3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã trải qua nhiều thời kỳ đấu tranh oanh liệt với những thắng
lợi vĩ đại. Trong đó, thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945 là
một sự kiện lịch sử nổi bật, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong
quá trình đấu tranh cách mạng của dân tộc ta. Đây là thắng lợi vĩ đại có ý
nghĩa dân tộc và thời đại sâu sắc, tạo ra những tiền đề quan trọng để dân
tộc ta tiếp tục tiến lên giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và chống đế quốc Mỹ sau này.
Thời kỳ cách mạng đấu tranh giành chính quyền của dân tộc ta từ 1939
đến 1945 đã khẳng định vai trò to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
hoạch định đường lối chiến lược, sách lược; xác định mục tiêu, nhiệm vụ, đối
tượng, phương pháp cách mạng, trong đó vấn đề xây dựng lực lượng cách
mạng trong đấu tranh giành chính quyền về tay nhân dân được Đảng ta hết
sức quan tâm.
Trong tình hình hiện nay, nhất là sau khi chế độ XHCN ở Liên Xô và
Đông Âu sụp đổ, đã xuất hiện những quan điểm tư tưởng sai trái, muốn phủ
định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thắng lợi to lớn của cách
mạng Tháng Tám và phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng ta trong lịch sử và
hiện thực.
Trước yêu cầu của thực tiễn, việc tìm hiểu vấn đề xây dựng lực lượng
cách mạng trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền từ 1939 đến 1945 của
Đảng có ý nghĩa to lớn, nó góp phần làm sáng tỏ quan điểm về lực lượng cách
mạng của Đảng trong cách mạng nói chung, trong đấu tranh giành chính
quyền nói riêng; góp phần củng cố tạo dựng niềm tin của quần chúng nhân
dân vào sự lãnh đạo của Đảng trong lịch sử và hiện thực. Đây là vấn đề có
4
tính thời sự cấp bách nhằm đấu tranh với mọi âm mưu thủ đoạn muốn phủ
định lịch sử, phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng trong đấu tranh chính quyền
(1939 - 1945) của các thế lực thù địch. Từ đó góp phần xây dựng lực lượng
cách mạng trong giai đoạn cách mạng mới, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ
chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Đã có nhiều công trình trong nước và nước ngoài nghiên cứu về xây
dựng lực lượng vũ trang; Mặt trận Việt Minh... trong đấu tranh giành chính
quyền. Song chưa có công trình nào nghiên cứu một cách tổng thể, đầy đủ với
tư cách là một đề tài độc lập về Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng cách mạng
trong đấu tranh giành chính quyền (1939-1945). Với ý nghĩa và lý do đó, tác
giả chọn đề tài: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng lực lượng
cách mạng trong đấu tranh giành chính quyền từ 1939 đến 1945” làm luận
văn thạc sĩ lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Xây dựng lực lượng cách mạng là một bộ phận trong đường lối của
Đảng, là vấn đề có ý nghĩa chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nhân tố
quan trọng góp phần đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi.
Đến nay chưa có thống kê đầy đủ số lượng các công trình nghiên cứu về
cách mạng Tháng Tám, về xây dựng lực lượng cách mạng trong đấu tranh giành
chính quyền. Song, từ khi cách mạng Tháng Tám thành công đến nay đã có
không ít tác giả, tác phẩm, công trình khoa học nghiên cứu về thời kỳ đấu tranh
giành chính quyền và cách mạng Tháng Tám dưới các góc độ khác nhau như:
Một số công trình của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và quân
đội như: “Mấy vấn đề quân sự trong cách mạng Việt Nam” của Trường
Chinh, Nxb QĐND, Hà Nội, 1993; “Những kinh nghiệm của Đảng ta về lãnh
đạo ĐTVT và xây dựng LLVT” của Võ Nguyên Giáp, Nxb Sự Thật, Hà Nội
1961. Nhiều hồi ký của các nhân chứng lịch sử đã được xuất bản, trong đó có hồi
5
ký: “Những chặng đường lịch sử” của Võ Nguyên Giáp, Nxb CTQG, Hà Nội
1994. Những hồi ký này có nhiều tư liệu mới, sinh động nhưng chưa tập trung vào
xây dựng lực lượng cách mạng... là sự khái quát cả quá trình trưởng thành của
LLVT trong chiều dài lịch sử, không đi sâu diễn biến từng thời kỳ.
Quá trình xây dựng lực lượng cách mạng của Đảng cũng được đề cập
trong các cuốn lịch sử như:
“Lịch sử cách mạng Tháng Tám 1945” của Viện Lịch sử Đảng thuộc
Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb CTQG,
Hà Nội, 1995; “Cách mạng Tháng Tám - Một số vấn đề lịch sử” của viện Sử
học thuộc Trung tâm khoa học Xã hội và nhân văn, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1995; “Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam”, Tập 1 của Ban Nghiên cứu
Lịch sử Đảng Trung ương, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1981; “Lịch sử Quân đội nhân
dân Việt Nam”, Tập 1 của Ban Nghiên cứu lịch sử quân đội, Hà Nội, 1997.
Về vấn đề Đảng lãnh đạo xây dựng LLCT có các tác phẩm: “Hồ Chí
Minh về Mặt trận dân tộc thống nhất”, Nxb Sự Thật, Hà Nội 1972; “Chủ tịch
Hồ Chí Minh Người chiến sĩ tiên phong trên mặt trận giải phóng dân tộc”, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985; “Trường Chinh, cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân Việt Nam”, Tác phẩm chọn lọc, Tập 1, Nxb Sự Thật, Hà Nội 1976.
Các công trình chuyên khảo liên quan đến đề tài như: “Nghệ thuật
chỉ đạo đấu tranh vũ trang trong cách mạng Tháng Tám”, của Nguyễn
Anh Dũng, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1989; “Các tổ chức vũ trang cách mạng
trước tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945” của Trần Minh Cao, Tạp chí Quốc
phòng toàn dân, số 5-1994; “Lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang
trong cách mạng Tháng Tám” của Hoàng Dũng, Tạp chí Lịch sử quân sự,
số 4 – 1995; “Các đội tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam” của
Dương Đình Lập, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 5-1994... trong đó có nhiều
tư liệu lịch sử, nhiều nhận định khoa học có liên quan đến đề tài. Những tác
6
phẩm và chuyên đề trên nhìn chung đã đề cập phạm vi rộng lớn và xuyên
suốt Đảng lãnh đạo xây dựng LLVT hay lãnh đạo xây dựng LLCT. Đây là
nguồn tài liệu rất quan trọng phục vụ cho công tác nghiên cứu của đề tài.
Song, chưa có công trình nào nghiên cứu về xây dựng lực lượng cách mạng
một cách tổng thể trong đấu tranh giành chính quyền từ 1939 đến 1945. Vì
vậy, Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng cách mạng trong đấu tranh giành
chính quyền từ 1939 đến 1945 là vấn đề cần được tập trung nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Mục đích: Góp phần làm rõ thêm đường lối, chủ trương và những
biện pháp đúng đắn của Đảng ta về xây dựng lực lượng cách mạng trong cao
trào đấu tranh giải phóng dân tộc (1939-1945).
