Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ PHÁT HUY VAI TRÒ của hệ THỐNG CHÍNH TRỊ cơ sở TỈNH ĐỒNG NAI TRONG VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH tôn GIÁO của ĐẢNG và NHÀ nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (491.54 KB, 110 trang )

1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1 CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO VÀ VAI TRÒ CỦA HỆ
THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ TỈNH ĐỒNG NAI
TRONG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO
CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY

Trang
3

8
1.1

Chính sách tôn giáo, thực chất thực hiện chính sách tôn

1.2

giáo của Đảng, Nhà nước ta hiện nay
Vai trò hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Đồng Nai trong

8

thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta
hiện nay
Chương 2 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI
TRÒ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ TỈNH
ĐỒNG NAI TRONG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA HIỆN
NAY


20

43
2.1

Thực trạng vai trò hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Đồng
Nai trong thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà

2.2

nước ta hiện nay
Một số giải pháp cơ bản phát huy vai trò hệ thống chính

43

trị cơ sở tỉnh Đồng Nai trong thực hiện chính sách tôn
giáo của Đảng, Nhà nước ta hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

71
95
97
100


2


CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ

CHỮ VIẾT TẮT

Chính sách tôn giáo

CSTG

Chính trị quốc gia

CTQG

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Hệ thống chính trị

CNH, HĐH
HTCT

Hệ thống chính trị cơ sở

HTCTCS

Kế hoạch hoá gia đình

KHHGĐ


Nhà xuất bản

Nxb

Xã hội chủ nghĩa

XHCN

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tôn giáo là vấn đề thuộc về đời sống tâm linh liên quan đến một bộ phận
không nhỏ dân cư trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Các thế lực thù địch coi
đây là một trong những mũi nhọn xung kích trong chiến lược “diễn biến hòa
bình”, bạo loạn lật đổ chế độ XHCN ở nước ta. Cho nên, tôn giáo là một trong


3
những vấn đề khá nhạy cảm và phức tạp, đang có ảnh hưởng nhất định đến cuộc
sống của một bộ phận nhân dân và xã hội.
Đồng Nai là một tỉnh có nhiều tôn giáo như: Phật giáo, Công giáo, đạo
Tin Lành, đạo Cao Đài, đạo Hồi, đạo Hòa Hảo. Tín đồ các tôn giáo chiếm tới
63,34% dân số toàn tỉnh, cá biệt có một số xã, phường, thị trấn tôn giáo toàn
tòng. Mấy năm gần đây, các tôn giáo ở địa bàn tỉnh hoạt động có phần sôi nổi
hơn, tình trạng phát triển tín đồ không bình thường ở Công giáo, Tin Lành; hiện
tượng đòi lại đất đai cùng những cơ sở vật chất nơi thờ tự, cùng với các hoạt
động lễ hội, từ thiện xã hội đang gia tăng… ảnh hưởng nhất định đến mọi mặt
của đời sống xã hội; các thế lực thù địch luôn lợi dụng tôn giáo chống phá cách
mạng đã làm cho vấn đề tôn giáo càng thêm phức tạp.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn có

quan điểm, chính sách giải quyết vấn đề tôn giáo đúng đắn: thực hiện quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, quan tâm chăm lo đời sống vật chất
và tinh thần của đồng bào tín đồ các tôn giáo, thực hiện đoàn kết lương - giáo,
phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, trước những yêu cầu và nhiệm vụ
mới của sự nghiệp cách mạng, đòi hỏi phát huy hơn nữa sức mạnh của cả
cộng đồng quốc gia dân tộc, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong
đó có đoàn kết lương - giáo và đoàn kết giữa các tôn giáo.
Đảng ta xác định cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động
quần chúng; làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả HTCT dưới sự
lãnh đạo của Đảng. HTCTCS là cấp thấp nhất, cấp gần dân nhất trong HTCT
nước ta, có một vị trí vai trò quan trọng trong tổ chức thực thi quan điểm,
chính sách chung, trong đó có CSTG.
Nhận rõ vai trò và tầm quan trọng đó, thời gian qua HTCTCS tỉnh
Đồng Nai đã triển khai và thực hiện khá tốt CSTG của Đảng và Nhà nước,
góp phần giữ vững ổn định tình hình chính trị - xã hội trên địa bàn, tạo bước


4
phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân
cũng như đồng bào tín đồ các tôn giáo.
Tuy nhiên, ở một số nơi trên địa bàn, HTCTCS chưa phát huy tốt vai trò
của mình trong thực hiện CSTG. Công tác tôn giáo còn bộc lộ những yếu kém
nhất định, những mâu thuẫn, những bất đồng trong nhân dân, trong đồng bào tín
đồ các tôn giáo vẫn có lúc bộc lộ rõ. Thậm chí có những địa phương còn để sảy
ra những điểm nóng vì lý do tôn giáo, gây ra những hậu quả xấu, tạo ra những kẽ
hở cho các thế lực thù địch lợi dụng kích động, vu khống.
Vì vậy, nghiên cứu việc “phát huy vai trò HTCTCS tỉnh Đồng Nai
trong thực hiện CSTG của Đảng và Nhà nước ta hiện nay” là vấn đề có ý

