Tải bản đầy đủ (.doc) (156 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ AN TOÀN KHU (ATK) TRUNG ƯƠNG ở VIỆT bắc TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC dân PHÁP (1945 1954)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (591.03 KB, 156 trang )

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM


NGUYỄN XUÂN MINH

AN TOÀN KHU (ATK)
TRUNG ƯƠNG Ở VIỆT BẮC
(Trong kháng chiến chông thực dân Pháp 1945 - 1954)

Chuyên ngành: Lịch sử Cận đại và hiện đại
Mã hiệu
: 5.03.04

LUẬN ÁN PHÓ TIẾN SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

CÁN BỘ HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

1. GS, TS Trương Hữu Quýnh
2. PGS, PTS Trần Bá Đệ

HÀ NỘI - 1996


2

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm


lược kéo dài 9 năm đã giành được thắng lợi to lớn,đánh dấu bằng chiến
thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954) và việc ký Hiệp định Giơnevơ
(21/7/1954) về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương.
Cuộc kháng chiến đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, trong
đó có bài học về xây dựng và bảo vệ An toàn khu (ATK) nơi cư trú và
hoạt động của các cơ quan đầu não kháng chiến.
An toàn khu (gọi tắt là ATK) là một vùng an toàn, nằm sâu trong
căn cứ địa Việt Bắc, chủ yếu thuộc địa phận Nam Chợ Đồn (Bắc Cạn).
Định Hoá, Võ Nhai, Phú Lương, Đại Từ (Thái Nguyên), Sơn Dương, Yên
Sơn,,Chiêm Hoá (Tuyên Quang). Đó là nơi ở và làm việc của các cơ quan
Trung ương Đảng, Chính phủ, mặt trận, Bộ Tổng tư lệnh- Tổng chỉ huy và
Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam trong những năm 1947 1954.
An toàn khu Trung ương ở Việt Nam có tầm quan trọng đặc biệt đối
với sự nghiệp kháng chiến của dân tộc. Nó là một trong những nhân tố có
tính chất quyết định đối với thắng lợi của kháng chiến. Nhưng cho đến
nay, trong nhận thức của người dân Việt Nam, nơi đến cuộc kháng chiến
chống thực dânPháp, hầu như phần lớn chỉ biết đến chiến khu Việt Bắc, ít
người biết đến ATK Trung ương nằm trong vùng đất nổi tiếng này.


3
Bởi vậy, việc nghiên cứu ATK Trung ương ở Việt Bắc, khôi phục
quá trình xây dựng, bảo vệ ATK trong kháng chiến chông thực dân Pháp,
là điều rất cần thiết.
ATK không phải là một đơn vị hành chính, mà là một khu vực lãnh
thổ trong vùng Việt Bắc. Đó là nơi có đầy đủ các yếu tố thuận lợi vô điều
kiện tự nhiên và xã hội, nhất là có cơ sở quần chúng vững chắc, đảm bảo
an toàn cho sự hoạt động của các cơ quan lãnh đạo cao nhất của kháng
chiến.
Tuy ATK Trung ương chỉ được bố trí trong phạm vi một số huyện

miền núi ở Việt Bắc, nhưng sự hiện diện cuẩ nó có ý nghĩa đối với cả
quốc gia, dân tộc.
Nghiên cứu ATK Trung ương, ngoài nội dung dựng lại quá trình xây
dựng, bảo vệ lực lượng mọi mặt, bảo vệ địa bàn và đất đứng chân, luận án
còn nhằm kháng chiến vai trò to lớn của nhân dân các dân tộc đối với
cuộc kháng chiến nói chung và trong việc xây dựng, bảo vệ ATK Trung
ương nói riêng.
Đề tài luận án có ý nghĩa về mặt kế hoạch, đồng thời cũng mang giá
trị thực tiễn đối với thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Những
bài học kinh nghiệm của cuộc kháng chiến nói chung và về việc xây dựng,
bảo vệ ATK nói riêng, đến nay vẫn còn có giá trị.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong những năm gần đây, việc tìmhiểu ATK Trung ương Việt Bắc
thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945- 1954) đã thu hút sự quan tâmko
chỉ trong giới nghiên cứu, mà cả các cấp lãnh đạo, nhất là các cấp lãnh
đạo ở những địa phương vốn là địa bàn ATK.


4
Nằm trên vùng đất chiến khu xưa, từ năm 1977, khoa sử Đại học Sư
phạm Việt Bắc tổ chức cho sinh viên đi thực tập chuyên môn tìm hiểu
ATK ở huyện Định Hoá (Thái Nguyên). Thông qua khảo sát thực tế, bước
đầu đoàn đã xác định được một số nơi ở và làm việc của các vị lãnh đạo
và các cơ quan Trung ương thời kỳ kháng chiến, thu nhập được một số tài
liệu qua các nhân chứng lịch sử và nhân dân địa phương.
Năm 1986, Ban Tuyên giáo Tỉnh Bắc Thái được giao trách nhiệm
đứng ra triệu tập và chủ trì hội nghị liên ngành, trong đó có kho sử
Trường Đại học sư phạm Việt Bắc, bàn kế hoạch nghiên cứu, tôn tạo khu
di tích ATK Định Hoá. Nhưng những quyết định của hội nghị không được
triển khai thực hiện.

Trong một số năm vừa qua, được sự giúp đỡ của Bảo tàng Hồ Chí
Minh, Bảo tàng Bắc Thái và Bảo tàng Tân Trào (Tuyên Quang) đã tiến
hành tôn tạo,lập phương án chống xuông cấp các điểm di tích và các cụm
di tích.
Tuy nhiên, theo chúng tôi biết, cho đến nay chưa có một công trình
nghiên cứu nào trình bày riêng về ATK Trung ương ở Việt Bắc (trong
kháng chiến chống Pháp) một cách đầy đủ và có hệ thống. Hầu hết các
cuốn sách viết về lịch sử kháng chiến chống pháp, chỉ đề cập đến ATK
khi nói về căn cứ địa Việt Bắc.
Cuốn "lịch sử kháng chiến chống Pháp 1945 - 1954", tập II, của Viện
Lịch sử quân sự Việt Nam, do nhà xuất bản quân đội nhân dân xuất bản
1986, đã trình bày những nét lớn về việc xác định địa điểm xây dựng
ATK và quá trình di chưyển các cơ quan lãnh đạo Trung ương lên vùng
Việt Bắc. Năm 1990, phòng Khoa học quân sự - Quân khu 1 biên soạn
cho giới thiệu cuốn sách: "Việt Bắc 30 năm chiến tranh cách mạng 1945 -


