Tải bản đầy đủ (.doc) (126 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ văn hóa NHÂN vật CHÈO TRUYỀN THỐNG dưới góc NHÌN văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (501.54 KB, 126 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của luận văn
Nghệ thuật Chèo đã hiện hữu trong đời sống tinh thần của dân tộc
Việt Nam không phải một, hai thế hệ mà là lớp lớp thế hệ; không phải một hai
thế kỷ mà nhiều thế kỷ; không phải một hai nơi mà khắp cả vùng đồng bằng
châu thổ sông Hồng. Nó là kết tinh những vẻ đẹp tâm hồn của người lao động,
là thành quả của trí tuệ dân gian, là công trình sáng tạo nghệ thuật thẩm mỹ, là
khát vọng về tự do, công bằng và lý tưởng nhân văn hướng tới chân - thiện mỹ.
Từ thập kỷ văn hóa những năm 80 của thế kỷ XX, người ta thường
nhắc đến văn hóa như là một động lực để phát triển xã hội và đòi hỏi ở tất cả
các lĩnh vực của đời sống của hoạt động con người một chất lượng, một trình
độ văn hóa hay nói đúng hơn là trên mọi lĩnh vực đều cần có một sự đòi hỏi
được văn hóa hóa.
Vấn đề bản lĩnh, bản sắc của mỗi dân tộc trong quá trình phát triển và
hội nhập của mỗi quốc gia vào những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI
này, không phải là vấn đề gì khác, xa lạ với việc nhận thức được đầy đủ các
giá trị văn hóa dân tộc độc đáo của mỗi nước.
Nghệ thuật Chèo - một thực thể văn hóa dân tộc không chỉ là đối tượng
nghiên cứu của văn học, mà còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều bộ môn:
âm nhạc học, vũ đạo học, dân tộc học, đạo đức học, nghệ thuật học…
Vẻ đẹp của hình tượng, hình ảnh của tư duy sáng tạo đậm chất dân
gian, những vấn đề xã hội - đạo đức tình cảm thường được gửi gắm trong mỗi
vở Chèo. Tìm hiểu nhân vật Chèo, ta có thể khám phá cả lời ăn tiếng nói của
nhân dân, những tri thức về phong tục tập quán, về những ứng xử đạo đức


2


tinh thần… đến cả những dấu ấn của tính thời đại, cấu trúc thôn xã, những
quan hệ chính trị - kinh tế - văn hóa.
Có thể nói, sân khấu dân tộc nói chung và nghệ thuật Chèo nói riêng
đều được sáng tạo theo quy trình sáng tạo văn hóa, và đến lượt nó, nó lại là cơ
sở để chuyển tải các giá trị văn hóa, là phương tiện lưu giữ văn hóa truyền từ
đời này sang đời khác.
Tìm về đặc sắc của văn hóa dân tộc không phải chỉ để bồi dưỡng lòng
tự hào, không phải chỉ là để kế thừa theo lối lấy, bỏ, thêm, bớt, mà còn để
phát huy tiềm năng sáng tạo, giải phóng sức sáng tạo. Về mặt này, thì khi đi
tìm hiểu nhân vật Chèo truyền thống dưới góc nhìn văn hóa, ta sẽ thấy rõ
thiên hướng, mục tiêu, cung cách sáng tạo đã bộc lộ trong quá khứ - có phần
là mặt mạnh, có phần là điểm yếu - từ đó giúp chúng ta những kinh nghiệm
trên bước đường bảo tồn và phát huy Chèo hiện đại trong tương lai.
Thực tế hơn một nửa thế kỷ qua, đã có một sân khấu Chèo hiện đại kế
thừa và phát huy truyền thống, tuy nhiên, chưa thực sự có nhiều đỉnh cao và
vẫn chưa có được những mô hình vở diễn mẫu mực. Và hơn nữa, sự thiếu
vắng khán giả vẫn đang là căn bệnh trầm kha của ngành sân khấu nói chung
và ngành Chèo nói riêng… Bởi vậy nên việc tìm hiểu giá trị văn hóa tự thân
của nghệ thuật Chèo thực sự trở nên cần thiết. Nó có thể đánh giá lại (hoặc
phát triển thêm) những giá trị văn hóa truyền thống để làm điểm tựa tinh thần
cho sự phát triển.
Trong sự vận động và phát triển không ngừng của xã hội, Chèo cần
phải đổi mới sáng tạo, nhưng để sáng tạo cách tân đạt được hiệu quả mong muốn
thì ngoài việc nhận thức đúng, quan điểm đúng, cần phải có một bản lĩnh văn
hóa vững vàng. Là người đã từng theo dõi thực tế nghệ thuật Chèo nhiều năm,
lại đã từng thực hiện một đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ về Nghệ thuật


3


xây dựng hình tượng nhân vật trên sân khấu Chèo truyền thống, tôi nhận thấy
rất rõ rằng, cần phải tiếp cận hiện tượng Chèo từ góc nhìn văn hóa mới có khả
năng đi sâu thấu hiểu, thâm nhập vào ý nghĩa bên trong và các giá trị đích
thực của đối tượng nghiên cứu (Chèo). Tìm hiểu các hiện tượng cấu thành của
Chèo như những chỉnh thể, đồng thời chỉ ra được mối quan hệ nhân quả và
các chức năng của hiện tượng văn hóa Chèo để từ cơ sở đó đi sâu vào những
tác nhân kích thích sự phát triển của nghệ thuật Chèo trong xã hội hiện đại.
Bởi thế, việc nghiên cứu nghệ thuật Chèo dưới góc nhìn văn hóa là một việc
làm hết sức cần thiết đến cấp thiết.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu của luận văn
2.1. Đề cập đến vấn đề nhân vật Chèo, tuy chưa có công trình nào
chuyên sâu nghiên cứu vấn đề này một cách có hệ thống và toàn diện, nhưng
trong hầu hết các công trình nghiên cứu của các giáo sư, các nhà nghiên cứu
đầu ngành của làng Chèo như: GS. Trần Bảng, PGS. Hà Văn Cầu, nhạc sĩ
Hoàng Kiều, TS. Trần Đình Ngôn, PGS. Trần Trí Trắc... đều khẳng định tầm
quan trọng của vấn đề nhân vật Chèo.
2.2. Một số công trình nghiên cứu lý luận có giá trị về Chèo cũng đã
có phần nào đứng từ góc nhìn văn hóa. Đáng kể nhất là các công trình: "Chèo một hiện tượng sân khấu dân tộc" của GS. Trần Bảng. Dù là một tác phẩm
nghiên cứu mang tính khái luận về Chèo, về các vấn đề lý luận cơ bản của
nghệ thuật Chèo, nhưng khi đề cập đến vấn đề Chèo - tiếng nói tâm hồn dân
tộc - ông cũng khẳng định:
Có thể nói rằng, thuộc về một loại sân khấu tổng thể (theatre
total) nghệ thuật Chèo đã hội tụ ở nơi mình tinh hoa của cả nền văn
hóa gốc gác lâu đời của lưu vực sông Hồng. Xuất phát từ một nghệ
thuật dân gian, Chèo đã nhanh chóng phát triển và phổ biến rộng rãi