Rút ra một số kinh nghiệm trong lãnh đạo xây dựng lực lượng cách
mạng của Đảng ở thời kỳ đấu tranh giành chính quyền từ 1939 đến 1945.
* Nhiệm vụ:
Trình bày một cách có hệ thống chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về
xây dựng lực lượng cách mạng trong đấu tranh giành chính quyền từ 1939
đến 1945.
Từ lịch sử rút ra một số kinh nghiệm về xây dựng lực lượng cách mạng
từ 1939 đến 1945.
* Đối tượng: Nghiên cứu quan điểm, đường lối và sự chỉ đạo của Đảng
về xây dựng lực lượng cách mạng trong đấu tranh giành chính quyền từ 1939
đến 1945.
* Phạm vi: Luận văn trình bày về sự lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng lực
lượng cách mạng. Như: xây dựng Đảng; xây dựng LLCT; xây dựng LLVT và
căn cứ địa; tranh thủ mọi lực lượng, thực hiện đoàn kết quốc tế trong đấu
tranh giành chính quyền từ 1939 đến 1945.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
7
* Cơ sở lý luận:
Cơ sở lý luận của luận văn là nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng
lực lượng cách mạng.
* Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc và kết hợp hai
phương pháp đó là chủ yếu, đồng thời sử dụng một số phương pháp khác như
phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh và phương pháp chuyên gia...
5. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn sẽ góp phần vào việc khẳng định tính đúng đắn sáng tạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo xây dựng lực lượng cách mạng.
- Góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.
- Luận văn dùng làm tài liệu tham khảo nghiên cứu và giảng dạy lịch sử
Đảng trong các học viện, nhà trường quân đội.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, hai chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.
8
Chương 1
QUÁ TRÌNH ĐẢNG LÃNH ĐẠO, CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG
CÁCH MẠNG
TRONG ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN TỪ 1939 ĐẾN 1945
1.1. Yêu cầu khách quan xây dựng lực lượng cách mạng thời kỳ
1939-1945
1.1.1. Vai trò của lực lượng cách mạng
Xã hội loài người tồn tại và phát triển qua các hình thái kinh tế xã
hội khác nhau, từ thấp đến cao, từ cộng sản nguyên thuỷ đến chủ nghĩa
cộng sản. Sự thay thế hình thái kinh tế-xã hội này bằng hình thái kinh tế-xã
hội khác được thông qua các cuộc cải biến xã hội với vai trò to lớn của
quần chúng nhân dân. Khi đề cập đến vai trò của nhân dân trong cách mạng
vô sản, chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, muốn làm cách mạng đánh đổ giai cấp thống trị để giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giai cấp công nhân phải biết tập hợp tất cả lực
lượng có thể tập hợp được.
Chủ nghĩa Mác-Lênin còn khẳng định sự liên minh giữa giai cấp công
nhân và nông dân là tất yếu của cách mạng vô sản, việc giữ vững và củng cố
khối liên minh ấy là nguyên tắc chiến lược quan trọng đối với các đảng của
giai cấp công nhân. Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” C.Mác và
Ph.Ăngghen đã khẳng định vai trò to lớn của nông dân. Hai ông nhiều lần chỉ
ra, để bảo đảm cho cách mạng phát triển không ngừng, để hoàn thành sứ
9
mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải liên minh được với giai cấp
nông dân, một lực lượng to lớn, đông đảo nhất trong xã hội. V.I.Lênin kế
thừa, phát triển một cách sáng tạo những quan điểm của C.Mác-Ph.Ăngghen
về vai trò của quần chúng nhân dân và vấn đề liên minh giữa giai cấp công
nhân và nông dân, liên minh giữa các lực lượng cách mạng. Khi nói về vai trò
của nhân dân trong cách mạng tư sản do giai cấp tư sản lãnh đạo V.I.Lênin
chỉ rõ: “Không có nhân dân thì họ bất lực không thể đấu tranh chống chính
quyền chuyên chế” [40, tr.198-199]. Người còn chỉ rõ: “Hàng chục triệu công
nhân và nông dân, những người sáng tạo ra bằng lao động của mình mọi của
cải của giai cấp tư sản, những người đấu tranh cho tự do...” [40, tr.201]. Khi
nói về cách mạng vô sản V.I.Lênin chỉ ra: Cách mạng là ngày hội của những
người bị áp bức bóc lột, không lúc nào quần chúng nhân dân có thể tỏ ra là
người tích cực sáng tạo ra những trật tự xã hội mới như trong thời kỳ cách
mạng. Trong những thời kỳ như thế nhân dân có thể làm được những kỳ công.
Đặc biệt trong thực tiễn cách mạng Nga vấn đề liên minh công nông từ
lý luận đã trở thành hiện thực sôi động. Lênin còn rút ra một kết luận quan
trọng trong bối cảnh ở nước Nga, một nước chưa phát triển cao về phương
diện tư bản chủ nghĩa, đại đa số dân cư là tiểu nông, chính quần chúng nhân
dân là: nhân tố thắng lợi là ở chỗ vô sản nắm được sự ủng hộ của những nông
dân nghèo khổ và bị phá sản....
Trong cuộc đấu tranh với kẻ thù của giai cấp vô sản V.I.Lênin đã chỉ
ra: “Chỉ có độc một mình đội tiên phong thôi thì không thể thắng nổi. Ném
độc một mình đội tiên phong vào cuộc chiến đấu quyết định, khi mà toàn thể
giai cấp, khi mà quần chúng đông đảo hoặc chưa có thái độ ủng hộ đội tiên
phong..., thì đó không những là một điều dại dột, mà còn là một tội ác nữa”
[45, tr.97]. Đây là vấn đề có tính quy luật của mọi cuộc cách mạng, vì chỉ khi
10
nào giai cấp lãnh đạo quy tụ đông đảo lực lượng mới tạo nên sức mạnh để đưa
cách mạng tới thắng lợi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu và vận dụng sáng tạo lý luận MácLênin về vai trò của quần chúng, vai trò của lực lượng cách mạng và khối
liên minh công nông, Người sớm nhận thức rõ bản chất của vấn đề dân tộc
thuộc địa, thấy được tầm quan trọng của lực lượng cách mạng, đặc biệt là
lực lượng công nông dưới ách nô dịch của đế quốc, thực dân, thấy rõ vai trò
có ý nghĩa quyết định của khối liên minh công nông trong phong trào giải
phóng các dân tộc bị áp bức. Người khẳng định khả năng cách mạng của
quần chúng công nông trong sự nghiệp đấu tranh tự giải phóng “công nông
là gốc cách mạng; học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ... là bầu bạn cách
mạng của công nông...” [49, tr.266].
Người cũng chỉ ra rằng quần chúng công nông phải được giác ngộ, giáo
dục, rèn luyện, tập hợp thành một lực lượng cách mạng hùng hậu có tổ chức
chặt chẽ do đảng “cách mệnh” lãnh đạo. Đồng thời Người nêu rõ: Chỉ có khối
liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo mới có thể kiên quyết và
triệt để đánh đổ các thế lực phản cách mạng, giành lấy và củng cố chính
quyền của nhân dân lao động, hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân và tiến lên CNXH.
Vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về vai trò của lực lượng cách mạng trong đó lực lượng quần
chúng đông đảo và liên minh công nông là nòng cốt. Ngay từ khi ra đời
Đảng ta đã nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của lực lượng cách mạng và
có luôn đường lối đúng đắn, để tập hợp họ. Trong Cương lĩnh chính trị đầu
tiên, Đảng chỉ rõ:
Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, phải thu phục cho được đại bộ
phận giai cấp mình, làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng.
11
Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng
dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong
kiến... Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông,
Thanh niên, Tân Việt... để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp... [50, tr.3].
Như vậy về lực lượng cách mạng của cách mạng Việt Nam đã được
Đảng ta xác định rõ ngay từ lúc mới ra đời. Đó là lực lượng đông đảo của
mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam (trừ bộ phận đã thực sự phản bội lợi ích của
nhân dân, dân tộc như đảng Lập hiến...) trong đó giai cấp công nhân và nông
dân là lực lượng chính, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Đến Luận cương
chính trị tháng 10 năm 1930 Đảng xác định: công - nông là động lực chính
của cách mạng và do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6 (tháng 11-1939) cũng chỉ rõ: “Lực
lượng chính của cách mệnh là công nông dựa vào các tầng lớp trung sản thành
thị, thôn quê và đồng minh trong chốc lát hoặc trung lập giai cấp tư sản bổn
xứ, trung tiểu địa chủ. Mặt trận ấy phải dưới quyền chỉ huy của vô sản giai
cấp” [22, tr.539-540].
Đến Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 7 (11-1940); lần thứ 8 (5-1941)
Đảng ta đều xác định lực lượng cách mạng là: giai cấp công nhân, nông
dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc, địa chủ phản đế, Hoa kiều,... Mọi tầng lớp
giai cấp có tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc, chống đế quốc, giải
phóng dân tộc như Đảng ta đã khẳng định: “Lực lượng cách mạng Đông
Dương hiện nay là gì? chính là nhân dân Đông Dương, không phân biệt
dân tộc nào, giai cấp nào, nhiệm vụ đánh Pháp đuổi Nhật cũng không phải
riêng của giai cấp vô sản và dân cày, mà là nhiệm vụ chung của toàn thể
nhân dân Đông Dương” [23, tr.118]. Có thể thấy rõ, xuyên suốt một thời kỳ
lịch sử từ 1930 đến giai đoạn (1939-1945) và sau này, Đảng ta luôn quán
triệt sâu sắc lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò tầm quan
12
trọng của lực lượng cách mạng, mà nổi trội là vai trò của quần chúng và
liên minh công nông trong việc hoạch định đường lối chính trị nói chung,
xây dựng lực lượng cách mạng nói riêng, kể cả trong tổ chức thực hiện
đường lối, trong thực tiễn cách mạng, góp phần quyết định đưa công cuộc
giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi hoàn toàn.
1.1.2. Thực tiễn đấu tranh giành chính quyền đặt ra phải tăng cường
xây dựng lực lượng cách mạng
Chuyển biến của tình hình thế giới và trong nước
Ngày 1-9-1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan, mở màn cuộc chiến
tranh thế giới thứ 2. Ngày 3-9-1939 Anh và Pháp tuyên chiến với Đức.
Đông Dương từ đó bị lôi cuốn vào vòng khói lửa. Ngay sau khi lao vào
vòng chiến, đế quốc Pháp tăng cường đàn áp Đảng cộng sản và phong trào
dân chủ tiến bộ ở trong nước cũng như ở các thuộc địa của Pháp. Ở Đông
Dương chúng thực hiện chính sách phát xít, đẩy mạnh đàn áp phong trào
cách mạng, giải tán các tổ chức quần chúng, điên cuồng tấn công Đảng
cộng sản... Các thành quả dân chủ của nhân dân ta giành được trong thời kỳ
đấu tranh dân chủ (1936-1939) đều bị chúng thủ tiêu. Ở châu Á, bọn quân
phiệt Nhật đã phát xít hóa lên nắm quyền, liên tục gây hấn và uy hiếp nhiều
nước trong khu vực. Đông Dương là thuộc địa lớn nhất của thực dân Pháp
được Nhật Bản quan tâm hàng đầu trong chính sách châu Á, chỉ sau Trung
Quốc. Nhân cơ hội Pháp bại trận, Nhật tiến hành xâm lược Đông Dương,
chiếm lấy một bộ phận thuộc địa của Pháp, vơ vét nguồn nguyên liệu dồi
dào để cung cấp cho chiến tranh.
Chỉ ba tháng, sau khi Pháp đầu hàng Đức, ngày 22-9-1940 Nhật cho
quân vượt biên giới Việt - Trung đánh vào Lạng Sơn, đồng thời cho quân theo
đường biển đổ bộ lên Đồ Sơn (Hải Phòng) chính thức gây chiến tranh xâm
lược Đông Dương, đòi thực dân Pháp dâng Đông Dương cho mình. Thực dân
13
Pháp đầu hàng, phải ký với Nhật những hiệp ước mà theo đó nước Việt Nam
trở thành thuộc địa của cả Pháp và Nhật, nhưng về thực chất Đông Dương là
thuộc địa của Nhật.
Sự đầu hàng của chính phủ phản động ở Pháp và việc quân Nhật vào
Đông Dương đã làm đảo lộn mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội ở
khu vực này. Cả Đông Dương bị lôi cuốn vào guồng máy chiến tranh bị bòn
rút sức người, sức của để đáp ứng những yêu cầu của chiến tranh giữa các tập
đoàn đế quốc đang phân chia thế giới.
Sự cấu kết và tạm thời thỏa hiệp giữa Pháp và Nhật trong khai thác
Đông Dương làm cho tình hình Đông Dương bị xáo trộn lớn, tác động lớn đến
sự phân hóa trong tất cả các giai cấp, các tầng lớp xã hội.
Pháp - Nhật điên cuồng đàn áp khủng bố đảng cộng sản. Ngày 28-9-1939
Pháp ban bố nghị định giải tán các tổ chức nghiệp đoàn và tương tế ái hữu ở
Đông Dương; tiếp đó tháng 10-1939 còn ra đạo dụ cấm hội họp, tuyên truyền
cộng sản và tịch thu các sách báo tiến bộ ở Việt Nam. Các cuộc lùng sục càn
quét đánh vào tổ chức đảng từ cơ sở đến trung ương diễn ra thường xuyên.
Nhiều cán bộ đảng viên bị bắt giam. Nhiều cơ sở đảng bị địch phá nhiều lần. Các
tổ chức quần chúng, các đoàn thể cách mạng được thành lập trong thời kỳ mặt
trận dân chủ bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Để phục vụ nhu cầu chiến tranh, chế
độ phát xít quân phiệt ở thuộc địa thẳng tay bóc lột, sung công tài sản của Đảng
và các hội phục vụ cho nhu cầu chiến tranh. Chúng tăng cường bắt lính, cướp
bóc lúa gạo, xe cộ và ngựa; sa thải thợ thuyền, cúp lương, tăng giờ làm, tăng
thuế, đặt các thứ thuế mới và các loại công trái, bắt nông dân phải nhổ lúa để
trồng đay lấy nguyên liệu phục vụ chiến tranh...