5
1975". Tập I, Tập sách này trình bày việc tổ chức di chuyển các cơ quan
lãnh đạo kháng chiến lên ATK (từ trang 80-- trang 83) và nhấn mạnh"
ATK, căn cứ địa Việt Bắc trở thành nơi che giấu và bảo vệ cơ quan lãnh
đạo kháng chiến, nơi xây dựng và đứng chân của các lực lượng vũ trang,
thành một trong những hậu phương quan trọng, thành chiến trường diệt
địch và bàn đạp; nơi xuất phát tiến công lợi hại" (135,84).
Trong những năm đầu toàn quốc kháng chiến (1946-1954
Năm 1994, một nhóm cán bộ giảng dạy khoa sử trường Đại học sư
phạm Việt Bắc đã nghiên cứu thành công bước đầu về tìm hiểu ATK
Trung ương trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Các tác giả
bước đầu lý giải được cơ sở hình thành ATK Trung ương Việt Bắc, dựng
lại nội dung xây dựng ATK. Trên cơ sở đó, các tác giả sơ bộ nêu lên một

số nhận thức về vị trí, vai trò của ATK đối với cuộc kháng chiến.
Gần đây nhất, Báo quân đội nhân dân (số 12299, ra ngày 14/8 và số
12300, ra ngày 15/8/1995) đăng bài "Tân trào- ATK" của Mạnh Hùng.
Dưới tiêu đề "Chứng tích ATK", bài báo phác hoạ đôi nét về phạm vi
ATK, chủ yếu ở Sơn Dương và Yên Sơn, về một số quy định trong công
tác bảo vệ ATK.
Tất cả những tài liêu trên, với mức độ khác nhau, ít nhiều đã đề cập
đến một số địa điểm trong ATK, quá trình di chuyển các cơ quan Trung
ương lên căn cứ địa Việt Bắc. Tương đối đầy đủ hơn cả là đề tài nghiên
cứu khoa học cấp Bộ do nhóm cán bộ giảng dạy khoa Sử Trường Đại học
Sư phạm Việt Bắc thực hiện cũng chỉ bước đầu tìm hiểu nghiên cứu một
số vấn đề khoa học do đề tài đặt ra. Hơn nữa, với nguồn tư liệu còn hạn
chế lúc bấy giờ, các tác giả chưa thể dựng lại đầy đủ bức tranh sinh động
về ATK Trung ương ở Việt Bắc, chưa đánh giá đầy đủ vai trò của ATK.


6
Những công trình đã được công bố trên đều là nguồn tài liệu quý,
giúp cho việc tìm hiểu, nghiên cứu về ATK Trung ương ở Việt Bắc.
Tuy nhiên cho đến nay, việc xác định rõ lý do chọn Việt Bắc là nơi
xây dựng ATK Trung ương, phục hội bước tranh toàn cảnh về ATK Trung
ương ở ViệtBắc và vai trò lịch sử của nó đối với cuộc kháng chiến chống
Pháp… mới chỉ là bước đầu. Đó chính là những vấn đề cần phải tiếp tụch
được đặt ra cho các nhà khoa học.
3. Đối tượng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong những năm đầu toàn quốc kháng chiến (1946-1947), thực hiện
chủ trương bảo tồn lực lượng để kháng chiến lâu dài, các cơ quan lãnh
đạo của các khu, các tỉnh đều được di chuyển tới những vùng bí mật, an
toàn, nằm sâu trong vùng tự do. Bởi vậy, không phải chỉ riêng Việt Bắc,
mà nhiều địa phương khác cũng tổ chức ATK.Đó là những ATK hoàn

toàn mang tính chất địa phương. Đề tài luận án không nhằm nghiên cứu
về căn cứ Việt Bắc nói chung, mà nghiên cứu ATK Trung ương trong căn
cứ địa Việt Bắc (Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 - 1954).
Căn cứ địa là một khu vực lãnh thổ có đầy đủ các yếu tố "địa lợi,
nhân hoà", "tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ"; có cơ sở vững chắc về
chính trị và quân sự, được dùng làm nơi xây dựng và phát triển lực lượng
cách mạng, là nguồn tiếp tế nhu cầu vật chất và cổ vũ về chính trị, tinh
thần trong cách mạng và kháng chiến.
ATK nói chung cũng là một khu vực lãnh thổ có đầy đủ các yếu tố
"địa lợi, nhân hoà", nhất là có cơ sở quần chúng cách mạng vững chắc.
Nhưng khác với căn cứ địa. ATK là nơi đặt các cơ quan đầu não của Đảng
và Nhà nước; do đó phải lấy việc bảo đảm an toàn tuyệt đối cho các cơ


7
quan chính, chứ không yêu cầu phải chiến đấu, tiến có thể công, thoái có
thể thủ, khi địch đến. ATK chỉ chuẩn bị chiến đấu tự vệ khi cần thiết, nó
được bảo vệ bởi một vành đai căn cứ địa. ATK chính là hạt nhân, là trung
tâm, là cốt lõi quan trọng nhất của căn cứ địa, và cũng có khả năng bảo vệ
an toàn nhất. Đó là chỗ khác cơ bản giữa căn cứ địa và ATK.
Trong cách mạng Tháng Tám, tại Bắc Bộ đã hình thành hai khu vực
ATK của Trung ương Đảng và Xứ uỷ Bắc Kỳ. (Xem chú thích ở cuối
phần phụ lục).
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), ngoài ATK của
Trương ương nằm sâu trong căn cứ địa Việt Bắc (gọi là ATK Trung
Ương), còn có ATK của khu, tỉnh, huyện (ATK địa phương).
Đề tài luận án đi sâu nghiên cứu ATK Trung ương ở Việt Bắc, cụ thể
là nghiên cứu quá trình hình thành ATK Trung ương, quá trình tổ chức
xây dựng, bảo vệ khu vực tồn tại và hoạt động của cơ quan Trung ương
tại căn cứ địa chính của cuộc kháng chiến.

Trong khi dựng lại quá trình xây dựng, bảo vệ ATK Trung ương ở
Việt Bắc luận án cũng đề cập mối quan hệ giữa Trung ương và địa
phương. Thông qua đó, luận án khẳng định vai trò của nhân dân địa
phương đối với sự tồn tại vững chắc của ATK.
4. Các nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi nghiên cứu các văn kiện của Đảng và
Nhà nước; các bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong kinh tế
kháng chiến chống thực dân Pháp; các chỉ thị, nghị quyết của Liên Khu uỷ
Việt Bắc, của các Đảng bộ địa phương có liên quan tới vấn đề căn cứ địa-


8
ATK. Đây là nguồn tài liệu quan trọng nhất để có thể tiếp cận với những
quan điểm, đường lối của Đảng trong việc xây dựng ATK căn cứ địa.
Các tài liệu về lịch sử Đảng bộ, lịch sử kháng chiến chống thực dân
Pháp (1945-1954) của các tỉnh, huyện ở Việt Bắc (chủ yếu là Bắc Cạn,
Thái Nguyên, Tuyên Quang), của Viện lịch sử quân sự Việt Nam, Viện
lịch sử Đảng, của Quân khu I và của các Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh, lịch sử
công an nhân dân… là những nguồn cung cấp tư liệu quý báu cho việc
nghiên cứu các vấn đề được đặt ra trong đề tài.
Một số tài liệu tổng kết chiến tranh du kích ở địa phương, cùng một
số tài liệu khác đã công bố được chú trọng tham khảo.
Bên cạnh nguồn tài liệu thành văn kể trên, chúng tôi còn sử dụng một
khối lượng tài liệu thu thập được qua những đợt khảo sát thực tế trong
khu vực ATK và các vùng ngoại vi. Những lời kể của các nhân chứng lịch
sử, các tập hồi ký, nhật ký của các đồng chí cán bộ lãnh đạo… chính là
những tư liệu quý giá, vừa góp phần bổ sung, vừa làm phong phú và cụ
thể hơn nội dung của đề tài.
Một số tài liệu nước ngoài- của chính người Pháp viết- cũng được
chú ý trong quá trình nghiên cứu.

