Tải bản đầy đủ (.pdf) (162 trang)

Nghiên cứu một số hệ thống canh tác ở vùng đất ven sông Hồng thuộc địa bàn Thành phố Hà nội và định hướng phát triển bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 162 trang )

LUẬN VĂN:

Nghiên cứu một số hệ thống canh tác ở vùng
đất ven sông Hồng thuộc địa bàn Thành phố
Hà nội và định hướng phát triển bền vững


Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp Thành phố Hà nội nói
chung và các huyện ngoại thành nói riêng đã có thay đổi quan trọng và chuyển dần sang
sản xuất hàng hoá. Trong những năm qua, nhiều chương trình, dự án có liên quan đến sản
xuất nông nghiệp đã được triển khai ở các huyện ngoại thành, đặc biệt các huyện có vùng
đất ven sông Hồng như chương trình 773, khuyến nông, khuyến lâm…
Vùng đất ven sông Hồng trên địa bàn thành phố Hà nội là một trong những vùng
đất có lịch sử phát triển lâu đời, là cái nôi của nền văn minh lúa nước, là vùng đồng bằng
với địa hình tương đối bằng phẳng, đất đai màu mỡ, khí hậu đa dạng rất thuận lợi cho việc
phát triển các loại cây trồng nông nghiệp nuôi sống con người.
Thực trạng các hệ thống canh tác của Vùng đất ven sông Hồng còn manh mún,
chưa hình thành các vùng sản xuất với quy mô tập trung lớn với các loại cây chiến lược.
Việc hoàn thiện hệ thống canh tác chưa được đầu tư, chú trọng đúng mức, hiệu quả kinh tế
chưa cao.
Đại bộ phận người nông dân ở vùng đất này đều sống dựa vào nông nghiệp, mà thu
nhập từ sản xuất nông nghiệp lại không cao. Do đó đời sống của nhân dân còn gặp nhiều
khó khăn. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thu nhập thấp của bà con nông dân vùng
đất ven sông Hồng trên địa bàn thành phố Hà nội là chưa tìm ra (hoặc chưa học hỏi được)
các hệ thống canh tác cây trồng có hiệu quả kinh tế cao để áp dụng vào sản xuất.
Hệ thống nông nghiệp là một hệ thống kết hợp đan xen giữa các nhóm quy luật: quy
luật sinh học, quy luật kinh tế - xã hội. Giữa các nhóm có vai trò quyết định như nhau, vì
vậy nghiên cứu phát triển hệ thống canh tác nói riêng và hệ thống nông nghiệp nói chung


cần có sự tham gia của một nhóm cán bộ liên ngành, ở từng ngành giải quyết các tồn tại


của mình theo quan điểm tiếp cận hệ thống. Hệ thống canh tác cây trồng được coi là hợp
phần quan trọng nhất của hệ thống nông nghiệp ở các vùng sinh thái. Bố trí hệ thống cây
trồng thích hợp trong một khu vực hay một đơn vị sản xuất nông nghiệp ở mỗi vùng sinh
thái là nhằm khai thác tốt nhất, hiệu quả nhất các nguồn lực tự nhiên, kinh tế - xã hội của
các vùng sinh thái, tạo cho hệ thống một sức sản xuất cao, bền vững và bảo vệ môi trường.
Phát triển hệ thống nông nghiệp là một giải pháp tốt nhất cho việc giải quyết các
vấn đề kinh tế - xã hội, phát triển sản xuất một cách lâu dài, ổn định, phù hợp với nền nông
nghiệp nước ta.
Từ những cơ sở lý luận khoa học và thực tiễn sản xuất đang diễn ra ở vùng đất ven
sông Hồng, việc nghiên cứu hệ thống canh tác để từ đó xác định hệ thống cây trồng thích
hợp là một đòi hỏi cấp bách, có cơ sở khoa học để phát triển nông nghiệp bền vững và bảo
vệ môi trường. Do đó trên cơ sở tổng kết, đưa ra hệ thống cây trồng thích hợp cho từng
vùng sinh thái để sử dụng tốt nhất nguồn nhiệt, nguồn nước, đất đai, lao động…và bảo vệ
môi trường, tránh được tối đa những điều kiện bất lợi xảy ra là hết sức cần thiết. Từ những
nghiên cứu hệ thống canh tác và bài học được rút ra tác giả hình thành luận án mang tên:
“Nghiên cứu một số hệ thống canh tác ở vùng đất ven sông Hồng thuộc địa bàn
Thành phố Hà nội và định hướng phát triển bền vững”.
Đề tài nghiên cứu một số hệ thống canh tác có hiệu quả nhằm khuyến cáo cho bà
con nông dân vùng Đồng bằng sông Hồng nói chung và nông dân vùng ven sông Hồng
thuộc địa bàn thành phố Hà nội nói riêng nhân rộng các hệ thống canh tác có hiệu quả đó
ra địa bàn, góp phần nâng cao thu nhập, xoá đói giảm nghèo tiến tới làm giầu cho người
dân, giải quyết một phần tính bức xúc của vấn đề nêu ra ở trên .
2. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ đóng góp cơ sở khoa học trong việc xác định hệ
thống canh tác chính trên vùng đất ven sông Hồng trên quan điểm nghiên cứu hệ thống,
quan điểm sinh thái, quan điểm về hiệu quả kinh tế xã hội và hướng tới sự phát triển bền
vững.

ý nghĩa thực tiễn của đề tài là đề xuất một số hệ thống canh tác thích hợp trên vùng
đất vừa đem lại hiệu quả kinh tế cao theo hướng sản xuất hàng hoá, vừa phù hợp với điều
kiện kinh tế - xã hội của vùng, giúp cho người sản xuất đạt hiệu quả kinh tế cao trên một
đơn vị diện tích, nâng cao đời sống cho người dân trong huyện.


Hệ thống canh tác thích hợp còn có ý nghĩa trong việc bảo vệ môi trường, sử dụng
quỹ đất hiện có một cách hợp lý, phát huy cao nhất tiềm năng và lợi thế về đất đai, khí hậu,
… trên cơ sở phù hợp với môi trường sinh thái.
Những giải pháp và đề xuất góp phần phát triển hệ thống canh tác không chỉ đúng
với vùng ven sông Hồng mà còn có ý nghĩa cho những địa phương khác có các điều kiện
tương tự.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu đánh giá thực trạng sản xuất, thị trường tiêu thụ, hiệu quả kinh tế và
môi trường của một số hệ thống canh tác cây ăn quả có hiệu quả hiện có trong vùng đồng
bằng sông Hồng.
Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến sự phát triển hệ thống canh tác
cây ăn quả vùng Đồng bằng sông Hồng.
Nghiên cứu mô tả chi tiết một số hệ thống canh tác cây ăn quả trong vùng với các
nội dung:
+ Thực trạng sản xuất
+ Đặc điểm về giống, sự sinh trưởng và phát triển
+ Tình hình chăm sóc, bón phân
+ Chất lượng sản phẩm
+ Hiệu quả kinh tế và môi trường
+ Thị trường tiêu thụ
+ Tiềm năng phát triển sản xuất
+ Định hướng sản xuất theo hướng phát triển bền vững
Nghiên cứu đề xuất một số định hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
các hệ thống canh tác thích hợp trên quan điểm sinh thái và phát triển bền vững nhằm tăng

hiệu quả sử dụng đất, bảo đảm an toàn lương thực, giải quyết thực phẩm, tăng các loại cây
trồng có giá trị hàng hoá cao, tăng thu nhập, nâng cao đời sống cho nông dân vùng đất ven
sông Hồng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài tập trung vào các hệ thống canh tác cây ăn quả do hộ
nông dân thực hiện, trên cơ sở phát triển kinh tế hộ tăng thu nhập cho nông dân.


Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là vùng đất ven sông Hồng thuộc địa bàn thành phố Hà nội.

Ch­¬ng 1: Tổng quan tài liệu và cơ sở khoa học của đề tài
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu
Khi nghiên cứu một hệ thống, điều quan tâm đầu tiên là tìm hiểu mục tiêu của hệ
thống cần đạt được là gì ? và hệ thống đang hoạt động để đạt tới mục tiêu gì.
Triết học duy vật biện chứng đã chỉ ra rằng, để nghiên cứu một hiện tượng tự nhiên
hoặc xã hội ta phải xem xét nó trong mối quan hệ với các hiện tượng khác vì mọi hiện
tượng đều có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Mặt khác mỗi hiện tượng đều luôn luôn nằm
trong trạng thái biến đổi và phát triển mà nguồn lực và động lực chủ yếu của hiện tượng đó


nằm trong bản thân sự vật, vì vậy việc nghiên cứu một sự vật phải xem xét lý thuyết hệ
thống là nền tảng của phương pháp luận (Phạm Chí Thành, 1996) [32].
Lý thuyết hệ thống được ứng dụng ngày càng rộng rãi trong nhiều ngành khoa học
giúp cho sự hiểu biết và giải thích các mối quan hệ tương hỗ. Cơ sở lý thuyết hệ thống
được L. Vonbertanlanfy đề xướng vào đầu thế kỷ này đã được sử dụng như một cơ sở giải
quyết các vấn đề phức tạp và tổng hợp. Trong thời gian gần đây, quan điểm này rất phát
triển trong sinh học cũng như trong nông nghiệp.