4

để trở thành một sân khấu dân tộc mang màu sắc đa dạng của từng

chiếng Chèo khác nhau: Chèo Đông, Chèo Đoài, Chèo Kinh Bắc,
Chèo Sơn Nam... [5, tr. 6].
Hoặc trong một loạt những chuyên luận nghiên cứu với chủ đề "Đi
tìm bản sắc dân tộc trong Chèo từ góc nhìn văn hóa", nghiên cứu về Thi
pháp Chèo dưới sức ép thẩm mỹ của ý đồ giáo huấn đạo đức, PGS Tất
Thắng cũng có những đóng góp đáng kể trong việc chỉ ra những bản sắc dân
tộc trong việc xây dựng các nhân vật nữ, trong ngôn ngữ Chèo, trong các
yếu tố Trò, hoặc cụ thể hơn là trong một vai diễn Thị Mầu, một vai diễn Súy
Vân... Hiện tượng Chèo chú trọng xây dựng các hình tượng nhân vật phụ nữ
với quá trình: tại gia - xuất gia - xa phu... được PGS phân tích tìm hiểu từ
ngọn nguồn: ý đồ giáo huấn đạo đức cùng với sức ép thẩm mỹ của nó.
2.3. Hướng nghiên cứu nghệ thuật từ góc độ văn hóa ở nước ta thực sự
chưa được chú trọng nhiều, tuy nhiên đó là một hướng nghiên cứu thực sự cần
thiết. Theo PGS.TS Phan Thu Hiền thì trong quá trình phát triển, nghệ thuật
học đã trải qua nhiều chặng đường và hướng nghiên cứu nghệ thuật từ góc độ
văn hóa "dần dà được manh nha từ thế kỷ XIX, Jacob Burckhardt nghiên cứu
nghệ thuật học từ hướng lịch sử văn hóa, xem nghệ thuật có vị trí chủ đạo
trong các bộ phận hợp thành của văn minh..." [18, tr. 10]. Nghệ thuật không
đơn giản chỉ là bộ phận của văn hóa mà hơn thế, theo M. Kagan: "Nghệ thuật
một mặt trở thành sự "tự ý thức" của văn hóa, mặt khác, trở thành mã (code)
văn hóa của nó" [21, tr. 95].
3. Giới hạn phạm vi đề tài
Từ góc nhìn văn hóa, đối tượng nghiên cứu chủ yếu là các nhân vật
Chèo trong các vở Chèo truyền thống - cụ thể hơn là các vở Chèo cổ.
4. Các nguồn tư liệu
- Từ các kịch bản Chèo cổ.


5


- Từ các nghệ nhân
- Từ các nghệ sĩ biểu diễn (các vở Chèo truyền thống của các đoàn
Chèo trong cả nước).
- Từ các thư tịch và chứng tích lịch sử liên quan đến sân khấu Chèo
qua các thời kỳ.
- Từ phim ảnh tư liệu (Nhà hát Chèo)
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chọn lựa việc hệ thống hóa, so sánh, đối chiếu... làm phương
pháp nghiên cứu chủ yếu. Nhưng trên cơ sở thực tiễn của nghệ thuật Chèo
truyền thống, một nghệ thuật từ xa xưa, vốn là hình thức sân khấu được sáng
tạo theo chu trình mở: thế hệ này nối tiếp thế hệ kia và bổ sung, hoàn chỉnh để
rồi lại làm cơ sở cho thế hệ tiếp theo sáng tạo... nên trong quá trình triển khai
thực hiện, luận văn sẽ phải kết hợp cả phương pháp nghiên cứu tiếp cận liên
ngành (triết học, mỹ học, lịch sử, dân tộc học, xã hội học...).
6. Mục đích và đóng góp của luận văn
Từ góc nhìn văn hóa, luận văn đi tìm hiểu một số phương diện cần
thiết của nhân vật Chèo, qua đó để thấy được bản sắc văn hóa tiềm ẩn trong
nhân vật Chèo. Đây thực sự là một vấn đề nghiên cứu vừa có ý nghĩa lý luận,
vừa có ý nghĩa thực tiễn. Là một vấn đề nghiên cứu rất hay nhưng khó, người
viết không hy vọng trong phạm vi một luận văn thạc sĩ có thể giải quyết được
vấn đề ấy. Toàn bộ nội dung cơ bản của luận văn mới chỉ bước đầu tiếp cận
vẻ đẹp, sự độc đáo. dấu ấn văn hóa trong các nhân vật Chèo truyền thống.
Khám phá và cắt nghĩa thế giới văn hóa tinh thần kết tinh trong các hình
tượng nhân vật Chèo, khẳng định vị thế văn hóa của nghệ thuật Chèo trong
đời sống xã hội hiện đại, đưa ra nhận định rằng, Chèo chỉ có thể đạt đến


6

những đỉnh cao nghệ thuật, những thành tựu nghệ thuật rực rỡ trên cơ sở đạt

đến một mặt bằng văn hóa cao, đó là những nội dung mà tác giả luận văn cố
gắng lý giải, chứng minh. Hơn nữa, mỗi người sáng tạo đồng thời phải là một
nhà văn hóa hoặc ít ra là phải đạt được một vài tiêu chí văn hóa tối thiểu nào
đó. Ở đây chúng tôi cũng đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần gìn giữ bản
sắc nghệ thuật Chèo - niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Nghệ thuật Chèo từ cội nguồn văn hóa.
Chương 2: Nhân vật Chèo từ góc nhìn văn hóa.
Chương 3: Bản sắc văn hóa tiềm ẩn qua nhân vật Chèo.


7

Chương 1
NGHỆ THUẬT CHÈO TỪ CỘI NGUỒN VĂN HÓA

1.1. TỪ ĐỊNH NGHĨA VỀ VĂN HÓA

Nhận thức luôn là một quá trình biến đổi không ngừng và ngày càng
tiếp cận chân lý. Trong khoa học xã hội hiện đại, khái niệm văn hóa gắn liền
với số lượng những khái niệm cơ bản và khó có thể tìm thấy một khái niệm
nào có nhiều sắc thái ngữ nghĩa đến thế. Cho đến nay, đã có đến hơn 500 định
nghĩa về văn hóa.
Từ mục đích của luận văn, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến một định
nghĩa về văn hóa trong Từ điển Bách khoa Việt Nam:
Văn hóa là toàn bộ những hoạt động sáng tạo và những giá
trị của nhân dân một nước, một dân tộc về mặt sản xuất vật chất và
tinh thần trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Khái niệm văn

hóa hiểu theo nghĩa nhân văn rất rộng. Nguyên tổng giám đốc
UNESCO, ông Mayo (F.Mayor), đưa ra một khái niệm văn hóa vừa
mang tính khái quát vừa có tính đặc thù: "Văn hóa bao gồm tất cả
những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản
phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán,
lối sống và lao động". Khái niệm này được cộng đồng quốc tế chấp
nhận tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hóa tại
Vơnidơ 1970 [47, tr. 789].
Như thế, văn hóa chính là cốt lõi sáng tạo của trí tuệ và tâm hồn của
mỗi dân tộc, là tính năng động đầy sáng tạo được truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác, nó thâu tóm, xác định bản thể và sự tiến triển của một dân tộc đã
được xác định. Văn hóa của mỗi một dân tộc đều có một bản sắc riêng, bản
sắc văn hóa là căn cước của mỗi dân tộc giữa cộng đồng quốc tế, cái "căn


8

cước" được xác nhận bởi cách suy nghĩ, cách cảm nhận của mỗi dân tộc, bởi sự
tiến triển của tâm hồn mỗi dân tộc trước thiên nhiên, trước nhân loại và cuối
cùng bởi cảm quan của mỗi dân tộc về thế giới, cảm quan đó quyết định mọi ứng
xử của mỗi dân tộc. Tất cả các nền văn hóa, Việt Nam cũng như Trung Quốc
hay Pháp, Mỹ, Cuba… đều cho thấy một tổng thể các giá trị duy nhất và không
thể thay thế được, bởi vì chính là nhờ vào văn hóa mà mà mỗi dân tộc có thể
biểu lộ một cách trọn vẹn nhất sự hiện diện của mình trên thế giới. Từ đây có
thể phát hiện ra tính cách dân tộc, khám phá những đặc điểm về tâm lý, tình
cảm, tâm thức dân tộc. Vấn đề bản lĩnh, bản sắc mà chúng ta thường nhắc
trong quá trình phát triển và hội nhập của mỗi quốc gia không phải là vấn đề
gì khác, xa lạ với vấn đề nhận thức đầy đủ các giá trị văn hóa của mỗi dân tộc.
1.2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM


Giá trị văn hóa Việt Nam được hình thành bởi nhiều nhân tố xã hội,
địa lý, lịch sử, vừa đa dạng, vừa lâu dài trên mảnh đất mang hình chữ S.
1.2.1. Khát vọng hòa mình với thiên nhiên và ý thức độc lập dân
tộc trong quá trình tiếp biến văn hóa
Trước hết, bao trùm và thấm đượm trong toàn bộ nền văn hóa dân tộc
Việt là khát vọng chung sống hòa mình với thiên nhiên, khát vọng độc lập,
đấu tranh chống cường quyền đòi tự do, bình đẳng, dân chủ.
Nhìn từ góc địa lý, Việt Nam ở góc bán đảo Đông Nam Á trông ra
biển Đông và Thái Bình Dương với trên 3.200 km bờ biển nằm trên các tuyến
giao thông đường biển. Địa thế Việt Nam nối tiếp giữa ba vùng núi - đồng
bằng - bờ biển theo các triền sông chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam,
đồng thời ở thế "diện hải bối sơn" (mặt trông ra biển, lưng dựa vào núi), tạo
nên một hành lang Bắc - Nam tương đối hẹp. Phương tiện đi lại phổ biến từ
ngàn xưa là đường thủy. Sách Lĩnh Nam chích quái chép rằng, người Việt cổ
"lặn giỏi, bơi tài, thạo thủy chiến, giỏi dùng thuyền".


9

Khí hậu nhiệt đới gió mùa - nóng ẩm, mưa nhiều, đã từng tồn tại một
thảm thực vật tiền sử lớn Đông Nam Á, tạo điều kiện cho một nền nông
nghiệp nguyên thủy từ rất sớm, dẫn đến nền nông nghiệp lúa nước. Tuy
nhiên, đất đai canh tác hạn hẹp, quanh năm chống chọi với thiên tai, bão tố,
lụt lội và hạn hán.
Sống trong điều kiện của một tự nhiên khắc nghiệt, người Việt biết
khắc phục, biết hòa mình vào tự nhiên, xem tự nhiên như nguồn sống, điều
kiện sống của mình. Không bất bình, trái lại người Việt luôn ca ngợi thiên
nhiên, biến cảnh vật tự nhiên thành một phần cơ sở tạo nên văn hóa dân tộc.
Từ cấy cày, làm lụng, lối sinh hoạt cho đến lời ăn tiếng nói, văn chương, nghệ
thuật con người đều sử dụng, mô phỏng, hòa hợp với cái đại thế giới bên

ngoài con người một cách tự tin với một tinh thần lạc quan qua những huyền
thoại Mẹ Âu Cơ; Ông Đổng ông Đùng; Sơn Tinh Thủy Tinh...
Như thế, thiên nhiên Việt là điểm xuất phát của văn hóa Việt. Văn hóa
còn là sự thích nghi và biến đổi thiên nhiên. Thiên nhiên đặt trước con người
những thử thách, những thách đố. Văn hóa là sản phẩm của con người, là
phản ứng, là sự trả lời của con người trước những thách đố của tự nhiên. Văn
hóa Việt cổ truyền vừa là sự hòa điệu, vừa là sự đấu tranh với thiên nhiên.
Bên cạnh đó, người Việt luôn có ý thức đối kháng bất khuất và thường
trực trước nguy cơ xâm lược từ phía phong kiến Trung Quốc. Các cuộc khởi
nghĩa ngoan cường liên tiếp xảy ra: Hai Bà Trưng, Triệu Thị Trinh, Lý Bôn,
Triệu Quang Phục, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng... và đỉnh cao là cuộc khởi
nghĩa thắng lợi của Ngô Quyền (năm 938).
Từ những thành tựu rực rỡ của nền văn hóa Đông Sơn, rồi đến nền
văn hóa Đại Việt (thế kỷ VI, VII trước công nguyên đến một vài thế kỷ sau
công nguyên), đến nền văn hóa Lý - Trần (thế kỷ XV)... đã thể hiện một
trình độ văn minh khá cao, một bản sắc dân tộc độc đáo từ thời người Việt
cổ... Có thể nói, chính những nền văn hóa này đã hun đúc cho người Việt


10

một ý chí, một bản lĩnh vững vàng để sẵn sàng đương đầu và chiến thắng với
bất kỳ một kẻ thù xâm lược nào. Trải qua một ngàn năm phong kiến Bắc
thuộc, 80 năm thực dân Pháp đô hộ, rồi đến 30 năm chiến tranh xâm lược
của đế quốc Pháp, Mỹ, người Việt đã chiến đấu hết mình với một khát vọng
độc lập dân chủ, kiên cường:
"Như nước Đại việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu"
Tư tưởng độc lập dân chủ như sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử dân tộc
Việt 4.000 năm đã thấm sâu vào mọi hoạt động của người dân Việt.

Thế giới văn hóa người Việt là thế giới của những gì xuất phát từ cuộc
sống thực để vươn lên cái cao cả, cái chí thượng; song cũng chỉ là để trở về
với đời sống thực tế vốn cần được cao đẹp hơn, nhân văn hơn. Khát vọng độc
lập dân tộc còn chi phối trong cả quan điểm tư tưởng của người Việt.
Phương thức tồn tại là lấy thực tiễn dân tộc làm cốt lõi, nền tảng
Từ góc độ tư tưởng, phương thức tồn tại và các biểu hiện văn hóa (kể
cả văn hiến, văn minh) Việt Nam là lấy thực tiễn dân tộc - cộng đồng làm cốt
lõi, nền tảng.
Ở vị trí ngã tư của các nền văn minh, người Việt Nam tiếp nhận nhiều
giá trị văn hóa nhân loại: tiếp thu văn hóa Ấn Độ theo cách của mình, ta có
nền văn hóa Chăm độc đáo và một nền Phật giáo Việt Nam; tiếp thu văn hóa
Trung Hoa ta có Nho giáo và Đạo giáo mang sắc thái Việt Nam; tiếp thu văn
hóa phương Tây, ta cũng có Kitô giáo nhưng cùng với nó là những giá trị vật
chất và tinh thần mới mẻ. Đặc trưng nổi bật trong quá trình giao lưu văn hóa
nhiều thế kỷ là tính tổng hợp - chung hợp - tích hợp.
Giai đoạn văn hóa chống Bắc thuộc đã mở đầu cho quá trình giao lưu
tiếp nhận văn hóa Trung Hoa, Ấn Độ, cũng chính là mở đầu cho quá trình văn
hóa Việt Nam hội nhập vào văn hóa khu vực.


11

Trong suốt thiên niên kỷ thứ nhất, nhân dân Giao Chỉ sống dưới ách
đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc, những âm mưư đồng hóa mà
các thái thú Tích Quang, Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp... trực tiếp mở trường dạy học
để truyền bá văn hóa Trung Hoa, thủ tiêu văn tự ngôn ngữ Việt. Thậm chí Mã
Viện đem cả quân Mã Lưu sang cũng khong những không thực hiện được
nhiệm vụ đồng hóa người Việt và làm chỗ dựa cho chính quyền, mà trái lại
còn bị người Việt đồng hóa hoàn toàn.
Từ thế kỷ thứ II, người Ấn Độ đã sang nước ta buôn bán và truyền giáo.

