Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Đảng bộ Liên khu IV lónh đạo xây dựng kinh tế trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 95 trang )

Header Page 1 of 166.

LUẬN VĂN:

Đảng bộ Liên khu IV lónh đạo xây dựng
kinh tế trong kháng chiến chống thực dân
Pháp (1945-1954)

Footer Page 1 of 166.


Header Page 2 of 166.

mở đầu

1. Lý do chọn đề tài
Xây dựng hậu phương đảm bảo nguồn lực về kinh tế có vai trò quyết định thắng
lợi trong chiến tranh cách mạng. Lênin khẳng định, trong bất cứ cuộc chiến tranh nào, "nhân tố
kinh tế vẫn là quyết định, đó là một chân lý" [44, tr. 55].
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, xuất phát từ mục đích của cuộc
kháng chiến, từ đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh,
quán triệt sâu sắc tư tưởng của Lênin, từ kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo xây dựng
căn cứ địa thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, ngay từ đầu cuộc kháng chiến, Đảng ta
đã chủ động xây dựng căn cứ địa, hậu phương của kháng chiến, trong đó đặc biệt chú
trọng xây dựng kinh tế kháng chiến, coi đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi.
Với tầm nhìn chiến lược, căn cứ vào những yếu tố chủ quan, khách quan: vị trí địa
lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, con người,... của vùng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã sớm lựa chọn và quyết định xây dựng Thanh - Nghệ - Tĩnh thành hậu
phương lớn mạnh của cuộc kháng chiến. Quán triệt chủ trương của Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh, Đảng bộ Liên khu IV đã trực tiếp lãnh đạo nhân dân ba tỉnh từng bước xây


dựng kinh tế vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh vững mạnh. Công cuộc xây dựng kinh tế
kháng chiến ở vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân
Pháp đã đạt được những thành quả to lớn, góp phần quan trọng đưa cuộc kháng chiến đến
thắng lợi, trong đó nổi bật lên vai trò lãnh đạo của Đảng bộ Liên khu IV.
Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng trên mặt trận xây dựng kinh tế trong kháng
chiến chống thực dân Pháp ở vùng tự do Liên khu IV là cần thiết, góp phần làm sáng tỏ
tính đúng đắn, khoa học của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp và chủ trương
xây dựng nền kinh tế kháng chiến của Trung ương Đảng; làm sáng rõ vai trò lãnh đạo của
Đảng bộ Liên khu đối với công cuộc xây dựng kinh tế kháng chiến ở địa bàn Thanh -

Footer Page 2 of 166.


Header Page 3 of 166.

Nghệ - Tĩnh; lý giải rõ hơn một trong những nhân tố tạo nên thắng lợi của cuộc kháng
chiến. Qua đó, thấy được vai trò và sự đóng góp to lớn của Đảng bộ Liên khu IV và của
quân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh đối với cuộc kháng chiến. Qua nghiên cứu có thể rút ra
những kinh nghiệm về lãnh đạo phát triển kinh tế của Đảng có ý nghĩa thiết thực trong
giai đoạn cách mạng hiện nay.
Vì lý do trên, chúng tôi quyết định chọn vấn đề "Đảng bộ Liên khu IV lónh đạo xây
dựng kinh tế trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954)" làm đề tài luận văn thạc
sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đảng lãnh đạo xây dựng nền kinh tế kháng chiến trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp (1945-1954) là một chủ đề lớn được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên
cứu trên các góc độ khác nhau. Trước hết, các công trình nghiên cứu lịch sử Đảng, các
công trình tổng kết lịch sử chiến tranh như: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập I (sơ
thảo) (1920-1954), Nxb Sự thật, Hà Nội, 1981; Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp
1945-1954, tập I, II, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994; Tổng kết cuộc kháng chiến

chống thực dân Pháp - thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996,... đã
trình bày một cách khái quát, toàn diện quá trình Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp trên tất cả các lĩnh vực quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa. Trên cơ sở
trình bày khách quan, khoa học cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, các công trình trên đã rút ra ý nghĩa, nguyên nhân và
bài học kinh nghiệm của cuộc kháng chiến; trong đó phân tích sâu sắc bài học về xây
dựng hậu phương. Trong bức tranh tổng thể đó, xây dựng kinh tế vùng tự do Thanh Nghệ - Tĩnh được đề cập ở một vài khía cạnh mang tính chất minh họa kết quả.
Các công trình nghiên cứu chuyên sâu về kinh tế của Viện Kinh tế học thuộc
Viện Khoa học xã hội Việt Nam: Kinh tế Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám đến kháng
chiến

thắng

lợi

(1945-1954),

Nxb

Khoa

học,



Nội,

1966;

45 năm kinh tế Việt Nam (1945-1990), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990; Lịch sử kinh

tế Việt Nam 1945-2000, tập I của Đặng Phong, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000... đã

Footer Page 3 of 166.


Header Page 4 of 166.

phản ánh khá sinh động nền kinh tế Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đi
sâu phân tích những đặc điểm, mục đích, thành tựu của nền kinh tế kháng chiến; các
nguyên tắc kinh tế, chính sách kinh tế, bộ máy kinh tế kháng chiến, từng ngành kinh tế;
trong đó điểm vài nét về xây dựng kinh tế kháng chiến ở vùng tự do Liên khu IV.
Đặc biệt, một số công trình nghiên cứu, luận án tiến sĩ được bảo vệ thành công đã
xuất bản thành sách như: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân dân Liên khu
IV (1945-1954) của Viện Lịch sử Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003; Vùng tự
do Thanh - Nghệ - Tĩnh trong kháng chiến chống Pháp 1946-1954, của PGS.TS Ngô Đăng
Tri, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001; Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công cuộc
xây dựng các vùng tự do lớn trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Luận án tiến sĩ, bảo
vệ năm 1993, tại Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh của
PTS Đào Trọng Cảng và các công trình lịch sử Đảng bộ các địa phương Thanh Hóa, Nghệ
An, Hà Tĩnh... đã dựng lại bức tranh tổng thể về cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện ở
Liên khu IV hoặc phản ánh trực tiếp công cuộc xây dựng hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh
nhưng dừng lại ở mức khái quát toàn diện mọi mặt từ chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa
và nêu ra ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi, bài học kinh nghiệm của công cuộc xây
dựng hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh một cách chung nhất. Cho đến nay, chưa có một
công trình lịch sử nào đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống, sâu sắc, toàn diện về sự lãnh
đạo của Đảng bộ Liên khu IV đối với công cuộc xây dựng kinh tế kháng chiến ở vùng tự
do Thanh - Nghệ - Tĩnh thời kỳ này, từ đó rút ra những kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng
trên lĩnh vực xây dựng kinh tế.
Tuy nhiên, những công trình lịch sử trên đây là nguồn kiến thức hết sức quý giá,
là nguồn tư liệu phong phú và là cơ sở quan trọng để học viên kế thừa giúp cho việc xây

dựng bản thảo luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
a) Mục đích của luận văn

Footer Page 4 of 166.


Header Page 5 of 166.

Làm rõ quá trình Đảng bộ Liên khu IV lãnh đạo xây dựng kinh tế kháng chiến ở
vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Từ đó rút ra một
số kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trên mặt trận kinh tế.
b) Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ vai trò, vị trí chiến lược của Thanh - Nghệ - Tĩnh đối với cuộc kháng
chiến và những điều kiện để xây dựng Thanh - Nghệ - Tĩnh trở thành hậu phương vững
chắc về kinh tế của cuộc kháng chiến.
- Làm rõ quá trình Đảng bộ Liên khu IV lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng kinh tế trong
cuộc kháng chiến.
- Đánh giá những thành tựu, nêu rõ những đóng góp về mặt kinh tế
của Thanh - Nghệ - Tĩnh đối với cuộc kháng chiến, rút ra một số kinh nghiệm từ thực tiễn
lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng kinh tế của Đảng bộ Liên khu IV trong 9 năm kháng chiến.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ Liên khu IV trên
mặt trận xây dựng kinh tế trong kháng chiến chống thực dân Pháp.
- Nội dung nghiên cứu: Sự lãnh đạo của Đảng bộ Liên khu IV đối với công cuộc
xây dựng kinh tế ở vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh.
- Thời gian: trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954).
- Không gian: ở địa bàn vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh.
5. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
a) Cơ sở lý luận

Trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và của Đảng ta về vai
trò của kinh tế, vai trò của hậu phương trong chiến tranh cách mạng.
b) Nguồn tư liệu

Footer Page 5 of 166.