Hệ thống là một tổng thể có trật tự của các yếu tố khác nhau có quan hệ và tác động
qua lại. Một hệ thống có thể được xác định như một tập hợp các đối tượng hoặc các thuộc
tính, được liên kết bằng nhiều mối tương tác.
Quan điểm hệ thống là sự khám phá đặc điểm của hệ thống đối tượng bằng cách
nghiên cứu bản chất và đặc tính của các mối tác động qua lại giữa các yếu tố (Phạm Chí
Thành, 1996) [32] .
Hệ thống là một tập hợp các phần tử có quan hệ với nhau tạo nên một chỉnh thể
thống nhất và vận động, nhờ đó xuất hiện những thuộc tính mới được gọi là “tính trồi”. Hệ
thống không phải là một phép cộng đơn giản các yếu tố, các đối tượng, chúng có tác động
qua lại lẫn nhau và có mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ với nhau.
Ngoài những yếu tố bên trong của hệ thống, các yếu tố bên ngoài của hệ thống
không nằm trong hệ thống, nhưng có tác động tương tác với hệ thống gọi là yếu tố môi
trường. Những yếu tố môi trường tác động nên hệ thống là yếu tố “đầu vào”, còn những
yếu tố môi trường chịu sự tác động trở lại của hệ thống là các yếu tố “đầu ra”. Phép biến
đổi của hệ thống là khả năng thực tế khách quan của hệ thống trong việc biến đổi “đầu
vào” thành “đầu ra”. Trạng thái của hệ thống là khả năng kết hợp giữa các “đầu ra” và các
“đầu vào” của hệ thống ở một thời điểm nhất định. Độ đa dạng của hệ thống là mức độ
khác nhau giữa các trạng thái hoặc giữa các phần tử của hệ thống. Mục tiêu của hệ thống là
trạng thái mà hệ thống mong muốn và cần đạt tới. Hành vi của hệ thống là tập hợp các
“đầu ra” của hệ thống có thể được trên cơ sở các giải pháp thích hợp, đem lại hiệu quả cao
cho cả hệ thống. Cấu trúc của hệ thống là hình thức cấu tạo bên trong của hệ thống, bao
gồm sự sắp xếp vị trí giữa các phần tử cùng các mối quan hệ giữa chúng (Phạm Chí
Thành, 1996) [32].


1.1.2. Những yếu tố chi phối hệ thống canh tác
Lịch sử phát triển của nông nghiệp gắn liền với lịch sử hình thành, phát triển và
hoàn thiện hệ thống cây trồng cho từng vùng khí hậu nông nghiệp và thổ nhưỡng đặc thù.
Hệ thống canh tác là một trong những nội dung quan trọng của hệ thống nông
nghiệp. Bố trí hệ thống canh tác hợp lý có ý nghĩa làm tăng sản lượng sản phẩm trên một

đơn vị diện tích và bảo vệ độ phì nhiêu của đất.
Trong quá trình nghiên cứu hệ thống canh tác cần chú ý đến mối quan hệ giữa cây
trồng và khí hậu, đất đai, phương thức canh tác và quần thể sinh vật. Sự thay đổi hệ thống
cây trồng trong hệ canh tác có ý nghĩa rất lớn trong việc tăng sản lượng lương thực, thực
phẩm và nâng cao độ phì nhiêu, bảo vệ đất.
Việc phân tích hệ thống canh tác truyền thống là cơ sở cho việc chuyển đổi cơ cấu
ngành trồng trọt. Bởi vì chỉ có từ các kết quả đánh giá phân tích các đặc điểm của cây
trồng tại khu vực nghiên cứu thì mới tìm ra các hạn chế và lợi thế so sánh để đề xuất các
cơ cấu cây trồng hợp lý.
Trong các tiêu chuẩn đánh giá điều kiện tự nhiên của vùng đã có rất nhiều tác giả
đưa vào các điều kiện sinh thái để phân tích và đưa ra các hệ thống cây trồng khác nhau
cho các hệ thống canh tác.
Nghiên cứu các tài liệu liên quan về phương pháp nghiên cứu xác định hệ thống cây
trồng hợp lý cho hệ thống canh tác, các tác giả đề cập đến các yếu tố cơ bản sau đây:
-

Khí hậu

-

Đất đai

-

Giống cây trồng

-

Loại cây trồng


-

Điều kiện kinh tế - xã hội

-

Thị trường

-

Môi trường và sự phát triển bền vững

1.1.2.1. Điều kiện khí hậu
Khi nghiên cứu hệ thống canh tác cần chú ý đến các yếu tố khí hậu vì cây trồng là
yếu tố quan trọng của hệ thống canh tác, mà cây trồng là sinh vật sống phụ thuộc vào điều
kiện tự nhiên, đặc biệt là điều kiện khí hậu. Khí hậu cung cấp năng lượng chủ yếu cho quá
trình tạo thành chất hữu cơ, tạo năng suất cây trồng. Cơ cấu cây trồng tận dụng cao nhất
điều kiện khí hậu sẽ cho tổng sản phẩm cao nhất và kinh tế nhất. Vì vậy có thể nói khí hậu


là yếu tố quan trọng nhất trong việc nghiên cứu hệ thống canh tác. Nghiên cứu hệ thống
canh tác là phải làm sao chống chịu được các hiện tượng như bão, lụt, úng, hạn…
1.1.2.2. Điều kiện về đất đai
Đất đai là một thành phần quan trọng trong hệ thống sinh thái nói chung và sinh thái
nông nghiệp nói riêng. Đất là nền tựa cho cây trồng tồn tại và sinh trưởng, trong đó mọi
hoạt động trao đổi dinh dưỡng và nước của cây trồng phần lớn được thực hiện từ đất. Mặt
khác mỗi loại cây trồng đều có đặc điểm là thích hợp với chỉ một hoặc vài loại đất có địa
hình và tính chất lý hoá nhất định, trong điều kiện khí hậu vùng không có sai khác lớn, thì
tính chất đặc điểm đất đai cùng chế độ nước có vai trò quyết định sự sai khác của hệ thống
canh tác (Hoàng Văn Đức, 1980) [12], (Đỗ Văn Hoà, 1996) [20].

Bản đồ đất Việt Nam tỷ lệ 1/ 1.000.000 đã phân biệt có 14 nhóm và 31 loại đất.
ở nước ta trước đây, vùng Đồng Bằng Sông Hồng vẫn thường trồng một năm hai vụ
lúa: Vụ lúa chiêm (từ tháng 12 đến tháng 5) và vụ lúa mùa với các giống cảm quang mạnh
(từ tháng 7 đến tháng 11) ở những chân ruộng có nước quanh năm. Với những thành tựu
của cuộc cách mạng xanh chúng ta đã thay vụ lúa chiêm (12 - 5) bằng vụ lúa xuân (2 - 6),
thay vụ lúa mùa với các giống lúa cảm quang mạnh (7 - 11) bằng vụ lúa mùa sớm với các
giống lúa phản ứng nhiệt độ (7 - 10) và đưa thêm một vụ đông với các cây như cà chua, su
hào, bắp cải, khoai tây… vào cơ cấu cây trồng (Phùng Văn Chinh, Lý Nhạc, 1987) [2].
Do đó cơ cấu cây trồng vùng Đồng Bằng Sông Hồng trong những năm 60 - 70 đã
có sự chuyển đổi, góp phần làm tăng sản lượng lương thực và sản phẩm trên một hecta đất
canh tác.
Trên đất hai vụ lúa chủ động nước đã thay hệ thống cây trồng lúa chiêm - lúa mùa
bằng hệ thống cây trồng lúa xuân - lúa mùa sớm - vụ đông.
Trên đất một vụ lúa - một vụ màu đã thay hệ thống cây trồng lúa mùa - mùa đông
xuân (ngô, khoai lang, thuốc lá, lạc…) bằng hệ thống cây trồng lúa mùa - cây vụ đông màu vụ xuân.
1.1.2.3. Điều kiện về giống cây trồng
Nước ta nằm trong vùng nhiệt đới do đó cây trồng đa dạng và phong phú. Các loại
cây trồng lương thực chủ yếu có lúa, ngô, khoai, sắn…Các loại cây ăn quả có chuối, cam,
quýt, vải, nhãn, xoài, dứa…Các loại rau thực phẩm có cải bắp, xu hào, cà chua…Các loại
cây công nghiệp lâu năm có cao su, chè, cà phê, điều, tiêu…


