất
thiếu các khóa đào tạo về NQTM. Thứ tư là pháp luật về nhượng quyền vẫn còn
nhiều bất cập, còn chồng chéo giữa các văn bản pháp luật khác nhau.


3.4. Cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp may thời trang trong phát
triển nhượng quyền thương mại tại địa bàn Hà Nội
3.4.1. Cơ hội
Theo đánh giá của tác giả Hà Nội là một thành phố rất có tiềm năng để phát
triển NQTM. Do đó, các doanh nghiệp trong ngành may thời trang có rất nhiều cơ
hội để phát triển NQTM trong lĩnh vực này. Các cơ hội đó xuất phát từ những yếu
tố sau đây: Thứ nhất là quy mô dân số và các đặc điểm về dân số ở Hà Nội tạo ra
sức cầu lớn về hàng tiêu dùng nói chung và may mặc nói riêng. Thứ hai thu nhập
của người dân Hà Nội ngày càng được cải thiện, thu nhập bình quân đầu người
ngày càng tăng lên. Thứ ba người tiêu dùng Hà Nội rất coi trọng chất lượng và
thương hiệu. Thứ tư Hà Nội là thành phố có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn
định về chính trị. Thứ năm doanh nghiệp ở Hà Nội có rất nhiều ưu điểm phù hợp
với hoạt động kinh doanh NQTM.
Như vậy, với những điều kiện trên đây thì triển vọng phát triển NQTM tại
Hà Nội là rất lớn đặc biệt trong lĩnh vực may thời trang.
3.4.2. Thách thức
Bên cạnh rất nhiều cơ hội giúp doanh nghiệp may thời trang Việt Nam có
thể phát triển NQTM thì cũng có những thách thức, trở ngại mà doanh nghiệp cần
phải vượt qua như sau: Thứ nhất là các doanh nghiệp may thời trang của Việt Nam
còn thiếu kinh nghiệm và chuyên môn về nhượng quyền thương mại để tổ chức
quản lý một hệ thống nhượng quyền chặt chẽ và khoa học. Thứ hai là các thương
hiệu may thời trang của Việt Nam hiện đang phải đối mặt với sự cạnh tranh mạnh

mẽ từ các sản phẩm may thời trang của nước ngoài. Thứ ba là các doanh nghiệp
phải đối mặt với khó khăn về vốn vay để có thể phát triển hệ thống NQTM.

CHƯƠNG 4: CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NHƯỢNG QUYỀN
THƯƠNG MẠI CHO CÁC DOANH NGHIỆP MAY THỜI TRANG VIỆT
NAM Ở ĐỊA BÀN HÀ NỘI


4.1 Các giải pháp phát triển nhượng quyền thương mại của các doanh nghiệp
may thời trang Việt Nam ở địa bàn Hà Nội
4.1.1 Các giải pháp về phía doanh nghiệp nhượng quyền
Trong phần này tác giả đưa ra 8 giải pháp để phát triển NQTM đối với các
doanh nghiệp nhượng quyền bao gồm:
4.1.1.1 Tiếp tục xây dựng, củng cố và bảo vệ thương hiệu
Xây dựng thương hiệu là một yếu tố quan trọng nhất để doanh nghiệp có
thể tiến hành NQTM. Muốn xây dựng một thương hiệu may thời trang mạnh cần
chú trọng đến 3 yếu tố: Chất lượng, thiết kế và truyền thông, quảng bá. Ở đây tác
giả xin đưa ra các giải pháp liên quan tới 2 vấn đề là thiết kế và truyền thông,
quảng bá.


- Các giải pháp để nâng cao năng lực thiết kế bao gồm:
 Mở hoặc tham gia tài trợ cho các cuộc thi thiết kết thời trang qua đó chọn ra
các nhà thiết kế giỏi.
 Phải có chính sách lương, thưởng tốt để giữ chân các nhà thiết kế giỏi.
 Hàng năm cho các nhà thiết kế đi đào tạo, bồi dưỡng thêm kiến thức ở nước
ngoài để cập nhập những xu hướng thời trang mới trên thế giới.
- Các giải pháp để tăng cường truyền thông, quảng bá thương hiệu bao gồm:
 Tài trợ cho các chương trình, sự kiện, game show được ưu thích trên truyền
hình, tài trợ trang phục cho các bộ phim giải trí đặc biệt các phim phát vào giờ

vàng trên truyền hình. Theo tác giả đây là một kênh rất có hiệu quả nhưng đòi hỏi
doanh nghiệp phải bỏ ra một khoản chi phí khá cao.
 Mở các chương trình biểu diễn thời trang để giới thiệu sản phẩm của doanh
nghiệp và mời những người nổi tiếng tham dự.
 Mời người nổi tiếng làm đại diện cho thương hiệu may thời trang của mình.
Tuy nhiên cách này cũng khá tốn kém nhưng sẽ mang lại hiệu quả rất lớn cho
doanh nghiệp.
 Tham gia vào các công tác xã hội như bảo vệ môi trường, tôn vinh phụ nữ...
Cách này không những quảng bá được thương hiệu mà còn giúp doanh nghiệp tạo
được niềm tin đối với người tiêu dùng
4.1.1.2 Xây dựng hệ thống nhượng quyền chuyên nghiệp
Trong phần này tác giả xin đưa ra các giải pháp để tạo ra đội ngũ nhân viên
quản lý và bán hàng chuyên nghiệp như sau:
-