Header Page 6 of 166.

- Các văn kiện của Bộ Chính trị, Trung ương; bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ
Chí Minh; các văn kiện, báo cáo của Liên khu ủy IV, của Đảng bộ ba tỉnh Thanh - Nghệ Tĩnh được xác định là nguồn tài liệu chính, chủ yếu.
- Một số công trình khoa học, luận án, luận văn có liên quan đến đề tài là tài liệu
tham khảo.
c) Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp lôgíc là chủ yếu,
ngoài ra là các phương pháp phân tích, thống kê, so sánh nhằm làm nổi bật quá trình xây
dựng kinh tế của nhân dân vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh dưới sự lãnh đạo của Đảng từ
1945-1954.
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa quá trình Trung ương Đảng lãnh đạo xây dựng nền kinh tế kháng
chiến và Đảng bộ Liên khu IV lãnh đạo xây dựng kinh tế ở vùng tự do Thanh - Nghệ Tĩnh trong kháng chiến chống thực dân Pháp.
- Rút ra một số kinh nghiệm về vấn đề Đảng lãnh đạo xây dựng kinh tế trong
kháng chiến.
- Là tài liệu tham khảo, góp phần nghiên cứu sâu hơn lịch sử toàn Đảng và lịch
sử Đảng bộ Liên khu IV lãnh đạo xây dựng kinh tế trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 2 chương, 5 tiết.
Chương 1

Đảng bộ Liên khu IV lãnh đạo khôi phục kinh tế
và bước đầu xây dựng kinh tế kháng chiến
ở vùng tự do Liên khu (1945-1950)

Footer Page 6 of 166.


Header Page 7 of 166.

1.1. điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của vùng tự do Liên khu IV khi bước
vào kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, vùng tự do Liên khu IV gồm
ba tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh với tổng diện tích là 33.573 km, chạy dài trên 400
km theo hướng Bắc - Nam.
Phía Bắc giáp với các tỉnh Ninh Bình, Hòa Bình, Sơn La; phía Nam là tỉnh
Quảng Bình; phía Đông là biển; phía Tây giáp với các tỉnh Sầm Nưa, Xiêng Khoảng và
Thà Khẹt (nay là Khăm Muội) của nước Lào. Với vị trí đó, Thanh - Nghệ - Tĩnh có một
vị trí chiến lược về nhiều mặt đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta và của nhân dân
các bộ tộc Lào. Từ Thanh - Nghệ - Tĩnh ta có thể cơ động lên Tây Bắc, ra Liên khu III,
tiến vào chi viện trực tiếp cho chiến trường Bình - Trị - Thiên và sang chiến trường Lào.
Từ đây ta cũng có điều kiện hậu thuẫn cho quân ta trên chiến trường Liên khu V và cả
chiến trường Nam Bộ.
Thanh - Nghệ - Tĩnh có địa hình hết sức phong phú, đa dạng: Rừng núi, trung du
và đồng bằng ven biển, trong đó rừng núi, trung du là dạng địa hình phổ biến; đồng bằng
và ven biển là vùng quan trọng, rộng ở phía Bắc, hẹp ở phía Nam. Đồng bằng Thanh Nghệ - Tĩnh có diện tích 62.000 ha, được bồi đắp bởi nhiều con sông như sông Mã, sông
Chu, sông Cả, sông Ngàn Sâu, Ngàn Phố, trong đó Thanh Hóa chiếm 1/2 diện tích. Mặc
dù điều kiện thiên nhiên có nhiều khó khăn do khí hậu khắc nghiệt nhưng đồng bằng
Thanh - Nghệ - Tĩnh vẫn là nơi tập trung nhân tài, vật lực, đầu mối giao thông thủy bộ
quan trọng và là vùng lúa quan trọng thứ ba ở nước ta sau đồng bằng sông Cửu Long và
đồng bằng sông Hồng.

Vùng biển Thanh - Nghệ - Tĩnh rất giàu hải sản. Dọc bờ biển có nhiều cửa sông,
trung bình cứ 20 km lại có một cửa sông, cửa lạch. Ngoài khơi có nhiều đảo nhỏ như đảo
Hòn Nẹ, Hòn Mê, Hòn Mắt, Hòn Chim... Nguồn hải sản phong phú, cửa sông, cửa lạch
cùng với nhiều đảo lớn nhỏ đã trở thành thế mạnh của vùng để phát triển nghề cá. Nước
biển ở Thanh - Nghệ - Tĩnh có độ mặn thích hợp cho sản xuất muối. Với đặc điểm đó,

Footer Page 7 of 166.


Header Page 8 of 166.

biển Thanh - Nghệ - Tĩnh có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc tạo nguồn thực phẩm
thiết yếu (muối, cá, nước mắm) cho quân dân toàn Liên khu và quân dân cả nước trong
cuộc kháng chiến.
Mạng lưới sông ngòi ở Thanh - Nghệ - Tĩnh rất dày đặc. ở Thanh Hóa có hệ
thống sông Mã với các phụ lưu như sông Chu, sông Lèn, sông Bưởi, sông Luồng... ở
Nghệ An, Hà Tĩnh có hệ thống sông Cả với dòng chính là sông Lam, sông La. Đa số các
sông chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Ngoài ra, Thanh - Nghệ - Tĩnh còn có hệ
thống các kênh đào như kênh Than, kênh Sắt, kênh Đa Cái... Các kênh đào đã nối các con
sông với nhau tạo thành mạng lưới đường thủy quan trọng có vai trò lớn trong tưới tiêu,
vận chuyển phục vụ sản xuất và chiến đấu. Thuyền nhỏ và vừa có thể đi lại được trên
mạng lưới đường thủy này để chuyên chở lương thực, hàng hóa, vũ khí từ Ninh Bình tới
Bắc Quảng Bình, từ biển Thanh Hóa lên Bắc Lào và ngược lại.
Thanh - Nghệ - Tĩnh còn là địa bàn có các tuyến đường sắt, đường bộ quan trọng
chạy qua như quốc lộ 1, đường sắt xuyên Việt, đường 15, đường 41, đường Vinh - Xiêng
Khoảng (đường số 7), đường Vinh - Thà Khẹt (đường số 8), đường Thanh Hóa - Sầm Nưa.
Hệ thống giao thông đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho Thanh - Nghệ - Tĩnh trong việc lưu
thông, vận chuyển hàng hóa, nhân lực giữa các địa phương trong vùng tự do, giữa các
vùng trong Liên khu, giữa Liên khu với Liên khu III, Liên khu V và với cả nước, góp
phần thúc đẩy sản xuất phát triển và phục vụ đắc lực tiền tuyến.

Nằm ở vùng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, Thanh - Nghệ - Tĩnh là nơi rất phù hợp
cho rừng nhiệt đới phát triển với nhiều loại gỗ quý như lim, gụ, sến, táu, vàng tâm và
nhiều loại lâm thổ sản quý hiếm khác. Ngoài ra, đây cũng là nơi có nhiều động vật quý
như voi, hổ, linh trưởng, gà Lam Lôi... Nguồn lâm thổ sản phong phú, dồi dào là điều
kiện thuận lợi cho các hoạt động xuất khẩu của vùng trong cuộc kháng chiến.
Thanh - Nghệ - Tĩnh là vùng đất giàu tài nguyên, khoáng sản. Các mỏ vàng, kim
loại phân bố khắp ba tỉnh: Crômít ở Cổ Định (Thanh Hóa), Thiếc - Quỳ Hợp (Nghệ An);
sắt, titan, sa khoáng (Hà Tĩnh). Ngoài ra, còn nhiều khoáng sản khác như Ăngtimoan,
đồng, chì, Mănggan, êmêhít và nguồn đá vôi, đá hoa, đá xây dựng, đặc biệt là nguồn đá

Footer Page 8 of 166.