Với mục đích tái tạo bộ mặt lịch sử của ATK Trung ương tại căn cứ
địa Việt Bắc, và để xác định đúng vai trò lịch sử của nó đối với cuộc
kháng chiến, chúng tôi sử dụng phương pháp lịch sử là chủ yếu kết hợp
với phương pháp lôgíc.
Mặt khác, xuất phát từ thực tế lãnh đạo (phạm vi ATK rộng, các cơ
quan và các vị lãnh đạo thường xuyên phải di chuyển địa điểm), trong quá
trình xử lý các nguồn tài liệu, chúng tôi đặc biệt coi trọng việc sử dụng


9
phương pháp đối chiếu, so sánh. Bằng phương pháp này, luận án nêu
được nét đặc thù của ATK Trung ương trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp (1945 - 1945).
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phương pháp điều tra thực địa trong
chừng mực và khả năng cho phép.
5. Những đóng góp của luận án
- Thông qua sự thực lịch sử, luận án dựng lại bức tranh về ATK
Trung ương tại Việt Bắc trong những năm kháng chiến gian khổ và anh
dũng.
- Trên cơ sở nguồn tư liệu đã thu nhập, luận án lý giải một cách đầy
đủ và rõ hơn về cơ sở hình thành ATK của Trung ương trên căn cứ địa
Việt Bắc.
- Qua đó, luận án góp phần nâng cao nhận thức về ATK Trung ương
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, một vấn đề mà lâu này chưa
được đặt ngang tầm vị trí, vai trò của nó; thấy rõ tấm lòng của đồng bào
các dân tộc Việt Bắc đối với sự nghiệp kháng chiến của dân tộc nói chung
và đối với việc xây dựng, bảo vệ ATK Trung ương nói riêng. Từ đó, luận
án góp phần thêm tiếng nói vào việc hoạch định chính sách kinh tế- xã hội
ở Việt Bắc nói chung và vùng ATK Trung ương trước đây nói riêng.
6. Bố cục nội dung luận án

Luận án dài 107 trang, gồm phần mở đầu, kết luận và ba chương nội
dung:
Chương 1: Quá trình hình thành Antoàn khu Trung ương trong căn
cứ địa Việt Bắc.


10
Chương II: Xây dựng và bảo vệ An toàn khu Trung ương ở Việt Bắc.
Chương III: Đặc điểm và vai trò lịch sử của An toàn khu Trung ương
đối với công cuộc kháng chiến.
Chương I
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH AN TOÀN KHU TRUNG ƯƠNG
TRONG CĂN CỨ ĐỊA VIỆT BẮC
I.VỊ TRÍ CHIẾN LƯỢC VÀ TRUYỀN THỐNG CỦA VIỆT BẮC
TRONG LỊCH SỬ CHỐNG NGOẠI XÂM
1. Việt Bắc- một địa bàn chiến lược hiểm yếu
Việt Bắc là tên gọi một vùng lãnh thổ thuộc một phần thượng du và
trung du Bắc Bộ; phía bắc và đông Bắc giáp nước Cộng hoà nhân dân
Trung hoa; phía đông nam giáp tỉnh Quảng Ninh; phía Nam giáp đồng
bằng Bắc bộ; phía Tây giáp các tỉnh thuộc Tây Bắc.
Nằm kề sát đất nước Trung Quốc rộng lớn vốn có mối quan hệ chặt
chẽ với cách mạng Việt Nam từ nhiều năm trước, cùng chung một dải
biên giới với chiều dài 715 km, đi qua địa phận 15 huyện, 97 xã (56.11).
Việt Bắc có điều kiện thông thương quốc tế thuận lợi.
Khu vực Trung tâm của Việt Bắc gồm các tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn,
Thái Nguyên (nay là Bắc Thái), Lạng Sơn, Hà Giang,Tuyên Quang. Khu
vực ngoại vi gồm một số địa phương thuộc địa phận các tỉnh: Vĩnh Yên,
Phúc Yên, Phú Thọ, (nay là Vĩnh Phú), Yên Bái và Bắc Giang (nay thuộc
Hà Bắc).
Việt Bắc có diện tích tự nhiên khoảng: 32991 km 2 (gần 1/10 diện

dích cả nước). Rừng núi chiếm khoảng 90% diện tích của khu (127.7),
chủ yếu ở các tỉnh: Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Yên


11
Bái, Bắc Cạn và phần lớn các tỉnh Phú Thọ, Thái Nguyên, một phần phía
bắc các tỉnh Vĩnh Yên, Phúc Yên, Bắc Giang.
Rừng Việt Bắc có nhiều loại gỗ, tre, nứa, cây cối rập rạp, xanh tốt
quanh năm. Núi đồi Việt Bắc trùng điệp; phần lớn là núi đá vôi, ở ba mặt;
bắc, tây Nam và đông- đông Nam là những dãy núi đá cao bao bộc, tạo
thành một phòng tuyến thiên nhiên hùng vĩ.
Trên các dãy núi đá có nhiều hang động. Đó chính là nơi ẩn nấp và
cất giấu lương thực, thực phẩm khá an toàn của bà con các dân tộc trong
vùng mỗi khi có giặc bên ngoài đến xâm lấn. Hang Phượng Hoàng (Võ
Nhãi, Thái Nguyên) là một hang đá rộng lớn, đã từng là nơi diễn ra cuộc
chiến đấu quyết liệt của 75 chiến sĩ tự vệ cùng với 1500 dân chúng chống
địch khủng bố hồi tháng 11/1944 (83.63). Hang PácBó (Hà Quảng, Cao
Bằng) là một hang kín đáo, bí mật, đã từng gắn bó với cuộc đời hoạt động
của Nguyễn ái Quốc trong những ngày đầu mới về nước. Các hang động
ở Bắc Sơn (Lạng Sơn) hang Kéo Quảng (Nguyên Bình), động Bó Lình
(Quảng hoà, Cao Bằng) cũng đều gắn liền với phong trào cách mạng ở địa
phương. Quần thể hang động ở Nà Pài(Xã Băng Phúc, Chợ Đồn, Bắc Cạn)
đã từng là nơi nhân dân cùng du kích xã cất giấu lương thực phục vụ cuộc
kháng chiến chống Pháp trong những năm 1947- 1954.
Ven theo các chân núi là các thung lũng chạy dài, khá bằng phẳng,
thuận lợi cho việc canh tác và xây dựng cơ quan công xưởng.
Việt Bắc có nhiều sông, suối, ao, hồ. Các con sông lớn (sông Hồng,
sông Đà, sông Lô…) đều phát nguyên từ Trung Quốc, xuyên qua Việt Bắc
đổ vào đồng bằng Bắc bộ, rồi chảy ra biển. Một số con sống (Kỳ cùng,
Bằng Giang…) bắt nguồn từ địa phận Việt Bắc rồi chảy sang Trung Quốc.