nghĩa quan trọng, vừa cấp bách, vừa lâu dài. Đó là lý do tác giả chọn đề tài
này làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
HTCT nói chung, HTCTCS nói riêng và vai trò của nó là vấn đề đã
được Đảng, Nhà nước và các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Đảng ta đã
đề cập vấn đề này trong các văn kiện Đại hội Đảng. Văn kiện Hội nghị lần thứ
năm Ban Chấp hành trung ương khóa IX, (2002), lần đầu tiên Đảng ta đã ra
một nghị quyết chuyên đề về HTCTCS. Các nhà khoa học đã đề cập tới
những vấn đề này ở các góc độ khác nhau như: Bộ Nội vụ, Viện Nghiên cứu
khoa học tổ chức Nhà nước, Hệ thống chính trị cơ sở thực trạng và một số
giải pháp đổi mới, do tiến sỹ Chu Văn Thành (chủ biên), Nxb CTQG, Hà Nội.
2004; Vũ Hoàng Công (2002), Hệ thống chính trị cơ sở đặc điểm, xu hướng
và giải pháp, Nxb CTQG, Hà Nội; Nguyễn Quốc Phẩm (chủ biên), Hệ thống
chính trị cấp cơ sở và dân chủ hóa đời sống xã hội nông dân miền núi vùng
dân tộc thiểu số, của Nxb CTQG, Hà Nội. 2002.
Chính sách tôn giáo cũng luôn được Đảng, Nhà nước ta xác định rõ và
ngày càng hoàn thiện, thể hiện nhất quán trong các văn kiện của Đảng. Trong
thời kỳ đổi mới, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (1990)
đã ra nghị quyết chuyên đề: Nghị quyết về tăng cường công tác tôn giáo trong


5
tình hình mới, Số 24 - NQ/TW, ngày 16/10/1990. Ban Bí thư Trung ương Đảng
khóa VI (1990), đã cụ thể hoá bằng Chỉ thị về tăng cường công tác tôn giáo
trong tình hình mới, Số 66 CT/TW ngày 26/10/1990. Bộ Chính trị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, Chỉ thị về công tác tôn giáo trong tình hình mới, Số 37 CTTW, Hà Nội. 1998; Các quan điểm cơ bản đó được pháp luật hóa trong “Pháp
lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo”, năm 2004.
Trong quân đội, Đảng ủy Quân sự Trung ương (1999), đã ra Chỉ thị về
tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo quân đội thực hiện công tác tôn giáo trong tình
hình mới, số 36/ĐUQSTW, ngày 23/2/1999. Học viện Chính trị quân sự đã

nghiên cứu đề tài: Khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo đối với sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc hiện nay, Đề tài khoa học cấp học viện, Hà Nội. 2003.
Nhiều nhà khoa học, nhà quản lý xã hội cũng đã quan tâm đến lĩnh vực
này: “Thực hiện tốt chính sách tôn giáo của Đảng nhằm củng cố tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân” của Nguyễn Văn Ngọc, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số
9 năm 2001; “Nghiên cứu tôn giáo trong bối cảnh thực hiện chính sách đại đoàn
kết toàn dân và công tác tôn giáo ở thời kỳ mới” của Trịnh Xuân Giới, Tạp chí
Nghiên cứu Tôn giáo, số 4 năm 2004; “Những âm mưu lợi dụng tôn giáo và vấn
đề dân tộc chống lại sự nghiệp cách mạng nước ta hiện nay” của Lê Bỉnh, Tạp
chí Cộng sản, số 10, tháng 5 năm 2004.
Những công trình khoa học trên đã phân tích khá sâu sắc về đặc điểm, cấu
trúc, vai trò của từng thành tố trong HTCTCS; xu hướng vận động, giải pháp xây
dựng HTCTCS; đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau tới việc thực hiện CSTG
của Đảng và Nhà nước ta, xây dựng khối đoàn kết lương - giáo trong khối đại
đoàn kết toàn dân, khơi dậy và phát huy vai trò của đồng bào tín đồ các tôn giáo,
nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước vì dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nhưng đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cơ bản, toàn
diện và có hệ thống về phát huy vai trò của HTCTCS trong việc thực hiện CSTG


6
của Đảng và Nhà nước ở tỉnh Đồng Nai hiện nay. Vì vậy, đề tài luận văn không
trùng lặp với các công trình khoa học đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của
HTCTCS trong thực hiện CSTG của Đảng và Nhà nước ta, từ đó đề xuất một số
giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò đó trên địa bàn tỉnh Đồng Nai hiện nay.
* Nhiệm vụ:

- Làm rõ cơ sở lý luận về vai trò, nhiệm vụ HTCTCS tỉnh Đồng Nai trong
thực hiện CSTG của Đảng và Nhà nước.
- Phân tích thực trạng thực hiện vai trò HTCTCS tỉnh Đồng Nai trong
thực hiện CSTG của Đảng và Nhà nước hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò HTCTCS trong
thực hiện CSTG của Đảng và Nhà nước ta ở tinh Đồng Nai hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Vai trò và phát huy vai trò HTCTCS tỉnh Đồng Nai trong việc thực hiện
CSTG của Đảng, Nhà nước hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu khảo sát thực trạng vai trò HTCTCS trong thực hiện CSTG
của Đảng và Nhà nước ở một số xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
từ khi bắt đầu sự nghiệp đổi mới đất nước của Đảng ta (năm 1986) đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về HTCT; vai trò của


7
HTCTCS; về tôn giáo; vai trò của HTCTCS đối với việc thực hiện CSTG của
Đảng, Nhà nước.
* Cơ sở thực tiễn:
Thực tiễn thực hiện CSTG của HTCTCS tỉnh Đồng Nai từ 1986 đến nay
qua nghiên cứu, điều tra của tác giả và qua kế thừa các tư liệu, kết quả khảo sát,
điều tra của các tác giả khác liên quan đến vấn đề này.
* Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản như: phương pháp
hệ thống, phân tích, tổng hợp, lôgíc kết hợp với lịch sử, thống kê, so sánh, khảo

sát thực tiễn, và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn về vai trò của
HTCTCS tỉnh Đồng Nai trong thực hiện CSTG của Đảng, Nhà nước nhằm phát
huy vai trò đó trong giai đoạn hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu, giảng dạy ở các trường trong và ngoài quân đội; làm tài liệu tham
khảo cho đội ngũ cán bộ cơ sở hiện nay.
7. Kết cấu luận văn
Luận văn gồm: phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.