Xu thế thâm canh, tăng vụ đòi hỏi có những giống cây trồng vừa có khả năng chịu
được thâm canh để cho năng suất cao, vừa có thời gian sinh trưởng ngắn để đáp ứng cho
các cơ cấu gieo trồng đã được xác lập. Trên những vùng sinh thái có điều kiện địa hình và
đất đai khó khăn đòi hỏi các giống cây trồng phải có đặc điểm thích ứng và chống chịu với
các điều kiện đặc thù đó.
Muốn như vậy các giống cây trồng mới phải trải qua các bước khảo nghiệm cơ bản
theo từng thời vụ gieo trồng để kiểm tra, đánh giá về năng suất, tính chống chịu với sâu
bệnh và khu vực hoá để xác định tính thích hợp trong các điều kiện sinh thái khác nhau

trước khi được công nhận để sử dụng trong công thức luân canh cụ thể (Đào Trọng Hải,
1997) [18].
1.1.2.4. Loại cây trồng
Cây trồng là thành phần chủ yếu của hệ thống canh tác. Nghiên cứu hệ thống canh
tác là bố trí hệ thống cây trồng như thế nào để lợi dụng tốt nhất các điều kiện khí hậu và
đất đai. Muốn bố trí hệ thống canh tác thích hợp, chúng ta cần nắm vững yêu cầu các loại
và giống cây trồng đối với các kiểu khí hậu, đất đai và khả năng của chúng sử dụng điều
kiện ấy (Nguyễn Vy, 1982) [49].
Khác với khí hậu và đất đai là các yếu tố mà con người ít có khả năng thay đổi đối
với cây trồng, con người có thể lựa chọn và di thực chúng và với trình độ hiểu biết sinh
học hiện đại, con người có khả năng thay đổi bản chất của chúng theo hướng mà mình
mong muốn.
1.1.2.5. Điều kiện kinh tế - xã hội
Nhìn chung trình độ dân trí và tập quán sản xuất của người dân có ảnh đến việc xác
định hệ thống canh tác trong vùng. Đồng bào dân tộc thiểu số vốn trình độ dân trí thấp lại
có tập quán canh tác lạc hậu chủ yếu là tự cấp, tự túc, họ quen với hệ canh tác nương rẫy,
chọc lỗ, bỏ hạt, không chú trọng đến thâm canh cây trồng và sản xuất hàng hoá. Bởi vậy,
xác định hệ thống canh tác cho cộng đồng dân cư này phải tính tới khả năng thực tế và
trong tương lai phải trên khả năng của họ một bước, đồng thời phù hợp với tập quán sản
xuất của họ
Đối với đồng bào Kinh, việc lựa chọn hệ thống canh tác có chiều hướng thuận lợi
và đa dạng hơn vì họ đã có trình độ canh tác cao hơn, có khả năng áp dụng những tiến bộ
kỹ thuật vào sản xuất để đạt được hiệu quả kinh tế cao hơn. Hệ thống canh tác đối với
nhóm người này theo hướng thâm canh cao đòi hỏi trình độ kỹ thuật tiên tiến và không


những tự cung tự cấp đủ lương thực, thực phẩm mà còn sản xuất ra những nông sản có tính
chất hàng hoá.
Cơ sở hạ tầng cũng liên quan đến việc xác định hệ thống canh tác. Nơi có cơ sở hạ
tầng phát triển (đường giao thông, thuỷ lợi,…) thì bố trí hệ thống canh tác có tính đến việc

thuận cho việc chăm sóc, thâm canh, thu hoạch sản phẩm và vận chuyển đến cơ sở chế
biến hoặc thị trường tiêu thụ…
1.1.2.6. Điều kiện thị trường
Nhu cầu thị trường và định hướng kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ cũng cần được
xem xét kỹ khi xác định hệ thống canh tác. Nhu cầu thị trường sẽ là một trong những yếu
tố quyết định cho hộ gia đình dự tính canh tác gì, số lượng bao nhiêu, vào thời điểm nào để
đem lại hiệu quả cao nhất về mặt kinh tế và yếu tố này trở nên quan trọng khi sản xuất
hàng hoá trong nông nghiệp phát triển. Do vậy, xác định hệ thống canh tác phải phù hợp
với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng. (Đào Trọng Hải, 1997) [18].
1.1.2.7. Điều kiện môi trường
Hệ sinh thái nông nghiệp nói chung và hệ sinh thái đồng ruộng nói riêng là một
trong những hợp phần chủ yếu của toàn bộ hệ sinh thái môi trường. Việc xác định hệ thống
canh tác mục đích không những thu được hiệu quả kinh tế cao nhất, hiệu quả về mặt xã hội
mà còn phải tính đến hiệu quả về mặt môi trường.
Tác động trở lại của hệ thống canh tác đó đối với môi trường xung quanh là tích cực
hay tiêu cực để đảm bảo cho việc phát triển bền vững. Vì vậy hệ thống canh tác được xác
định phải có tác động bảo vệ môi trường ở các khía cạnh sau:
-

Bảo vệ và nâng cao độ phì nhiêu của đất.

-

Giảm được xói mòn đất như việc sử dụng hệ thống canh tác nông lâm kết hợp.

-

Sử dụng tiết kiệm các loại phân vô cơ và thuốc trừ sâu, trừ cỏ dại…
ở các tỉnh vùng cao và miền núi, hệ thống nông nghiệp cổ truyền là hệ thống mang


nhiều tính chất địa phương, bao gồm các tập quán canh tác của các dân tộc đã sống lâu đời
ở địa phương mà điển hình nhất là hệ thống nương rẫy du canh đã bộc lộ nhiều mặt hạn
chế như khai thác cạn kiệt các nguồn tài nguyên sẵn có của đất, không trả lại độ phì nhiêu
cho đất, gây ảnh hưởng xấu tới môi trường xung quanh. Mặt khác khi sản xuất hàng hoá
trong nông nghiệp phát triển, do nhu cầu thị trường người nông dân tập trung mọi nguồn
lực để bóc lột đất, bắt đầu sản xuất ra nhiều nhất sản phẩm nông nghiệp để đáp ứng nhu
cầu thị trường, và họ không còn để ý đến bảo vệ môi trường, làm cho môi trường xung


quanh ngày càng bị suy giảm theo chiều hướng xấu đi. Do đó việc xác định hệ thống canh
tác cần quan tâm đến cả hai khía cạnh: vừa đảm bảo được lợi ích kinh tế của người sản
xuất, vừa bảo vệ được môi trường cũng như sự cân bằng của hệ sinh thái tự nhiên.
Các hệ sinh thái tự nhiên luôn có sự cân bằng về năng lượng và vật chất. Thông
thường người ta phá các quần thể tự nhiên và thay thế bằng các quần thể nhân tạo, thì sự
cần bằng vốn có của nó bị phá vỡ và phải tạo lại bằng các biện pháp kỹ thuật. Muốn đạt
được hệ sinh thái nhân tạo có hiệu quả cao cần thiết phải nghiên cứu quy luật của hệ sinh
thái tự nhiên ở cùng điều kiện.
Mặt khác con người phải nghiên cứu cấu trúc của hệ sinh thái nhân tạo cho phù
hợp, trong vòng tròn đó là giải quyết mối quan hệ giữa cây trồng với hệ sinh thái đồng
ruộng, giữa hệ sinh thái đồng ruộng với môi trường xung quanh. Hệ sinh thái đồng ruộng
là tập hợp có trật tự bên trong hay bên ngoài của các yếu tố có liên quan đến nhau (hay tác
động lẫn nhau). Thành phần của hệ sinh thái đồng ruộng là các yếu tố, đó là phần không
biến đổi của hệ sinh thái, giữa các yếu tố có mối tác động qua lại với nhau, các mối quan
hệ và tác động giữa các yếu tố bên trong mạnh hơn so với các yếu tố bên ngoài hệ sinh
thái, tạo nên trật tự của hệ sinh thái (Đào Trọng Hải, 1997) [18].
1.1.3. Các lý luận về hệ thống canh tác
Nhiều tác giả khi nghiên cứu về hệ thống canh tác đã đưa ra những ý kiến khác
nhau:
ở Mỹ một số nhà nghiên cứu cho rằng hệ thống canh tác hay hệ thống nông trại, hệ
thống nông nghiệp (Farming Systems) là sự bố trí một cách thống nhất và ổn định các

ngành nghề trong nông trại, được quản lý bởi hộ gia đình trong môi trường tự nhiên, sinh
học và kinh tế - xã hội, phù hợp với mục tiêu, mong muốn và nguồn lực của nông
hộ…[63]. Do đấy khái niệm hệ thống nông trại (Farming Systems) gần giống với khái
niệm hệ thống sản xuất (Production Systems) coi nông trại như một phối hợp của các hệ
thống trồng trọt, đồng cỏ, chăn nuôi, quản lý tài chính (Chombart de Lauwe, 1963. Dẫn
theo Phạm Chí Thành và Trần Văn Diễn …[32].
Các tác giả ở Viện lúa Quốc tế thì cho rằng hệ thống canh tác là tập hợp các đơn vị
chức năng riêng biệt của các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi và tiếp thị. Các đơn vị đó có
mối quan hệ qua lại với nhau vì cùng dùng chung nguồn nhân lực từ môi trường. Khái
niệm này thường được dùng với những giới hạn vượt khỏi ranh giới cụ thể của từng nông