"Luy Lâu là trung tâm chính trị của chính quyền đô hộ phương Bắc trong nhiều
thế kỷ... Các nhà buôn người Ấn Độ và người Trung Hoa đến buôn bán ở đây
rất sớm và theo sau họ là các nhà sư đến hành đạo và truyền đạo" [25, tr. 28].
Phật giáo truyền từ Ấn Độ song đã đi vào đời sống người Việt và trở
thành quốc giáo trong suốt bốn triều vua liên tiếp: Đinh, Lê, Lý, Trần.
Những biến đổi của đạo Phật ở Việt Nam cho ta thấy một cách rõ ràng
nhất cách thức của người Việt - với truyền thống của nền văn hóa Đông Sơn,
đã tiếp thu hai nền văn hóa lớn của châu Á như thế nào. Đạo Phật ở Giao
Châu lúc bấy giớ vừa có dáng dấp của đạo Hoàng Lão vừa mang đậm dấu ấn
của tín ngưỡng thờ thần linh của người Việt xưa. "Phật được quan tâm như
một vị thần linh có nhiều phép lạ, có thể biến hóa thành các hiện tương thiên
nhiên quanh con người, thành các vật thần, thánh, các vật linh thiêng mang
phúc trừ họa như hòn đá và tượng Tứ pháp trong "truyện Man Nương", hay là
cái gậy, cáinón trong chuyện Chử Đồng Tử" [25, tr. 40].
Phật giáo ở Việt Nam kết hợp chặt chẽ việc đạo với đời. Vốn là một
tôn giáo xuất thế, nhưng vào Việt Nam, Phật giáo trở nên nhập thế (sự gắn bó
đạo - đời không chỉ thể hiện ở các nhà sự tham gia chính sự mà còn ở chỗ có
quá nhiều vua quan quý tộc đi tu. Đến đầu thế kỷ XX, Phật tử Việt Nam còn
hăng hái tham gia các hoạt động xã hội - vận động đòi ân xá Phan Bội Châu
và tổ chức đám tang Phan Chu Trinh. Trong phong trào đấu tranh đòi hòa


12

bình và độc lập dân tộc, các Phật tử xuống đường phản đối nền độc tài Ngô
Đình Diệm, đỉnh cao là sự kiện hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu vào
mùa hè 1963).
Có thể nói, sự chi phối mạnh mẽ của tính dung hợp truyền thống đã
khiến cho hầu hết các tôn giáo vào Việt Nam đều tìm được chỗ đứng thích
đáng của mình. Đạo giáo, Phật giáo, Nho giáo vào Việt Nam và tạo thành

"Tam giáo". Tam giáo đồng nguyên (ba tôn giáo cùng phát nguyên từ một
gốc), Tam giáo đồng quy (ba tôn giáo cùng quy về một mục đích). Sự dung
hòa tam giáo là một thực thể hình thành một cách tự nhiên trong tình cảm và
việc làm của người dân, và đến thời Lý - Trần thì triều đình công nhận rộng
rãi, tổ chức những kỳ thi Tam giáo để tìm những người thông thạo cả ba giáo lý
ra giúp nước.
Khi lựa chọn cho mình các giáo lý của Tam giáo, người Việt nhận ra
rằng Tam giáo mới nhìn thì khác nhau, nhưng suy ngẫm kỹ sẽ thấy nhiều khi
chỉ là những cách diễn đạt khác nhau về cùng một khái niệm. Vua Trần Thái
Tông (1218 - 1277) từng chỉ ra rằng, để khuyến khích con người làm điều
thiện: "Sách Nho thì dạy thi nhân bố đức; kinh Đạo dạy yêu vật, quý sự
sống; còn Phật thì chủ trương giữ giới, cấm sát sinh". Hoặc có khi là những
phạm trù khác nhau, thì những biện pháp khác nhau đều nhằm đến cùng một
mục đích. Cái khác nhau ấy không mâu thuẫn đối chọi với nhau mà bổ sung
hỗ trợ cho nhau: Nho giáo lo tổ chức xã hội sao cho quy củ; Đạo giáo lo thể
xác con người sao cho an khang; Phật giáo lo tâm linh con người sao cho
thoát khổ... Tuy nhiên, vào Việt Nam, Tam giáo đồng nguyên không phải là
phép tính cộng mà thực chất là một sự sáng tạo, một sự lựa chọn hòa hợp
của người Việt nhằm phục vụ cho cuộc sống đấu tranh với thiên nhiên và
với kẻ thù xâm lược.
Người Việt luôn luôn có khả năng tiếp thu và làm sáng hóa các tư
tưởng ngoại lai. Đúng nhu nhận xét của thiền sư Nguyễn Đăng Thục: "Sáng


13

hóa hay Việt hóa tức là đứng trước hai, ba hay nhiều trào lưu mâu thuẫn để
gây ra xung đột nội bộ, nhân dân Việt cùng với giới lãnh đạo biết vượt lên
trên hình thức cố hữu để hợp hóa vào một trào lưu mới, thích hợp cho ý chí
sinh tồn của một dân tộc" [43, tr. 137].

Trong mối giao lưu đa phương, qua nhiều thế thế kỷ này, người Việt
có dịp tiếp xúc, chọn lọc tiếp thu những tinh hoa nghệ thuật ngoài vào, Việt
hóa chúng trở thành những tài sản nghệ thuật của dân tộc.
Nghệ thuật múa Rối nước, một trong những loại hình sân khấu lâu đời
nhất của nhân loại có thể đã theo chân những người Ấn Độ và Trung Quốc du
nhập vào nước ta. Và người Việt vốn quen với sông nước đã sáng tạo ra nghệ
thuật múa Rối nước độc đáo của mình.
Nét hoa tay với những ngón đuổi nhau, cuộn vào và mở ra như cánh
ha khép mở cùng với sự chuyển động uyển chuyển, mềm mại của đôi cánh tay
trong múa Chèo phải chăng là sự biến dạng tài tình và độc đáo của đôi cánh
tay và bàn tay trong múa Ấn Độ. Nhưng khác với múa Campuchia và múa
Chăm, hoa tay của Việt Nam đã thoát ra khỏi tính quy ước nghiêm ngặt của
múa cổ điển Ấn Độ trở nên thanh thoát, tự do. GS. Trần Bảng đã kể lại rằng
trong chuyến đi lưu diễn của Đoàn nghệ thuật Chèo sang Trung Quốc năm
1960 mà ông làm Trưởng đoàn, báo chí đã nhanh chóng nhận ra tính độc đáo
của múa Chèo Việt Nam. Vương Văn Quyên, nghệ sĩ ưu tú của Đoàn kinh
kịch Thượng Hải đã gọi là đôi tay biết nói vì chúng có khả năng biểu hiện
không những tính cách nhân vật mà còn đủ các dạng khác nhau như trong các
nhân vật Súy Vân, Thì Mầu...
1.2.2. Khát vọng dân chủ, tinh thần nhân văn - nét nổi trội của
văn hóa Việt
Nền văn hóa Đại Việt ngay từ thuở ban đầu đã tỏ ra phong phú và có
một bản sắc ổn định. Phật giáo đã phát triển thành quốc giáo có những nét đặc
sắc, đại diện sau này có giáo phái Trúc Lâm.


14

Nhà lý về Thăng Long, nơi thật sự là "địa linh nhân kiệt", mở đầu sự
nghiệp xây dựng đất nước bằng chính sách dân tộc và dân chủ. Nêu cao ý