Những đoạn sông chảy qua vùng thượng du thường có lòng hẹp, nhiều


12
gành thác hiểm trở và độ dốc khá lớn. Vào mùa mưa, từ tháng 3 đến tháng
8, nước lũ dâng cao đột ngột, dòng sông chảy xiết, ảnh hưởng không tốt
đến cơ đông lực lượng và giao thông vận tải. Vào mùa khô, dòng sông
cạn, thuyền bè khó đi lại.
Việt Bắc thuộc vùng nhiệt đối gió mùa, nhiệt độ trung bình hàng năm
vào khoảng 23 0c ở vùng thấp, 20 0c đến 220c ở vùng cao trung bình (từ
200 đến 500m) và dưới 20 0c ở các vùng có độ cao từ 500 mét trở lên.
Hàng năm, từ tháng 1 đến tháng 4, thường có gió mùa đông Bắc, gây ra
mưa phùn, sương mù dày đặc khắp núi rừng.
Cùng với sông ngòi, khe suối, Việt Bắc có các đường bộ, đường sắt
được xây dựng từ thời thuộc Pháp. Những con đường này phần lớn xuất
phát từ Hà Nội, toả ra các hướng, đi qua các tỉnh trong khu Việt Bắc đến
tận biên giới Việt -Trung. Quốc lộ số 3, số 2, 13A, 1B, số 4 đều là những
con đường huyết mạch nối liền Việt Bắc với Hà Nội và đồng bằng Bắc
Bộ. Những con đường này có bề mặt hẹp, hầu hết được rải đá, có nhiều
đèo dốc quanh co khúc khuỷu. Nhiều đoạn đường chay ven theo các sườn
núi cao, một bên là vách đá dựng dứng, một bên là sông sâu vực thẳm.
Ngoài các con đường lớn là hệ thống đường đất nhỏ, đường mòn
ngang dọc, nối liền giữa các vùng trong khu với nhau, giữa khu với các
vùng lân cận và giữa các địa phương hai bên biên giới Việt - Trung.
Với hệ thống các đường thuỷ, bộ, địa hình dốc, núi rừng hiểm trở,
việc giao thông nhất là giao thông bằng phương tiện cơ giới trên địa phận
Việt Bắc gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Ngược lại, đại thế đó rất thuận lợi
cho hoạt động cách mạng trong thời kỳ trứng nước, đặc biệt là cho việc
thực hiện chiến tranh du kích. Dựa vào địa hình phức tạp và hiểm trở của
vùng Việt Bắc, phong trào cách mạng có thể dễ dàng gây dựng cơ sở, phát



13
triển lực lượng, lúc thuận lợi có thể tiến công, lúc khó khăn có thể lui vào
thế thủ, bảo toàn lực lượng.
Việt Bắc cũng là một địa bàn rất cơ động chiến lược. Thông qua hệ
thống các con đường mòn, đường nhỏ xuyên rừng, từ Việt Bắc, phong
trào cách mạng Việt Nam có thể dễ dàng liên lạc với quốc tế, trước hết là
với cách mạng Trung Quốc. Từ Việt Bắc, phong trào cách mạng có thể
mở rộng sang hướng Tây Bắc để liên lạc với cách mạng Lào. Ở hướng
đông Việt Bắc nối liền với rừng núi Quảng Ninh, Đông Triều, kéo dài
xuống tận niềm Duyên Hải. Về phía Nam, Việt Bắc áp sát Thủ đô Hà Nội
và đồng bằng Bắc Bộ. Vì thế, về mặt quân sự mà xét, Việt Bắc là một nơi
dụng binh lợi hại.
Nằm ở vị trí trung tâm Việt Bắc là 4 huyện tiếp giáp nhau: Định Hoá
(Thái Nguyên), Chợ Đồn (Bắc Cạn), Sơn Dương và Yên Sơn (Tuyên
Quang).
Định hoá là một huyện miền núi ở phía Tây Bắc tỉnh Thái Nguyên;
phía bắc giáp huyện Chợ Đồn và Bạch Thông (Bắc Cạn); phía Nam giáp
huyện Đại Từ (Thái Nguyên); phía đông giáp huyện Phú Lương (Thái
Nguyên); phía tây giáp huyện Sơn Dương và Yên Sơn (Tuyên quang).
Sông, suối ở Định hoá tuy nhiều, nhưng đều nhỏ, không thuận lợi về
giao thông. Việc đi lại trong huyện chủ yếu thông qua các con đường
mòn. Sau khi chiếm đóng Định hoá (năm 1889), nhằm phục vụ mục đích
cai trị, đàn áp, bóc lột, thực dân Pháp xây dựng con đường 38 chạy từ
kilômét 31 (quốc lộ 3) đi chợ Chu; rồi từ đây chúng mở đường nối liền
thành Cóc( Sơn Dương), đồn Nghĩa Tá (Chợ Đồn, đồn Quảng Nạp và Phú
Minh (Đại từ).



14
Địa thế hiểm trở, núi rừng bạt ngàn là một trong những yếu tố đảm
bảo cho Định Hóa trở thành địa điểm xây dựng ATK Trung ương,chủ yếu
thuộc địa phận các xã: Phú Đình, Điềm Mặc, Thanh Định, Đinh Biên, Bốn
xã này đều cách xa trục đường giao thông chính. Phía tây có dãy núi
Hồng án ngữ, tạo nên bức tường thành kiên cố. Nối liền các xã là những
con đường mòn nhỏ hẹp, kín đáo. Trong khu vực bốn xã có nhiều khe suối
chảy qua, rất thuận lợi cho việc sinh hoạt và trồng trọt. Xen kẽ giữa các
thôn, bản là những đồi cây rập rạp, tạo thành bức màn phủ kín đường đi
lối lại và nhà ở bên trong.
Kề sát với khu vực bốn xã của Định Hoá, về phía tây, vượt qua dãy
núi Hồng là huyện Sơn Dương, Yên Sơn (Tuyên Quang) và phía bắc, vượt
qua đỉnh đèo Xo là huyện Chợ Đồn (Bắc Cạn).
Sơn Dương là một khu vực bán sơn địa, ở vào một vị trí thuận lợi.
Về phía Đông, Sơn Dương giáp tỉnh Thái nguyên, phía tây giáp tỉnh Phú
Thọ, phía Nam giáp tỉnh Vĩnh Yên, phía Bắc giáp huyện Yên Sơn. Rừng
núi Sơn Dương khá hiểm trở, phía đông có dãy núi Hồng nối liền với dãy
núi Tam đảo, phía Nam có dãy núi Lịch, tạo thành ranh giới tự nhiên giữa
huyện Lập Thành (Vĩnh Phú) và Sơn Dương; phía tây có sông Lô uốn
khúc- một dòng sông đã đi vào lịch sử với những chiến công oai hùng.
Với địa thế thuận lợi và cơ sở quần chúng vững chắc từ trước, các
xã; Tân Trào, Lương thiện, Bình Yên, Minh Thanh (tức Minh Khai và
Thanh La) thuộc sơn Dương; Công Đa, Đạo Viện; Kim Quan, Hùng Lợi;
Trung Sơn thuộc Yên Sơn; Vĩnh Quang, Xuân Quang thuộc Chiến Hoá
được Trung ương chọn làm An toàn Khu trong những năm kháng chiến
chống Pháp.