Header Page 9 of 166.

rubi quý hiếm với trữ lượng lớn ở Quỳ Châu (Nghệ An). Tiềm năng khoáng sản trong
lòng đất đã giúp cho Thanh - Nghệ - Tĩnh phát triển các ngành công nghiệp khai khoáng,
chế biến khoáng sản, đặc biệt là phát triển công nghiệp quốc phòng.
Bên cạnh những thuận lợi trên, Thanh - Nghệ - Tĩnh cũng gặp muôn vàn khó
khăn, nắng nóng, hạn hán, lũ lụt, mưa bão thường xuyên đã gây trở ngại không nhỏ cho
hoạt động sản xuất và đời sống của nhân dân. Mất mùa, đói kém xảy ra liên miên.
Với vị trí địa lý và đặc điểm tự nhiên nêu trên, ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh trở
thành một địa bàn chiến lược quan trọng, có nhiều thuận lợi để xây dựng thành vùng căn
cứ địa, hậu phương vững chắc của cuộc kháng chiến.
Về mặt kinh tế, trước khi bước vào cuộc kháng chiến, kinh tế vùng tự do Thanh Nghệ - Tĩnh hết sức khó khăn. Dưới thời Pháp thuộc, Thanh - Nghệ - Tĩnh là vùng đất
nghèo nàn, lạc hậu: Nông nghiệp xơ xác, tiêu điều; công nghiệp hầu như không có gì, đa
số dân cư sống bằng nghề nông. Dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp, hầu hết
ruộng đất của nông dân bị thực dân Pháp và bọn địa chủ phong kiến cướp đoạt. Thiếu
ruộng đất để canh tác cộng thêm chế độ thuế khóa nặng nề đã làm cho đời sống nông dân
vô cùng cực khổ.

Xuất phát từ mục đích xâm lược, thực dân Pháp chỉ chú trọng xây dựng một số
ngành công nghiệp và một số nhà máy có liên quan đến việc khai thác, vơ vét tài nguyên
khoáng sản để đem về chính quốc, như: nhà máy xẻ gỗ, nhà máy diêm, nhà máy xe lửa
Trường Thi và một số nhà máy khác tại Vinh để phục vụ các hoạt động khai thác, vơ vét
của chúng.
Dưới ách phát xít Pháp - Nhật, đời sống nhân dân ở Thanh - Nghệ - Tĩnh hết sức
cực khổ, nạn đói khủng khiếp cuối 1944 và năm 1945 đã cướp đi sinh mạng hàng vạn
người. Riêng Nghệ An trong 3 tháng cuối 1944 đầu 1945 đã có 42.630 người chết, trong
đó có 2.250 gia đình không còn người sống sót. Hà Tĩnh có tới 50.000 người chết.
Về xã hội, Thanh - Nghệ - Tĩnh là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc: Kinh, Thái,
Mường, Dao, Tày, Nùng; trong đó dân tộc Kinh chiếm 90%. Mỗi dân tộc có trình độ và

Footer Page 9 of 166.


Header Page 10 of 166.

bản sắc văn hóa riêng nhưng họ đều cần cù lao động, yêu nước nồng nàn, đoàn kết và anh
dũng, kiên cường chống giặc ngoại xâm.
Thanh - Nghệ - Tĩnh là nơi có mật độ dân số đông đúc. Năm 1947, cả ba tỉnh có
hơn 2,5 triệu người, trong đó Thanh Hóa 1,2 triệu, Nghệ An trên 80 vạn, Hà Tĩnh 50 vạn.
So với dân số cả nước, dân số Thanh - Nghệ - Tĩnh bằng 1/10. Đây là điều kiện thuận lợi
về nhân lực cho Thanh - Nghệ - Tĩnh đẩy mạnh các hoạt động sản xuất, xây dựng kinh tế
và tham gia kháng chiến.
Cũng như bao vùng quê khác, Thanh - Nghệ - Tĩnh là vùng đất giàu truyền thống
yêu nước, đoàn kết chống ngoại xâm. Truyền thống đó được hình thành từ sớm và không
ngừng được vun đắp qua các thời kỳ lịch sử. Lịch sử còn lưu mãi hình ảnh các vị anh
hùng dân tộc, các nhà văn hóa kiệt xuất, các danh tướng lỗi lạc như: Bà Triệu, Mai Hắc
Đế, Lê Hoàn, Phan Huy Chú, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du... Từ khi thực dân Pháp xâm
lược nước ta, nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh nối tiếp nhau vùng lên cùng nhân dân cả

nước đánh đuổi thực dân Pháp. Điển hình là phong trào Cần vương của các sĩ phu phong
kiến yêu nước cuối thế kỷ XIX; phong trào canh tân đất nước đầu thế kỷ XX. Nơi đây
cũng là quê hương của những sĩ phu yêu nước nổi tiếng như Phan Đình Phùng, Phan Bội
Châu...
Trong thời kỳ chuẩn bị thành lập Đảng, lớp lớp thanh niên Thanh - Nghệ - Tĩnh
đã không sợ hy sinh dấn thân vào con đường hoạt động cách mạng đầy chông gai như
đồng chí Lê Hữu Lập, Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu, Vương Thúc Oánh, Lưu Quốc
Long, Nguyễn Thị Minh Khai, Trần Phú... Tiêu biểu nhất trong đội ngũ những nhà cách
mạng đó là Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh - Vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc đã hy
sinh cả cuộc đời vì độc lập của dân tộc và hạnh phúc của nhân dân.
Truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường của nhân dân Thanh - Nghệ Tĩnh được khẳng định rõ trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng bộ Liên khu IV (71949):
Sẵn có phong trào Tân Việt, Thanh niên cách mạng đồng chí hội nên
Đảng bộ Liên khu IV có cơ sở nhiều nơi ngay khi mới thành lập Đảng, nên từ

Footer Page 10 of 166.


Header Page 11 of 166.

Xô viết Nghệ An cho đến toàn quốc khởi nghĩa ở các tỉnh, nhất là Nghệ An,
Hà Tĩnh phong trào không lúc nào bị dập tắt với sự hoạt động của người cộng
sản.
Trong hoàn cảnh bí mật gian khổ, luôn luôn bị đàn áp kìm hãm trong
nhà lao đế quốc, người đảng viên cộng sản ở Liên khu IV đã rèn đúc được một
ý chí kiên quyết, bền bỉ và trung thực [3, tr. 1].
Sau Cách mạng Tháng Tám, hệ thống tổ chức đảng, chính quyền ở Thanh - Nghệ
- Tĩnh từng bước được khôi phục, củng cố và kiện toàn. Ngày 31-8-1945, Xứ ủy Trung
Bộ được lập lại do đồng chí Nguyễn Chí Thanh, ủy viên Trung ương Đảng làm Bí thư.
Tháng 10-1945, Chiến khu IV được thành lập gồm 6 tỉnh: Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình Trị - Thiên.
Dưới sự chỉ đạo của Xứ ủy, ủy ban hành chính Trung Bộ, hệ thống tổ chức Đảng

từ Tỉnh ủy đến chi bộ; bộ máy chính quyền các cấp; các tổ chức quần chúng... ở Thanh Nghệ - Tĩnh từng bước được kiện toàn. Đảng bộ của ba tỉnh đã tập trung khôi phục lại các
huyện ủy, củng cố các chi bộ ở khắp các vùng nông thôn, thành thị; tiến hành sinh hoạt đảng
thường xuyên để quán triệt chủ trương, đường lối, chính sách mới của Đảng và Nhà nước;
khắc phục nhận thức, tư tưởng sai trái trong cán bộ, đảng viên. Nhờ đó, đội ngũ cán bộ, đảng
viên ở Thanh - Nghệ - Tĩnh ngày càng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Cuối 1946, đội
ngũ đảng viên Đảng bộ Thanh Hóa là 300 đồng chí, Đảng bộ Nghệ An có 2.786 đảng
viên và 160 chi bộ. Hầu hết cán bộ, đảng viên ở các địa phương đều hăng hái hoạt động,
nêu cao tính tiền phong, gương mẫu; tổ chức đảng thực sự là hạt nhân lãnh đạo chính
quyền và phong trào cách mạng của nhân dân.
Hệ thống chính quyền ở ba tỉnh cũng được củng cố và đi vào hoạt động nề nếp. ủy
ban nhân dân cách mạng lâm thời các tỉnh được thành lập sau ngày Tổng khởi nghĩa đều
được đổi thành ủy ban nhân dân rồi sau đó đổi thành ủy ban hành chính. Cán bộ trong hệ
thống chính quyền được lựa chọn là những người yêu nước, tiến bộ, có năng lực và phẩm
chất đạo đức tốt. Sau ngày Tổng tuyển cử bầu cử Quốc hội (6-1-1946), ba tỉnh tổ chức
thành công cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh và thành lập ủy ban hành chính chính

Footer Page 11 of 166.