Phát xít Nhật và thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột Đông
Dương một cách tàn bạo kiểu thời chiến. Nền kinh tế Đông Dương vốn
nghèo nàn, lạc hậu lại bị chiến tranh chi phối càng kiệt quệ hơn. Là một
nước nông nghiệp lạc hậu, Việt Nam phải cung cấp lương thực, thực phẩm,
14
tài nguyên thiên nhiên phục vụ cuộc chiến không chỉ cho nước Pháp mà
còn cả Nhật.
Có thể nói, Đông Dương bị guồng máy chiến tranh làm đảo lộn. Kinh tế
nông nghiệp bị suy sụp, kỹ nghệ nhẹ và các ngành thủ công nghiệp bị sa sút
tiêu điều.
Chính sách chiến tranh của đế quốc Pháp - Nhật đã ảnh hưởng hết sức
sâu sắc, toàn diện đưa tới những thay đổi căn bản đời sống các giai cấp trong
toàn Đông Dương, làm cho các tầng lớp, các giai cấp có sự phân hóa rõ rệt.
Giai cấp công nhân bị tước đoạt hết những thành quả đấu tranh trong
thời kỳ mặt trận dân chủ, họ bị bóc lột nặng nề về sức lao động, lâm vào cảnh
bần cùng hóa. Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với chế độ thực dân, phong
kiến trở nên gay gắt, giai cấp công nhân chỉ còn một con đường là liên minh
với các giai cấp, các tầng lớp đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, đấu tranh
giành chính quyền, khôi phục độc lập dân tộc.
Giai cấp nông dân do chế độ sưu cao thuế nặng bị ba tầng áp bức bóc
lột của Nhật - Pháp - tư bản, phong kiến làm cho kiệt quệ - Hầu hết nông dân
lao động bị đói khổ cùng cực. Con đường duy nhất để giải phóng giai cấp
nông dân là đứng lên dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng cộng sản chống đế
quốc, phong kiến, tay sai giành độc lập dân tộc, giành chính quyền về tay
nhân dân, giành lại ruộng đất cho nông dân. Giai cấp tiểu tư sản bị đẩy vào
con đường bế tắc. Tiểu tư sản thành thị bị phá sản, đội ngũ viên chức bị sụt
lương, trí thức, viên chức bị thất nghiệp, học sinh, sinh viên bị thất học.. giai
cấp tiểu tư sản đều mâu thuẫn và bất bình với chiến tranh và chính sách thống
trị của Pháp - Nhật ở Đông Dương. Khi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc
bùng nổ, lực lượng này sẽ trở thành một đồng minh, một lực lượng tin cậy của
công nhân trong sự nghiệp giải phóng.
15
Giai cấp địa chủ phong kiến có sự phân hóa trong quá trình chiến tranh.
Bọn đại địa chủ cấu kết với Pháp - Nhật trở thành tay sai đắc lực cho chúng,
làm giàu nhờ mua rẻ ruộng đất của nông dân, còn một bộ phận địa chủ và tiểu
điền chủ đa số bị thiệt hại, bị phá sản. Bộ phận trung và tiểu địa chủ chán ghét
chiến tranh, lên án chủ nghĩa đế quốc Pháp - Nhật và chính sách chiến tranh
của chúng ở Đông Dương. Trừ đại địa chủ tay sai của đế quốc là đối tượng
của cách mạng, bộ phận trong giai cấp địa chủ có mâu thuẫn với chủ nghĩa đế
quốc, ủng hộ cách mạng trở thành lực lượng cần đoàn kết của cách mạng.
Giai cấp tư sản cũng có sự phân hóa sâu sắc. Bọn tư sản mại bản cấu
kết phục vụ đắc lực cho chủ nghĩa đế quốc. Ngược lại giai cấp tư sản dân tộc
bị bế tắc, không có lối thoát bị phá sản, bị chèn ép, nhỏ bé về kinh tế,, yếu hèn
về chính trị, có mâu thuẫn với đế quốc và phong kiến. Họ là một lực lượng có
khả năng tham gia cách mạng giải phóng dân tộc mà giai cấp vô sản và chính
đảng của nó trong quá trình lãnh đạo cách mạng cần tập hợp.
Sự bùng nổ của chiến tranh thế giới thứ hai với việc đầu hàng của
Chính phủ Pháp ở chính quốc trước phát xít Đức và việc phát xít Nhật xâm
lược Đông Dương làm cho cách mạng Việt Nam chuyển sang một thời kỳ
mới. Cao trào đấu tranh đòi các quyền tự do dân chủ cho nhân dân Đông
Dương đã chấm dứt.
Độc lập dân tộc và tự do, dân chủ trở thành yêu cầu số một của mỗi người
Việt Nam. Mâu thuẫn dân tộc giữa nhân dân ta với kẻ thù xâm lược trở lên gay
gắt hơn lúc nào hết. Đó là mâu thuẫn giữa một bên là thực dân Pháp xâm lược
cùng phát xít Nhật câu kết với bọn phong kiến phản động tay sai của chúng với
một bên là tất cả các giai cấp, các tầng lớp trong cộng đồng dân tộc Việt Nam
đang rên siết dưới ách nô lệ của chúng. “Những thảm trạng do đế quốc chiến tranh
gây nên sẽ làm cho trình tự cấp tiến hóa và cách mệnh hóa quần chúng hết sức
mau chóng... lòng phẫn uất sẽ sôi nổi, cách mệnh sẽ nổ bùng” [22, tr.534].
16
Phân tích những chyển biến của tình hình thế giới và trong nước, Đảng
ta đã kịp thời chuyển hướng hoạt động, đưa Đảng vào bí mật và chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược chuẩn bị lãnh đạo một cao trào cách mạng mới - cao
trào ĐTVT giành chính quyền từ tay phát xít Nhật, thực dân Pháp.
Thực trạng về lực lượng cách mạng đặt ra phải tăng cường xây dựng
lên một bước mới
Trước sự chuyển biến của tình hình thế giới và trong nước, đặc biệt khi
chiến tranh thế giới lần thứ 2 nổ ra, đã tạo ra tình thế cách mạng, như Hội nghị
Trung ương Đảng lần thứ 8 (5-1941) nhận định: "Nếu cuộc đế quốc chiến tranh
lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước XHCN thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này
sẽ đẻ ra nhiều nước XHCN, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công" [23,
tr.100]. Từ khi chiến tranh bùng nổ, phong trào giải phóng dân tộc chống phát xít
nổi lên mạnh mẽ trên khắp thế giới. Liên Xô đã đạt thành tựu lớn trong xây dựng
CNXH, có nền kinh tế quốc phòng vững mạnh, làm cơ sở cho sức mạnh của
Hồng quân, gìn giữ hoà bình và "giúp đỡ các dân tộc nhỏ yếu đánh đổ bọn phát xít
tàn bạo" [23, tr.102]. Nhưng cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai đã lôi cuốn thực
dân Pháp và phát xít Nhật vào guồng máy chiến tranh, để đảm bảo cung cấp
nguyên liệu, vật liệu cho chiến tranh chúng tăng cường bóc lột thuộc địa Đông
Dương, trong đó có Việt Nam. Chúng thực hiện chính sách bóc lột tàn bạo, nặng
nề đó là chính sách bóc lột thời chiến "trưng thu" đã làm cho tình hình thêm ác liệt
hơn, đặc biệt là làm cho tình hình kinh tế - chính trị, xã hội ở Việt Nam biến đổi
sâu sắc. Mâu thuẫn xã hội vốn có phát triển, nhất là hai mâu thuẫn cơ bản trong
lòng xã hội Việt Nam càng ngày vận động phát triển đến đỉnh cao gay gắt, đồng
thời kéo theo sự phân hoá giai cấp diễn ra sâu sắc và quyền lợi của hầu hết các
tầng lớp nhân dân đều bị thủ tiêu.