15
Khu vực va xã tây nam huyện Chợ Đồn: Thành công, Thắng Lợi,

Yên Thịnh là một khu vực núi non trùng điệp. Khu vực ba xã trên, nay
thuộc địa phận của bảy xã nối liền nhau: Bình Trung, Lương Bằng, Nghĩa
Tá, Nam Bằng Lũng, Yên Thịnh, Yên Thượng và bản Ty, phía Nam vùng
này có đèo Xo (giáp huyện Định hoá) là một dãy núi lớn kéo dài từ Bình
Trung (Tức Thành Công) đến Lương Bằng, là ranh giới tự nhiên giữa Chợ
Đồn với các huyện Yên Sơn. Chiêm Hoá (Tuyên Quang). Trên dãy núi
nổi lên ngọn núi Khau Nhót, Khau Ty, Khau Bươn.
Ngọn Khau Nhót cao chừng 500- 600m, nằm ở địa phận của Nghĩa
Tá và Lương Bằng, tựa như bức tường thành. Theo các con đường mòn,
vượt Khau Buơn là sang địa phận Yên Sơn, Chiêm Hoá, Xen kẽ giữa các
núi cao có nhiều khe sâu và thung lũng hẹp. Đó cũng chính là những "cửa
ngõ" thông thương giữa vùng Tây Nam Chợ Đồn với vùng Yên Sơn, Sơn
Dương, Chiêm Hoá (Tuyên Quang), Định hoá (Thái Nguyên).
Việt Bắc nói chung và khu vực 4 huyện: Định Hoá, Chợ Đồn, Sơn
Dương, Yên Sơn nói riêng có điều kiện tự nhiên khá thuận lợi cho việc
xây dựng nền kinh tế kháng chiến tự cấp tự túc. Ruộng đất canh tác ở nơi
này tuy không nhiều và không tốt như vùng đồng bằng, nhưng do mật độ
dân cư thấp, nên bình quân diện tích chia cho đầu người ở đây nhiều hơn.
Hơn nữa, ngoài ruộng vườn, Việt Bắc còn có nhiều đồng cỏ, nương rẫy,
có thể tận dụng để trồng lúa, ngô, khoai, sắn, các loại rau đậu, cây ăn quả
và chăn nuôi gia súc, gia cầm.
Hệ thống suối ở Việt Bắc không những đảm bảo nhu cầu canh tác và
sinh hoạt của con người, mà còn là nguồn cung cấp tự nhiên khá dồi dào
về thuỷ sản.


16
Thiên nhiên ưu đãi khu Việt Bắc, dành cho nơi dây một nguồn tài
nguyên khá phong phú và toàn diện. Ngoài đất và rừng, với nhiều loại lâm
thổ sản có thể khai thác được như gỗ, tre,nứa, song, mây, nấm hương,

mộc nhĩ và các loại chim muông, thú rừng, Việt Bắc còn dồi dào về
khoáng sản và năng lượng.
Việt Bắc nằm trong vùng kiến tạo Hecxini - Inđôxini bao quanh địa
khối vòm sông Chảy. Nhiều đường đứt gãy theo nhiều hướng là những
nơi khoáng quan trong. Quan trọng hơn là các dứt gãy phụ tạo nên nhiều
loại khoáng sản liên quan đến các đá xâm nhập Granitôit phổ biến trong
khu, như các đứt gãy Lạng Sơn- Thái Nguyên, đứt gãy Hà Giang- Bắc
Cạn, có các mỏ đá kim loại ở Chợ Điền, Chợ Đồn, Tuần Muội, mỏ kẽm ở
Tràng Đà, Lang Hit, Mỏ thiếc ở Tĩnh Túc, mỏ Ăngtimoan ở Chiêm Hoá,
mỏ thuỷ ngân ở Hà Giang, mỏ Trần Tích cũng phong phú, đáng chú ý
nhất là mỏ sắt Thái Nguyên, quanh đấy có nhiều mỏ than (57.930. Mỏ
vàng đều có rải rác ở nhiều nơi trong khu.
Sẵn có nguồn của cải phong phú đó,Việt Bắc có khả năng đáp ứng
một phần nhu cầu vật chất cho kháng chiến, đảm bảo cho lực lượng kháng
chiến có thể tồn tại và phát triển. Đối với nước ta, trong điều kiện chưa có
kinh tế hàng hoá, giao thông khó khăn, lại bị đế quốc bao vây, phong toả,
sự tồn tại nền kinh tế tự nhiên như ở Việt Bắc, trong chừng mực nhất
định, có tác dụng tích cực đối với cuộc kháng chiến.
2. Việt Bắc- một vùng đất kiên cường, bất khuất
Sinh sống ở vùng Việt Bắc có trên 1200.000 dân (tính đến trước
Cách mạng Tháng Tám), thuộc khoảng 30 dân tộc anh em. Mỗi dân tộc
tuy có phong tục tập quán riêng, nhưng họ sống không tách biệt, mà
thường cư trú xen kẽ với nhau trong cùng một địa phương. Điều này thể


17
hiện tính cộng đồng, thống nhất vốn có từ lâu đời giữa nhân dân các dân
tộc Việt Bắc, Đồng bào các dân tộc Việt Bắc thực thà chất phát, có quan
hệ họ hàng, quan hệ thân tộc rất sâu sắc. Trong nhiều dân tộc, người thủ
lĩnh hoặc tộc trưởng, gia trưởng có uy quyền rất lớn. Một số dân tộc ở