trại, để nói lên những đơn vị nông trại có hình thức tương tự. (IRRI, 1980. Dẫn theo Phạm
Chí Thành và công sự [34].
Cũng có tác giả cho rằng hệ thống canh tác là hình thức tập hợp của một tổ hợp đặc
thù các tài nguyên trong nông trại ở một môi trường nhất định, là những phương pháp
công nghệ sản xuất ra những sản phẩm nông nghiệp sơ cấp. Định nghĩa này không bao
gồm hoạt động chế biến, vốn thường vượt quá hình thức phổ biến của nông trại, thường
chỉ sản xuất ra các sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi. Nhưng nó bao gồm những nguồn lực
của nông trại được sử dụng cho việc tiếp thị những sản phẩm đó (IRRI, 1989. Dẫn theo
Phạm Chí Thành và cộng sự [34].
Theo Nguyễn Văn Luật: Hệ thống canh tác là tổ hợp cây trồng bố trí theo không
gian và thời gian với biện pháp kỹ thuật được thực hiện nhằm đạt năng suất cây trồng cao
và nâng cao độ phì của đất đai [24].
Các cách hiểu trên của các tác giả cho chúng ta nhận thức chung nhất về khái niệm
hệ thống canh tác, đó là một hệ thống được giới hạn trong một nông trại, mà chứa đựng
trong nó là các hệ phụ: trồng trọt, chăn nuôi, chế biến, tiếp thị, quản lý kinh tế được bố trí
một cách có hệ thống và tương đối ổn định, phù hợp với mục tiêu của từng nông trại.
Theo Nguyễn Duy Tính [40] cho rằng, hệ thống trồng trọt là hệ phụ trung tâm của
hệ thống Nông nghiệp, cấu trúc của nó quyết định sự hoạt động của các hệ phụ khác như

chăn nuôi, chế biến, ngành nghề… Với khái niệm về hệ thống canh tác như đã nêu ở phần
trên thì hệ thống trồng trọt là bộ phận chủ yếu của hệ thống canh tác.
Nói đến trồng trọt nghĩa là nói đến cây trồng. Cây trồng được trồng với các mục
đích khác và ngược lại với mục đích khác nhau người ta sẽ trồng các loại cây trồng khác
nhau. Như vậy cây trồng nông nghiệp có nhiều chức năng khác nhau: có thể là cây cung
cấp lương thực, thực phẩm có thể chỉ làm chức năng bảo vệ cho con người, gia súc hoặc
cây trồng khác, hoặc cũng có thể chỉ là phục vụ giải trí, cải tạo đất… Nhìn chung cây trồng
nông nghiệp hiện nay vẫn chủ yếu phục vụ cho mục tiêu lương thực, thực phẩm trực tiếp
phục vụ cho con người, cho phát triển chăn nuôi và làm nguyên liệu cho các ngành Công
nghiệp chế biến.
Nghiên cứu hệ thống canh tác nói chung và nghiên cứu hệ thống trồng trọt nói riêng
cho đến nay vẫn được coi là rất phức tạp vì nó liên quan và có mối quan hệ chặt chẽ tới
nhiều nguồn tài nguyên (đất, khí hậu…) và các lĩnh vực khác như sâu bệnh, trình độ người
lao động, vấn đề đầu tư, tác động qua lại của hệ thống cây trồng [58]. Tuy nhiên tất cả các


vấn đề nghiên cứu trên đều nhằm mục đích sử dụng hợp lý và có hiệu quả tài nguyên đất,
tài nguyên khí hậu nhằm nâng cao năng suất cây trồng.
Tương tự như vậy cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về hệ thống trồng trọt.
Zandstra [65]; Dufumier [16] cho rằng: Hệ thống trồng trọt (Cropping Systems) là hoạt
động sản xuất của cây trồng trong nông trại nó bao gồm tất cả các hợp phần cần thiết để
sản xuất một tổ hợp của các cây trồng nông trại và mối quan hệ của chúng với môi trường.
Các hợp phần này bao gồm cả các yếu tố tự nhiên, sinh học cần thiết cũng như kỹ thuật,
lao động và các yếu tố quản lý.
Đào Thế Tuấn [43], [45] cho rằng: Cơ cấu cây trồng là “thành phần các giống và
loài cây được bố trí theo không gian và thời gian trong một hệ sinh thái nông nghiệp, nhằm
tận dụng hợp lý nhất nguồn tự nhiên, kinh tế, xã hội của nó”. Ông cũng cho rằng bố trí cây
trồng hợp lý là biện pháp kỹ thuật tổng hợp, nhằm sắp xếp lại hoạt động của hệ sinh thái và
một cơ cấu cây trồng hợp lý, khi nó lợi dụng tốt nhất điều kiện khí hậu và né tránh thiên
tai, lợi dụng đặc tính sinh học của cây trồng, tránh sâu bệnh và cỏ dại, đảm bảo sản lượng

cao và tỷ lệ hàng hoá lớn, đảm bảo tốt chăn nuôi và ngành kinh tế hỗ trợ, sử dụng hợp lý
lao động và vật tư.
Từ các khái niệm trên cho thấy: Hệ thống trồng trọt là một thể thống nhất trong mối
quan hệ tương tác giữa các loại cây trồng được bố trí hợp lý trong không gian và thời gian,
tức là mối quan hệ giữa các loại cây trồng, giống cây trồng trong từng vụ và giữa các vụ
khác nhau trên một mảnh đất. Vì vậy đối tượng nghiên cứu của hệ thống trồng trọt là:
-

Công thức luân canh và hình thức đa canh

-

Cơ cấu cây trồng, giống cây trồng trong từng mùa vụ nhất định

-

Kỹ thuật canh tác cho hệ thống trồng trọt đó
Tuy nhiên mỗi hệ thống trồng trọt lại có quan hệ hữu cơ với môi trường bên ngoài

gồm các điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội, trình độ canh tác, quản lý của người
lao động và như vậy với những môi trường khác nhau sẽ quyết định sự tồn tại của hệ thống
cây trồng khác nhau.
Theo Nguyễn Duy Tính [40]. Nghiên cứu hệ thống cây trồng trong một hệ thống
nông nghiệp nhằm bố trí lại hoặc chuyển đổi chúng để tăng hệ số sử dụng ruộng đất, sử
dụng có hiệu quả tiềm năng đất đai, và lợi thế so sánh của từng vùng sinh thái nông nghiệp
cũng như sử dụng có hiệu quả tiền vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động, nhằm thu được
lợi nhuận cao trên một đơn vị diện tích đất canh tác.


Nội dung chủ yếu trong nghiên cứu phát triển hệ thống cây trồng là mở rộng diện

tích canh tác trên cơ sở khai thác những vùng sinh thái không thuận lợi bằng những hệ
thống cây trồng thích ứng với các điều kiện bất thuận (hạn hán, úng lụt…). Tăng vụ ở các
vùng thuận lợi và tương đối thuận lợi nếu xét thấy hệ số quay vòng của đất còn thấp. Thâm
canh trên những vùng sinh thái có hệ số sử dụng đất cao.
Như vậy nghiên cứu phát triển hệ thống canh tác tức là nghiên cứu để bố trí lại hoặc
chuyển đổi hệ thống cây trồng thích ứng với các điều kiện đất đai, khí hậu, nguồn nước,
lao động, tiền vốn…Cùng với quá trình chuyển đổi hệ thống cây trồng cần có những giải
pháp kinh tế - kỹ thuật và quản lý cho toàn bộ hệ thống phù hợp với mỗi vùng sinh thái
[12], [34].
1.1.4. Hình thành nền nông nghiệp phát triển bền vững
Để duy trì sự sống con người hiện nay phải giải quyết những vấn đề hết sức phức
tạp và khó khăn đó là: bùng nổ dân số, ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái. Nhiều
nước trên thế giới đã xây dựng và phát triển nền nông nghiệp theo quan điểm nông nghiệp
bền vững (Permalculture hoặc Sustainable Agriculture).
Các nhà khoa học đã nêu lên những nguyên tắc chính trong việc xây dựng hệ thống
nông nghiệp bền vững:
-

Mỗi yếu tố thực hiện nhiều chức năng

-

Mỗi chức năng quan trọng được nhiều yếu tố hỗ trợ

-

ưu tiên sử dụng tài nguyên sinh học

-


Tái chu kỳ năng lượng tại chỗ

-

Đa canh và đa dạng hoá các loài cây có lợi để tăng sản lượng và tăng mức độ tương
tác trong hệ thống

-

Tìm cách sử dụng không gian và mô hình tự nhiên có lợi nhất
Năm 1993 uỷ ban thế giới về môi trường và phát triển (WCED) của Liên hợp quốc

đã đưa ra khái niệm của sự bền vững là sự đáp ứng được các nhu cầu hiện nay của con
người nhưng không làm tổn hại đến nhu cầu riêng của thế hệ tương lai.
Nhóm cố vấn nghiên cứu nông nghiệp Quốc tế (CGIAR - 1989) định nghĩa nông
nghiệp bền vững là quản lý thành công các nguồn tài nguyên đối với nông nghiệp để đảm
bảo thoả mãn các nhu cầu thay đổi của con người nhưng vẫn duy trì là tăng cường chất
lượng của môi trường (Lê Đình Thắng, 1993) [37].