Tất cả các giai cấp, tầng lớp xã hội Việt Nam, trừ bọn tay sai của đế
quốc, bọn địa chủ lớn và tư sản mại bản, đều bị ảnh hưởng bởi chính sách
17
phát xít và chiến tranh của đế quốc Pháp - Nhật. Khi ách áp bức và bóc lột
của chủ nghĩa đế quốc phát xít đè nặng lên tất cả mọi tầng lớp nhân dân và
toàn thể dân tộc, khi mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc phát xít
Nhật - Pháp trở lên gay gắt hơn bao giờ hết, thì mũi nhọn chính của cách
mạng phải chĩa vào phát xít, vấn đề giải phóng dân tộc phải trở thành nhiệm
vụ bức thiết hàng đầu của cách mạng Đông Dương, của cách mạng Việt Nam.
Để giải quyết nhiệm vụ bức thiết hàng đầu đó thì yêu cầu đặt ra phải có lực
lượng cách mạng, đủ mạnh đáp ứng với thời kỳ mới, mà vấn đề chính quyền
đặt ra trực tiếp. Vì xây dựng, củng cố và tăng cường lực lượng cách mạng
nhằm phục vụ cho cuộc đấu tranh sinh tử với kẻ thù của giai cấp, của dân tộc,
mà nhằm mục tiêu trước mắt là chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang giành chính
quyền.
Xuất phát từ điều kiện thực tiễn xã hội Việt Nam có nhiều giai cấp,
tầng lớp nhân dân, các dân tộc, tôn giáo có tinh thần yêu nước, có tư tưởng
chống đế quốc phong kiến tay sai giành độc lập dân tộc. Đây chính là lực
lượng quần chúng to lớn, là nguồn lực chính của cách mạng, khi được giai
cấp công nhân Việt Nam tập hợp quy tụ và lãnh đạo họ làm cách mạng và đưa
cách mạng đến thành công. Mặt khác kẻ thủ của dân tộc là đế quốc cấu kết
chặt chẽ với giai cấp địa chủ phong kiến thiết lập hệ thống thống trị với lực
lượng và bộ máy cai trị đồ sộ dùng bạo lực phản cách mạng để đàn áp lực
lượng cách mạng nhỏ bé hơn nhiều lần.
Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trực tiếp lãnh đạo
phong trào cách mạng. Các tổ chức quần chúng của Đảng phát triển nhanh
như tổ chức Công hội, Nông hội, Đoàn thanh niên, hội Phụ nữ, hội cứu tế
đỏ... ra đời làm nòng cốt cho phong trào đấu tranh của quần chúng. Khẩu hiệu
độc lập dân tộc và dân chủ của Đảng đã đi vào quần chúng làm bùng lên cao
trào cách mạng 1930-1931. Xô Viết Nghệ Tĩnh nảy mầm và phát triển trong
18
cao trào cách mạng rộng lớn của quần chúng lao động, trước hết là công nông
- tầng lớp đông đảo nhất, nghèo khổ nhất và bị áp bức nặng nề nhất. Cao trào
cách mạng 1930-1931 và sự ra đời của Xô viết Nghệ Tĩnh trong lịch sử đã
phản ánh tính phong phú sáng tạo của phương pháp cách mạng vô sản trong
tổ chức xây dựng lực lượng cách mạng với đấu tranh cách mạng. Tiêu biểu là:
- Xây dựng LLCT và ĐTCT ở thành thị và nông thôn, sớm hình thành
khối liên minh công nông vững chắc dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Sự ra đời và tồn tại nhiều tháng liền của Xô viết Nghệ Tĩnh chính là dựa trên
cơ sở khối liên minh của hai giai cấp công nhân và nông dân.
- Linh hoạt tìm ra các phương pháp đấu tranh thích hợp để duy trì và phát
triển phong trào quần chúng. Bên cạnh các tổ chức chính trị như Công hội, Nông
hội, Thanh niên hội, Phụ nữ, học sinh, các cấp đảng bộ Nghệ An và Hà Tĩnh còn
linh hoạt trong việc duy trì những tổ chức truyền thống sẵn có của địa phương
như: các phường hội nghề nghiệp, các tổ chức tương tế ái hữu, các hội buôn... để
tập hợp, hướng dẫn quần chúng đấu tranh theo các khẩu hiệu của Đảng.
Qua cao trào cách mạng 1930-1931 Đảng ta đã nhận thức sâu sắc hơn
sức mạnh của ĐTCT và bạo lực chính trị; đã xây dựng được LLCT rộng lớn
mà nòng cốt là khối liên minh công nông. Đồng thời bước đầu hình thành tư
tưởng xây dựng lực lượng vũ trang đó là “đội tự vệ đỏ”.
Đến thời kỳ (1936-1939) Đảng đã xây dựng Mặt trận thống nhất nhân
dân phản đế Đông Dương và sau đổi tên thành “Mặt trận dân chủ Đông
Dương” mà lực lượng nòng cốt là liên minh công - nông. Mặt trận dân chủ tập
hợp lực lượng, thành phần rộng rãi hơn hẳn Mặt trận phản đế. Ngoài công
nông và quần chúng lao động, ngoài thành phần yêu nước chống đế quốc và
tay sai, Mặt trận còn tập hợp một bộ phận quan trọng trong giai cấp tư sản và
địa chủ, chủ yếu là địa chủ nhỏ, những người nước ngoài có tinh thần dân chủ
sinh sống ở Đông Dương. Với chủ trương đúng đắn đó của Mặt trận đã thúc
19
đẩy phong trào đấu tranh của nhân dân Đông Dương hoà nhập với phong trào
đấu tranh của nhân dân thế giới. Đặc biệt là đẩy nhanh quá trình giác ngộ,
giáo dục quần chúng, tập hợp lực lượng cách mạng nhằm vào kẻ thù nguy
hiểm nhất chống bọn phản động thuộc địa đòi tự do cơm áo hoà bình. Trên cơ
sở chủ trương đúng đắn, Đảng đã sử dụng các hình thức đấu tranh linh hoạt,
mềm dẻo, khéo léo kết hợp hình thức thấp với hình thức cao, nửa hợp pháp
với hợp pháp. Các cuộc vận động “Đông Dương đại hội” đón tiếp GôĐa, hoạt
động báo chí, tham gia đấu tranh nghị trường... bằng những hình thức đấu
tranh sáng tạo Đảng đã tập hợp các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc và cá
nhân người nước ngoài vào cuộc đấu tranh chống bọn phản động thuộc địa và
tay sai. Qua cao trào cách mạng 1936-1939, một đội quân chính trị đông hàng
triệu người đã được hình thành mà nòng cốt là tổ chức “Mặt trận dân chủ
Đông Dương”, trên nền tảng của khối liên minh công nông, tạo khí thế ĐTCT
rộng khắp chưa từng có trong cả nước.