thưc "tự chủ tự cường", các vua Lý chủ trương: "Quốc gia trị có pháp độ,
không cần mô phỏng Đường, Tống", khuyến khích trồng dâu, nuôi tằm để tự
cung cấp vải lụa, gấm vóc. Xuất phát tư tinh thần bình đẳng, bác ái của đạo
Phật, các vua Lý - Tràn theo chính sách thân dân, Trong dân ai có oan ức có
thể "đánh chuông" để tâu lên vói vua. Vua và dân cùng vui cùng buồn, cùng
tham dự hội hè, cùng xem biểu diễn văn nghệ. Các hình thức nghệ thuật sân
khấu như diễn xướng, rối, xiếc thường diễn ra ngoài trời và phát triển mạnh.
Ý thức dân chủ thấm sâu vào mọi hoạt động tinh thần của từng người dân,
cuối đời Lý (1182), sử sách còn ghi lại cả một trò nhại trực tiếp châm biếm
vào tính hống hách của viên thái sử đương thời là Đỗ An Thuận.
Sang thời Lê thì tình hình đảo ngược. Các vua Lê chủ trương độc tôn
Nho giáo, coi nhẹ và giảm dần Phật giáo và Đạo giáo. Mọi nghi thức lớn nhỏ
đều phỏng theo triều đình phương Bắc. Khuynh hướng "vọng ngoại" dẫn đến
thái độ miệt thị nền văn nghệ dân gian, thực chất là dân tộc. Coi "nhà phường
chèo con hát" ngang với "kẻ phản nghịch, ngụy quan", còn cấm bản thân và
con cháu họ không được đi thi. Tuy nhiên, không dễ gì mà phá nổi cái truyền
thống dân tộc dân chủ đã ăn sâu hàng ngàn năm vào tâm hồn người Việt.
Lệnh cấm của triều đình không thể ngăn nổi các phường Chèo tồn tại và gắn
bó với người nông dân trong những ngày sinh hoạt hội hè. Chèo vẫn tồn tại và
phát triển ở làng quê như một món ăn tinh thần không thể thiếu được. Sự bó
kết cộng đồng, tinh thần đồng cam cộng khổ giữa con người ở cái làng Việt
với lũy tre xanh càng trở nên thắm thiết. Tư tưởng dân chủ thường được
biểuhiện ở tiếng cười châm biếm của các nhân vật Hề, Hề hầu quan chạy ra
báo với khán giả: "Quan sắp ra, ai có gà thì nhốt lại" và sau đó nói với quan:
"Quan là quan quan quàn dân, con là dân con dần quan"...
Ở thái độ đối với người phụ nữ, đề cao người phụ nữ với tràn ngập
tình yêu thương. Yêu thương con người, yêu thương cuộc sống. Trong lịch sử


15


tồn tại đầy gian nan, nghiệt ngã của mình, dân tộc Việt đã dùng tiếng cười để
cân bằng sinh thái tâm linh. Nét văn hóa lạc quan yêu đời đó luôn thường trực
trong mỗi tâm hồn Việt. Trước những bất công, phi lý, thiếu minh bạch của
cuộc đời, tinh thần lạc quan mang yếu tố dân chủ trong sự đấu tranh không
khoan nhượng với những thói hư tật xấu ấy chẳng kể vua, quan hay dân
thường. Đó chính là ước vọng về một cuộc sống tốt đẹp, lý tưởng mà người
Việt hằng ao ước. Đó cũng chính là lòng bao dung với một cách xử thế mềm
mỏng, cương, nhu hài hòa trong tâm thức người Việt, trong tâm hồn Việt một biểu hiện thiên về nữ tính. Người phụ nữ Việt xưa chưa bao giờ có địa vị
cá nhân đầy đủ, nên cũng ít phát triển cá nhân chủ nghĩa cực đoan. Phụ nữ
Việt vốn là con người của trách nhiệm và bổn phận một cách tự giác. Có tinh
thần trách nhiệm với tất cả mọi người, với cả quá khứ, hiện tại lẫn tương lai.
Họ thường tự coi mình là một khâu của cả một dây chuyền, nếu không phải là
hệ quả của kiếp luân hồi thì chí ít cũng có thừa hưởng âm phúc của tổ tiên, cố
tránh "ăn mặn" để con cháu sau này không phải "khát nước"... Từ đó có sự
gắn bó trong gia đình, coi trọng chữ "hiếu thảo", chữ "thủy chung", cũng từ
đó mà có mối quan hệ khăng khít với gia đình, với bà con làng xóm. Thước
đo giao tiếp xã hội không phải chỉ là lý mà thiên về tình... Khát vọng dân chủ
thể hiện rất rõ ở những nhân vật mà chế độ phong kiến gọi là "nghịch nữ".
Một Thị Mầu xuất hiện như một ngọn lửa rừng rực tình yêu, táo báo, thách
thức, phá tan mọi ràng buộc của lễ giáo phong kiến đi tìm quyền tự do yêu
đương. Một Súy Vân giả dai để thoát khỏi cảnh cô đơn lạnh lùng... ở sân khấu
Chèo. Bên cạnh đó những truyện cười, truyện sử, những sáng tác của văn học
dân gian (đặc biệt là tác phẩm Thiên nam ngữ lục), các tích trò của múa Rối...
cũng lên tiếng khá mạnh mẽ đòi quyền tự do dân chủ... đến nỗi ở nhiều nơi
chính quyền phong kiến phải sợ hãi ra lệnh cấm mà vẫn không ngăn nổi.
Bên cạnh cái tình, người Việt còn coi trong cái nghĩa. Cái nghĩa của
dân tộc Việt nam bao trùm lên mọi thứ mà sinh thời nhà văn hóa Nguyễn
Khắc Viện cho rằng không thể dịch sang cái ngôn ngữ Âu - Mỹ được. Cái



16

nghĩa đó luôn luôn điều chỉnh lại các hành vi ứng xử của mọi thành viên trong
xã hội.
Cũng chính từ cái nghĩa này mà các tác giả vở chèo Nàng Thiệt Thê
đã xây dựng nhân vật Chu Mãi Thần thành một nhân vật chính nhân quân tử
đặc biệt Việt Nam, đã được GS. Vũ Khiêu đánh giá rất cao.
Yếu tố dân chủ thấm sâu trong đời sống tinh thần làng xã Việt Nam.
Có một hiện tượng kỳ thú - đó là bất kỳ nhà nho nào, hễ cầm bút viết bằng
chữ Nôm là "quên" ngay hệ tư tưởng Khổng giáo. Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh
Khiêm dùng tục ngữ trong thơ của mình; Lê Quý Đôn trong Kinh nghĩa nói
đến nỗi khát khao lấy chồng của một cô gái mới lớn - điều mà Kinh lễ không
thể nào chấp nhận được; Nguyễn Công Trứ dùng phú để "chửi" cái nghèo và
chống lại toàn bộ tư tưởng Nho giáo, đòi hỏi phải an bần, vui cái phận hèn...
rồi Hồ Xuân Hương, Tú Xương...
1.3. NGHỆ THUẬT CHÈO - TỪ CỘI NGUỒN VĂN HÓA

1.3.1. Nghệ thuật Chèo - sản phẩm đặc trưng của văn hóa Việt
Nghệ thuật sân khấu Việt Nam là một bộ phận quan trọng trong tổng
thể văn hóa dân tộc. PGS Tất Thắng cho rằng: "Sân khấu là bộ mặt và thể
chất của văn hóa dân tộc, do đó là bộ phận quan trọng của văn hóa nhân
loại" [41, tr. 3], bởi tính tổng thể rất đặc trưng của loại hình nghệ thuật này,
trên sân khấu, đời sống tinh thần, tâm lý, phong tục tập quán và trí tuệ của
một dân tộc được biểu hiện cụ thể, sinh động nhất và hiện hình ngay trên
hình thể và trong tâm hồn của bản thân người diễn viên - đây là ưu thế tuyệt
đối của nghệ thuật biểu diễn sân khấu mà khó nghệ thuật nào sánh được.
Trong hành trình lịch sử gần ngàn năm, sân khấu Việt Nam đã "chưng cất"
trong mình hồn, khí dân tộc, luôn là phần nhạy cảm trong dòng chảy văn hóa
dân tộc, là sự biểu đạt rõ nét nhất những vấn đề văn hóa tinh thần của thời

đại trước mỗi biến thiên của lịch sử.