Việt Bắc thường có phong tục kết nghĩa anh em (hất tồng, có nghĩa là kết
nghĩa anh em, sống chết có nhau).Người dân Việt Bắc có tình cảm chân
thực. Một khi đã tin yêu thì họ hết lòng, sẵn sàng hy sinh vì nghĩa lớn.
Sống gần gũi với thiên nhiên, người dân Việt Bắc rất yêu thiên nhiên,
nhưng chính họ là nạn nhân trực tiếp của những tai hoạ khủng khiếp và
thường xuyên do thiên nhiên gây ra. Thời tiết, khí hậu khắc nghiệt, mưa
lũ cùng với thú dữ… luôn luôn de doạ đến cuộc sống và tính mạng của
người dân miền núi.
Nhân dân các dân tộc Việt Bắc còn phải thường xuyên chịu những
hậu quả nặng nề do chiến tranh gây ra. Xưa kia, Việt Bắc luôn luôn trở
thành bãi chiến trường, nơi luôn phải đường đầu với cuộc tấn công xâm
lược của các thế lực phong kiến phương Bắc. Cứ mỗi lần quân giặc tràn
sang hoặc rút chạy, nhân dân các dân tộc Việt Bắc đều chịu bao tai hoạ
khủng khiếp; chém giết, bắt bớ, cướp của, đốt phá.
Từ giữa thế kỷ XVI, trong thời kỳ Trịnh - Mạc phân tranh, cuộc nội
chiến ác liệt kéo dài trên nửa thế kỷ đã diễn ra giữa hai tập đoàn phong
kiến thù địch đó. Nhiều địa phương trong vùng Việt Bắc cũng trở thành
bãi chiến trường. Sách "Đại Việt sử ký toàn thư" chép rằng: "Các xứ Kinh
Bắc, Thái Nguyên, Lạng Sơn can qua rất động". Nạn nhân trực tiếp của
những cuộc chém giết ấy là nhân dân. Các tập đoàn phong kiến đã không
từ một thủ đoạn nào để vơ vét nhân lực, vật lực của nhân dân để phục vụ
cho cuộc tranh chấp quyền lực.


18
Dưới chế độ thực dân phong kiến, nhân dân các dân tộc Việt Bắc hết
sức cực khổ. Ngoài những nỗi khó của người dân nghèo bị áp bức như ở
nơi khác, đồng bào nơi đây phải chịu nhiều nỗi nhục riêng. Họ phải sống
trong tình trạng trình độ văn hoá, khoa học thấp kém, phong tục tập quán
lạc hậu và nạn mê tín dị đoan còn rất nặng nề. Lợi dụng tình hình này,

bộn đế quốc và tay sai ở địa phương dùng cường quyền và thẩm quyền để
cai trị, bóc lột nhân dân.
Để dễ bề cai trị, thực dân Pháp ra sức thực hiện chính sách chia rẽ
dân tộc. Chúng xuyên tạc xúi giục, kích động, gây nên sự hằn thù giữa
dân tộc này với dân tộc khác. Chúng còn dung túng cho bộn trộm cướp,
thổ phỉ tự do hoành hành gây nên bao điều bất hạnh cho nhân dân. Đồng
bào các dân tộc ít người luôn sống trong nỗi lo sợ bị hãm hại. Bởi vậy,
một số dân tộc không thể chịu đựng nổi sự chèn ép, áp bức, đã phải
chuyển đến những vùng xa xôi, hẻo lánh để sinh sống.
Không cam chịu cuộc đời nô lệ, nhân dân các dân tộc Việt Bắc đã
nhiều lần nổi dậy đấu tranh chống lại cường quyền và áp bức, chống lại
các thế lực ngoại xâm.
Từ khi thực dân Pháp xâm lược, các dân tộc Việt Bắc đã đoàn kết
cùng nhân dân cả nước liên tục tổ chức đấu tranh. Tiêu biểu cho những
phong trào đó là cuộc khởi nghĩa của Lương Tuấn Tú ở Cao Bằng (18861895) của Hoàng Đình Kinh ở Lạng Sơn (1886 - 1888) của đồng bào Tây
Bắc Cạn do Phùng Bá Chỉ lãnh đạo (1892 - 1896) và cuộc nổi dậy của
đồng bào Mông ở Hà Giang dưới sự chỉ huy của hà Quốc Trương (18941996). Đó là không kể cuộc nổi dậy của quần chúng nhân dân do các đề
đốc, lãnh binh, thủ lĩnh lãnh đạo, nổ ra khắp vùng Việt Bắc. Trong số này,
nổi bật nhất là cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám


19
lãnh đạo kéo dài gần 30 năm (1884 - 1913). Do biết dựa vào địa thế hiểm
trở của núi rừng Việt Bắc để đánh du kích, phạm vi hoạt động của nghĩa
quân Yên Thế lan rộng trong nhiều tỉnh Bắc Giang qua Thái Nguyên,
Phúc Yên, Vĩnh Yên lên Phú Thọ, Tuyên Quang.
Những năm đầu thời kỳ 20, phong trào đấu tranh vũ trang ở Việt Bắc
vẫn phát triển, trong khi phong trào ở các tỉnh miền xuôi có phần tạm lắng
và chuyển sang hình thức khác. Năm 1900 nhân dân các dân tộc huyện
Quảng Hoà, Hoà An (Cao Bằng) cùng với các sĩ phu yêu nước với hội

Tam Điểm của Lưu Sĩ Đường đánh đồn Phia Mạ của Pháp ở Nước Hai
(Hoà An, Cao Bằng).
Năm 1906 - 1907, Chúng A Dệt - người dân tộc Ngái ở Bằng Khẩu
đã cự tuyệt sự mua chuộc của giặc Pháp, kiên quyết lãnh đạo nhân dân địa
phương đấu tranh chống Pháp trong gần 3 năm, năm 1911 - 1912, đồng
bào Mông ở Mương Hưu, Mèo Vạc… nổi dậy hoạt động khắp vùng Hà
Giang, Cao Bằng, Tuyên Quang.
Cùng thời gian trên, nghĩa quân Hoang Hoa Thám mở rộng địa bàn
hoạt động đến vùng Định Hoá. Con em đồng bào các dân tộc trong vùng
gia nhập nghĩa quân và chiến đấu dũng cảm. ngày 1/4/1912, một cuộc
giao chiến ác liệt giữa nghĩa quân và quân Pháp diễn ra trên đoạn đường
từ Chợ Chu đi Quảng Nạp. Tiếp đó, ngay 13/9/1912 một toán quân Pháp
đi càn đã bị nghĩa quân chặn đánh trên đoạn đường từ Chợ Chu đi Chợ
Mới.
Trong thời gian tiếp theo, các hoạt động chống Pháp ở Việt Bắc vẫn
được duy trì, năm 1914, nhân dân Bắc Cạn do Đội kỳ, Đội Thân và Lý
Thảo Long lãnh đạo, nổi dậy đánh chiếm tỉnh lị; sau đó rút vào Lũng Vài
để chiến đấu đến cùng với giặc pháp. Ngày 4/8/1916 nhân dân Phố Ngữ


20
(Phú Tiến, Định Hóa) chiến đấu hỗ trợ cho cuộc nổi dậy của một đoàn tù
nhân bị quân Pháp giải từ nhà lao Thái Nguyên đến nhà lao Chợ Chu
(Định Hoá) nổi dậy phá ngục, cưỡp vũ khí diệt địch, đồng thời tấn công
nhà Bưu điện…
Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tạo nên bước ngoặt
vĩ đại trong lịch sử phát triển của cách mạng nước ta. Phong trào cách
mạng ở các vùng dân tộc thiểu số cũng bước vào thời kỳ mới. Một vài nơi
ở Việt Bắc lần lượth xây dựng cơ sở Đảng (xem chú thích ở cuối phần
phụ lục) và cơ sở cách mạng.

