Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ TÍNH CHÍNH TRỊ xã hội của THANH NIÊN TỈNH lâm ĐỒNG TRONG xây DỰNG nền QUỐC PHÒNG TOÀN dân HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (466.79 KB, 112 trang )

3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đã khẳng định: “Sức
mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ
thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, sức mạnh của lực lượng và thế trận QPTD với sức mạnh của
lực lượng và thế trận an ninh nhân dân”[20, tr.117]. Theo đó, sức mạnh bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc. Xây dựng
nền QPTD vững mạnh tất yếu là một nội dung quan trọng tạo nên sức mạnh
đó. Đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN hiện nay, đòi hỏi các cấp, ngành, địa phương và lực lượng của cả nước
luôn nâng cao tinh thần trách nhiệm, tích cực, chủ động trong xây dựng, củng
cố nền QPTD vững mạnh toàn diện.
Thanh niên nói chung và thanh niên Lâm Đồng nói riêng là lực lượng
cơ bản, lực lượng xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây
dựng nền QPTD vững chắc. Họ là thành phần chủ yếu của lực lượng dân
quân, tự vệ, dự bị động viên, nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân ở cơ
sở, là những cán bộ, đảng viên, đoàn viên, thanh niên có phẩm chất, năng lực,
nhiệt tình trong các hoạt động xây dựng nền QPTD của địa phương. Tính
TCCT-XH là một trong những phẩm chất chính trị - xã hội quan trọng, giữ
vai trò định hướng cho nhận thức và hành động chính trị - xã hội của thanh
niên nói chung và thanh niên tỉnh Lâm Đồng nói riêng trong xây dựng nền
QPTD, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tỉnh Lâm Đồng và Tây Nguyên là một trong những địa bàn chiến lược
quan trọng trong xây dựng lực lượng, thế trận, tiềm lực của nền QPTD, góp
phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay. Các lực lượng thù


4
địch luôn coi Tây Nguyên là một trong những trọng điểm chống phá sự


nghiệp bảo vệ, xây dựng CNXH ở nước ta. Chúng lợi dụng vấn đề dân tộc,
tôn giáo để kích động, chia rẽ đoàn kết các dân tộc; tạo ra những “điểm nóng”
về an ninh, quốc phòng, bạo loạn chính trị, nhằm xây dựng lực lượng phản
động tại chỗ để chống phá cách mạng nước ta. Trong đó, thanh niên là lực
lượng mà kẻ địch thường lôi kéo, dụ dỗ. Do vậy, giáo dục, động viên và tổ
chức cho thanh niên tích cực tham gia xây dựng nền QPTD vững mạnh là
công việc quan trọng, cần thiết với tỉnh Lâm Đồng trong tình hình hiện nay.
Những năm qua, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ, Chính
quyền và các đoàn thể, tính TCCT-XH của thanh niên tỉnh Lâm Đồng trong
xây dựng nền QPTD đã từng bước nâng cao. Đa số thanh niên tỉnh Lâm Đồng
đã nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nhận rõ âm mưu thủ đoạn “diễn biến
hoà bình” của địch, tích cực tham gia phong trào xây dựng và củng cố nền
QPTD, giữ vững ổn định chính trị ở địa phương. Tuy nhiên, một số thanh niên
tỉnh Lâm Đồng do tác động của mặt trái cơ chế thị trường, những điều kiện khó
khăn của địa phương và chưa nhận thức đúng vị trí, vai trò của mình trong thực
hiện nhiệm vụ xây dựng nền QPTD, nên tính TCCT-XH của họ còn có những
hạn chế nhất định như: bị các lực lượng phản động lôi kéo vào các hoạt động
lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, di cư bất hợp pháp, xa vào các tệ nạn xã hội,
gây nên những bất ổn định chính trị, trật tự an ninh địa phương.
Từ những lý do trên, tác giả chọn vấn đề: Tính TCCT-XH của thanh
niên tỉnh Lâm Đồng trong xây dựng nền QPTD hiện nay làm đề tài nghiên
cứu. Đề tài này có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Những tư tưởng cơ bản về xây dựng nền QPTD, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc XHCN được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đề cập ở nhiều tác phẩm. Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng sáng