Chương 1


8
CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO VÀ VAI TRÒ CỦA CỦA HỆ THỐNG CHÍNH
TRỊ CƠ SỞ TỈNH ĐỒNG NAI TRONG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. Chính sách tôn giáo và thực chất thực hiện chính sách tôn giáo của
Đảng, Nhà nước ta hiện nay
1.1.1. Chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta hiện nay
CSTG của Đảng, Nhà nước ta là một hệ thống các chủ trương, sách
lược, kế hoạch và biện pháp cụ thể của Đảng và Nhà nước nhằm chỉ đạo toàn
bộ HTCT, cũng như mỗi công dân trong giải quyết, xử lý vấn đề tín ngưỡng,
tôn giáo phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN một cách khoa học, đạt hiệu quả cao.
CSTG của Đảng, Nhà nước ta là kết quả của sự vận dụng đúng đắn, sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo và
công tác tôn giáo, phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể ở nước ta.

Nội dung cơ bản của CSTG được thể hiện trong các văn kiện của
Đảng, được Nhà nước thể chế hóa trong Hiến pháp, pháp luật, mà gần đây
nhất là trong Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, ban hành năm 2004, với các
nội dung cơ bản sau:
Một là, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do
không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Mọi công dân đều bình đẳng về nghĩa
vụ và quyền lợi trước pháp luật, không phân biệt giữa người theo đạo và người
không theo đạo, cũng như giữa những người theo các tôn giáo khác nhau.
Đây là quan điểm nhất quán của Đảng ta, chi phối các chủ trương,
chính sách cụ thể của Đảng, Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo. Hiến pháp
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946, Điều 10 năm 1959 và Điều 68
năm 1980 quy định: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không


9
theo một tôn giáo nào, không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật
và chính sách của Nhà nước [17, tr.10, 39].
Điều 1 Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo quy định rõ hơn: “Công dân có
quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà
nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Không ai được
xâm phạm quyền tự do ấy. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, công dân
có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau phải tôn trọng lẫn nhau” [26, tr. 59].
Nội dung cơ bản của tự do tín ngưỡng, tôn giáo thể hiện trên những vấn
đề chủ yếu đó là:
- công dân có quyền tự do theo hoặc không theo một tôn giáo nào
Đây là nội dung cơ bản nhất của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo
đó mọi người đều có quyền lựa chọn theo một tôn giáo cụ thể nào đó, quyền
thay đổi tôn giáo và quyền không theo hoặc từ bỏ tôn giáo mà mình theo. Công
dân có quyền tự do hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo như thờ cúng tổ tiên, tưởng
niệm và tôn vinh những người có công với đất nước với dân tộc, với cộng đồng,

thờ cúng thần thánh, những biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín
ngưỡng dân gian khác.
Mọi công dân theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo đều bình đẳng
trước pháp luật, được hưởng đầy đủ các quyền công dân và phải làm tròn nghĩa
vụ đối với Tổ quốc. Các tổ chức, các cơ sở tôn giáo, các tín đồ, chức sắc các tôn
giáo có quyền sinh hoạt tôn giáo theo giáo lý, giáo luật và lễ nghi tôn giáo mà
mình theo. Công dân thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nhưng không
cản trở việc thực hiện nghĩa vụ công dân đối với Tổ quốc; hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo phải theo đúng quy định của pháp luật. Không được lợi
dụng tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân
theo đạo,


10
Tự do tín ngưỡng, tôn giáo không có nghĩa là hoạt động tôn giáo nằm
ngoài khuôn khổ pháp luật, đi ngược lại lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân;
cũng không có nghĩa là lợi dụng tôn giáo phá hoại cách mạng. Đây là một
quyền cơ bản của con người, cần phải được tôn trọng và bảo vệ không chỉ
trong Hiến pháp, mà cả trong thực tiễn cuộc sống. Vì vậy, trong khi thực hiện
nhất quán chính sách “tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng” phải kiên
quyết đấu tranh chống mọi sự lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo phá hoại cách
mạng. Người có tín ngưỡng, tôn giáo và người không có tín ngưỡng, tôn giáo
phải tôn trọng lẫn nhau, không ai được quyền xâm phạm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo.
Tín đồ và các chức sắc tôn giáo không tuyên truyền lôi kéo, công kích
chống đối lẫn nhau. Mọi người đều phải tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
người khác; nghiêm cấm mọi biểu hiện lôi kéo, áp đặt, vi phạm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. “Trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, người có
tín ngưỡng, tín đồ có trách nhiệm tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và
quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của người khác” [17, tr. 15 - 16].

- Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo
Pháp luật.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân phải được Nhà nước
bảo đảm bằng pháp luật. Vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; lợi dụng
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để gây rối làm mất ổn định xã hội, phá hoại
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá cách mạng, chống đối chế độ là vi
phạm pháp luật phải bị pháp luật xử lý.
Điều 70 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992,
quy định: “Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các
tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo
để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước” [17, tr. 159].