Header Page 12 of 166.

thức. Các tổ chức quần chúng như Hội công nhân cứu quốc, Hội nông dân cứu quốc, Hội
Phụ nữ cứu quốc, Hội Thanh niên cứu quốc... được củng cố và không ngừng mở rộng.
Các Đảng bộ ba tỉnh đặc biệt chú ý lãnh đạo xây dựng các đơn vị vũ trang tập
trung và lực lượng dân quân du kích, dân quân tự vệ ở thôn xã. ở Hà Tĩnh có chi đội bộ
đội tập trung Phan Đình Phùng; ở Nghệ An có chi đội Đội Cung; Thanh Hóa có chi đội
Đinh Công Tráng. Mỗi chi đội có từ 1.000 đến 1.500 chiến sĩ; vũ khí trang bị còn thô sơ
nhưng tinh thần chiến đấu hăng hái và là những đơn vị cơ động, nòng cốt bảo vệ Đảng,
bảo vệ chính quyền và cuộc sống của nhân dân ba tỉnh. Cuối 1946, các chi đội này được
xây dựng thành các Trung đoàn 103 của Hà Tĩnh, Trung đoàn 57 của Nghệ An và Trung

đoàn 77 của Thanh Hóa, trở thành ba trong những đơn vị chủ lực đầu tiên của quân đội ta.
Các trung đội, đại đội dân quân tự vệ không thoát ly sản xuất được xây dựng ở hầu khắp
các khu phố, thị xã, xã, xí nghiệp... Các trung đội, đại đội dân quân thường trực, thoát ly
sản xuất hoặc bán thoát ly sản xuất được thành lập ở tất cả các huyện của ba tỉnh.
Với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và truyền thống cách mạng nêu trên,
Thanh - Nghệ - Tĩnh hoàn toàn có đủ điều kiện và thích hợp để xây dựng trở thành hậu
phương lớn của cuộc kháng chiến. Với tầm nhìn chiến lược, ngay từ đầu cuộc kháng
chiến, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hết sức sáng suốt trong nhận thức,
đánh giá và đề ra chủ trương xây dựng Thanh - Nghệ - Tĩnh thành hậu phương chiến lược
của cuộc kháng chiến. Quán triệt tinh thần đó và trên cơ sở xác định rõ vai trò, nhiệm vụ
của địa phương, Đảng bộ Liên khu IV và nhân dân ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh vững tin
bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ, ra sức phấn đấu hoàn thành xuất sắc mọi
nhiệm vụ mà lịch sử giao phó, trong đó xây dựng kinh tế vùng tự do phục vụ kháng chiến
là nhiệm vụ trung tâm, cơ bản và nổi bật nhất.
1.2. Đảng bộ Liên khu IV lãnh đạo khôi phục và bước đầu xây dựng kinh tế
kháng chiến ở vùng tự do (1945 - 1950)
1.2.1. Chủ trương, đường lối xây dựng kinh tế trong cuộc kháng chiến toàn
dân, toàn diện của Đảng

Footer Page 12 of 166.


Header Page 13 of 166.

Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời mở ra kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc: kỷ nguyên đấu tranh bảo vệ và xây dựng nền
độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, từng bước đưa đất nước phát triển theo con đường
xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh những thuận lợi cơ bản, sau Cách mạng Tháng Tám, nước ta đứng
trước muôn vàn khó khăn: thù trong, giặc ngoài, nền kinh tế kiệt quệ, dân trí thấp, tàn dư
xã hội cũ nặng nề. Ngày 23-9-1945, thực dân Pháp núp bóng quân Anh nổ súng gây hấn

ở Nam Bộ, đe dọa vận mệnh dân tộc ta.
Nhận rõ những khó khăn to lớn của đất nước, trước sự sống còn của dân tộc,
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hết sức sáng suốt, từng bước vạch ra đường lối
kháng chiến kiến quốc đúng đắn. Trong đó, vấn đề xây dựng nền kinh tế kháng chiến
luôn được coi trọng. Ngay trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ (3-9-1945),
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó xác định nhiệm vụ số một
là cứu đói.
Để giải quyết nạn đói, ổn định đời sống nhân dân, Đảng nêu rõ biện pháp trước
mắt là "lạc quyên", biện pháp lâu dài là "tăng gia sản xuất", khôi phục kinh tế và thực
hành tiết kiệm.
Trong thư gửi đồng bào nông dân, Người chỉ rõ nhiệm vụ quan trọng nhất hiện
nay là "cứu đói ở Bắc và kháng chiến ở Nam".
Chỉ thị kháng chiến kiến quốc của Trung ương Đảng ngày 25-11-1945 xác định
nhiệm vụ cần kíp của toàn Đảng, toàn dân là "phải củng cố chính quyền, chống thực dân
Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân" [32, tr. 27]. Về kinh tế,
tài chính, Đảng nhấn mạnh: công việc cứu đói cũng cần như công việc đánh giặc, nhiệm vụ
trước mắt cần giải quyết là cứu đói; phải tập trung khôi phục sản xuất nông nghiệp, công
nghiệp, khuyến khích giới công thương kinh doanh, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, nêu cao
khẩu hiệu "tấc đất, tấc vàng", "nhường cơm sẻ áo", ban hành ngay các sắc lệnh để cải
thiện đời sống nhân dân.

Footer Page 13 of 166.


Header Page 14 of 166.

Tháng 11-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết văn kiện "Công việc khẩn cấp bây
giờ" nêu những phương hướng và nhiệm vụ chủ yếu chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc kháng
chiến tất yếu sẽ nổ ra và vạch rõ ta sẽ tiến hành kháng chiến lâu dài, vừa kháng chiến vừa
kiến quốc; nhiệm vụ cơ bản lúc này là "tổ chức du kích khắp nơi, đẩy mạnh phong trào

tăng gia sản xuất khắp nơi"; nhiệm vụ cụ thể, cấp thiết về kinh tế lúc này là "tăng gia sản
xuất (muối, gạo), mua bán, thủ công nghệ (vải, giấy...), vận tải" [32, tr. 140].
Ngày 12-12-1946 Trung ương Đảng ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến. Chỉ thị
vạch rõ: mục đích của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược là giữ vững nền
độc lập của dân tộc và thống nhất của Tổ quốc. Tính chất của cuộc kháng chiến là toàn
dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh. Kháng chiến về kinh tế là "tăng gia sản xuất,
thực hiện kinh tế tự túc, hết sức sản xuất võ khí" [32, tr. 152].
Ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến,
khẳng định quyết tâm kháng chiến chống thực dân Pháp của toàn dân tộc Việt Nam.
Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Trung ương Đảng và Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh phản ánh đường lối kháng chiến cơ bản của cách
mạng Việt Nam. Đường lối kháng chiến của Đảng sau đó được giải thích và phát triển
đầy đủ trong tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng Bí thư Trường Chinh.
Tác phẩm phân tích, giải thích một cách sâu sắc đường lối kháng chiến của Đảng
ta trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa. Về đường lối xây dựng
kinh tế kháng chiến, Tổng Bí thư Trường Chinh nêu rõ: để đảm bảo những điều kiện cho
kháng chiến lâu dài, kháng chiến về mặt kinh tế rất quan trọng. Một mặt phá hoại kinh tế
địch, không cho địch lấy chiến tranh nuôi chiến tranh; mặt khác xây dựng kinh tế ta theo
hướng vừa kháng chiến vừa kiến quốc và tự cung, tự cấp. Tổng Bí thư nhấn mạnh: chính
sách kinh tế trong kháng chiến là nâng cao sức sản xuất, đáp ứng nhu cầu thời chiến "ăn no,
mặc ấm, đánh khá¢e", bước đầu xây dựng kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác xã, coi
trọng nông nghiệp và thủ công nghiệp, chú ý công nghiệp quốc phòng, tăng thu, giảm chi,
thực hành tiết kiệm, giảm nhẹ dần sự đóng góp của nhân dân, củng cố tiền tệ, giữ vững
giá hàng, có khuyến khích, có thưởng, có phạt.