17

Có nguồn gốc và cùng mang trong mình hơi thở của dòng văn hóa
dân gian, lối triết lý phương Đông của dân cư văn hóa lúa nước Đông Nam Á,
nghệ thuật sân khấu truyền thống (Chèo, Tuồng) trước những biến thiên của
lịch sử và trong môi trường tồn tại của mình đã dần hình thành và bồi đắp cho
mình những bản sắc riêng ngay trong cái nôi chung văn hóa dân tộc. Nếu
nghệ thuật Tuồng là khúc tráng ca của những người anh hùng, là khí phách, là
bản lĩnh của dân tộc, là cuộc sống triều chính… thì nghệ thuật Chèo là tiếng
cười hài hước châm biếm, đả kích..., là nét văn hóa, tâm hồn của cư dân nông
nghiệp lúa nước làng quê Bắc Bộ. Chèo, Tuồng, hai mặt của một biểu hiện
của một đời sống tinh thần dân tộc: trữ tình, đằm thắm và hào hùng, bi tráng.
Chèo là một hình thức nghệ thuật biểu diễn dân gian do người nông
dân vùng châu thổ sông Hồng sáng tạo ra. Nó là sản phẩm của nền văn minh
nông nghiệp lúa nước, của nền văn hóa làng xã, và trực tiếp là sản phẩm của
nhân sinh quan và vũ trụ quan nông dân Việt. Một nguồn gốc của Chèo là các
trò nhại và hát dân gian, nghi lễ trong lễ hội... nên sau này, khi phát triển
thành một loại hình sân khấu kịch hát, thì không gian thích hợp nhất cho một
buổi biểu diễn Chèo vẫn là không gian "hội hè đình đám" mỗi độ xuân về.
Hình thức tổ chức theo phường, gánh của Chèo cổ là hình thức mang
đậm dấu vết sáng tạo và hưởng thụ văn hóa theo kiểu làng xã. Mỗi phường
mỗi gánh thường có khoảng 11 đến 15 người, phần lớn là những người nông
dân say mê nghề ca hát.
Hình thức biểu diễn Chèo xưa, từ rò diễn đến diễn viên, từ khán phòng
đến khán giả đều là sản phẩm, hoặc ít nhất cũng mang bóng dáng của văn hóa
làng xã. Sân khấu biểu diễn Chèo xưa chỉ khoanh trên mấy chiếc chiếu trải
trên mặt phẳng như sân đình, sân miếu, sân nhà... Một tấm màn nhỏ ngăn nơi

diễn với hậu trường. Khán giả đứng (hoặc ngồi) xung quanh. Dàn nhạc ngồi ở
ngay phần đầu chiếu sát nơi để trống chầu, ngăn cách người xem và diễn viên
đồng thời cũng là người đưa đạo cụ cho diễn viên khi cần. Các đạo cụ thường


18

để tập trung trên chiếu diễn. Một hòm đồ gỗ để sẵn, lúc dùng làm ghế ngồi lúc
dùng làm bàn tiệc, lúc làm núi non… Trang trí nơi diễn là là khung cảnh ngày
hội: cây nêu, những lá cờ ngũ sắc, những bức cửa vòm sơn son thiếp vàng.
Nếu như nghệ thuật tuồng thường kể về những nhân vật và sự kiện
xảy ra trong cung đình để bảo vệ một ngai vua, một ngôi chúa, một triều đình
đứng đầu sơn hà, một dòng dõi trị vì xã tắc với những nhân vật điển hình:
Khương Linh Tá, Đổng Kim Lân, Tạ Ngọc Lân, Triệu Tư Cung, Viên Hòa
Ngạn, Đào Phi Phụng, Triệu Tử Long... thì nghệ thuật Chèo lại dành cho cuộc
đời của những con người bình thường, ngợi ca những tấm gương cao cả trong
tình bạn, tình yêu chung thủy, lòng hiếu thảo, sự khao khát hạnh phúc, tự do
trong cuộc sống và những nhân vật nổi tiếng Thị Kính, Thị Phương, Phi Nga,
Trinh Nguyên, Châu Long…
Các tích Chèo dường như đều lấy việc kể lại cuộc đời những số phận
con người khác nhau trong xã hội làm nhiệm vụ trung tâm. Có thể nói, mỗi một
tích Chèo là một câu chuyện kể về một thân phận con người mặc dầu mỗi câu
chuyện đều có một nội dung triết lý rõ ràng, nhưng vấn đề thân phận con người
đã là một đề tài nổi lên hàng đầu. ở mỗi vở đều có một nhân vật đứng làm trung
tâm trong quan hệ với các nhân vật khác và dường như vấn đề mấu chốt của
vở là phải giải quyết số phận của nhân vật này, số phận của nhân vật này được
xử lý thì tích trò có thể kết thúc được và kết thúc thường là có hậu. Thị Kính
cuối cùng được thành Phật, Thị Phương cuối cùng được gặp chồng, mắt sáng
lại. Lưu Bình thi đỗ và được làm quan, Phi Nga thi đỗ và giải được oan cho
cha.

Có thể lý giải nguyên nhân của những đặc trưng thi pháp thể loại này
ở nhiều góc độ, nhiều khía cạnh. Song, không thể bỏ qua một nguyên nhân
sâu xa từ sự tiếp nhận Chèo, hưởng thụ văn hóa biểu diễn Chèo. Bởi vì, với
nghệ thuật sân khấu, sự tiếp nhận của người xem là một phương diện vô cùng
quan trọng: khán giả là người đồng sáng tạo của vở diễn. Có thể là những đặc


19

trưng thi pháp thể loại của Chèo mà chúng tôi nêu một cách ngắn gọn ở trên
ngoài những nguyên khác, còn xuất phát từ một thói quen tiếp nhận văn hóa,
thời gian tiếp nhận nghệ thuật, thói quen tiếp nhận văn hóa của người bình dân
Việt Nam, cụ thể ở đây là người nông dân. Đa số họ là những người không có
khả năng đọc, mà chỉ có khả năng nghe... và qua nghe một câu chuyện có đầu có
đuôi, có nhân vật chính (nhiều thì "loạn" lên không nhập tâm được) được kể
theo thứ tự thời gian, điều xảy ra trước thì kể trước, xảy ra sau thì kể sau. Ta hiểu
vì sao các thể loại truyện kể dân gian, truyện nôm khuyết danh đều có các cung
cách kể như thế. Còn cái kết thúc có hậu thì nhiều học giả đã lý giải trong thói
quen tiếp nhận của những con người nông dân nghèo thường bị bóc lột, áp
bức... và luôn mong muốn một cuộc sống công bằng (khuyến thiện, trừ ác), no
ấm, hạnh phúc...
Như thế, một sản phẩm văn hóa đặc thù Việt Nam có hàm lượng văn
hóa lớn mang ý nghĩa đặc sắc, gần như một biểu trưng văn hóa Việt là nghệ
thuật Chèo. Đây là một loại hình mang bản sắc Việt đậm đà do ông cha ta đã
nhào nặn những ý tưởng, những mong ước, những mẫu hình lý tưởng sáng tạo
nên. Nó tạo nên một xã hội trong Chèo, một thế giới riêng biệt để có thể đến
đấy mà chia sẻ, cảm thông những cảnh đời, những nỗi lòng, những éo le,
ngang trái để cùng vui, cùng buồn, cùng mong ước... Cái "xã hội" đó, cái thế
giới đó được tạo nên bởi vô số các nhân vật trong Chèo. Mỗi nhân vật một số
phận riêng, với những tính cách riêng, mang một "mã số văn hóa" riêng.

1.3.1.1. Tính trào lộng biểu hiện qua hệ thống các vai Hề Chèo
Ở Chèo truyền thống các nhân vật được chia thành 5 loại vai rất rõ
ràng là: Đào - Kép - Hề - Mụ - Lão. Như vậy, ở Chèo, loại vai Hề có vị trí rất
lớn, rất quan trọng. Bên cạnh vai Hề ở Chèo còn có những vai Hài - anh em
sinh đôi với Hề - mà nhiều khi ta khó phân biệt người này với người kia. Có
thể nói, vai Hề - Hài này làm thành một hệ thống dày đặc trong Chèo, đôi khi
chúng lấn cả 4 loại vai trên, như trường hợp vở Từ Thức đã chứng tỏ điều này.