11
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa IX nêu rõ: “Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình
đẳng trước pháp luật... nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do
tôn giáo” [14, tr. 48].
Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật là một chính sách cơ bản của
Đảng, Nhà nước ta về tôn giáo và đối với vấn đề về tôn giáo trong một đất nước
đang trong quá trình xây dựng CNXH, có nhiều tôn giáo và nhiều người có tín
ngưỡng, tôn giáo.
Hai là, đoàn kết gắn bó đồng bào theo các tôn giáo trong khối đại đoàn
kết toàn dân.
Đây là quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước ta. Đảng, Nhà nước ta
đặc biệt quan tâm, không ngừng vun đắp, củng cố, tăng cường sự đoàn kết
giữa đồng bào theo các tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo, giữa đồng
bào theo các tôn giáo khác nhau. Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành trung
ương khóa IX Đảng ta chỉ ra: Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách
đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không

theo tôn giáo, đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau. Trong giai đoạn
hiện nay khối đại đoàn kết ấy là động lực chủ yếu của sự nghiệp đổi mới đất
nước, của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đoàn kết phải trên cơ sở lợi ích quốc gia dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng đã từng nêu rõ: “Trong khi thực dân Pháp và can thiệp Mỹ tìm
mọi cách chia rẽ lương giáo, hòng cướp nước ta, thì việc đoàn kết toàn dân,
đoàn kết lương giáo để cứu nước, cứu dân là vô cùng cần thiết” [23, tr. 559].
Hiện nay trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, đoàn kết lương - giáo phải lấy mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh” làm điểm tương đồng.


12
Đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo cũng như đồng bào không có tín
ngưỡng, tôn giáo đều phải tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng những ý kiến khác nhau
không trái với lợi ích của dân tộc; xóa bỏ những mặc cảm, tự ti, định kiến hoặc
phân biệt đối xử; xây dựng tinh thần cởi mở, tin tưởng lẫn nhau, có trách nhiệm
chung sức, chung lòng đoàn kết gắn bó với nhau, ra sức củng cố, xây dựng và
tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân phải đi đôi với việc đấu
tranh chống những hành động chia rẽ, làm suy yếu khối đoàn kết dân tộc. Đây
là vấn đề có tính nguyên tắc trong quan điểm CSTG của Đảng và Nhà nước
ta. Cần phân biệt rõ hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo lành mạnh của nhân dân
với thủ đoạn lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá CNXH… Mọi biểu
hiện nóng vội, chủ quan hoặc giản đơn trong giải quyết vấn đề tín ngưỡng,
tôn giáo đều có thể dẫn đến nguy cơ chia rẽ, làm rạn nứt khối đoàn kết thống
nhất dân tộc, suy yếu sức mạnh quốc gia.
Vì vậy, phải thường xuyên tuyên truyền, giáo dục cho chức sắc, tín đồ các
tôn giáo hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, góp phần nâng cao
cảnh giác cách mạng, tạo ra khả năng miễn dịch cho đồng bào đồng thời tích

cực đấu tranh làm thất bại âm mưu phá hoại của chúng.
Ba là, mọi tín đồ được tự do tham gia các hình thức sinh hoạt theo lễ
nghi tôn giáo nhưng phải làm tròn nghĩa vụ công dân
Mọi tín đồ và chức sắc tôn giáo thực hiện tốt những yêu cầu về giáo lý,
giáo luật, lễ nghi và những quy định của các tổ chức tôn giáo mà mình theo đã
được Nhà nước công nhận và cho phép hoạt động. Người tham gia hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo phải tôn trọng những quy định của cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo,
của lễ hội và hương ước, quy ước của cộng đồng. Nhưng tự do tín ngưỡng, tôn
giáo cũng không có nghĩa là hoạt động của tôn giáo nằm ngoài khuôn khổ pháp
luật, đi ngược lại lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân; không có nghĩa là lợi dụng


13
tôn giáo để phá hoại cách mạng. “Đồng bào theo đạo và các vị chức sắc tôn giáo
có nghĩa vụ làm tròn trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc, (sống tốt đời, đẹp
đạo)” [3, tr. 12].
Với tư cách là một công dân, đồng bào tín đồ, chức sắc các tôn giáo phải
thực hiện tốt trách nhiệm, nghĩa vụ của một công dân đối với đất nước. “Tốt đời
đẹp đạo” phải là phương châm cơ bản, chi phối các hoạt động của tất cả tổ chức,
chức sắc và tín đồ các tôn giáo. Chừng nào tín đồ các tôn giáo còn đứng ngoài
cuộc, thờ ơ, thiếu trách nhiệm với đất nước, còn coi sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc là nhiệm vụ riêng của chính quyền, của những người không tín
ngưỡng, tôn giáo, thì chừng đó người có tín ngưỡng, tôn giáo còn chưa làm tròn
bổn phận của một công dân đối với đất nước.
Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã chỉ
rõ nhiệm vụ của công tác tôn giáo là phải: đẩy mạnh phong trào thi đua yêu
nước, xây dựng cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo” trong quần chúng tín đồ, chức
sắc, nhà tu hành; động viên đồng bào thực hiện tốt yêu cầu của một tín đồ đối
với tôn giáo và đồng thời phải làm tròn bổn phận của một công dân đối với
đất nước; làm cho các tôn giáo gắn bó với dân tộc, với đất nước và CNXH

hăng hái thi đua xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, những hoạt động tôn giáo ích nước, lợi dân phù hợp với nguyện
vọng và lợi ích chính đáng, hợp pháp của các tín đồ được bảo đảm; những giá trị
văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo được tôn trọng và khuyến khích phát
huy.
Đó là quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước ta. Xét về mặt lịch sử,
các đức tin tôn giáo xuất hiện đều có mục tiêu hướng tới những mong muốn
tốt đẹp về con người có thể sống hòa đồng với nhau, cùng nhau xây dựng
cuộc sống hạnh phúc. Trong giáo lý, giáo luật của các tôn giáo đều có những
nội dung giới răn hướng thiện, trị ác có những giá trị nhân văn vì cuộc sống