Footer Page 14 of 166.


Header Page 15 of 166.


Tháng 4-1947, Ban Chấp hành Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị cán bộ Trung
ương. Hội nghị đã cụ thể hóa đường lối kháng chiến trong tình hình trước mắt và kịp thời
rút kinh nghiệm trong những tháng đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc. Hội nghị nêu rõ:
Chiến tranh sẽ quyết liệt hơn và có thể kéo dài, ta phải bồi bổ thực lực để một ngày kia
phản công; xây dựng nền kinh tế kháng chiến phải đi đôi với phá hoại kinh tế địch. "Phá
kinh tế địch bằng cách tẩy chay và quân sự phá hoại; kinh tế trong lúc kháng chiến phải
thích hợp với điều kiện chiến tranh. Chỉ sản xuất những thứ cần dùng cho mặt trận và đời
sống nhân dân. Sự sản xuất ấy phải có Chính phủ điều khiển" [3 , tr. 181].
Về các ngành kinh tế, chú trọng nhất là phát triển sản xuất nông nghiệp, thủ công
nghiệp, thương mại rồi mới đến kỹ nghệ. Trong kỹ nghệ, tập trung vào kỹ nghệ sản xuất
vũ khí và khai thác. Thi hành đúng việc kiểm soát ngoại thương: Không để cho tư nhân
độc quyền tích trữ, bóc lột; đồng thời vẫn khuyến khích được tư nhân bỏ vốn ra kinh
doanh và tham gia sản xuất, tiếp tế. Chú ý xây dựng ba hình thức kinh tế chính: kinh tế tư
nhân, kinh tế hợp tác xã, kinh tế nhà nước; trong đó kinh tế tư nhân là cơ bản. Khẩu hiệu
cần nêu cao là: tăng gia sản xuất, thực hiện kinh tế tự túc, nhân dân tiếp tế cho bộ đội tác
chiến, bộ đội giúp đỡ nhân dân làm ăn... hết sức thực hành chính sách tiết kiệm.
Như vậy, ngay từ sớm, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định
rõ đường lối kháng chiến; sáng suốt, kịp thời đưa ra các biện pháp thiết thực nhằm giải
quyết những vấn đề cấp thiết trước mắt cho cách mạng. Cùng với quá trình ấy, Đảng đã
từng bước hoàn chỉnh đường lối kháng chiến toàn dân toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh
sinh. Kháng chiến về kinh tế là một bộ phận trong đường lối kháng chiến toàn dân, toàn
diện của Đảng.
Đường lối cơ bản về xây dựng nền kinh tế kháng chiến tiếp tục được Đảng bổ
sung, hoàn thiện và cụ thể hóa trong suốt quá trình lãnh đạo cuộc kháng chiến. Đường lối
đó là kim chỉ nam cho Đảng bộ Liên khu vận dụng, triển khai, chỉ đạo các tỉnh vùng tự
do Thanh - Nghệ - Tĩnh xây dựng kinh tế kháng chiến ở địa phương, góp phần xây dựng
hậu phương vững mạnh, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi.

Footer Page 15 of 166.



Header Page 16 of 166.

1.2.2. Lãnh đạo khôi phục kinh tế, giải quyết nạn đói và bước đầu xây dựng
kinh tế kháng chiến (1945-1950)
Cuối tháng 8-1945, Xứ ủy Trung Bộ được tổ chức lại. Tháng 10-1945, Chiến khu
IV được thành lập, trực tiếp chỉ đạo việc thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng,
Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Trung Bộ, các Đảng
bộ Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh tập trung củng cố, kiện toàn hệ thống tổ chức đảng,
chính quyền từ tỉnh đến cơ sở và các đoàn thể quần chúng.
Cùng với củng cố, kiện toàn bộ máy lãnh đạo, Đảng bộ các tỉnh Thanh - Nghệ Tĩnh đã tập trung lãnh đạo nhân dân thực hiện các biện pháp cứu đói. Thông qua hệ
thống chính quyền và các đoàn thể, các cấp ủy ba tỉnh đã phát động phong trào toàn dân
đoàn kết tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, thực hiện khẩu hiệu "nhường cơm sẻ áo", "hũ gạo
tiết kiệm", "ngày đồng tâm". Phong trào cứu đói của nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh đã
diễn ra sâu rộng, mạnh mẽ. Phát huy truyền thống "tương thân tương ái" của dân tộc, với
tinh thần "lá lành đùm lá rách", nhân dân ba tỉnh đã quyên góp được hàng ngàn tấn gạo
để cứu giúp đồng bào bị đói. Riêng Thanh Hóa đã quyên góp được 1.076 tấn. Ngoài việc
cứu trợ tại chỗ, ba tỉnh còn dành được một số lượng lớn gạo để cứu giúp nhân dân các
tỉnh ở Bắc Bộ bị đói do trận lụt cuối 1946 (Thanh Hóa giúp các tỉnh Hưng Yên, Ninh
Bình hàng trăm tấn. Nghệ An, Hà Tĩnh giúp đồng bào Bắc Bộ 477 tấn).
Cùng với việc phát động phong trào đoàn kết tương trợ để ổn định đời sống nhân
dân, Đảng bộ và chính quyền các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh còn tổ chức thực hiện tốt các
chủ trương, chính sách mới của Đảng và Chính phủ như tuyên bố xóa bỏ các thứ thuế bất
hợp lý do chế độ cũ để lại; miễn giảm thuế điền thổ đối với những vùng bị thiên tai, mất
mùa; hoãn nợ, giảm tô, giảm tức cho dân nghèo; chia lại ruộng đất công cho nông dân cả
nam và nữ. Chính quyền cho nông dân chuộc lại ruộng đất cầm cố trước Cách mạng
Tháng Tám. Thực hiện ngày làm việc 8 giờ và chế độ bảo hiểm đối với công nhân. Kêu
gọi nhân dân thực hành tiết kiệm, xóa bỏ các hủ tục lạc hậu, thực hiện nếp sống mới; tổ
chức các trại tế bần để tập trung những người không nơi nương tựa... đến sống và làm ăn.


Footer Page 16 of 166.


Header Page 17 of 166.

Để xây dựng kinh tế, Đảng bộ, chính quyền ba tỉnh phát động phong trào làm
thủy lợi, khai hoang, phục hóa, đẩy mạnh sản xuất. Nhân dân ba tỉnh khẩn trương nạo vét,
tu sửa nhiều công trình thủy lợi. Hệ thống sông Chu ở Thanh Hóa được nạo vét, đảm bảo
tưới tiêu cho 45.000 ha đất canh tác. ở Nghệ An, nhiều công trình thủy lợi nhanh chóng
được sửa chữa để phục vụ sản xuất như đập nước Xuân Dương (Diễn Châu), đê ngăn mặn ở
La Vân (Nghi Lộc), đê ngăn cát ở Quỳnh Lưu, hệ thống nông giang ở Đô Lương, Diễn
Châu, Yên Thành... Các tỉnh đều thành lập Ban chỉ đạo sản xuất, Hội nông gia tương tế
và ngân hàng tín dụng cho nông dân vay vốn. Một số nơi còn thành lập tổ đổi công và
hợp tác xã nông nghiệp. Riêng Nghệ An, đến tháng 6-1946 đã xây dựng được 41 hợp tác
xã nông nghiệp; Hà Tĩnh có 18 hợp tác xã nông nghiệp, 1 hợp tác xã tiêu thụ và 7 trại kinh
tế với quy mô hàng trăm lao động. Với khẩu hiệu "tấc đất, tấc vàng", "tăng gia sản xuất ngay,
tăng gia sản xuất nữa", nhiều vùng đất hoang hóa được khai phá đưa vào canh tác. Những
nơi trước đây là đồn bốt địch cũng được san bằng, phá gỡ rào, tường để trồng ngô, khoai,
sắn.
Nhằm khuyến khích nhân dân khai hoang, mở rộng diện tích trồng trọt, tỉnh
Thanh Hóa đã thực hiện miễn thuế từ 3 đến 5 năm cho diện tích mới khai khẩn. Phong
trào thâm canh, tăng vụ, trồng cây màu ngắn ngày được khuyến khích. Nhờ đó, diện tích
canh tác của ba tỉnh tăng cao hơn hẳn so với trước Cách mạng Tháng Tám. Tính đến cuối
1946, Hà Tĩnh đã tăng thêm 242 mẫu ruộng các loại. ở Nghệ An, đến tháng 6-1946, nhân
dân đã khai hoang được hơn 700 mẫu.
Để đảm bảo cho việc vận chuyển, giao lưu giữa các địa phương, Đảng bộ ba tỉnh
còn tập trung chỉ đạo nhân dân sửa chữa, nâng cấp các tuyến đường bộ từ tỉnh xuống
huyện, xã; tu sửa, khai thông các bến phà, đường sông. Các cơ sở sản xuất công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, nghề rừng được khôi phục. Các nghề thủ công như đan lát, làm
miến, làm giấy, dệt vải, làm mật, ép dầu, làm đồ gỗ, các nghề đúc đồng, sành sứ... được