Mục đích của các hệ thống canh tác là phải đạt được các yêu cầu về hiệu quả kinh
tế, sự ổn định về xã hội và sự bền vững về mặt môi trường. Hiệu quả kinh tế cao bao giờ
cũng là động lực phát triển sản xuất, nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường như ở
nước ta hiện nay, đây là một trong những cơ chế tự điều khiển các hoạt động sản xuất. Một
loại cây trồng hoặc vật nuôi có hiệu quả kinh tế cao, được thị trường đòi hỏi sẽ được phát
triển rộng rãi, không cần có các khuyến cáo hoặc các chỉ thị phải phát triển như trước đây.
Tuy nhiên nếu chỉ theo hiệu quả kinh tế cao nhất mà không chú ý đến các điều kiện rằng
buộc khác như điều kiện tự nhiên và đất đai, tình hình nhân lực và vốn đầu tư, các tiến bộ
khoa học và công nghệ sản xuất thì sẽ bị thất bại hoặc gây hậu quả xấu cho môi trường thì
cũng sẽ bị loại trừ . Do đó hiệu quả kinh tế của các hệ thống nông nghiệp nói chung, hệ

thống canh tác nói riêng phải được đặt trong các điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể. Hiệu quả
kinh tế phải gắn liền với hiệu quả về xã hội và môi trường thì sản xuất mới bền vững, đó
mới là nền nông nghiệp bền vững.
Phát triển kinh tế và sản xuất nông nghiệp bền vững có quan hệ chặt chẽ, sản xuất
nông nghiệp bền vững được coi như một phần của quá trình phát triển, hỗ trợ và tăng
cường chất lượng đời sống của nhân dân và liên quan đến toàn bộ xã hội.
Như vậy nông nghiệp bền vững là tiền đề cho sự định cư. Nếu không thiết lập được
hệ thống sản xuất nông nghiệp ổn định và vững vàng, tồn tại lâu dài, đáp ứng được các nhu
cầu của nông dân về thức ăn, ở, mặc, vật liệu xây dựng và hệ sinh thái tốt thì người nông
dân phải bỏ đi nơi khác. Điều này có ý nghĩa đặc biệt trong việc nghiên cứu xây dựng các
mô hình sản xuất nông nghiệp ở vùng cao và miền núi để có thể ổn định được đời sống cho
đồng bào dân tộc và xoá bỏ tình trạng du canh, du cư. Một trong những giải pháp cho sự
phát triển bền vững là cần quan tâm đến việc quản lý và sử dụng đất nông nghiệp lâu bền.
Việc quản lý sử dụng đất nông nghiệp lâu bền bao hàm các quy trình công nghệ, chính
sách và các hoạt động nhằm hội nhập những nguyên lý kinh tế, xã hội với các yêu cầu bảo
vệ môi trường.
1.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Trên thế giới các nhà khoa học nông nghiệp đã và đang tập trung mọi nỗ lực nghiên
cứu cải tiến hoàn thiện hệ thống canh tác bằng cách đưa thêm một số loại cây trồng và hệ


thống canh tác nhằm tăng sản lượng lương thực, thực phẩm trên một đơn vị diện tích
trong một năm.
Trong lịch sử của chủ nghĩa tư bản, Anh là nước tiến hành công nghiệp hoá sớm
nhất. Khi đó người ta suy nghĩ một cách giản đơn rằng trong nền kinh tế hàng hoá, nông
nghiệp cũng phải xây dựng như công nghiệp theo hướng tập trung quy mô lớn mà quên
mất một đặc điểm cơ bản của nông nghiệp khác với công nghiệp là nó tác động vào sinh
vật (cây trồng, vật nuôi) và điều đó không phù hợp với hình thức sản xuất tập trung quy
mô lớn.

Chính C. Mác lúc đầu cũng có những suy nghĩ sai lầm như vậy, nhưng về cuối đời
cũng chính C. Mác đã phải nhận định lại: Ngay ở nước Anh với nền Công nghiệp phát
triển, hình thức sản xuất Nông nghiệp có lợi nhất không phải là các xí nghiệp nông nghiệp
với quy mô lớn mà là các trang trại gia đình không dùng lao động làm thuê.
Theo nghiên cứu của FAO, [58] cho biết quá trình biến đổi của các hệ thống nông
nghiệp được bắt đầu từ khi con người biết khai thác thiên nhiên bằng các biện pháp canh
tác và được thực hiện vào khoảng thời đại đồ đá mới. Từ đó các ngành trồng trọt, chăn
nuôi đã phát triển lan ra khắp các lục địa nhằm giải quyết nhu cầu sống cơ bản của con
người. Hệ thống nông nghiệp đốt rẫy và du mục ở vùng tiểu á có từ cách đây 7000 năm, ở
lục địa Trung Hoa và Trung Mỹ từ 3000 - 4000 năm, sau đó lan ra Địa Trung Hải và các
lục địa khác (Dufumier [16], Đào Thế Tuấn [45]. Với hình thức này con người trồng trọt
hoa màu, ngũ cốc trong 2 - 3 năm, sau đó bỏ hoá cho rừng tái sinh từ 10 - 30 năm, đất
được tái tạo lại độ phì, với phương thức canh tác này đủ nuôi sống 20 - 30 người/ km2
Hệ thống nông nghiệp luân canh có cày xới bắt đầu từ khi xã hội có khả năng sản
xuất ra các phương tiện làm đất, phá vỡ các thảm cỏ, đào bới gốc rễ cây rừng (Thời kỳ đồ
sắt). Thời gian này vòng canh tác ngắn: 2 - 4 năm trồng hoa màu lương thực, sau đó bỏ hoá
để cỏ mọc 10 - 15 năm (Dufumier [16], Shaner và cộng sự [63].
Hệ thống nông nghiệp dùng sức kéo, kết hợp giữa trồng trọt và chăn nuôi, trong đó
chăn nuôi giữ vai trò cung cấp thực phẩm và sức kéo đã làm tăng năng suất lao động lên
gấp 2 - 3 lần. Với hệ thống canh tác này đất được khai thác và phục hồi độ màu mỡ trở lại
nhờ được bón phân chuồng nên năng suất cây trồng đạt khá cao (Hải Đạt, [7].
Đan Mạch thực hiện hệ thống 6 khu: củ quả - ngũ cốc xuân - cây phân xanh - ngũ
cốc đông - khoai tây - để nghỉ mùa đông (Bùi Huy Đáp, 1996), [6].


Từ những năm 60, các nhà sinh lý thực vật đã phát hiện rằng: trong tự nhiên, không
có một cây nào có khả năng sử dụng toàn thể tài nguyên thiên nhiên ở một vùng, đặc biệt ở
vùng nhiệt đới. Do vậy hiện nay trên đất đang sản xuất nông nghiệp, ánh sáng, đất đai,
nguồn nước còn chưa được sử dụng đúng mức, còn nhiều khả năng tăng vụ, phát triển sản
xuất.

ở Châu á vào cuối thập kỷ 60, các nhà nghiên cứu Viện Lúa Quốc tế (IRRI) đã nhận
thức rằng giống lúa mới thấp cây, đứng lá tiềm năng sản lượng cao chỉ có thể giải quyết
vấn đề lương thực trong một phạm vi hạn chế. Do đó từ những năm đầu của thập kỷ 70 các
nhà khoa học của các nước châu á đã đi sâu nghiên cứu toàn bộ hệ thống cây trồng trên đất
lúa theo hướng lấy lúa làm nền, tăng cường phát triển các loại cây hoa màu trồng cạn. Các
chế độ trồng xen, trồng gối, trồng nối tiếp ngày càng được chú ý nghiên cứu. Theo hướng
này ở châu á đã hình thành “Mạng lưới hệ thống canh tác châu á”, một tổ chức hợp tác
nghiên cứu giữa Viện Nghiên Cứu Lúa Quốc Tế (IRRI) và nhiều quốc gia trong vùng.
Nhìn chung các nghiên cứu hệ thống cây trồng mới rất đa dạng phong phú và tập trung giải
quyết các vấn đề sau:
-

Tăng vụ ngắn ngày để thu hoạch trước mùa mưa lũ.

-

Thử nghiệm tăng vụ màu bằng các cây trồng mới, xen canh, luân canh tăng vụ.