14
của cá nhân, của cộng đồng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận xét: Học thuyết
của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo của chúa
Giêsu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là
phương pháp biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách
của nó phù hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên
chẳng phải có những ưu điểm chung đó sao. Họ đều muốn mưu cầu hạnh
phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội, nếu hôm nay họ còn sống trên
đời này, nếu họ họp lại một chỗ, tôi tin chắc rằng nhất định họ sẽ chung sống
với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết.
Thực tế trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của
Đảng cho thấy đồng bào các tôn giáo đã có những đóng góp tích cực vào công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhìn chung, các tổ chức tôn giáo được
Nhà nước công nhận đã hoạt động theo pháp luật, xây dựng được đường
hướng hành đạo gắn bó với dân tộc, “sống phúc âm giữa lòng dân tộc”; “đạo
pháp, dân tộc và CNXH”, tập hợp được đông đảo tín đồ, chức sắc các tôn giáo
trong khối đại đoàn kết toàn dân.
Đảng, Nhà nước ta thực hiện nhất quán chính sách giữ gìn và phát huy

những giá trị tích cực về đạo đức, văn hóa của tôn giáo; khuyến khích những
hoạt động xã hội - từ thiện của tín đồ, chức sắc và các tổ chức tôn giáo như các
hoạt động: xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, cứu trợ cứu hộ thiên tai,
khám, chữa bệnh miễn phí, mở các lớp học tình thương... là đúng đắn, hợp lòng
dân, đem lại sự đồng thuận trong xã hội.
Năm là, chống mọi hành vi lợi dụng tôn giáo để phá hoại chính sách đại
đoàn kết dân tộc, làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân
Đi đôi với tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, Đảng
và Nhà nước ta khẳng định: Nghiêm cấm những hoạt động “lợi dụng quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hòa bình, độc lập, thống nhất đất


15
nước, kích động bạo lực, hoặc tuyên truyền trái với pháp luật, chủ trương
chính sách của Nhà nước, chia rẽ nhân dân, chia rẽ dân tộc, gây rối trật tự
công cộng, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe nhân dân, danh dự, tài sản của
người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân, hoạt động
mê tín dị đoan” [26, tr. 9,10].
Thực tế vẫn còn một số tín đồ, chức sắc các tôn giáo, do nhẹ dạ cả tin,
mất cảnh giác nên bị các thế lực thù địch lợi dụng hòng gây chia rẽ, làm mất
đoàn kết; ở một số nơi, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, một số người
đã lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để tiến hành những hoạt động chống đối,
kích động tín đồ, chức sắc nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, gây mất
ổn định chính trị. Tình hình đó không những ảnh hưởng tiêu cực đến sự
nghiệp cách mạng, đến sinh hoạt tôn giáo lành mạnh của nhân dân.
Vì vậy, đấu tranh chống lợi dụng tôn giáo chia rẽ khối đoàn kết toàn dân,
chống phá cách mạng là một nhiệm vụ thường xuyên không thể coi thường của
cả HTCT và của đồng bào tín đồ các tôn giáo.
1.1.2. Thực chất thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta
hiện nay

Thực hiện CSTG của Đảng, Nhà nước là quá trình hiện thực hoá chính
sách đó vào trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội; trong đó HTCT có vai trò
lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức nhân dân thực hiện. Như vậy, thực hiện CSTG của
Đảng và Nhà nước là toàn bộ hoạt động của HTCT lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức
nhân dân quán triệt và thực thi quan điểm, chính sách tôn giáo nhằm thực hiện
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo góp phần tăng cường đoàn kết đồng bào các
tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ nhất, thực chất thực hiện CSTG của Đảng, Nhà nước ta được thể
hiện thông qua vai trò chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức nhân dân thực hiện


16
CSTG đó là toàn bộ HTCT. “Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả HTCT do
Đảng lãnh đạo” [3, tr. 123].
Tổ chức Đảng các cấp: thường xuyên có những chủ trương, chính sách
đúng đắn về tôn giáo và công tác tôn giáo, đồng thời phải xác định rõ những
giải pháp khả thi để giải quyết phù hợp những nhu cầu tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của một bộ phận quần chúng nhân dân, lãnh đạo, kiểm tra việc tổ chức
thực hiện những chủ trương chính sách đó đạt hiệu quả.
Có kế hoạch lãnh đạo, chỉ đạo, đề ra các quan điểm, chủ trương, biện
pháp cụ thể, thích hợp và đồng thời tổ chức tuyên truyền, giáo dục sâu rộng, liên
tục trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, nhất là những cơ quan, những cán
bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo và đồng bào tín đồ, chức sắc các tôn giáo
về những chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước ta. Làm cho mọi người có
nhận thức đầy đủ, đúng đắn về CSTG của Đảng, Nhà nước.
Chính quyền các cấp: cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương, chính sách
của Đảng thành hệ thống pháp luật nhằm tổ chức thực hiện đạt hiệu quả
những quan điểm, chủ trương, chính sách đó, và đồng thời quản lý tốt mọi
hoạt động của tôn giáo trên địa bàn theo pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho

tín đồ, chức sắc các tôn giáo hoạt động; kiên quyết xử lý mọi hành vi lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo để làm mất trật tự an toàn xã hội, làm phương hại đến
độc lập dân tộc, phá hoại chính sách đại đoàn kết toàn dân, chống lại Nhà
nước, gây tổn hại đến đạo đức, lối sống, truyền thống văn hóa của dân tộc,
ngăn cản tín đồ, chức sắc các tôn giáo thực hiện nghĩa vụ công dân.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trực tiếp tuyên truyền vận
động quần chúng nhân dân, cũng như đồng bào tín đồ, chức sắc các tôn giáo
thực hiện đúng đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân, trong đó có đoàn kết lương - giáo, và đoàn kết
giữa các tôn giáo. Động viên tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, phát huy