May đồng phục cho các nhân viên theo phong cách thời trang của doanh

nghiệp.
-

Xây dựng các tiêu chuẩn, cách thức bán hàng một cách rõ ràng. Ví dụ như

cách đón tiếp, mời chào, giới thiệu, các thao tác phục vụ khách hàng như thế nào
phải được ghi rõ ràng.
-

Tổ chức các buổi tập huấn, huấn luyện cho nhân viên mới và định kỳ tổ

chức tập huấn cho nhân viên quản lý và bán hàng đặc biệt khi có sản phẩm mới.



-

Tổ chức các khóa học cho nhân viên về vấn đề tư vấn trang phục, cách

chọn đồ cho khách hàng.
-

Định kỳ tổ chức các buổi họp giữa các nhân viên trong hệ thống nhượng

quyền để đánh giá kết quả đạt được và rút kinh nghiệm.
4.1.1.3 Tăng cường truyền thông về mô hình nhượng quyền
Để quảng bá mô hình franchise của mình tới khách hàng, doanh nghiệp cần
thông qua các kênh truyền thông sau đây:
- Tham gia hội thảo, hội chợ triển lãm về nhượng quyền thương mại: Đây
cũng là cách để các doanh nghiệp học hỏi, tìm hiểu, tham dò thị trường và tìm kiếm
đối tác nhượng quyền.
- Truyền thông trên báo, tạp chí
- Truyền thông bằng E – marketing như: Quảng cáo, đăng tin trên website
hoặc sử dụng email
4.1.1.4 Lựa chọn đối tác nhận quyền trên tiêu chí và tiêu chuẩn rõ ràng
Theo tác giả lựa chọn đối tác nhượng quyền trong lĩnh vực may thời trang
các doanh nghiệp nên dựa trên các tiêu chí chính sau:
- Phải có kinh nghiệm kinh doanh trong ngành may thời trang
- Phải có niềm đam mê với thời trang và có niềm tin vào sản phẩm.
- Phải có tiềm lực về tài chính.
4.1.1.5 Tiến tới nhượng quyền phương thức kinh doanh trong ngành may thời
trang
Theo tác giả các doanh nghiệp có thể tiến tới nhượng quyền phương thức
kinh doanh. Bằng cách bên nhượng quyền chuyển cả quyền sản xuất, công nghệ

sản xuất sản phẩm và thiết kế cho franchisee thay vì chỉ phân phối sản phẩm như
trước. Nhưng với điều kiện đó là franchisor sẽ là người cung cấp nguyên vật liệu
cho franchisee và franchisee phải cam kết bảo mật bí quyết kinh doanh cho
franchisor. Mục tiêu của việc nhượng quyền phương thức kinh doanh trong ngành
này đó là để doanh nghiệp giảm được áp lực trong khâu sản xuất và chủ yếu tập


trung vào khâu thiết kế, xây dựng thương hiệu mà thôi. Hơn nữa, doanh nghiệp có
thể thu được phí franchise cao hơn nhiều.


4.1.1.6 Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với các franchisee
Các doanh nghiệp nhượng quyền trong ngành may thời trang cần xây dựng
một kênh liên lạc thường xuyên với những franchisee. Xây dựng kênh thông tin
bằng cách:
- Tổ chức những buổi họp định kỳ giữa doanh nghiệp với các franchsee để
góp ý kiến về khâu tiếp thị, quảng cáo, bán hàng...
- Tổ chức hội nghị khách hàng thường niên cho tất cả các franchisee .
- Xây dựng một hệ thống intranet kết nối tất cả các cửa hàng nhượng quyền
với nhau và với doanh nghiệp.
- Tổ chức các chương trình đào tạo, huấn luyện thường xuyên để trao đổi
thông tin với các franchisee dựa trên nhu cầu thực tế của các cửa hàng.
4.1.1.7 Thành lập ban kiểm soát đối với hệ thống franchise
Theo tác giả nhân sự trong ban kiểm soát phải gồm những người am hiểu
về sản phẩm may thời trang, có trình độ chuyên môn về tài chính, luật pháp, nắm
vững các quy định của hợp đồng nhượng quyền và các chính sách thương mại của
doanh nghiệp. Nội dung kiểm soát cần tập trung vào các vấn đề như: Việc tổ chức,
thực thi phương thức kinh doanh nhượng quyền; vấn đề tài chính; khắc phục các
vi phạm trong hạn định. Việc kiểm tra có thể diễn ra định kỳ hoặc đột xuất hoặc có
thể sử dụng những biện pháp kiểm tra giám sát khác như khách hàng bí ẩn, tham