khuyến khích phát triển.
Giải quyết khó khăn chung về tài chính, ngân sách của đất nước, đảm bảo nhu cầu chi
tiêu của địa phương, Đảng bộ và chính quyền các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh đã tổ chức nhân

Footer Page 17 of 166.


Header Page 18 of 166.

dân thực hiện tốt cuộc vận động "tuần lễ vàng", "quỹ độc lập", "quỹ đảm phụ quốc phòng".
Nhân dân Thanh Hóa đã đóng góp vào quỹ độc lập 528 lạng vàng, 84 kg bạc. Nhân dân
Nghệ An đóng góp 23,62 kg vàng, hơn 16 tấn đồng, hàng trăm kg bạc, 161.111 đồng tiền
mặt. Nhân dân Hà Tĩnh đóng góp 8 kg vàng, 53 kg bạc và một số kim cương, ngọc quý
[75, tr. 79].
Quán triệt, vận dụng đúng đắn chủ trương của Trung ương Đảng và do có sự chỉ
đạo kịp thời với những biện pháp tích cực, Đảng bộ và nhân dân các tỉnh Thanh - Nghệ Tĩnh đã nhanh chóng đẩy lùi nạn đói, ổn định đời sống, từng bước khôi phục sản xuất,
tích cực chuẩn bị những điều kiện cần thiết để sẵn sàng bước vào cuộc kháng chiến lâu
dài. Nạn đói bị đẩy lùi đã củng cố được niềm tin của nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh đối
với Đảng và Chính phủ, tạo động lực mạnh mẽ cổ vũ tinh thần hăng hái tham gia kháng
chiến, đẩy mạnh sản xuất, xây dựng kinh tế trong những năm tiếp theo.
Cuộc chiến tranh ngày càng đến gần, để tiện cho việc chỉ đạo các địa phương
kháng chiến, tháng 11-1946, Trung ương Đảng quyết định chia Trung bộ thành hai khu:
Khu IV và khu V. Khu ủy khu IV được thành lập do đồng chí Hoàng Quốc Việt làm Bí
thư.
Trước những hành động xâm lược ngày càng trắng trợn của thực dân Pháp, khả
năng hòa bình không còn nữa, để bảo vệ Tổ quốc, giữ vững chủ quyền dân tộc, ngày 18
và 19-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp Hội nghị mở rộng quyết định phát
động nhân dân cả nước đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược.
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Khu

ủy khu IV, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh đã ra sức thực
hiện nhiệm vụ kháng chiến - kiến quốc, đẩy mạnh "tiêu thổ để kháng chiến", kết hợp với
tăng cường các hoạt động sản xuất và cất giấu lương thực, thực phẩm; ủng hộ đồng bào
miền Bắc, miền Nam kháng chiến.
Nhằm làm tốt công tác "tiêu thổ để kháng chiến", Đảng bộ và chính quyền các
địa phương đã tiến hành giải thích cho nhân dân lao động hiểu rõ mục đích, yêu cầu của

Footer Page 18 of 166.


Header Page 19 of 166.

công việc phá hoại nhà cửa, tháo gỡ, di chuyển máy móc lên căn cứ mới. Đồng thời, chỉ
đạo sơ tán công nhân và gia đình đi xây dựng các cơ sở sản xuất mới ở nông thôn hoặc
trung du và miền núi.
Với chủ trương đúng đắn và biện pháp thích hợp, công việc tiêu thổ kháng chiến
được tiến hành khẩn trương và đạt kết quả. Thành phố Vinh, thị xã Thanh Hóa, thị xã Hà
Tĩnh và các công sở tại các thị trấn được phá hoại triệt để. Trên 11.000 ngôi nhà, trong đó
có 301 nhà tầng ở thành phố Vinh, 10.000m2 nhà ở thị xã Hà Tĩnh, 1.600 ngôi nhà và 30
công sở ở thị xã Thanh Hóa bị đánh sập. Hàng chục đầu máy, hàng trăm toa xe chở khách,
chở hàng; và nhiều loại máy móc, kho tàng, cơ quan ở các đô thị được di chuyển đến nơi
an toàn, nhân dân tản cư khỏi các thành phố, thị xã. Tuyến đường sắt dài 390 km thuộc
địa phận Thanh - Nghệ - Tĩnh được bóc dỡ đường ray, tháo dỡ toàn bộ 77 đầu máy xe lửa,
750 toa xe. Các trục đường giao thông quan trọng đều bị cắt ra thành nhiều đoạn, chi chít
hầm chữ chi và các ụ chướng ngại vật. Cầu lớn, cầu dài từ 50 mét trở lên trên quốc lộ 1, 7,
8 đều bị phá sập... Với khoảng 200.000 ngày công cho công tác tiêu thổ trong những ngày
đầu của cuộc kháng chiến ở Thanh - Nghệ - Tĩnh đã gây thiệt hại vô cùng lớn về kinh tế.
Song điều có ý nghĩa lớn hơn là biểu thị tinh thần kháng chiến của nhân dân, là một biện
pháp cần thiết để chuẩn bị đối phó với âm mưu đánh chiếm của thực dân Pháp.
Cùng với tiêu thổ để kháng chiến, Khu ủy Khu IV và Đảng bộ ba tỉnh còn chỉ

đạo nhân dân đẩy mạnh sản xuất, tích cực chuyển hướng các hoạt động kinh tế theo chủ
trương của Trung ương Đảng, tập trung cao nhất vào sản xuất nông nghiệp với các biện
pháp cơ bản là: chú trọng công tác thủy lợi, đẩy mạnh khai hoang phục hóa và thâm canh
tăng vụ. Nhờ đó, hệ thống kênh mương được nạo vét, đê điều được sửa sang. Hà Tĩnh đã
đắp được các đê Đan Du (Kỳ Anh), Đồng Môn, Hữu Hinh (Thạch Hà) và cải tạo được
1.800 mẫu đất hoang thành ruộng.
Ngày 20-2-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Thanh Hóa. Trước tình hình
cuộc kháng chiến sẽ trường kỳ, gian khổ, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
hết sức sáng suốt quyết định xây dựng Thanh - Nghệ - Tĩnh thành hậu phương của cuộc
kháng chiến, trong đó Thanh Hóa là địa bàn trọng điểm. Người đã giao nhiệm vụ cho

Footer Page 19 of 166.


Header Page 20 of 166.

Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh là phải xây dựng Thanh Hóa thành tỉnh kiểu mẫu, cùng
với tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh trở thành hậu phương vững mạnh, toàn diện của cuộc kháng
chiến. Người chỉ rõ: phải làm sao cho mọi mặt chính trị, kinh tế, quân sự phải là kiểu
mẫu; làm một người kiểu mẫu, một nhà kiểu mẫu, một làng kiểu mẫu. Xây dựng Thanh
Hóa kiểu mẫu nghĩa là xây dựng chế độ dân chủ nhân dân trên tất cả các lĩnh vực, tạo ra
tiềm lực hùng hậu của căn cứ địa, hậu phương kháng chiến. Xây dựng Thanh Hóa thành
tỉnh kiểu mẫu trước hết là:
Làm cho người nghèo thì đủ ăn.
Người đủ ăn thì khá giàu,
Người khá giàu thì giàu thêm.
Người nào cũng biết chữ,
Người nào cũng biết đoàn kết yêu nước [47, tr. 65].
Người nhấn mạnh vấn đề cốt lõi để sự nghiệp cách mạng đi đến thành công là
vấn đề cán bộ. Người còn căn dặn Đảng bộ và nhân dân Thanh Hóa phải làm tốt nhiệm

vụ của vùng căn cứ địa, hậu phương như tiếp đón và giúp đỡ hết lòng cán bộ và đồng bào
tản cư từ nơi khác đến.
Trước nhiệm vụ nặng nề nhưng hết sức vinh quang, Đảng bộ Thanh Hóa đã nêu
cao quyết tâm lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
giao phó. Ngay sau đó, các phong trào thi đua lao động sản xuất được phát động mạnh
mẽ trong toàn tỉnh. Hàng vạn ngày công được huy động để đào đắp, tu sửa mương máng,
đê điều, đảm bảo tưới tiêu cho đồng ruộng, khắp nơi nêu cao khẩu hiệu "tấc đất tấc vàng".
Chính quyền các cấp hỗ trợ nông dân về giống, vốn, sức kéo đảm bảo cấy trồng đúng thời
vụ. Thâm canh, tăng vụ được chú trọng.
Với nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ và nhân dân, kinh tế nông nghiệp của Thanh Hóa
chuyển biến mạnh mẽ. Năm 1947, tổng sản lượng lúa đạt 26 vạn tấn, ngô đạt 7.800 tấn,
khoai 48.000 tấn và thu hoạch được 547 tấn bông, bảo đảm tự túc về lương thực và
nguyên liệu cho nghề dệt.

Footer Page 20 of 166.


Header Page 21 of 166.

Bên cạnh sản xuất nông nghiệp, các nghề thủ công truyền thống được phục hồi
và phát triển. Khu ủy Khu IV đặc biệt chú ý chỉ đạo các tỉnh tập trung phát triển công
nghiệp quốc phòng để sản xuất vũ khí cho bộ đội. Ngoài các xưởng sản xuất và sửa chữa
vũ khí đã chuyển đến nơi an toàn, các tỉnh còn mở nhiều xưởng mới. ở Thanh Hóa có
xưởng lò cao Như Xuân. Hà Tĩnh, ngoài hai xưởng của ủy ban kháng chiến hành chính
Trung Bộ, tỉnh còn thành lập 35 xưởng mới. Các xưởng đã đảm nhiệm được việc sửa
chữa vũ khí trong toàn khu và sản xuất được các loại vũ khí thông thường. Các xí nghiệp
quốc doanh và cả các xưởng sản xuất nhỏ đều sản xuất theo thiết kế của quốc phòng,
đồng thời đảm nhiệm cả việc sản xuất các máy móc, công cụ cho nông nghiệp, cho ngành
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.
Để tập trung sự chỉ đạo sản xuất vũ khí, tháng 12-1947, Bộ chỉ huy Khu IV quyết

định sáp nhập và phân loại các xưởng quân giới, thành lập được 5 xưởng lớn ở vùng tự
do Thanh - Nghệ - Tĩnh là xưởng Phủ Quỳ, Lê Đình Du, Hoàng Hữu Nam, Quách Văn
Cừ và Huỳnh Thúc Kháng.
Góp sức cùng Bình - Trị - Thiên kháng chiến, Đảng bộ ba tỉnh còn lãnh đạo nhân
dân chuyển hàng trăm tấn lương thực, hàng hóa, đạn dược vào chiến trường Bình - Trị Thiên. Chỉ trong vòng 3 tháng cuối 1947, ba tỉnh đã cung cấp cho Bình - Trị - Thiên 100
tấn gạo, 320 tấn muối, 21.000 mét vải, 10.000 viên thuốc sốt rét, 300 súng trường, 35.000
quả lựu đạn, 200 viên đạn bazôca và 4.200.000 đồng [75, tr. 158].
Chính quyền và nhân dân vùng nông thôn Thanh - Nghệ - Tĩnh còn đón tiếp chu
đáo 112.000 đồng bào Bình - Trị - Thiên và Khu III tản cư đến cùng hàng vạn đồng bào
đô thị trong tỉnh tản cư về. Nhiều trại tăng gia sản xuất ở vùng trung du và vùng đồng
bằng được thành lập để đồng bào tản cư làm ăn sinh sống như trại Thanh Sơn, Lê Mao
(Nghệ An), trại Đá Bạc, Tây Hồ (Hà Tĩnh).
Nhằm thúc đẩy hơn nữa sự phát triển kinh tế nông, tiểu thủ công nghiệp, công
nghiệp của vùng tự do, nhiều cán bộ khoa học kỹ thuật của ba tỉnh đã tự nguyện lên rừng
núi và về vùng nông thôn, sống cùng công nhân, nông dân để nghiên cứu phương pháp

Footer Page 21 of 166.


Header Page 22 of 166.

sản xuất mới, cải tiến kỹ thuật canh tác, sáng chế ra sản phẩm mới phục vụ sản xuất chiến
đấu và đời sống nhân dân.
Bước sang năm 1948, cuộc kháng chiến của nhân dân ta có bước chuyển biến
quan trọng. Sau thất bại ở Việt Bắc, thực dân Pháp ngày càng lâm vào bế tắc. ở nước
Pháp, phong trào đấu tranh chống chiến tranh Việt Nam của nhân dân Pháp dâng cao.
Phong trào đòi độc lập dân tộc của các nước thuộc địa của Pháp ở châu Phi ủng hộ cuộc
kháng chiến của Việt Nam ngày càng mạnh mẽ. Khó khăn về kinh tế, chính trị và những
thất bại về quân sự làm giới cầm quyền Pháp lúng túng về chiến lược. Chúng buộc phải
chuyển hướng chiến lược từ đánh nhanh thắng nhanh sang chiến lược đánh lâu dài, tiếp

tục thực hiện chính sách "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người
Việt"; thực hiện âm mưu càn quét vùng tự do, mở rộng, củng cố vùng chiếm đóng, lập
đội ngũ tề ngụy làm cơ sở. Thực hiện âm mưu này, thực dân Pháp tiến hành chiến tranh
tổng lực, tăng cường càn quét, củng cố và giữ vững những vùng tạm chiếm, đánh phá cơ
sở kinh tế, chính trị, các cơ sở dự trữ cho kháng chiến của ta.
Trước tình hình đó, để tạo ra bước chuyển mạnh mẽ cho cuộc kháng chiến, tháng
1-1948, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị mở rộng đánh giá những năm
đầu cuộc kháng chiến toàn quốc và vạch ra phương hướng, biện pháp lớn nhằm đẩy mạnh
cuộc kháng chiến trong giai đoạn mới.
Về kinh tế, Đảng chủ trương đẩy mạnh xây dựng nền kinh tế kháng chiến, phá
âm mưu của địch phá hoại kinh tế kháng chiến của ta; phá kinh tế tài chính địch, xây
dựng nền sản xuất hợp lý của ta để thực hiện khẩu hiệu tự cấp, tự túc, cải thiện đời sống
nhân dân lao động. Tịch thu tài sản, ruộng đất của bọn phản quốc để chia cho nông dân
nghèo và bộ đội; triệt để thực hiện giảm tô 25%, bài trừ các thứ địa tô phụ, chia lại công
điền cho hợp lý và công bằng, bỏ chế độ quá điền, khuyến khích các hình thức đổi công
và tổ chức hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, mở mang vận tải.
Đối với Liên khu IV, Hội nghị nhận định:
Mấy tỉnh Bắc và Nam Trung Bộ sẽ bước vào vòng khói lửa. Hiện đã
có nhiều triệu chứng địch sắp đánh Thanh - Nghệ - Tĩnh đến nơi. Chúng sẽ cố

Footer Page 22 of 166.