20

Vậy là thế nào? Là hệ thống vai Hề - Hài này từng làm mưa làm gió trên sân
khấu Chèo cổ với những trận cười không ngớt từ chiếu diễn dội xuống phòng
khán giả, và từ phòng khán giả dội ngược lên chiếu diễn. Có thể nói đến một
thứ văn hóa trào tiếu, thứ văn hóa rất thịnh hành trong văn học thế giới trung
đại, trong Chèo, một loại hình văn hóa làng xã Việt Nam chăng?
Hề là nhân vật không thể thiếu trong các vở Chèo. Quần chúng lao
động mượn vai Hề để bộc bạch tâm trạng của mình. Khi đả kích, chế giễu thói
hư tật xấu của tầng lớp quan lại, khi thể hiện ước mơ về một cuộc sống công
bằng, hạnh phúc…. Hề có hai loại: Hề áo dài và hề áo ngắn.
* Hề áo ngắn: Là những người nghèo khổ đi hầu hạ người khác. Hề
áo ngắn lại chia ra rất nhiều dạng như: Hề gậy, Hề mồi, Hề hầu phòng, Hề
đơn và Hề cặp. Đó là những nhân vật ngay thẳng, sống có nhân nghĩa, thông
minh, hóm hỉnh, lạc quan.
* Hề áo dài: Là những người ở tầng lớp trên, hay có chức sắc như Lý
trưởng, Tuần Ty, … hoặc những tên lừa đảo buôn thần bán thánh như Phù
thủy, Cô đồng, Thầy bói, Thầy lang…
Trong Chèo tuy chỉ có năm loại vai, nhưng mỗi loại lại có hai loại
nhân vật khác nhau. Mười dạng nhân vật ấy là những cặp khác biệt kiểu âm dương như nam - nữ, chín - lệch, hề áo dài - hề áo ngắn, thiện - ác, mụ - lão.
Tính cách của vai, của nhân vật liên quan đến hình thể, động tác, hóa trang,

phục trang, … cũng từ những tính cách ấy, các tác giả tìm những làn điệu
thích hợp với từng loại nhân vật, đồng thời thích hợp với tình cảm tâm trạng
mà nhân vật phải trải qua trong từng tình huống kịch.
Nói Chèo là một loại văn hóa làng xã, bởi vì hầu hết các vở Chèo cổ
đều có nội dung phản ánh cuộc sống thường ngày xảy ra nơi thôn quê, đó là
những câu chuyện kể về các mối quan hệ làng xóm, gia đình, mối quan hệ
giữa mẹ chồng nàng dâu, vợ chồng, anh em bè bạn, tớ thầy… Các nhân vật
trong Chèo cổ phần lớn đều thuộc tầng lớp dưới của xã hội phong kiến, có lý


21

lịch gắn liền với giai cấp nông dân như: Mẹ Đốp, Nô, Mãng ông, Thị Kính, các
nhân vật Hề… và có một chút chức sắc như: Xã trưởng, Huyện tể, Phú Ông...
Khán giả ưa sự phân định rạch ròi "hắc bạch phân minh" giữa cái
thiện và cái ác, giữa tốt và xấu, cái thiện phải thắng cái ác, cái ác phải bị trừng
phạt và người tốt luôn có kết cục hạnh phúc, vợ chồng đoàn viên, công thành
doanh toại… ở mỗi số phận các nhân vật có rơi vào những hoàn cảnh khác
nhau, tính cách tốt, xấu được biểu hiện làm nổi rõ những phẩm chất trung,
hiếu, tiết, nghĩa theo quan niệm đạo đức của xã hội đương thời. Đó là cái đạo
đức tam giáo được nhìn bằng con mắt dân gian, con mắt người nông dân làng
xã. Rõ ràng là ngay cả cái nhìn, điểm nhìn về đạo đức của Chèo cũng bị chi
phối bởi cái nhìn của triết học, đạo đức học, tức là của văn hóa làng xã Việt
Nam.
1.3.1.2. Thân phận người phụ nữ (mẹ, vợ, chị, em) là nhóm nhân
vật trung tâm của Chèo
Có thể nói, điểm nổi bật trong hệ thống nhân vật Chèo bên cạnh Hề là
các nhân vật nữ. Trong tư duy giản đơn của người xưa thì nhân vật nữ ở Chèo
cổ được chia làm hai loại "chín" và "lệch", cũng như nhân vật Tuồng được
chia ra hai phe "trung", "nịnh". Nhân vật nữ chín của Chèo luôn là những tấm

gương về đạo đức và việc thể hiện những nhân vật ấy là sự hình tượng hóa
những điều khác nhau của đạo đức xưa, đó là Thị Kính tiêu biểu cho đức tính
cam chịu trước những nỗi oan trái của cuộc đời, đó là Thị Phương tiêu biểu
cho đức tính hy sinh trong qua hệ mẹ chồng nàng dâu, đó là Trinh Nguyên
trong quan hệ mẻ ghẻ con chồng… Nói chung các nhân vật này đều có một
mô hình chung là qua một quá trình thử thách họ khẳng định được phẩm chất
tốt đẹp của mình và họ được đền bù xứng đáng hơn.
Loại nhân vật nữ lệch, nữ pha là những con người mà chế độ phong
kiến gọi là nghịch nữ. Đó là Thị Màu xuất hiện trên sân khấu như một ngọn


22

lửa rừng rực tình yêu, táo bạo thách thức, phá tan mọi ràng buộc của lễ giáo
phong kiến đi tìm quyền tự do yêu đương. Đó là Súy Vân bị người chồng ham
mê danh vọng ruồng bỏ, đã giả dại để thoát khỏi cảnh cô đơn lạnh lùng.
Những nhân vật này đã được Chèo ủng hộ, và với tài năng của nhiều thế hệ
nghệ nhân nối tiếp nhau đã gia công bồi đắp sáng tạo để trở thành những hình
tượng nghệ thuật đẹp đẽ tuyệt vời.
Có thể nói, những nhân vật trung tâm này đều là những nhân vật phụ nữ.
Đúng như Vũ Khắc Khoan trong "Tìm hiểu sân khấu Chèo" đã khẳng
định: "Nhân vật chính trong các vở Chèo lớn thường được sáng tác bởi các nhà
nho, là người phụ nữ. quan niệm văn dĩ tải đạo của các nhà họ đã là quan niệm
chỉ đạo cho họ sáng tác ra những mẫu người phụ nữ với những đức tính tốt đẹp
đáng noi theo" [24, tr. 136]. Nhà nghiên cứu Trần Việt Ngữ cũng nhấn mạnh:
"Nghiên cứu các vở Chèo cổ, chúng ta thấy có điều đặc biệt là tư tưởng tiết mục
hầu hết đều xoay quanh tập trung vào những nhân vật phụ nữ" [33, tr. 89].
Và, Giáo sư Trần Bảng khẳng định:
Tích trò của Chèo dành cho cuộc đời của những con người
bình thường, ca ngợi những tấm gương cao cả trong tình bạn, tình

yêu chung thủy, lòng hiếu thảo, lòng khao khát tự do trong tình yêu
và cuộc sống. Giữ vị trí trung tâm trong các tích Chèo là số phận
người phụ nữ, tầng lớp chịu nhiều đau khổ nhất dưới chế độ phong
kiến [5, tr. 10].
PGS Tất Thắng trong công trình Di sản sân khấu và đạo đức truyền thống
cũng đã nhận xét rất tinh tế và hóm hỉnh: Một vũ trụ phụ nữ ngự trị trong
Chèo cổ và tạo nên ở đây cái chất nữ, cái nữ tính rất nổi bật, rất đậm đặc
đến nỗi có lúc ta cứ có cảm tưởng rằng hễ vào Chèo là lập tức gặp các chủ
nhân nữ của nó, cứ y như là vào Nhà máy dệt 8/3 là chạm trán với chị em",
và ông nhấn mạnh:


23

Muốn giáo huấn đạo đức cho chị em, thì Chèo, với tư cách
là một loại hình nghệ thuật, ở đây là nghệ thuật sân khấu, không
thể chỉ dùng những bài huấn ca, những câu châm ngôn, v.v… mà
chủ yếu phải giáo huấn thông qua hình tượng, mà ở đây chủ yếu là
hình tượng nhân vật. Giáo huấn chị em bằng chính những hình
tượng nhân vật về chị em, thông qua các hình tượng nhân vật về chị
em, đó chính là ngọn nguồn sâu xa dẫn Chèo cổ tới cái bến bờ, cái
thế giới, cái vũ trụ mà ở đó đa phần là con gái, đàn bà [40, tr. 548].
GS. Hà Văn Cầu thì cho rằng:
Nhân vật chính trong các vở dù là người tốt hay người xấu,
cũng đều là phụ nữ. Nếu có vai nam nào xuất hiện cũng chỉ có việc
học hành thi cử hoặc đi việc quân vương, thờ vua, giữ nước, đúng
nghĩa là "nữ gia - nam quốc". Cũng là chủ đề "phụ tình - tình phụ" thì
ở nhiều nơi trên thế giới đều sử dụng. Nhưng phần lớn ở các nước,
tác giả nhân vật vô trách nhiệm hoặc phản bội, gây tội ác phần lớn là
nam giới, như Ôtenlô, Edit, Trần Thế Mỹ, Thu Hồ cùng một số nhân

vật trong Triệu Thị Cô nhi, Sơkuntơla chẳng hạn. Ngay cả ở tuồng cổ
của ta, các tội ác đều chất lên đầu nam giới như Tạ Thiên Lăng, Tạ
Ôn Đình, Tạ Kim Hùng, Triệu Khôn Dẫn… Chỉ riêng ở Chèo, phần
lớn các nhân vật hư thân mất nết mà các nghệ nhân xưa gọi là
nhân vật lệch bị quần chúng dè bỉu lại là nữ chiếm số đông như
Thiệt Thê, Thảo Mai, Súy Vân, Thị Mầu, Điêu Thuyền… [9, tr. 82].
Đi tìm nguyên nhân tại sao Chèo lại lấy các nhân vật phụ nữ làm
trung tâm, là một vấn đề lý thú có liên quan đến văn hóa học. Tuy nhiên, ngay
từ đây, chúng ta có thể nhìn sang các thể loại văn hóa khác như văn chương
(văn học) bình dân, truyện nôm khuyết danh... thì thấy có sự tương đồng nào
đó ở điểm "nữ thịnh" này. Bây giờ chúng ta đi sâu vào các loại hình văn hóa
khác như Mỹ học, Triết học, Đạo đức học... để truy tìm các nguyên nhân dẫn


24

đến hiện tượng "nữ thịnh" trong Chèo cổ. Trước hết là những biến động xã
hội, lịch sử, những thứ luôn luôn là cơ sở thực tiễn dẫn đến những biến động
về văn hóa, trong đó có văn học nghệ thuật, trong đó có Chèo.
Từ thế kỷ XVI, mâu thuẫn giữa các tập đoàn phong kiến trong nước
trở nên quyết liệt và nhanh chóng trở thành xung đột xã hội ác liệt kéo dài đến
thế k ỷ XVIII. Trải qua hai thế kỷ nội chiến, lòng căm thù của nhân dân đối
với các tập đoàn phong kiến đã âm ỉ, chứa chất, để đến thế kỷ VIII, mở đầu
thế kỷ XIX nó thổi bùng lên dữ dội như sóng trào lốc cuốn. Thành quả cao
nhất của phong trào đấu tranh nhân dân là chiến thắng của nghĩa quân Tây
Sơn: tiêu diệt sáu vạn quân Xiêm (1785), dẹp các tập đoàn phong kiến Lê Trịnh và đánh tan hai mươi vạn quân xâm lược Thanh. Thắng lợi của Nguyễn
Huệ "đã thực hiện một sự thay đổi" quan trọng nhất [30, tr. 21] trong lịch sử
Việt Nam ngày trước và mở ra mở đầu cho những trang sử dân tộc thống nhất
sau hàng trăm năm chia cắt, Truyền thống và khí phách dân tộc đã được phát
huy và kết tinh trọn vẹn trên cả hai bình diện: đấu tranh giai cấp và đấu tranh

dân tộc. Nhưng triều đại Quang Trung không tồn tại được lâu. Nhà Nguyễn
đã thay thế bằng chính sách cai trị hà khắc của một chế độ mô phỏng theo mô
hình Tống - Nho của Trung Quốc. Nhân dân lại nổi lên chống lại bằng các
cuộc khởi nghĩa. Đất nước luôn loạn lạc.
Sự thay đổi nhanh chóng và liên tục kể từ thời kỳ phân tranh Trịnh Nguyễn đến Tây Sơn và nhà Nguyễn kéo theo sự xáo động lớn về mọi
phương diện của đời sống xã hội. Những biến động bất ngờ, đầy phức tạp của
lịch sử thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX không chỉ tác động đến toàn bộ cơ
cấu xã hội mà còn có tác động mạnh mẽ đến hệ tư tưởng của các thành phần
trong xã hội.
Tính chất thối nát của xã hội phong kiến thời kỳ này không chỉ bộc lộ
ở cuộc sống xa hoa, bóc lột dân lành, đàn áp các cuộc khởi nghĩa của quần


25

chúng, bất lực trước kẻ thù ngoại bang mà còn thể hiện sự lung lay của hệ tư
tưởng Nho giáo. Nho giáo, tư tưởng thống trị xã hội không còn đóng vai trò
như trước nữa, mà rạn nứt theo sự suy tàn của chế độ phong kiến. Ví như "sự
học" là nơi lựa chọn nhân tài của Nhà nước phong kiến, thì nhà Nho Phạm
Đình Hổ đã thất vọng thốt lên "huống chi học thuật đã bất chính, đến khi ứng
dụng ra đời thì chỉ làm hại cho thiên hạ" [20, tr. 34]. Thực tế xã hội đã buộc
các nhà nho vốn trung thành với ý thức hệ Nho giáo, phải cay đắng thú nhận
sự đổ vỡ, hoặc ít ra là sự xuống cấp của cường thường phân hóa "đời suy thói
tệ không sao kể xiết". Thời kỳ này, bên cạnh Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo
cũng phát triển. Và đặc biệt, nền văn hóa nghệ thuật dân gian tới thời kỳ này
đã phát huy mạnh mẽ ảnh hưởng của nó trong đời sống tinh thần - xã hội. Từ
nông thôn, nghệ thuật Chèo lan rộng ra cả đến thị thành. Hát và múa Chèo đã
trở thành một thứ thời thượng mà chính bản thân đẳng cấp đã lên án nó cũng
không thoát khỏi ảnh hưởng. Chính nhà nho Phạm Đình Hổ cũng đã phải than
thở khi ghi nhận: "Đến năm Canh Tuất (1790) dân gian lại thấy bày trò hát bộ

ấy. Con cái nhà lương gia tử đệ có người bỏ cả chức nghiệp đi theo học hát
khăn áo dáng bộ như đàn bà, thường khi ở nhà cũng nghêu ngao tập hát
Chèo, đối với khách cũng không thẹn thò gì cả, tập tục đến thế chẳng khá than
lắm sao!" [19, tr. 15].
Và ngay trong khoảng thời gian này, Chèo hình thành như một bộ
môn sân khấu chính thức đã vươn tới cao độ phát triển của nó vào khoảng
thời gian từ nhà Lê cho đến đầu thế kỷ XX, những vở Chèo lớn đa số đều xuất
hiện: Lưu Bình Dương Lễ, Tôn Mạnh Tôn Trọng, Trang Tử Cổ bồn, Quan Âm
Thị Kính, Nhị Độ Mai, Tống Trân Cúc Hoa, Trương Viên, Nữ Tú Tài,
Phương Hoa, Kim Vân Kiều, Tuần Ty Đạo Huế, Trương Chi, Mỵ Nương,
Đồng tiền Vạn Lịch, Lục Vân Tiên, ….
Hiện thực xã hội và thực trạng tư tưởng của khoảng thời gian này đã làm
rạn nứt, đảo lộn nhiều chuẩn mực, nhiều giá trị đạo đức vốn được coi là bất di


×