-

Xác định hiệu quả kinh tế của các công thức luân canh, tìm và khắc phục các yếu tố
hạn chế để phát triển công thức đạt hiệu quả cao.
Chương trình nghiên cứu nông nghiệp phối hợp toàn ấn Độ 1960 - 1972 lấy hệ thâm

canh tăng vụ chu kỳ một năm làm hướng chiến lược phát triển sản xuất nông nghiệp đã kết
luận: “Hệ canh tác dành ưu tiên cho cây lương thực, chu kỳ một năm hai vụ ngũ cốc (hai
vụ lúa nước, hoặc một vụ lúa và một vụ lúa mì), đưa thêm vào một vụ đậu đỗ và đáp ứng
được 3 mục tiêu: khai thác tối ưu tiềm năng của đất đai, ảnh hưởng tích cực đến độ phì
nhiêu của đất trồng và đảm bảo lợi ích của người nông dân” (Hoàng Văn Đức, 1992) [12].
ở Đài Loan để nâng cao hiệu quả sử dụng đất bằng bố trí hệ thống canh tác hợp lý,

người ta đã nghiên cứu đưa ra các giống cây trồng hoa màu chịu rợp trồng xen trong mía
(mía là cây công nghiệp chiếm diện tích lớn nhất ở Đài Loan), nghiên cứu cây hoa màu
chịu hạn trồng mùa khô để đưa vào trồng sau khi thu hoạch lúa mùa (IRRI, 1982) [61].
Kết quả nghiên cứu của các nhà Lâm học trên Thế giới khẳng định ở những vùng
đất nông nghiệp nếu có xây dựng các đai rừng chắn gió thì tốc độ gió giảm từ 30 - 50%


trong giới hạn 20H và độ ẩm không khí tăng lên từ 7 - 15%, do đấy làm tăng độ ẩm đất,
điều hoà được chế độ nhiệt theo hướng có lợi cho cây trồng (Phạm Chí Thành, [33]).
Nhiều chuyên gia phát triển nông thôn chủ trương xây dựng hệ thống Nông Lâm
Ngư kết hợp ở vùng trũng nhằm nâng cao hiệu quả của hệ thống canh tác và tính ổn định
của chúng. Rất nhiều nông dân Philippin đã trồng Chuối tiêu trên bờ ruộng Lúa - Cá và
Chuối đã cho họ một nguồn thu lớn. Ngoài Chuối một số cây ăn quả bản địa cũng được
khuyến khích phát triển như Chôm Chôm, Landzon, Soursop, Mít…(International Institute
of Rural Reconstruction), [62].
ở Trung Quốc, từ những năm 1980, ở khu vực phía Nam đã thí nghiệm xây dựng
nền nông nghiệp sinh thái. ở Xiaoliang, một vùng đồi của Quảng Đông bị sa mạc hoá, xói
mòn mạnh, nhiệt độ mặt đất cao, trước đây người ta trồng bạch đàn nhưng đều không
thành công. Cuối cùng đã chọn hệ thống canh tác theo hướng đa dạng hoá hệ thống cây
trồng và trồng nhiều tầng. Theo Triệu Quốc Kỳ (1994) [22] trên đất lúa 2 vụ thuộc vùng
núi phía Nam thường được canh tác 2 hoặc 3 vụ với hệ thống cây trồng là: Lúa - Lúa mì khoai tây (hoặc lạc - đậu tương - lúa mì). Trên đất lúa một vụ thuộc vùng cao nguyên (gồm
tỉnh Vân Nam, Quế Châu, Tứ Xuyên, Tây Tạng), thường được canh tác với hệ thống cây
trồng là lúa luân canh với cây trồng cạn (Triệu Quốc Kỳ, 1994) [22].
ở Thái Lan trong điều kiện thiếu nước, một hệ thống canh tác lúa xuân - lúa mùa ít
mang lại hiệu quả và chi phí tiền nước quá lớn, cộng thêm sự độc canh cây lúa làm ảnh
hưởng xấu đến chế độ đất. Bằng việc chuyển dịch cây lúa xuân sang cây đậu tương giá trị
tổng sản phẩm tăng lên đáng kể, diện tích tăng gấp rưỡi, hiệu quả kinh tế tăng gấp đôi, độ
phì đất được nâng lên rõ rệt. Đã mang lại một thành công lớn trong chuyển dịch cơ cấu cây
trồng ở Thái Lan (Tejwani, V.L - Chun K. Lai Indonesia 1992) [64]
Ví dụ: Tại Chiềng Mai (Bắc Thái Lan) trong những năm 1971 - 1976 đã thí nghiệm

6 công thức hệ thống cây trồng trong canh tác như sau:
-

Lúa + lúa mì + ngô

-

Lúa + cà chua + lạc

-

Lúa + đậu + đậu tương

-

Lúa + khoai lang + bắp cải

-

Lúa + cà chua + đỗ xanh

-

Lúa + lạc + bắp cải (hoặc ngô non)


Kết quả điều tra ở Chiềng Mai cho thấy hệ canh tác 2 vụ lúa + 1 vụ màu hoặc lúa
cạn là phổ biến nhất. Cây màu thường là đậu tương, thuốc lá, tỏi, hành, đậu đỗ, rau xanh.
Tỷ lệ trồng 3 vụ trong năm (lúa - màu - lúa cạn) còn ít.
ở Indonexia đã nghiên cứu mối quan hệ giữa khí hậu ở các vùng sinh thái khác nhau

và hệ canh tác hiện có cho thấy như sau:
- Tại tỉnh Bago có một mùa ướt liên tục, một khoảng đứt quãng ngắn thường ở giữa
tháng 6 và tháng 8, lúa thu hoạch suốt năm, đỉnh cao thu hoạch tháng 5, 6 trong mùa ướt,
lạc thu hoạch suốt năm, một đỉnh nhỏ ở tháng 6.
- Tại Banuma có mùa khô ngắn, mùa ướt dài. Hai đỉnh thu hoạch lúa khoảng (tháng
9, 10) chứng tỏ đa số nông dân trồng hai vụ lúa trên một diện tích. Ngô thu hoạch vào đỉnh
mùa mưa, đậu tương thu hoạch vào cuối mùa khô (tháng 10) hoặc vào cuối mùa mưa
(tháng 5), lạc thu hoạch quanh năm (Nguyễn Điền - Trần Đức, 1993), [10]; (Bùi Thị Xô,
1994) [50].
ở những khu vực đất bằng, nông dân châu á đã sử dụng nhiều hệ canh tác. Những
hệ thống này gồm các hệ thống cây trồng khác nhau (lúa, rau, khoai lang, ngô, đậu…) nói
chung hệ thống cây trồng luân canh giữa chế độ cây trồng nước và chế độ cây trồng cạn,
giữa cây lương thực và cây họ đậu, hệ thống luân canh giữa không gian và thời gian đã
được nhiều nhà nghiên cứu đề cập và kết luận có hiệu quả (Hoàng Văn Đức, 1992) [13];
(Triệu Quốc Kỳ, 1994) [22].
Vấn đề hiệu quả kinh tế của các công thức luân canh trên đất lúa cũng được nhiều
nhà khoa học quan tâm, đặc biệt ở ấn Độ và Pakistang. Nghiên cứu về vấn đề này các tác
giả đã đề cập đến cơ cấu luân canh cây trồng hợp lý, phụ thuộc vào điều kiện canh tác và
giá cả nông sản hàng hoá trên thị trường. Tại vùng Dandkadi, năm 1981 có 13 công thức
luân canh khác nhau được áp dụng, năm 1982 có 18 công thức luân canh, năm 1983 có 16
công thức luân canh, trong đó phổ biến nhất là cơ cấu 2 vụ. Tại vùng Mirrapur và Tangril
có các công thức luân canh đáng chú ý là lúa - lúa hè, đảm bảo nền cho việc tăng thêm vụ
đông cho một đơn vị diện tích với các cây trồng là lúa mì, cải canh, khoai tây, ớt,
kê…Công thức luân canh này được nông dân áp dụng rộng rãi vì nó đảm bảo lương thực
quanh năm và có hiệu quả kinh tế cao (Bùi Thị Xô, 1994) [50]
Chương trình SALT của Philippines đã khảo nghiệm có kết quả với hệ thống cây
trồng và biện pháp canh tác như sau: các cây hằng năm và cây lâu năm được trồng thành
băng xen kẽ rộng từ 4 - 5m, các loại cây họ đậu cố định đạm được trồng thành 2 hàng dầy