5
tạo và cụ thể hoá những tư tưởng ấy bằng quan điểm, đường lối, nghị quyết,

pháp luật, pháp lệnh trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam qua các
thời kỳ.
Về thanh niên và vai trò của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nền QPTD được các nhà lãnh đạo của Đảng, Quân
đội nghiên cứu như : Văn Tiến Dũng “Thế hệ trẻ Việt Nam với sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc XHCN”, Nxb QĐND, Hà Nội 1980; Lê Duẩn “Thanh niên trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN”, Nxb QĐND, Hà Nội 1982.
Trong đó các tác giả đã phân tích khẳng định vai trò to lớn của thanh niên
trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc trước đây và củng cố quốc
phòng, phát triển kinh tế của đất nước trong thời kỳ quá độ xây dựng CNXH
hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích của luận văn:
Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về tính TCCT-XH của
thanh niên tỉnh Lâm Đồng trong xây dựng nền QPTD hiện nay, từ đó đề xuất
những yêu cầu và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao tính TCCT-XH của thanh
niên tỉnh Lâm Đồng trong xây dựng nền QPTD hiện nay.
*Nhiệm vụ của luận văn:
Để đạt mục đích trên, luận văn phải giải quyết các nhiệm vụ cơ bản là:
- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận về tính TCCT-XH của thanh niên tỉnh
Lâm Đồng trong xây dựng nền QPTD hiện nay.
- Phân tích thực trạng, chỉ rõ những nguyên nhân mạnh, yếu của thực
trạng tính TCCT-XH của thanh niên tỉnh Lâm Đồng trong xây dựng nền
QPTD hiện nay.


6
- Đề xuất những yêu cầu và giải pháp nhằm nâng cao tính TCCT-XH
của thanh niên tỉnh Lâm Đồng trong xây dựng nền QPTD hiện nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn

*Cơ sở lý luận:
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta
về xây dựng nền QPTD, về tính tích cực của thanh niên trong xây dựng nền
QPTD, cũng như các nghị quyết, chỉ thị, pháp luật, nghị định của Đảng và
Nhà nước ta về những nội dung của đề tài nghiên cứu.
*Cơ sở thực tiễn:
Đề tài căn cứ vào việc khảo sát thực trạng tính TCCT-XH của thanh
niên tỉnh Lâm Đồng hiện nay thông qua những đánh giá, báo cáo tổng kết của
Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng, các văn kiện Đại hội đại biểu
Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ VII, VIII; báo cáo tổng kết công tác QPTD
của Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Lâm Đồng, Tỉnh đoàn Lâm Đồng, các ban,
ngành của tỉnh Lâm Đồng hàng năm, trong thời gian từ năm 2000 đến nay.
Đồng thời, đề tài căn cứ vào kết quả điều tra xã hội học, ý kiến đánh giá của
các chuyên gia, cán bộ lãnh đạo, cán bộ, đảng viên trong tỉnh và sự quan sát,
đánh giá của tác giả trong những năm công tác trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng.
* Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài dựa chắc trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá trình phân tích các
hiện tượng xã hội, lịch sử. Sử dụng tổng hợp những phương pháp nghiên
cứu khoa học, trong đó chủ yếu sử dụng các phương pháp: phân tích - tổng


7
hợp, lôgíc - lịch sử, thống kê, so sánh, quan sát, tổng kết thực tiễn, điều tra
xã hội học, xin ý kiến chuyên gia.
5. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn của
việc nâng cao tính TCCT-XH của thanh niên tỉnh Lâm Đồng trong xây dựng
nền QPTD hiện nay; và quan điểm, đường lối, chính sách xây dựng nền

QPTD của Đảng, Nhà nước ta trong quá trình đổi mới hiện nay.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ lãnh đạo và
nhân dân tỉnh Lâm Đồng trong quá trình xây dựng nền QPTD hiện nay, nhất
là những đoàn viên, thanh niên trong hoạt động phong trào tham gia xây dựng
nền QPTD ở địa phương. Luận văn cũng có thể làm tài liệu nghiên cứu tham
khảo trong giảng dạy, học tập ở các nhà trường quân đội.
6. Kết cấu của đề tài luận văn
Kết cấu luận văn gồm: mở đầu, hai chương (4tiết), kết luận, danh mục
tài liệu tham khảo và phụ lục.