Định Hoá ( Thái Nguyên) và Sơn Dương, Yên Sơn (Tuyên Quang) là
những địa phương Sớm có đảng viên Cộng sản đến hoạt động. Cuối năm
1937, một cơ sở cách mạng rà đời ở Quán Vuông, gồm 7 người, do hai
đảng viên (Vũ Hưng và Nguyễn Đình Chiêm) lãnh đạo. Bước sang năm
1938, cơ sở cách mạng lan sang Bảo Cường. Từ Quán Vuông- Bảo
Cường, dường dây liên lạc được nối liền với cơ sở La Bằng (Đại Từ).
Từ Vùng Sơn Dương, Yên Sơn, ngay từ năm 1935, được sự lãnh đạo
của cán bộ cách mạng, nông dân thôn Khê Thuyên ( xã Văn Phú) tổ chức
đấu tranh chống thuế. Năm 1939, vì bị bắt phu làm đường từ xã Thái bình
đi Thành Cóc, đến chợ Chu, nhân dân các xã Kim Lộng (nay là Tân Trào),
Khuổi Phát, Khuổi Chao (Kim Quan) bản Pình, Bản Pài, Ao Búc, Khuổi
Mòn, Thác Rẵng… tổ chức đấu tranh. Cơ sở và phong trào cách mạng
nhanh chong lan rộng ra các xã thuộc Sơn Dương và Yên Sơn.
Trong thời kỳ vận động cách mạng Tháng Tám (1939 - 1945), Việt
Bắc là nơi xuất hiện những căn cứ địa đầu tiên, tạo thế đứng cho phong
trào cả nước.


21
Cuối năm 1940, căn cứ địa Bắc Sơn- Võ Nhai hình thành, và nhanh
chóng mở rộng ra các vùng xung quanh, thuộc địa phận các tỉnh Lạng
Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Giang.
Đầu năm 1941, ngay sau khi về nước để trực tiếp lãnh đạo phong
trào cách mạng, Nguyễn ái Quốc đã chọn Cao Bằng làm nơi thí điểm xây
dựng các tổ chức Cứu quốc của Mặt trận Việt Minh. Từ một khu vục nhỏ
hẹp Nà Xác- Pác Bó- Lục Khu (Hà Quảng), mà trung tâm là Pác Bó,
phạm vi căn cứ địa phát triển rộng ra cả các vùng cao Bằng, Bắc Cạn,
Lạng Sơn. Cuối năm 1943, thông qua những "con đường quần chúng", hai
trung tâm căn cứ địa Cao Bằng và Bắc Sơn- Võ Nhai được nối liền với
nhau, tạo thành một khu liên doanh vững chắc. Cùng với thời gian này,

chiến khu Hoang Hoa Thám ra đời,đánh dấu bước phát triển mới của
phong trào cách mạng ở Việt Bắc. Vùng Đại từ, Định Hoá, Sơn Dương trở
thành trung tâm của phân khu B thuộc chiến khu Hoàng Hoa Thám.
Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), Việt Bắc là nơi có phong
trào phát triển mạnh mẽ nhất so với toàn quốc.Tại đây, ngay từ những
ngày đầu tháng 3, tháng 4 năm 1945, nhiều nơi đã xoá bỏ được chính
quyền địch và thành lập chính quyền cách mạng.
Ngày 14/3/1945, Uỷ ban Cách mạng lâm thời Châu Sơn Dương thành
lập, đánh dấu thắng lợi to lớn của phong trào cách mạng địa phương. Sau
một thời gian ngắn, chính quyền cách mạng lần lượt ra đời ở Chiêm Hoá,
Yên Sơn.
Tại Định Hoá, chính quyền cách mạng cũng được thành lập từ
28.3.1945.


22
Do chịu ảnh hưởng của các trung tâm căn cứ địa cách mạng Cao Bắc- Lạng, Bắc Sơn- Võ Nhai và Đại từ- Định Hoá- Sơn Dương, phong
trào cách mạng ở huyện Chợ Đồn, nhất là khu vực phía tây Nam, phát
triển rất nhanh chóng và vững chắc.
Cuối tháng 3.1945 nhân dân các xã trong huyện lần lượt nổi dậy xoá
bỏ chính quyền địch và giành quyền làm chủ. Đầu tháng 4/1945, Uỷ ban
nhân dân lâm thời huyện Chợ Đồn thành lập và ngay sau lãnh đạo nhân
dân xây dựng cuộc sống mới.
Giữa tháng 4/1945, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ đã đề ra
nhiệm vụ xây dựng Việt Bắc thành khu căn cứ địa kháng chiến kiểu mẫu
để mở rộng chiến tranh du kích. Ngày 4/6/1945 khu giải phóng chính thức
ra đời, bao gồm sáu tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên,
Hà Giang, Tuyên Quang và một số vùng thuộc các tỉnh Bắc Giang, Phú
Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yến, Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang) được
chọn làm thủ đô khu giải phóng, trở thành trung tâm chỉ đạo phong trào

cách mạng cả nước. Chính nơi đây, Hội nghị đại biểu Đảng toàn quốc
(14-15/8/1945) và Quốc dân Đại hội (16-17/8/1945) đã quyết định phát
động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc. Cũng chính từ
Tân Trào, ngày 16/8/1945, giải phóng quân tiến về thị xã Thái Nguyên để
mở đường về Hà Nội.
Theo nghị quyết hội nghị cán bộ Việt Minh (6/1945), khu giải phóng
Việt Bắc phải trở thành một khu căn cứ địa vững chắc về mọi mặt; chính
trị, quân sự, kinh tế, văn hoá để làm bàn đạp, giải phóng toàn quốc. Trong
khu giải phóng, mười chính sách của mặt trận Việt Minh được thực hiện.
Chính quyền cách mạng tịch thu ruộng đất của bộn thực dân Pháp và
tay sai phản động, các loại công điền, công thổ chia cho dân cày nghèo,