Như vậy đến năm 1939 Đảng đã xây dựng được đội quân cách mạng
rộng lớn mà nòng cốt là LLCT trên nền tảng của khối liên minh công nông
được tập hợp trong một tổ chức rộng lớn là Mặt trận dân chủ thống nhất. Bên
cạnh đó Đảng đã hình thành tư tưởng quân sự và từng bước chuẩn bị tổ chức
lực lượng vũ trang cách mạng bổ sung vào lực lượng cách mạng đang trên đà
phát triển. Cùng với thành tựu đã đạt được, trong xây dựng lực lượng cách
mạng còn có hạn chế như: chưa thực sự xây dựng được khối liên minh công
nông vững chắc; chưa xây dựng được tổ chức mặt trận thống nhất rộng rãi để
quy tụ toàn thể dân tộc và phát huy sức mạnh của dân tộc vào công cuộc giải
phóng đất nước. Đặc biệt là chưa xây dựng được lực lượng vũ trang cách
mạng cũng như hệ thống căn cứ địa cách mạng; hệ thống tổ chức đảng từ
Trung ương đến địa phương tuy được củng cố và phát triển nhưng chưa đủ
sức lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đến.
20
Với thực trạng lực lượng cách mạng như vậy, cách mạng không đủ sức
để chiến thắng quân thù. Từ thực trạng đó đòi hỏi tất yếu khách quan các giai
cấp, các tầng lớp trong xã hội bị áp bức bóc lột phải tăng cường đoàn kết liên
minh lại, thành lực lượng cách mạng rộng lớn dưới sự lãnh đạo của Đảng để
tạo nên sức mạnh tổng hợp chống lại kẻ thù chung. Mặt khác, từ trong nội bộ
kẻ thù đang chứa đựng nhiều mâu thuẫn tạm thời và mâu thuẫn cục bộ, cần
khoét sâu các mâu thuẫn đó, để phân hóa hàng ngũ kẻ thù, để lôi kéo tranh thủ
lực lượng muốn ngả về phía cách mạng chống lại kẻ thù chung của dân tộc.
Vậy xuất phát từ những yếu tố khách quan của thực tiễn xã hội, cách
mạng Việt Nam nhất là thực trạng về lực lượng cách mạng, thì giai cấp công
nhân mà đội tiên phong là Đảng cộng sản phải ra sức tập hợp lực lượng đông
đảo về phía mình để xây dựng được lực lượng cách mạng hùng hậu góp phần
tạo nên sức mạnh tổng hợp nhằm giải quyết vấn đề giải phóng dân tộc, đem
lại cuộc sống ấm no tự do hạnh phúc cho nhân dân.
Chủ trương tăng cường xây dựng lực lượng cách mạng trong đấu tranh
giành chính quyền bắt nguồn từ truyền thống cố kết dân tộc của nhân dân ta và
sự vận dụng sáng tạo nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
vào điều kiện thực tiễn Việt Nam, đáp ứng được yêu cầu khách quan của cuộc
đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc của nhân dân ta nhằm giải phóng dân tộc.
1.2. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng trong xây dựng lực lượng
cách mạng thời kỳ 1939-1945
1.2.1. Xây dựng Đảng vững mạnh, đủ sức lãnh đạo thành công cuộc
đấu tranh giành chính quyền
Đảng cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu để đưa cách mạng Việt
Nam đến thắng lợi
Khẳng định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân được giác
ngộ, được tổ chức, được lãnh đạo theo một đường lối đúng đắn, Hồ Chí Minh đã
21
đặt vấn đề: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách
mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc
bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công,
cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy” [49, tr.267-268].
Từ khi ra đời, Đảng đã luôn quan tâm đến công tác xây dựng Đảng,
làm cho Đảng ngày càng trưởng thành và có đủ năng lực để lãnh đạo cách
mạng Đông Dương đến thắng lợi. Hai tháng sau khi chiến tranh bùng nổ,
Hội nghị Trung ương 6 tháng 11-1939 đã họp tại Bà Điểm (Gia Định) do
đồng chí Nguyễn Văn Cừ - Tổng bí thư của Đảng chủ trì. Tham gia Hội
nghị có các đồng chí Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần... Hội nghị đã
giải quyết vấn đề chuyển hướng đường lối và phương pháp cách mạng
trong tình hình mới. Hội nghị xác định mục tiêu chiến lược trước mắt của
cách mạng Đông Dương là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng các dân
tộc Đông Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Đây là sự
chuyển hướng quan trọng nhất về chỉ đạo chiến lược trong đường lối lãnh
đạo - chính sự chuyển hướng này có ý nghĩa quyết định đến phương hướng
cục diện xây dựng lực lượng cách mạng.
Để tập trung lực lượng đánh đổ đế quốc, Hội nghị chủ trương tạm gác
khẩu hiệu cách mạng ruộng đất và đề ra khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế
quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc, chống tô cao, chống lãi nặng.
Hội nghị chủ trương Đảng phải kiên quyết lãnh đạo phong trào đấu
tranh của quần chúng nhằm vào mục tiêu chung; phản đối đế quốc chiến tranh
chống đế quốc Pháp và bè lũ tay sai đế quốc.
Hội nghị đã đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng về mọi mặt,
tăng cường sự thống nhất ý chí và hành động từ Trung ương đến chi bộ trên
cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối chính trị đúng đắn và nguyên tắc tập
trung, dân chủ; phải tăng cường mối liên hệ mật thiết với quần chúng, nỗ lực
22
đấu tranh để Đảng trở thành một Đảng chân chính của quần chúng; phải trang
bị lý luận cách mạng, khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng từ Nam chí Bắc,
chú trọng gây cơ sở ở Miên và Lào; lựa chọn cán bộ; kiểm soát việc thực hiện
nghị quyết, chống hành động khiêu khích của mật thám, bảo đảm cho Đảng
đủ sức gánh vác nhiệm vụ lịch sử nặng nề trước thời cuộc mới. Hội nghị nhấn
mạnh sự thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng:
Trong thời giờ nghiêm trọng này, trong lúc phong trào cách mạng
đương sắp phát triển hết sức to rộng và sắp bước vào thời kỳ quyết liệt
thì Đảng ta nhất định phải thống nhất ý chí lại thành một ý chí duy
nhất, một mà thôi. Hành động nhất định phải thống nhất trên dưới
khăng khít như một phải theo một nguyên tắc, phải có kỷ luật, các đồng
chí từ Trung ương đến chi bộ phải liên lạc mật thiết, kết chặt lại như
một người, như một tảng đá [22, tr.556]
Tháng 11-1940, Hội nghị lần thứ 7 của BCHTW họp tại làng Đình
Bảng (Bắc Ninh). Tham gia Hội nghị có các đồng chí Phan Đăng Lưu,
Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Trần Đăng Ninh... Hội
nghị nhận định: ở Đông Dương phát xít Pháp và Nhật cấu kết với nhau áp bức
bóc lột nhân dân, làm cho mâu thuẫn giữa các dân tộc ở Đông Dương với đế
quốc phát xít Pháp - Nhật trở lên sâu sắc, đẩy nhân dân Đông Dương đến một
tình thế phải đấu tranh quyết liệt để sống còn. “Một cao trào cách mạng nhất
định sẽ nổi dậy. Đảng phải chuẩn bị để gánh lấy cái sứ mệnh thiêng liêng:
lãnh đạo cho các dân tộc bị áp bức ở Đông Dương võ trang bạo động giành
lấy quyền tự do độc lập” [23, tr.58].