theo đường đồng mức để tạo thành hàng rào. Khi những cây hàng rào cao 1,5 - 2m người
ta đốn, để lại 40cm gốc, cành lá dùng để rải lên băng tạo lớp che phủ và giữ ẩm, chống xói
mòn. Cây lâu năm thường là cây cà phê, cao su, cam…Điểm trình diễn từ năm 1978 trên
đất có độ dốc 200, thực tế thu nhập bình quân hàng năm trên 1ha áp dụng SALT cao gấp 3
lần so với hệ thống độc canh cổ truyền. Mô hình này cũng được B. T. Kang (IITA) mang
áp dụng ở Nigiêria gọi là canh tác theo băng (Alley Cropping) (Hoàng Văn Đức, 1992)
[13]
Như vậy, ở nước ngoài, các nghiên cứu về hệ thống canh tác, hệ thống cây trồng,
các biện pháp trồng xen, trồng gối, trồng nối tiếp, thâm canh, tăng vụ được tiến hành từ rất
sớm. Việc đưa các cây ăn quả, cây họ đậu vào hệ thống canh tác được đánh giá rất cao
trong việc cải tạo, bồi dưỡng đất đai, tăng tính ổn định của hệ thống và góp phần làm tăng
hiệu quả, tăng năng suất và sản lượng của toàn bộ hệ thống canh tác. Những nghiên cứu
này đã được ứng dụng có hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp và góp phần phát triển khoa
học hệ thống nông nghiệp, góp phần tăng năng suất cây trồng và nâng cao đời sống của
nhân dân lao động.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Tình hình nghiên cứu hệ thống nông nghiệp nói chung và hệ thống canh tác nói
riêng ở nước ta đã được bắt đầu từ rất lâu.
Trong bài “ Nghiên cứu hệ thống canh tác ở miền Bắc Việt Nam” Phạm Chí Thành
đã nêu chủ trương xây dựng chế độ canh tác theo các biến sinh thái với hệ thống phân cấp
của Valenza (1982) thay thế cho cách làm hiện tại là xây dựng chế độ canh tác cho từng
thửa ruộng cụ thể và chế độ canh tác cho từng hợp tác xã.
Chia chế độ canh tác ra thành phần cứng và phần mềm. Phần cứng gồm các biện
pháp bắt buộc phải làm vì nó phục vụ cho những cái chung của cả hệ thống. Còn phần
mềm gồm các biện pháp kỹ thuật có thể thay đổi theo thị trường, theo điều kiện kinh tế,
phong tục và kỹ năng lao động của từng nông dân.
Cuộc cách mạng đầu tiên trong nông nghiệp diễn ra ở Tây âu vào cuối thế kỷ 18
đầu thế kỷ 19 đã làm thay đổi chế độ độc canh bằng chế độ luân canh với 4 khu luân
chuyển trong 4 năm giữa ngũ cốc và cỏ 3 lá. Trước đó nông dân vùng này độc canh lúa mỳ
2 năm rồi bỏ hoá 1 năm. Cuộc cách mạng về hệ thống canh tác đã làm thay đổi cơ cấu cây

trồng, đưa cây thức ăn gia súc và cây họ đậu vào công thức luân canh, nhờ đó năng suất
cây trồng tăng lên đáng kể, đất đai được bồi dưỡng cải tạo (Phùng Đăng Chinh và cộng sự,


[2]; (Phạm Bình Quyền và cộng sự, [29]. Giai đoạn của Nông nghiệp gắn với công nghiệp,
cơ giới hoá, hoá học hoá, thuỷ lợi hoá…đã tạo ra nhiều nông sản hàng hoá và cũng xuất
hiện những mặt trái của nền Nông nghiệp theo hướng Công nghiệp. Giai đoạn 3 của cuộc
cách mạng trong Nông nghiệp theo hướng trí tuệ, con người sử dụng hợp lý nguồn tài
nguyên, vừa đạt năng suất cao vừa bảo vệ được môi trường (Cao Liêm - Trần Đức Viên,
[23].
Khi tiến hành nghiên cứu ở Sóc Sơn, Phạm Chí Thành [31] đã đưa vào dạng địa
hình, chế độ mưa, hiện trạng thuỷ lợi để chia ra các nhóm biến sinh thái. Sau đó ở mỗi
nhóm biến sinh thái, dựa vào tiêu chuẩn phân vị loại đất (địa hình, độ dầy tầng đất, thành
phần cơ giới, pH, lân dễ tiêu, mùn) để chia thành các biến sinh thái. Trên từng biến sinh
thái tiến hành nghiên cứu hệ thống canh tác truyền thống, từ đó rút ra các mặt hạn chế và
đề xuất hệ thống canh tác mới cho từng biến sinh thái có kèm theo các biện pháp kỹ thuật
thích ứng.
Vào những năm đầu của thập kỷ 60, Đào Thế Tuấn cùng với các nhà nghiên cứu
của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam trên cơ sở vận dụng những căn cứ cơ
sở khoa học xác định hệ thống cây trồng hợp lý và theo yêu cầu của thực tế sản xuất đòi
hỏi, đã tiến hành nhiều đề tài nghiên cứu về cơ cấu cây trồng ở vùng Châu thổ Sông Hồng
và đã đưa ra những nhận định về những yêu cầu cần đạt được của một cơ cấu cây trồng
như sau:
-

Lợi dụng tốt nhất các điều kiện khí hậu và tránh được những tác hại của thiên tai.

-

Lợi dụng tốt nhất các điều kiện đất đai, bảo vệ và bồi dưỡng độ màu mỡ của đất.


-

Lợi dụng tốt nhất các đặc tính sinh học của cây trồng (khả năng cho năng suất cao,
phẩm chất tốt, ngắn ngày, tính thích ứng rộng, tính chống chịu bất lợi của điều kiện
ngoại cảnh).

-

Tránh được tác hại của sâu bệnh, cỏ dại với việc sử dụng ít nhất các biện pháp hoá
học.

-

Đảm bảo tỷ lệ sản phẩm hàng hoá cao, đảm bảo hiệu quả kinh tế cao.

-

Đảm bảo hỗ trợ cho ngành sản xuất chính và phát triển chăn nuôi, tận dụng các
nguồn lợi tự nhiên (Đào Thế Tuấn, 1987) [47].
Các tác giả cũng đã đưa ra nhận xét: “Trên đất lúa 2 vụ, đưa cơ cấu vụ lúa xuân với

các giống lúa ngắn ngày đã để lại một khoảng thời gian trống giữa hai vụ lúa (từ sau thu


hoạch lúa mùa sớm và lúa mùa chính vụ đến khi cấy lúa xuân) tạo điều kiện để xây dựng
một hệ thống cây trồng có hiệu quả trên đất 2 vụ lúa”
Từ những kết quả nghiên cứu của mình, các tác giả đã đưa ra một số hệ thống cây
trồng cụ thể cho vùng Đồng Bằng Sông Hồng như sau:
-


Trên đất 2 vụ lúa chủ động nước tưới:

+ Lúa Mùa - màu vụ Đông (khoai tây, khoai lang, ngô) - lúa Xuân.
+ Lúa Mùa - rau vụ Đông (cà chua, xu hào, bắp cải) - lúa Xuân.
-

Trên đất 2 vụ lúa thấp ngập nước:

+ Lúa Mùa - bèo dâu - lúa Xuân
+ Lúa Mùa - bèo dâu - lúa Xuân - điền thanh (Đào Thế Tuấn, 1989) [44].
Chế độ canh tác trên đất 2 vụ lúa với các hệ thống trồng trọt như trên từng bước
được áp dụng rộng rãi ở châu thổ sông Hồng và các vùng khác trong cả nước đã tạo nên
những chuyển biến khá rõ nét về sản xuất lương thực, thực phẩm ở từng vùng trong cả
nước.
Nghiên cứu về hệ thống cây trồng trên đất canh tác chủ yếu nhờ nước trời, Bùi Huy
Đáp đã có nhận xét: hai vụ màu Đông và Xuân, lúa mùa tiếp chân, sử dụng những loại
màu Xuân có thời gian sinh trưởng dài, ngắn khác nhau, tuỳ theo sau màu sẽ trồng lúa
Mùa sớm hay lúa Mùa chính vụ. Đây là chế độ canh tác khai thác được khá triệt để tiềm
lực của các loại đất cao cấy một vụ lúa mùa nhờ nước trời. Trên chân đất chuyên trồng
màu ở các vùng đất bãi ven sông, hệ thống cây trồng có hiệu quả ngay sau nước rút, trồng
ngô thu đông (hoặc rau, đậu sớm), sau đó trồng ngô xuân (hoặc đậu tương, đậu đỗ khác vụ
xuân) (Bùi Huy Đáp, 1996) [6].
Một số tác giả cho rằng, ở nước ta có 3 loại hình luân canh tăng vụ:
-

Luân canh giữa cây trồng cạn với nhau.

-


Luân canh giữa cây trồng cạn với cây trồng nước.