17
những mặt tương đồng, những truyền thống tốt đẹp của các tôn giáo, cùng toàn
dân phấn đấu thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
Thứ hai, thực chất thực hiện CSTG của Đảng, Nhà nước ta hiện nay là
nhằm đạt tới mục tiêu: tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực
hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đoàn kết là truyền thống quý báu, là động lực chủ yếu sự phát triển của
dân tộc ta. Đồng bào có tôn giáo trước hết là người Việt Nam, ở họ có tình
yêu quê hương, yêu đất nước, lòng tự hào và ý thức dân tộc sâu sắc. Đó là nền
tảng để tập hợp lực lượng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Vì thế, tăng
cường đoàn kết và phát huy vai trò của đồng bào các tôn giáo trong xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc là mục tiêu xuyên suốt của việc thực hiện chính sách tôn
giáo ở nước ta hện nay.
Thứ ba, Thực chất thiện hiện chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta
tuân thủ những quan điểm cơ bản là: tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng,

tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân quan tâm giải
quyết hợp lý nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, kịp thời đấu tranh
chống lại sự lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo chống phá cách mạng.
Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang
và sẽ tồn tại lâu dài trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta. Nhu cầu đó phải
được bảo đảm. Nhưng các thế lực thù địch lại luôn tìm cách lợi dụng tín ngưỡng,
tôn giáo để chống phá cách mạng, vì vậy đi đôi với việc tôn trọng quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo phải thường xuyên nêu cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh
chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch.


18
Thứ tư, thực chất thực hiện CSTG của Đảng, Nhà nước ta hiện nay là
phải thực hiện tốt nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo.
Công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng, công tác đối với con
người, thực chất đây là công tác vận động quần chúng cách mạng của Đảng,
công tác đối với đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo, là sự thể hiện mối quan hệ
giữa Đảng với một bộ phận quần chúng trong tiến trình cách mạng XHCN. Mọi
hoạt động quản lý nhà nước đối với tôn giáo và công tác đấu tranh chống lợi
dụng tôn giáo chỉ thành công nếu thực hiện tốt công tác vận động quần chúng.
Công tác tôn giáo nhằm bảo đảm vận động đồng bào theo đạo thực hiện
tốt nghĩa vụ và quyền lợi công dân, sống “tốt đời, đẹp đạo”, góp phần tăng
cường và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc thực hiện thắng lợi các
nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng. Chỉ có làm tốt công tác vận động quần
chúng mới tập hợp và khai thác được tiềm năng, thế mạnh trong đồng bào các
tôn giáo để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn lợi
dụng tôn giáo của các thế lực thù địch.
Thứ năm, thực hiện CSTG của Đảng, Nhà nước ta hiện nay là thực hiện
tốt 6 nhiệm vụ cơ bản mà Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng
(khóa IX) đã đề ra:

Một, thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách, và các chương trình
phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân,
trong đó có đồng bào tín đồ các tôn giáo.
Đây là nhiệm vụ cơ bản nhất, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước
đối với nhân dân, trong đó có đồng bào theo tôn giáo. Lợi ích chính đáng của
đồng bào các tôn giáo được bảo đảm, đời sống vật chất, tinh thần không ngừng
được cải thiện và nâng cao là điều kiện căn bản để thực hiện tốt tôn giáo và đấu
tranh chống địch lợi dụng tôn giáo.


19
Thực tế sau gần 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được
những thành tựu quan trọng, tạo cơ sở để cải thiện và nâng cao một bước đời
sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, ở nhiều địa
phương nhất là ở những vùng sâu, vùng xa... đời sống của một bộ phận nhân
dân vẫn còn gặp nhiều khó khăn, trong đó có đồng bào là tín đồ các tôn giáo.
Vì vậy, cần phải tạo ra những điều kiện thuận lợi để giúp cho đồng bào nâng
cao đời sống vừa làm tốt việc đời, vừa chăm lo việc đạo là nội dung quan
trọng của công tác tôn giáo hiện nay.
Hai, tạo điều kiện cho các sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo được hoạt động
bình thường theo đúng chính sách và luật pháp của Nhà nước.
Nhiệm vụ này thể hiện chính sách tôn trọng và bảo đảm tự do tín ngưỡng,
tôn giáo. Trên cơ sở coi hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của
một bộ phận nhân dân, Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo và tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động trên cơ sở các quy
định của pháp luật, để đồng bào vừa tự do chăm lo phần hồn theo lễ nghi tôn
giáo, vừa làm tròn nghĩa vụ của công dân. Đây là trách nhiệm của chính quyền
các địa phương nơi có đồng bào tín ngưỡng, tôn giáo sinh sống.
Tăng cường quản lý Nhà nước về tôn giáo, đảm bảo cho tôn giáo được
hoạt bình thường theo đúng pháp luật, chính là Nhà nước bảo vệ quyền tự do tín

ngưỡng, tôn giáo, đồng thời thực hiện tốt sự bảo trợ của mình đối với các hoạt
động tôn giáo đúng pháp luật, ngăn chặn các hành động lợi dụng tôn giáo, vi
phạm pháp luật chống phá cách mạng của các thế lực thù địch.
Ba, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, xây dựng cuộc sống “tốt
đời, đẹp đạo” trong quần chúng tín đồ, chức sắc tôn giáo nhằm xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.