Để kiện toàn cơ quan lãnh đạo của Đảng, Hội nghị đã cử ra BCHTW
lâm thời. Đồng chí Trường Chinh được phân công làm quyền Bí thư Trung
ương Đảng. Hội nghị cũng quyết định chắp mối liên lạc với Quốc tế Cộng sản
và bộ phận của Đảng ở nước ngoài.
23
Hội nghị lần thứ 8 (5-1941) BCHTW Đảng đã họp ở Pắc Bó (Hà
Quảng - Cao Bằng) do đồng chí Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì. Tham
gia Hội nghị có các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc
Việt, Phùng Chí Kiên... Hội nghị đã đề ra nhiệm vụ xây dựng Đảng làm cho
Đảng đủ năng lực lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Cuộc cách
mạng Đông Dương lúc này là cách mạng giải phóng dân tộc, một bước đi
chiến lược trong tiến trình cách mạng dân tộc dân chủ và XHCN. Sự lãnh đạo
của Đảng là một nhân tố chủ yếu bảo đảm cho sự nghiệp cách mạng giải
phóng dân tộc thắng lợi triệt để và tiếp tục tiến lên. Vì vậy, phải xây dựng
Đảng vững mạnh thực sự là tổ chức tiên phong của giai cấp vô sản mà linh
hồn là chủ nghĩa Mác - Lênin. Đảng phải chú trọng phát triển lực lượng đều
khắp, đặc biệt là những đô thị tập trung, ở các đồn điền, hầm mỏ đến các vùng
nông thôn và các vùng dân tộc ít người, phải gấp rút đào tạo cán bộ, đẩy mạnh
công tác vận động quần chúng, “lấy vận động công nhân làm công việc đầu
tiên trong công việc tổ chức quần chúng của Đảng”, đẩy mạnh phong trào
công nhân ở đô thị lên cao và đi tiên phong cho các phong trào khác. Hội nghị
giao trách nhiệm cho Đảng bộ miền Nam phải giúp đỡ việc xây dựng Đảng ở
Cam-pu-chia, Đảng bộ miền Trung phải giúp đỡ Đảng bộ Lào. Toàn bộ công
tác xây dựng Đảng đều nhằm theo hướng làm cho Đảng có “đủ năng lực lãnh
đạo cuộc cách mạng Đông Dương đi đến toàn thắng” [23, tr.136].
Hội nghị cử ra BCHTW Đảng, bầu đồng chí Trường Chinh làm Tổng bí
thư, đồng thời bầu ra Ban Thường vụ Trung ương Đảng. Sau Hội nghị Trung
ương 8 của Đảng, ngày 1-12-1941 BCHTW đã ra chỉ thị về công tác tổ chức.
Chỉ thị vạch rõ mục tiêu của công tác tổ chức lúc này làm cho Đảng có đủ khả
năng đoàn kết hết thảy lực lượng cách mạng, lãnh đạo toàn dân tiến hành cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc. Chỉ thị nêu rõ Đảng là một tổ chức gồm những
người giác ngộ nhất, trung thành và hăng hái nhất của giai cấp vô sản, vì vậy
24
tổ chức đảng phải chặt chẽ, nghiêm ngặt, Tổ chức cơ sở đảng phải ăn sâu,
bám rễ trong quần chúng nông thôn và thành thị, đủ sức huy động đông đảo
quần chúng lên trận tuyến cách mạng. Trước mắt, phải có kế hoạch mở rộng
cơ sở của Đảng vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền và sửa soạn khởi nghĩa
vụ trang. Chỉ thị nhấn mạnh: “Biết tổ chức thì dù bọn phát xít quỷ quyệt tàn
nhẫn đến đâu cũng không làm gì nổi. Biết tổ chức, tức là có thêm cán bộ, có
vũ khí, có tài chính, có chiến đấu lực, tất cả những điều kiện cần thiết cho
công cuộc cách mệnh dân tộc giải phóng” [23, tr.229-230]. Chỉ thị đã kịp thời
vạch cho các cấp bộ Đảng phương hướng đúng đắn và biện pháp cụ thể về
công tác tổ chức, tăng cường sức mạnh cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh
đạo cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay nhân dân.
Trước chính sách khủng bố trắng của phát xít Nhật - Pháp Đảng đặc
biệt coi trọng công tác tổ chức chống khủng bố. Trong việc xây dựng và củng
cố tổ chức đảng, Đảng thường xuyên quan tâm đến việc xiết chặt hàng ngũ,
tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng trên cơ sở đường lối đúng
đắn của Trung ương. Đồng thời không ngừng nâng cao tinh thần cảnh giác
ngăn ngừa những phần tử phản động chui vào Đảng nhằm phá hoại Đảng từ
trong phá ra.
Sau khởi nghĩa Nam Kỳ ngày 23-11-1940 thất bại, Đảng đã kịp thời
lãnh đạo khôi phục về tổ chức và hoạt động của các cơ quan lãnh đạo cách
mạng trong đó có Xứ ủy Nam Kỳ. Tổ chức các chuyến vượt ngục được chót
lọt, nhiều cán bộ cách mạng sau khi ra tù tham gia hoạt động và lãnh đạo
phong trào cách mạng.
Đầu năm 1943 cách mạng Việt Nam đã bước vào giai đoạn phát triển
mới, Hội nghị toàn thể Trung ương, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp từ
ngày 25 đến 28-2-1943, về công tác đảng, Hội nghị nêu rõ để làm tròn nhiệm vụ
trong giai đoạn mới phải “làm cho Đảng được mạnh mẽ và Bônsêvích hóa” [23,
25
tr.307]; “chính sách lập mặt trận của Đảng càng rộng rãi thì vai trò lãnh đạo của
Đảng càng phải vững chắc” [23, tr.307]. Nghị quyết nhấn mạnh:
Ra sức tổ chức chi bộ xí nghiệp, đó là một phương pháp chính làm cho
cơ sở của Đảng được vững và thành phần của Đảng được tốt đẹp. Bởi
vậy đảng bộ nào cũng phái đồng chí vào những xí nghiệp lớn ở nơi
mình hoạt động. Phải gây ra một phong trào công nghiệp theo khẩu
hiệu “Đi vào xí nghiệp, chiếm lấy xí nghiệp”. Trong những xí nghiệp
đã có tổ chức quần chúng cứu quốc, chưa có đảng bộ thì phải đặc biệt
huấn luyện những phần tử cứu quốc hăng hái trung thực nhất để sau
một thời gian ngắn có thể thành lập chi bộ Đảng [23, tr.308].