23
vận động đồng bào khai khẩu ruộng hoang, phát triển sản xuất. Một số nơi
trong khu giải phóng còn tổ chức giúp nhau thóc giống, trâu cày. Những
nhà có nhiều ruộng đất san xẻ cho những gia đình thiếu ruộng để cùng sản
xuất. Chính quyền cách mạng và Mặt trận Việt Minh cũng hướng dẫn
nhân dân cấy đúng kỹ thuật, đảm bảo đủ phân, nước để nâng cao sản
lượng.
Trong khu giải phóng, mỗi châu, mỗi huyện đều thành lập một Ban
giáo viên chính trị. Ban này có nhiệm vụ tuyên truyền chủ trương, chính
sách của Uỷ ban chỉ huy khu giải phóng, của Mặt trận Việt Minh, đồng
thời đi xuống các xã mở các lớp huấn luyện ngắn ngày. Mỗi xã có một
nhà Hội đồng Cứu quốc. Cứ 15 ngày một lần, dân chúng đều được nghe
nói chuyện về tình hình nhiệm vụ cách mạng hoặc bàn giao các công việc
ở địa phương. Khắp nơi trong khu giải phóng đều tràn ngập bầu không
khí sinh hoạt chính trị sôi nổi. Hoạt động tuyên truyền được đẩy mạnh.
Báo chí phát hành rộng rãi và trở thành một nhu cầu của nhân dân. Châu
nào cũng có một tờ báo địa phương. Toàn khu có tờ "Nước Nam mới",

"Quân giải phóng"; Cao- Bắc- Lạng có tờ "Việt Nam độc lập".
Sự nghiệp văn hoá, giáo dục được quan tâm. Nhiều trường cấp I
được mở hoặc phục hồi. Riêng Chợ Đồn, nơi có phong trào giáo dục
mạnh nhất lúc đó, mở 5 lớp học cho con em đồng bào Dao ở vùng Cốc
Phường. Nà Pạ (Quảng Bạch), kéo Màng (Bàn Thi), Nà Đeng(nghĩa Tá),
Bản Ca (Bình Trung).
Để đáp ứng phong trào giáo dục, nhiều nơi trong khu giải phóng mở
các trường, lớp đào tạo giáo viên. Trường sư phạm sơ cấp cứu quốc được
thành lập ở Chiêm Hoá (Tuyên Quang), đào tạo được 35 giáo viên; ở chợ
Đồn (Bắc Cạn) đào tạo được hơn 40 giáo viên. Hầu hết các huyện phủ,


24
châu đều có một đội văn nghệ. Ở một số nơi như: Chiêm Hoá, Yên Sơn,
Sơn Dương, Chợ Đồn… các đội văn nghệ được trang bị các loại nhạc cụ.
Đội văn nghệ đi xuống các xã gây dựng phong trào và dạy các bài ca cách
mạng cho nam nữ thanh niên (63.65). Thông qua đó, thanh niên được
hướng dần vào các hoạt động cách mạng. Cuộc sống mới được nhen nhóm
và phát triển nhanh chóng, từng bước đẩy lùi các tệ nạn xã hội do chế độ
cũ để lại. ánh sáng cách mạng toả khắp vùng Việt Bắc và đem lại những
đổi thay sâu sắc trong đời sống kinh tế- xã hội của đồng bào các dân tộc.
truyền thống đoàn kết, thuỷ chung, kiên cường bất khuất hình thành qua
nhiều thế kỷ đấu tranh chống giặc ngoại xâm, càng được phát huy cao độ.
Như vậy, vùng Việt Bắc nói chung và khu vực 4 huyện: Định Hoá,
Chợ Đồn, Sơn Dương, Yên Sơn nói riêng không chỉ có địa thế thuận lợi
cho việc che giấu lực lượng và kho tàng, mà còn có cơ sở quần chúng tốt,
lại rất cơ động. Hơn nữa, nơi đây vốn là căn cứ địa, là trung tâm chỉ đạo
phong trào cách mạng cả nước. Vùng đất 4 huyện có đầy đủ các yếu tố:
địa lợi và nhân hoà, vừa nằm sâu trong khu căn cứ địa Việt Bắc, lại vừa
có điều kiện thông thương với vùng trung du và đồng bằng.Trung ương

Đảng và Chính phủ đã phát hiện ra nơi dây có đủ những điều kiện cần
thiết của một ATK vững chắc của cơ quan đầu não kháng chiến.
II. SỰ RA ĐỜI CỦA AN TOÀN KHU TRUNG ƯƠNG TRONG
CĂN CỨ ĐỊA VIỆT BẮC
Hiệp định sơ bộ (6/3/1946) và tạm ước (14/9/1946) ký chưa ráo mực,
thực dân Pháp đã ngang nhiên bội ước, chúng liên tiếp gây ra các vụ khiêu
khích và xâm lược ngày càng trắng trợn.
Cùng với vụ đánh chiếm Hải Phòng (20/11/1946) Quân Pháp tấn
công ta ở Lạng Sơn. Với việc đánh chiếm hai cửa ngõ đường biển và


25
đường bộ quan trọng này, thực dân Pháp đã thực sự bắt đầu cuộc chiến
tranh xâm lược với quy mô đối với miền Bắc nước ta.
Trước tình hình ấy, ngay từ tháng 10-1946, Hội nghị quân sự toàn
quốc của Đảng đã nhận định: "Nhất định không sớm thì muộn, Pháp sẽ
đánh mình, và mình cũng nhất định phải đánh Pháp" (134.64). Trung
ương Đảng kêu gọi toàn dân "sẵn sàng chiến đấu để tự vệ bất cứ lúc nào
và chỗ nào".
Ban Thường vụ Trung ương Đảng tập trung chỉ đạo cả nước chuẩn bị
bước vào chiến tranh.
Nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến trong khi tiềm lực kinh tế,
quân sự còn nhỏ yếu, sức dự trữ kháng chiến rất mỏng manh. Ngược lại,
thực dân Pháp có một đội quân viễn chinh nhà nghề giàu kinh nghiệm đi
xâm lược, được trang bị vũ khí hiện đại, Nước Pháp là một cường quốc tư
bản, có nền công nghiệp phát triển, nên tiềm lực kinh tế và quân sự rất
mạnh.
Trong điều kiện đó, muốn giành được thắng lợi, chúng ta không thể:
"Đem toàn lực dốc vào một vài trận hòng phân thắng bại", mà phải có thời
gian để chuyển hoá lực lượng. Đánh lâu dài thì bên trong nhân dân đoàn

kết, đồng lòng kháng chiến; bên ngoài, nhân dân thế giới càng hiểu rõ sự
nghiệp chính nghĩa của ta, càng ra sức ủng hộ ta. Đánh lâu dài, chúng ta
mới có điều kiện bồi dưỡng và phát triển lực lượng, chuyển thiếu thành
đủ, chuyển yếu thành mạnh. Ngược lại, địch đánh lâu dài thì mục đích
chiến tranh phi nghĩa của chúng càng lộ rõ và do đó sẽ bị nhân dân Pháp
và nhân dân thế giới lên án, lực lượng của chúng bị tiêu hao và tiêu diệt,
mệt mỏi, từ mạnh chuyển thành yếu, từ thắng chuyển thành bại. Đảng ta
coi kháng chiến lâu dài là bí quyết của thắng lợi.


×