20
Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận trong khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, hầu hết là những người lao động, cần cù, chất phác có lòng yêu nước và ý
thức tự hào, tự tôn dân tộc. Phát huy tinh thần yêu nước của họ, động viên họ
sống “tốt đời, đẹp đạo”, gắn bó với dân tộc là một nhiệm vụ cơ bản trong thực
hiện CSTG. Nhiệm vụ này đòi hỏi quá trình thực hiện CSTG phải có chủ
trương, giải pháp để tập hợp, khai thác tiềm năng sáng tạo của đồng bào tôn
giáo thực hiện thắng lợi các phong trào hành động cách mạng ở địa phương,
góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước theo định hướng XHCN.
Bốn, phát huy tinh thần yêu nước của đồng bào có đạo, tự giác và
phối hợp đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo của
các thế lực thù địch.
Đấu tranh chống lợi dụng tôn giáo là một hoạt động đặc biệt, chỉ thắng lợi
khi quần chúng nhận thức rõ được bản chất, âm mưu, thủ đoạn của địch, tự giác
ủng hộ và cùng tham gia với các cơ quan Nhà nước để đấu tranh. Bởi vậy, cần
phải phát huy tinh thần yêu nước của đồng bào, làm cho đồng bào nhận thức rõ
mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch để phá hoại
đoàn kết dân tộc, chống đối chế độ.
Năm, hướng dẫn các tôn giáo thực hiện quan hệ đối ngoại phù hợp với
đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước, đẩy mạnh thông tin tuyên truyền về

CSTG, đấu tranh làm thất bại các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, vu khống
của các thế lực thù địch đối với CSTG ở nước ta.
Các tôn giáo ngoại nhập như: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo
có quan hệ khá chặt chẽ với các tổ chức cùng tôn giáo ở bên ngoài. Bởi vậy,
công tác tôn giáo có nhiệm vụ hướng dẫn hoạt động đối ngoại của các tôn
giáo phù hợp với chủ trương, CSTG không làm ảnh hưởng đến sự nghiệp xây


21
dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta, không làm tổn hại đến quan hệ quốc
tế của Đảng, Nhà nước ta.
Cùng với việc bảo đảm cho quan hệ đối ngoại tôn giáo thực hiện đúng
pháp luật, tôn chỉ, đường hướng của các tôn giáo, cần đẩy mạnh thông tin, tuyên
truyền, đấu tranh làm thất bại các luận điệu xuyên tạc, vu khống của kẻ địch về
vấn đề tôn giáo và CSTG ở nước ta.
Sáu, tổng kết việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác
tôn giáo. Tăng cường nghiên cứu cơ bản, tổng kết thực tiễn, góp phần cung cấp
luận cứ khoa học trong việc xây dựng và thực hiện các chủ trương, CSTG trước
mắt và lâu dài.
Thực tiễn luôn biến đổi, việc quán triệt và thực hiện quan điểm, chính
sách về tín ngưỡng, tôn giáo đạt hiệu quả ngày càng cao, nhưng không thể tránh
khỏi thiếu sót, khuyết điểm. Do vậy, kịp thời sơ, tổng kết rút kinh nghiệm để
phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế, điều chỉnh, bổ sung các chủ trương, giải
pháp là một yêu cầu khách quan trong thực hiện CSTG của Đảng, Nhà nước.
Sáu nhiệm vụ đó quan hệ chặt chẽ với nhau, thực hiện tốt sáu nhiệm vụ là
trách nhiệm của cả HTCT, của mọi cấp, mọi ngành, trong mọi lĩnh vực, của mọi
cán bộ, đảng viên và của toàn dân. Trong đó, tổ chức và đội ngũ cán bộ chuyên
trách làm công tác tôn giáo có vai trò trực tiếp đề xuất, tham mưu để toàn bộ
HTCT tổ chức nhân dân thực hiện.
1.2. Vai trò hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Đồng Nai trong việc thực

hiện chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta hiện nay
1.2.1 Khái niệm, chức năng của hệ thống chính tri cơ sở
Thứ nhất, Khái niệm hệ thống chính trị cơ sở
Để có khái niệm HTCTCS một cách hoàn chỉnh cần nghiên cứu khái
niệm HTCT: HTCT là một bộ phận của cấu trúc thượng tầng xã hội, bao gồm


22
các tổ chức, các thiết chế hợp pháp, có quan hệ về mục đích, chức năng thực
hiện hoặc tham gia thực hiện quyền lực chính trị.
HTCT là tổ chức và thiết chế tồn tại dưới hình thức vật chất, có bộ
máy, có tính hợp pháp. Tuy nhiên có những tổ chức không được hiến định,
pháp định nhưng được xã hội thừa nhận, và không đối lập với chế độ Nhà
nước - pháp luật hiện hành vẫn được coi là thành tố của HTCT. HTCT có mục
đích, chức năng thực hiện hoặc trực tiếp tham gia thực hiện quyền lực chính
trị, nghĩa là thường xuyên hoặc tham gia lãnh đạo, điều hành đất nước.
Với cách hiểu đó, có thể thấy thành phần của HTCT không chỉ bao
gồm các bộ phận cơ bản là nhà nước, các đảng phái chính trị, các tổ chức
chính trị xã hội, mà có cả các tổ chức khác tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của
từng quốc gia [12, tr. 9-10].
Từ quan niệm HTCT chung, với phương pháp hạn định khái niệm có thể
quan niệm: HTCTCS là một bộ phận của cấu trúc thượng tầng xã hội ở cơ sở,
bao gồm các tổ chức, các thiết chế hợp pháp, có quan hệ về mục đích, chức
năng thực hiện hoặc tham gia thực hiện quyền lực chính trị ở cơ sở.
Hiện nay bộ máy hành chính nước ta có 4 cấp. Trong đó, cấp xã (phường,
thị trấn) là cấp cơ sở, gồm các tổ chức thiết chế chính trị như tổ chức Đảng,
chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, được tổ chức và hoạt
động theo những nguyên tắc nhất định và gắn bó hữu cơ với nhau. Mỗi bộ phận
hợp thành trong HTCTCS có vị trí, vai trò, chức năng khác nhau, song đều vận
hành theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm chủ.