Phải thanh trừ các phần tử cơ hội ra khỏi Đảng; tỉnh táo đề phòng bọn
khiêu khích và bọn phản bội chui và Đảng; tăng cường đào tạo cán bộ, mở
các lớp huấn luyện ngắn ngày.
Thực hiện Nghị quyết hội nghị, trong 2 năm 1943-1944, hầu hết các
Đảng bộ địa phương vùng đồng bằng miền Bắc, sau những đợt khủng bố đã
lãnh đạo đẩy mạnh xây dựng và củng cố các đoàn thể của Việt Minh ở nông
thôn và thành thị. Ở nhiều tỉnh ven biển miền Trung, nhiều tổ chức cơ sở
Đảng và Việt Minh đã đi vào quần chúng công nhân, nông dân, dân nghèo,
đồng thời phát triển vào các tầng lớp tiểu tư sản, trí thức ở thành thị.
Ở miền Nam, sau 2 năm bị địch khủng bố ác liệt, từ năm 1943, phong
trào cách mạng được dần dần phục hồi. Hệ thống tổ chức đảng được xây dựng
lại ở nhiều nơi. Nghị quyết Hội nghị Trung ương năm lần thứ 8 (5-1941) và
lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc sau Hội nghị được phổ biến tới một
số địa phương miền Tây và miền Đông Nam bộ.
Trong khi phát triển các tổ chức quần chúng, mở rộng Mặt trận Việt
Minh, Đảng ta hết sức coi trọng củng cố và phát triển Đảng, làm cho Đảng
trong sạch, vững vàng và đoàn kết nhất trí. Các tổ chức của Đảng và cách làm
26
việc của Đảng được xây dựng theo nguyên tắc tuyệt đối giữ bí mật thường
xuyên cảnh giác với các phần tử A,B (bọn khiêu khích, giả danh cộng sản).
Sau khi đồng chí Hoàng Văn Thụ bị thực dân Pháp xử bắn, Đảng chủ trương
phát triển lớp đảng viên mới lấy tên là “lớp đảng viên Hoàng Văn Thụ”, kết
nạp những người cách mạng ưu tú, xuất thân từ công nhân, nông dân, trí thức
yêu nước, làm cho hàng ngũ đảng viên thêm vững mạnh.
Từ đầu năm 1943 đến cuối năm 1944 là thời kỳ khôi phục mạnh mẽ của
các tổ chức đảng bộ và tổ chức quần chúng ở Nam bộ, Trung bộ. Từ chỗ chỉ
một vài cơ sở Đảng một số tổ chức quần chúng rải rác ở khắp nơi, đến cuối
năm 1944, đã thành lập được nhiều Ban cán sự họăc Liên tỉnh ủy, tỉnh ủy,
thành ủy, quận ủy, huyện ủy được lập lại. Hầu hết ở các tỉnh Nam bộ đến đầu
năm 1945, đã có cơ sở đảng, số lượng đảng viên từng bước tăng lên, bù đắp
lại sự thiếu hụt nghiêm trọng sau khởi nghĩa Nam Kỳ, tháng 11-1940. Tuy
nhiên sự phát triển không đều còn nhiều hạn chế, nhất là về tổ chức, phương
pháp hoạt động.
Trên mặt trận tư tưởng, Đảng tăng cường đấu tranh với kẻ thù và những
quan điểm tư tưởng sai trái. Như: Đảng ta kịch liệt vạch trần những thủ đoạn
lừa bịp của phát xít Nhật và các đảng phái chính trị thân Nhật, những luận
điểm khiêu khích của bọn Tơrốtxkit. Nghiêm khắc phê phán tư tưởng cơ hội
hữu huynh của một nhóm trong báo Tiền phong đã tự ý rút khẩu hiệu chống
phát xít Pháp trước khi nổ ra cuộc đảo chính của Nhật và ngay sau đó lại chủ
trương lợi dụng Nhật để giành chính quyền. Đồng thời, Đảng cũng phê phán
tư tưởng “tả” khuynh của một nhóm trong báo Giải phóng vẫn giữ khẩu hiệu
“Đánh đuổi Nhật - Pháp” sau khi Nhật đã hoàn thành cuộc đảo chính và Pháp
không còn quyền hành gì ở Đông Dương nữa. Cả hai tờ báo tuy đều sai lầm
nhưng đã công kích nhau kịch liệt. Sau khi phê phán sai lầm của các đồng
27
trong hai nhóm báo Tiền phong và báo Giải phóng, đồng chí Trường Chinh Tổng bí thư của Đảng kêu gọi:
Các đồng chí ấy hãy kíp gạt bỏ thành kiến mà đi vào đường lối của Đảng,
thủ tiêu khẩu hiệu của riêng mình mà theo khẩu hiệu của Đảng. Sự thống
nhất của Đảng ở Nam Kỳ, một phần lớn do thái độ tự chỉ trích Bônsêvích
của các đồng chí ấy mà quyết định. Chúng ta sẽ phạm phải một tội lớn,
nếu trước giờ quyết liệt, chúng ta còn chia rẽ mãi [23, tr.415].
Nhờ sự chỉ đạo đúng đắn và kịp thời của Trung ương Đảng, Đảng bộ Nam
Kỳ đã thống nhất lại, tuy nhiên chủ trương lợi dụng Nhật để xây dựng, phát triển
lực lượng bán vũ trang tiền phong của nhóm “tiền phong” đã tỏ ra có hiệu lực.
Những đội thanh niên tiền phong đã đóng vai trò rất quan trọng và nổi bật trong
khởi nghĩa Tháng Tám ở Sài Gòn-Gia Định và ở Nam Bộ sau này.
Tóm lại, trong cao trào đấu tranh giải phóng dân tộc (1939-1945)
Đảng luôn quan tâm sâu sát và có chủ trương đúng đắn, sáng suốt, chỉ đạo
kịp thời đến công tác xây dựng Đảng từ Trung ương xuống địa phương
nhằm làm cho Đảng vững mạnh về mọi mặt. Về chính trị Đảng ta đã tiến
hành xây dựng thành công đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng
đắn được phản ánh trong các nghị quyết, chỉ thị của BCHTW Đảng và các
quan điểm của đồng chí Hồ Chí Minh trong tiến trình cách mạng giải phóng
dân tộc (1939-1945). Về công tác tư tưởng Đảng đã coi trọng công tác tuyên
truyền, giáo dục lý tưởng cho cán bộ, đảng viên, không ngừng nâng cao
trình độ lý luận; trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, phổ biến đường lối
chủ trương của Đảng, chương trình Việt Minh, uốn nắn kịp thời những nhận
thức lệch lạc về đối tượng đấu tranh. Về mặt tổ chức, Đảng đã xác định được
nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng, khôi phục tổ chức, tăng cường sức chiến
đấu, năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng, của cấp ủy đảng, phát triển đội ngũ
đảng viên mới tích cực, trung thành bổ sung cho Đảng, loại trừ những phần