Header Page 23 of 166.

giải quyết mau, đóng quân ở nhiều điểm rồi càn quét. Đường giao thông liên
lạc từ Bắc vào Nam đã khó khăn sẽ khó khăn thêm [33, tr. 21-22].
Hội nghị xác định nhiệm vụ của Liên khu IV và nhân dân cả nước là phải chuẩn
bị làm cho địch thất bại nếu chúng đánh vào mấy tỉnh phía Bắc Liên khu và phải "chỉnh
đốn quân giới, quân nhu, quân y để cải thiện việc trang bị và cấp dưỡng cho bộ đội" [34,

tr. 25]. Tiếp đó, các Hội nghị cán bộ Trung ương (5-1948 và 8-1948) đã đưa ra những
biện pháp cụ thể nhằm khuyến khích phát triển sản xuất, cải thiện dân sinh,như quy định
các chính sách cụ thể đối với nông dân; đối với công nhân, công chức; đối với các nhà trí
thức; các nhà tư sản điền chủ; đối với đồng bào thiểu số.
Đối với nông dân, Trung ương Đảng chủ trương thực hiện tốt chính sách ruộng
đất và các biện pháp thiết thực nhằm giúp đỡ nông dân sản xuất, phát triển chăn nuôi, bảo
vệ mùa màng..., bước đầu ấn định chính sách lương cho cán bộ, công nhân viên chức
trong thời kỳ kháng chiến.
Nhằm cổ vũ mạnh mẽ tinh thần thi đua lao động sản xuất, hoàn thành tốt nhiệm
vụ xây dựng nền kinh tế kháng chiến, ngày 27-3-1948, Trung ương Đảng ra chỉ thị phát
động phong trào thi đua ái quốc, hướng nhân dân vào thực hiện nhiệm vụ cách mạng
trong giai đoạn mới. Nội dung thi đua chủ yếu là tăng gia sản xuất, luyện quân lập công.
Cùng với các chủ trương kháng chiến trên mặt trận kinh tế nêu trên, để công tác
lãnh đạo và chỉ đạo cuộc kháng chiến tại các địa bàn đạt hiệu quả cao hơn, ngày 25-11948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 120/SL tổ chức lại các chiến khu thành các liên
khu và đặc khu. Chiến khu IV đổi thành Liên khu IV, địa giới, đơn vị hành chính, quân
sự không thay đổi.
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, tháng 5-1948, Đại hội Đảng bộ
Liên khu IV lần thứ nhất họp. Đại hội kiểm điểm, đánh giá tình hình một năm kháng
chiến và đề ra nhiệm vụ công tác trong giai đoạn mới. Đại hội khẳng định quyết tâm bảo
vệ vững chắc Thanh - Nghệ - Tĩnh và xây dựng Thanh - Nghệ - Tĩnh thành hậu phương
của cuộc kháng chiến. Đại hội nêu rõ nhiệm vụ chuẩn bị sẵn sàng về mọi mặt để đánh bại

Footer Page 23 of 166.


Header Page 24 of 166.

địch nếu chúng tấn công vào Thanh - Nghệ - Tĩnh và xác định nhiệm vụ trọng tâm là cải
thiện dân sinh.
Về nhiệm vụ xây dựng kinh tế, Đại hội nêu rõ:

+ Xây dựng cơ sở kinh tế dân chủ mới; phát động phong trào thi đua lao động
sản xuất trong mọi ngành, mọi nghề, mọi giới; tập trung cho sản xuất nông nghiệp.
+ Đẩy mạnh công nghiệp quốc phòng; chú ý phát triển các ngành tiểu thủ công
nghiệp; đặt kế hoạch khai thác nguyên liệu, cải tiến công cụ sản xuất, đào tạo cán bộ,
nâng cao kỹ thuật chuyên môn. Phát triển các nghề truyền thống, đảm bảo tự cấp, tự túc.
+ Thực hiện tốt chính sách ruộng đất của Trung ương Đảng; phát triển tổ đổi
công, tổ hợp công và hợp tác xã.
+ Phát huy vai trò tích cực và trách nhiệm của hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh
đối với tiền tuyến Bình - Trị - Thiên và chiến trường cả nước.
+ Tích cực bao vây, phá hoại kinh tế địch, chống nạn đầu cơ tích trữ, bài trừ hàng
ngoại để bảo vệ hàng nội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư chúc mừng và chỉ đạo những nội dung cơ bản
của Đại hội. Người chỉ rõ những nhiệm vụ cơ bản mà quân và dân Liên khu phải tập
trung thực hiện, trong đó Người nhấn mạnh vấn đề xây dựng kinh tế hậu phương Thanh Nghệ - Tĩnh: "Phải ra sức tăng gia sản xuất để đi tới tự cấp tự túc gắn với thực hành tiết
kiệm. Trong thu, chi phải ngăn nắp, rõ ràng. Chương trình, kế hoạch phải thiết thực, đúng
với lực lượng, sát với hoàn cảnh" [57, tr. 3].
Thực hiện phong trào thi đua ái quốc do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động, năm
1948, Liên khu ủy phát động phong trào thi đua kháng chiến kiến quốc trong vùng tự do
Thanh - Nghệ - Tĩnh với các nội dung, hình thức thiết thực như: thi đua vận động tự túc
mặc; thi đua vận động tổ chức Hợp tác xã và xã dân tín dụng, thi đua sản xuất tự túc; thi
đua thực hiện chính sách bài trừ xa xỉ phẩm; thi đua trưng bày hàng nội hóa; thi đua sáng
chế...

Footer Page 24 of 166.


Header Page 25 of 166.

Để phong trào thi đua đạt kết quả, Đảng bộ Liên khu chỉ đạo đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, nêu rõ mục đích, ý nghĩa, nhiệm vụ và vạch kế hoạch, hướng dẫn cho từng

phong trào.
Tháng 1-1949, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị cán bộ Trung
ương lần thứ sáu. Hội nghị tiếp tục khẳng định chủ trương xây dựng kinh tế của Hội nghị
cán bộ Trung ương lần thứ năm. Hội nghị nhấn mạnh nhiệm vụ phát triển kinh tế dân chủ
mới, thực hiện kế hoạch hóa bộ phận kinh tế nhà nước và nâng cao vai trò của công nông
trong sản xuất kinh tế. Thực hiện dân chủ hóa đối với chế độ thuế khóa, quyên góp theo
nguyên tắc người nghèo nộp ít, người giàu nộp nhiều. Thuế ruộng, thuế đảm phụ căn cứ
vào ruộng đất để đặt theo nguyên tắc đã quy định.
Ngày 10-2-1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị tiếp tục đẩy mạnh
phong trào thi đua ái quốc nhằm mục đích "tích cực cầm cự, chuẩn bị tổng phản công".
Trung ương Đảng chỉ thị mọi ngành, mọi cấp, mọi đoàn thể, cá nhân ở Trung ương cũng
như ở địa phương, từ tiền tuyến đến hậu phương đều phải đem hết tài năng, sức lực để
xây dựng thực lực mọi mặt cho cuộc kháng chiến; thực hiện khẩu hiệu "tất cả để chiến
thắng". Trên lĩnh vực kinh tế, Đảng chỉ thị: xung phong đóng quỹ tham gia kháng chiến;
tiết kiệm chi tiêu lấy tiền ủng hộ kháng chiến; bao vây phá hoại kinh tế địch; chuẩn bị
triệt để việc giảm tô; xây dựng hợp tác xã.
Quán triệt chủ trương của Trung ương Đảng, từ 26-2 đến 7-3-1949, Liên khu ủy
IV triệu tập Hội nghị kháng chiến hành chính toàn Liên khu. Căn cứ vào tình hình thực
tiễn của Liên khu và trên cơ sở nhận thức rõ tầm quan trọng của thời kỳ chuẩn bị cho
phản

công,

Liên

khu

ủy

chủ


trương:

Xây dựng hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh vững mạnh hơn nữa để góp sức chung cùng
cả nước đưa cuộc kháng chiến bước sang giai đoạn mới. Hội nghị xác định những
nhiệm vụ cụ thể về xây dựng kinh tế của Liên khu trong năm 1949 là:
+ Đối với bộ phận kinh tế nhà nước: Đẩy mạnh khu vực kinh tế quốc doanh,
khuếch trương các xưởng sản xuất (dệt, kéo tơ, làm giấy...), cải tiến về kỹ thuật, về tổ

Footer Page 25 of 166.


×