khảo ý kiến của người tiêu dùng, đặc biệt đối với sản phẩm may thời trang nên
tham gia vào các trang mạng xã hội hoặc các diễn đàn dành riêng cho phụ nữ để
nhận phản hồi...
4.1.1.8 Xây dựng chiến lược marketing cho hệ thống nhượng quyền ở cấp độ khu
vực và quốc gia.
4.1.2 Các giải pháp về phía các doanh nghiệp nhận nhượng quyền
Trong phần này tác giả xin đưa ra một số giải pháp về phía doanh nghiệp
đang nhận quyền như sau:
- Thực hiện đúng cam kết với nhà nhượng quyền
- Chủ động nghiên cứu thị trường địa phương


- Tích cự chia sẻ và học hỏi kinh nghiệm từ những nhà nhận quyền khác
- Thông tin kịp thời với doanh nghiệp nhượng quyền các vấn đề phát sinh
trong cửa hàng franchise
4.2. Một số kiến nghị với cơ quan Nhà nước
- Hoàn thiện khung pháp lý về NQTM.
- Cần có những chính sách hỗ trợ cho hoạt động NQTM.
- Phát triển mối liên kết giữa ngân hàng thương mại với bên nhượng quyền,
bên nhận quyền và Nhà nước.
- Thành lập Ban nghiên cứu về NQTM và đưa hoạt động này vào chương
trình phát triển quốc gia nhằm tăng số lượng doanh nghiệp nhượng quyền và nhận
quyền tại Việt Nam.
- Đưa các chương trình huấn luyện, khóa học về NQTM vào giảng dạy cho
khối ngành kinh tế ở các trường đại học để tạo ra đội ngũ lao động có kiến thức và
kỹ năng về NQTM.


KẾT LUẬN
NQTM là một phương thức kinh doanh đã được chứng minh là rất có hiệu

quả và giảm tỷ lệ thất bại cho các doanh nghiệp. Ở thị trường Việt Nam, NQTM
có rất nhiều tiềm năng phát triển và tương lai chác chắn sẽ phát triển. NQTM được
dự báo là sẽ bùng nổ trong tương lai ở Việt Nam. Thực tế đã chứng minh với sự
thành công của rất nhiều mô hình nhượng quyền thương hiệu thời trang trên thế
giới. Việt Nam, trong giai đoạn vừa qua đã có rất nhiều doanh nghiệp trong lĩnh
vực may thời trang khẳng định được tên tuổi của mình. Vậy vấn đề chính là làm
thế nào để doanh nghiệp có thể phát triển được thương hiệu của mình không chỉ
giới hạn trong phạm vi quốc gia. NQTM là một phương thức hoàn toàn phù hợp
với mục tiêu đó.
Luận văn một lần nữa đã nhấn mạnh những ưu điểm này của NQTM nhưng
có sự liên hệ với một lĩnh vực cụ thể đó là may thời trang. Đặc biệt, luận văn đã
phân tích được thực trạng NQTM trong ngành may thời trang tại Hà Nội từ đó rút
ra những hạn chế và nguyên nhân dẫn tới hạn chế đó. Không những thế, luận văn
còn đưa ra những giải pháp phát triển NQTM cho các doanh nghiệp may thời
trang Việt Nam ở Hà Nội. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã gặp
phải những khó khăn nhất định dẫn tới luận văn có những hạn chế sau:
- Do điều kiện về nguồn lực và thời gian nghiên cứu còn hạn chế nên số
mẫu điều tra của tác giả còn khá ít.
- Tác giả cũng chưa có điều kiện điều tra đối với chủ các cửa hàng trong hệ
thống nhượng quyền nên trong phần thực trạng chủ yếu luận văn đánh giá trên góc
độ điều tra các doanh nghiệp nhượng quyền.
- Do việc tìm hiểu thông tin về tài chính của các doanh nghiệp khi tham gia
vào NQTM rất khó nên luận văn chưa thể đánh giá lợi ích của các doanh nghiệp
trên cơ sở phân tích doanh thu và chi phí được.
Tuy nhiên, những hạn chế hiện tại của luận văn sẽ là cơ hội cho các nghiên
cứu trong tương lai về phát triển NQTM trong lĩnh vực may thời trang.





×