Thứ hai, Chức năng của hệ thống chính trị cơ sở
Chức năng của HTCTCS được thể hiện ở chức năng, nhiệm vụ của các
thành tố cấu thành HTCTCS đó là:


23
* Tổ chức cơ sở đảng
Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là
hạt nhân chính trị ở cơ sở. Đảng bộ xã bao gồm nhiều chi bộ; thông thường mỗi
thôn, xóm, ấp có một chi bộ. Tổ chức cơ sở Đảng có các chức năng chủ yếu sau:
- Chức năng lãnh đạo thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước ở cơ sở, trong đó có CSTG.
- Xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư
tưởng, và tổ chức; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao chất
lượng sinh hoạt đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật và
tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, thường xuyên giáo dục, rèn
luyện, quản lý cán bộ, đảng viên không ngừng nâng cao phẩm chất đạo đức
cách mạng, tính chiến đấu, trình độ kiến thức, năng lực công tác, làm công tác
phát triển đảng viên.
- Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự
nghiệp, quốc phòng, an ninh và các đoàn thể chính trị - xã hội trong sạch, vững
mạnh; chấp hành nghiêm pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
- Liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và
bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng,
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
- Kiểm tra việc thực hiện, bảo đảm các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp
luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh; kiểm tra tổ chức đảng, đảng
viên chấp hành Điều lệ Đảng.
* Chính quyền cơ sở (xã, phường, thị trấn)
Chính quyền cơ sở bao gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân xã,

phường, thị trấn.
Hội đồng nhân dân xã là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa


24
phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà
nước cấp trên. Hội đồng nhân dân thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn theo
quy định của Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Trung
ương đồng thời phát huy quyền chủ động sáng tạo của địa phương.
Hội đồng nhân dân xã có hai chức năng cơ bản là quyết định và giám
sát trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ở cơ sở. Trong thực hiện CSTG, hội
đồng nhân dân quyết định các chủ trương, biện pháp chủ yếu thực hiện CSTG
theo quy định của pháp luật.
Uỷ ban nhân dân xã là cơ quan chấp hành của hội đồng nhân dân, cơ quan
hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, pháp
luật và các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, nghị quyết của hội đồng
nhân dân cùng cấp. Ủy ban nhân dân có chức năng nhiệm vụ là thực hiện quản
lý Nhà nước toàn diện trên địa bàn xã, tổ chức thực hiện những nghị quyết và
quyết định của hội đồng nhân dân cùng cấp.
Trong thực hiện CSTG, Uỷ ban nhân dân dưới sự lãnh đạo của tổ
chức cơ sở Đảng có nhiệm vụ tổ chức thực hiện các chủ trương, biện pháp
chủ yếu do hội đồng nhân dân đề ra nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật; quản lý mọi hoạt động
của tôn giáo theo pháp luật.
Về cơ bản tổ chức hoạt động, chức năng, nhiệm vụ chính quyền phường,
thị trấn cơ bản như chính quyền cấp xã, chỉ khác một số nhiệm vụ cụ thể như
Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX quy định.
* Các tổ chức chính trị - xã hội:
Các tổ chức chính trị - xã hội trong HTCTCS bao gồm: Uỷ ban Mặt trận

Tổ quốc, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh... ở
cơ sở, có chức năng chủ yếu là:


25
Tập hợp, củng cố, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tạo sự nhất trí về
chính trị, tinh thần của nhân dân; tuyên truyền vận động nhân dân phát huy
quyền làm chủ thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Hiến
pháp, pháp luật của Nhà nước trên địa bàn; giám sát mọi hoạt động của cơ quan
Nhà nước ở cơ sở, các đại biểu dân cử, và cán bộ công chức; tập hợp những ý
kiến và kiến nghị của nhân dân để phản ánh với Đảng và Nhà nước cấp trên;
tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân ở địa phương; chăm lo bảo
vệ quyền lợi và nghĩa vụ chính đáng của nhân dân.
Trong thực hiện CSTG, chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân là: tập hợp đồng bào các tôn giáo và đồng bào
không có tín ngưỡng, tôn giáo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc; phản ánh kịp thời ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị của
nhân dân về các vấn đề liện quan đến tín ngưỡng, tôn giáo với cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền; tham gia tuyên truyền vận động chức sắc, nhà tu hành, tín đồ,
các tổ chức tôn giáo và nhân dân thực hiện CSTG, tham gia xây dựng và giám
sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo [26].
1.2.2. Đặc điểm của hệ thống chính trị cơ sở ở Đồng Nai
Thứ nhất, vài nét về điều kiện tự nhiên của tỉnh Đồng Nai
Tỉnh Đồng Nai thuộc địa bàn miền Đông Nam bộ có diện tích là 5.864,77
km2, chiếm 1,76% tổng diện tích cả nước và 26% diện tích tự nhiên của miền
Đông Nam bộ. Dân số toàn Tỉnh hơn 2,3 triệu người, mật độ trung bình là 353
người / km2. Địa bàn tỉnh có 38 dân tộc anh em sinh sống, trong đó người Kinh
chiếm 94%. Đây là vùng đất chuyển tiếp giữa cực Nam Trung bộ, Tây Nguyên
và vùng đồng bằng Nam bộ, phía đông tiếp giáp với Tỉnh Bình Thuận; Đông
Nam tiếp giáp với Thành phố Hồ Chí Minh; Đông Bắc giáp Tỉnh Lâm Đồng;

Tây Bắc giáp Tỉnh Bình Dương, Bình Phước; phía Nam giáp Tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.


×