-

Luân canh giữa cây trồng nước với nhau.
ở chân đất quanh năm không ngập nước, thành phần cơ giới nhẹ, dễ thoát nước

thường luân canh cây họ đậu (đậu tương, lạc, đậu cô ve, đậu xanh…). Ngoài luân canh
tăng vụ cây lương thực, cây công nghiệp, cây thức ăn gia súc còn có những hệ thống cây
trồng luân canh giữa cây dược liệu (bạc hà, địa hoàng, bạch chỉ…) với cây lương thực
hoặc cây công nghiệp ngắn ngày (Phùng Văn Chinh, Lý Nhạc, 1987) [2]


Hệ thống canh tác là tổ hợp cây trồng bố trí theo không gian và thời gian với hệ
thống biện pháp kỹ thuật được thực hiện nhằm đạt năng suất cây trồng cao và nâng cao độ
phì của đất đai, Nguyễn Duy Tính (1995), [40]
Phạm Chí Thành (1993), [32] cho rằng để xây dựng hệ thống canh tác phải được
làm từng biến sinh thái của từng vùng và hệ thống canh tác phải được xây dựng theo quan
điểm lịch sử, theo một trật tự từ thấp lên cao, vì vậy nó là yếu tố động theo thời gian và
không gian.
Phạm Chí Thành (1994), [34] khi nghiên cứu chuyển đổi hệ thống canh tác vùng
kinh tế sinh thái và du lịch ven đường 21 tỉnh Hà Tây cho rằng: nước ta cũng như nhiều
nước đang phát triển khác đã áp dụng một chiến lược phát triển chủ yếu dựa trên thành tựu
của cuộc “cách mạng xanh”, nhằm vào một số sản phẩm nông nghiệp quan trọng nhất như
lúa nước, lúa mỳ, ngô…bằng cách tập trung đầu tư vào một số nhân tố phát triển quan
trọng nhất và cũng dễ cải tiến như năng suất cao, thuỷ lợi, phân bón hoá học và thuốc
phòng trừ dịch hại. Cách phát triển này chỉ thực hiện được ở một số vùng có điều kiện sinh
thái thuận lợi, còn ở các vùng đất “có vấn đề” như hạn, úng, mặn, phèn, cát, đất trọc…các
tiến bộ kỹ thuật này tỏ ra chưa thích ứng. Ngay với các vùng thuận lợi, năng suất đã gần
đạt tới giới hạn cao, giá cả vật tư nông nghiệp tăng lên làm cho hiệu quả đầu tư giảm, giảm

tốc độ phát triển.
Muốn đẩy nhanh sự phát triển nông nghiệp trong thời gian tới, phải tìm một số
chiến lược phát triển khác thích ứng với các điều kiện sinh thái khó khăn, không đòi hỏi
đầu tư lớn, có hiệu quả kinh tế cao.
Mâu thuẫn chủ yếu của sự phát triển về kinh tế nước ta là cần có một tốc độ phát
triển nhanh nhưng khả năng đầu tư lại hạn chế. Giải quyết vấn đề này không chỉ trông
mong vào đầu tư nước ngoài mà phải phát hiện và huy động chủ yếu các nguồn lực bên
trong hệ thống. Các nguồn lực đó là:
-

Đất đai: chủ yếu không phải là phát triển theo chiều rộng (mở thêm diện tích) mà
theo chiều sâu (thâm canh, tăng vụ).

-

Lao động: là nguồn lợi lớn nhất (theo kinh nghiệm của các nước Đông á) mà hiện ta
đang coi là khó khăn.

-

Nguồn vốn của dân, hiện nay ta vẫn chưa huy động được nhiều do thiếu chính sách
vốn, nhiều lao động, tiết kiệm năng lượng.


Trần An Phong (1995), [26] khi nghiên cứu cơ sở khoa học của cải thiện hệ thống
cây trồng trên quan điểm sinh thái và phát triển lâu bền, cho rằng: các hệ thống sử dụng
đất và hệ thống cây trồng được chọn phải phù hợp với điều kiện sinh thái, vừa có giá trị
sản lượng, thu nhập cao, nâng cao độ phì nhiêu của đất vừa tạo nhiều việc làm cho các
nông hộ theo hướng đa dạng hoá cho các cây trồng.
Trần An Phong (1993), [27] trong nghiên cứu cơ sở khoa học sử dụng đất Đồng

Bằng Sông Cửu Long đã nhấn mạnh khả năng thâm canh tăng vụ và đa dạng hoá cây trồng
ở vùng phù sa chủ động nước, đồng thời chú ý tăng vụ và đổi mới giống ở vùng đất phèn
mặt và sản xuất chủ yếu dựa vào nước mưa.
Lê Thanh Hà (1993), [17] nghiên cứu hệ thống canh tác trên đất dốc Văn Yên - Yên
Bái cho thấy các hệ thống canh tác có hiệu quả trên đất dốc Văn Yên là: quế - rừng; sắn mía - rừng; cây ăn quả - mơ; gừng - rừng.
Phạm Chí Thành - Trần Đức Viên (1994), [35] nghiên cứu chuyển đổi hệ thống
canh tác vùng trũng Đồng Bằng Sông Hồng cho thấy những hệ thống canh tác mới (cây ăn
quả - nuôi cá - cấy lúa), (cá - vịt) tăng thu nhập thuần từ 2 - 5 lần so với hệ thống canh tác
cũ.
Phạm Chí Thành (1994), [34] nghiên cứu sử dụng vùng đất đồi gò tỉnh Hà Tây cho
thấy chúng ta có đủ điều kiện để kiến tạo những hệ thống canh tác có hiệu quả kinh tế, sinh
thái cao thay thế diện tích đất trống, đồi núi trọc.
Võ Tòng Xuân (1993), [52] nghiên cứu mô hình canh tác lúa - tôm ở xã Đại Thành,
huyện Phụng Hiệp - Cần Thơ cho thấy tổng lợi nhuận tăng đáng kể, tác giả cũng chỉ ra mật
độ nuôi thích hợp là 1,4 con/m2.
Mai Văn Quyền (1992), [30] trong tài liệu đánh giá hiện trạng hệ thống trồng trọt
trên vùng đất xám huyện Đức Hoà - Long An chỉ ra hệ thống trồng trọt tối ưu và mối quan
hệ tương tác giữa trồng trọt và chăn nuôi ở từng môi trường sinh thái cụ thể.
Tào Quốc Tuấn (1994), [48] nghiên cứu xác định cơ cấu cây trồng hợp lý vùng phù
sa ngọt đồng bằng Sông Cửu Long, nêu lên 28 mô hình cho vùng, định hướng phát triển và
các giải pháp tổ chức trong đó có giải pháp về chính sách.
Để giải quyết tình trạng phá rừng và thoái hoá đất do canh tác nương rẫy, ở nhiều
nước đã sử dụng hệ canh tác Nông Lâm kết hợp nhằm phối hợp hai mục đích mẫu thuẫn
với nhau trong một hệ sinh thái (Roche, 1974). Nội dung của phương pháp là giao đất cho
nông dân trồng rừng và kết hợp trồng cây lương thực giữa các hàng cây còn non. Cây


lương thực được trồng là Ngô, Khoai, Lạc, Đậu…Lúc rừng đã khép tán, giao lại cho cơ
quan lâm nghiệp và lĩnh tiền thưởng. Phương pháp này áp dụng ở Nigeria có kết quả tốt. ở
các vùng rừng nhiệt đới, người ta có thể dùng các cây lâu năm như Cao su, Cà phê,

Dừa,…thay cho các cây trồng lương thực hàng năm.
Đào Thế Tuấn, [45] nghiên cứu các cây lâm nghiệp lâu năm trên đất dốc đã nhận
xét: hệ sinh thái cây lâu năm có chu trình dinh dưỡng gần giống với hệ sinh thái rừng về
mặt bảo vệ độ màu mỡ của đất và hút các chất dinh dưỡng ở tầng sâu. Mỗi năm từ hệ sinh
thái cây lâu năm bị lấy đi một lượng chất dinh dưỡng nhưng chúng được hoàn trả bằng một
lượng phân bón mà con người đưa vào. Hệ sinh thái cây lâu năm có nhược điểm đơn điệu
về thành phần loài, có thể dẫn tới giảm tính chống chịu với sâu bệnh và các tác nhân phá
hoại, sẽ được con người hỗ trợ bằng việc phòng trừ sâu bệnh và một loạt các biện pháp bổ
xung khác. Để phát triển hệ sinh thái này phải phối hợp cây trồng và cây rừng tốt nhất, kết
hợp cả trồng trọt và chăn nuôi.
Đào Châu Thu, [38]; Bùi Quang Toản, [42] khi nghiên cứu về đất dốc ở Tây Bắc đã
rút ra kết luận: có thể xây dựng được những mô hình sản xuất nông nghiệp ổn định trên đất
dốc trên cơ sở một hệ thống phân loại sử dụng đất hợp lý theo quan điểm sinh thái Nông
Lâm kết hợp.
Trần Như ý đề xuất các hệ thống canh tác trên đất dốc ở một số vùng thuộc miền
núi phía Bắc, đã đưa ra các hệ thống cây ăn quả thay thế cho cây lương thực tạo thu nhập
cao và bảo vệ được môi trường, hạn chế việc phá rừng đốt nương tràn lan, giúp dân định
canh, định cư.
Lê Thành Đường (1992), [9] nghiên cứu hiệu quả kinh tế của các loại hoa màu
trồng tại Phú Châu - An Giang đã chọn ra 2 loại cây cho lãi cao gần 4 triệu đồng/ha/vụ là
bắp và đậu trắng.
Nguyễn Ngọc Trâm (1994), [41] nghiên cứu cơ cấu cây trồng và hệ thống luân canh
cây trồng vùng đất cát ven biển Thừa Thiên - Huế, rút ra kết luận công thức: ớt - lúa cho
giá trị gia tăng cao nhất và hiệu quả chi phí đầu tư cao nhất.
Lê Hưng Quốc (1994), [28] trong nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây trồng vùng gò
đồi tỉnh Hà Tây cho thấy một số hệ thống cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao vùng gò đồi
Hà Tây:



×