8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÍNH TÍCH CỰC
CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA THANH NIÊN TỈNH LÂM ĐỒNG
TRONG XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN HIỆN NAY
1.1. Cơ sở lý luận về tính tích cực chính trị - xã hội của thanh niên
tỉnh Lâm Đồng trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân hiện nay
1.1.1. Tính tích cực chính trị - xã hội
* Tính tích cực xã hội
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, tích cực là sự “chủ động, hướng hoạt động
nhằm tạo ra những thay đổi, phát triển”, là “hăng hái, năng nổ với công
việc”[59, tr.1627]. Như vậy, có thể hiểu tích cực là thuộc tính bản chất người,
thể hiện vai trò chủ thể to lớn của con người trong hoạt động thực tiễn thúc
đẩy lịch sử phát triển.
Trong lịch sử tư tưởng, các nhà triết học duy tâm và các tôn giáo cho rằng
có một lực lượng siêu tự nhiên đã tạo ra và điều khiển tất cả thế giới. Vì vậy, mọi
suy nghĩ và hành động của con người đều dựa vào “sự mách bảo của thần linh”
hoặc của “đấng sáng thế”. Thực chất là họ đã phủ nhận vai trò của con người, và
tất nhiên không thấy được tính tích cực của con người trong hoạt động thực tiễn.

Các nhà triết học duy vật trước Mác mặc dù quan niệm con người là sản
phẩm cao nhất của tự nhiên, nhưng do hạn chế bởi tư duy siêu hình, máy móc và
điều kiện lịch sử, nên họ cũng không thấy được vai trò to lớn của ý thức và tính
tích cực của con người trong hoạt động thực tiễn. Bởi vì, nói đến ý thức là nói
đến vai trò của con người, ý thức tự nó không thể thay đổi được hiện thực mà chỉ
có tác dụng to lớn đó khi được thực tiễn hóa, nghĩa là ý thức thành mặt chủ quan
trong hoạt động thực tiễn, làm cho hoạt động thực tiễn là hoạt động có ý thức.
Đối lập với các quan điểm trên, lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin luôn coi
con người là kết quả của quá trình vận động và phát triển lâu dài của thế giới


9
vật chất. Con người là một bộ phận của giới tự nhiên, nhưng ngay từ khi xuất
hiện con người đã bắt đầu nhận thức và cải tạo tự nhiên nhằm thoả mãn nhu
cầu của mình. Giữa con người và tự nhiên có mối quan hệ biện chứng chặt
chẽ với nhau, trong đó thế giới tự nhiên là khách thể, con người là chủ thể của
quá trình nhận thức và cải tạo thế giới. Đây chính là cơ sở phương pháp luận
khoa học, cách mạng cho hoạt động thực tiễn, nhận thức và nghiên cứu về
tính tích cực của con người. Bởi lẽ khẳng định con người là chủ thể tác động
vào thế giới để nhận thức và cải tạo nó, nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng
cao của con người và xã hội loài người đã cho thấy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo trong hoạt động thực tiễn của con người. Do đó, có thể thấy tính tích
cực thuộc về bản chất con người. Nó được biểu hiện trong cuộc sống, ở mọi
lĩnh vực hoạt động, tất thảy các công việc hàng ngày. Lịch sử loài người từ
khi xuất hiện, tồn tại và phát triển không ngừng cho đến nay là do tính tích
cực, sáng tạo của con người trong hoạt động thực tiễn lao động sản xuất và
đấu tranh xã hội tạo nên. Nó đã chứng minh cho quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin là hoàn toàn đúng đắn.
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, có thể hiểu
thực chất tính tích cực là thuộc tính bản chất của con người, bao gồm cả ý

thức và hành động tích cực và là sự thể hiện vai trò chủ thể năng động, tự
giác, sáng tạo của con người, nhằm tạo ra sự biến đổi theo hướng phát triển
của cuộc sống. Nắm thực chất vấn đề này sẽ làm cơ sở phương pháp luận cho
việc luận giải tính tích cực xã hội.
Trong đời sống xã hội, con người muốn duy trì sự tồn tại của mình cần
phải được thoả mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần nhất định. Những
nhu cầu ấy không thể được đáp ứng đầy đủ trong tự nhiên, mà phần lớn là do
con người tạo ra. Chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn lao động sản xuất và
đấu tranh xã hội con người mới có thể tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu của


10
bản thân, để duy trì sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội loài
người.
Hoạt động thực tiễn, trước hết là hoạt động lao động sản xuất tất yếu
nảy sinh những quan hệ giữa người với người, tức những quan hệ sản xuất và
các quan hệ xã hội khác như: chính trị, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật...Quá
trình ấy ở con người thường xuyên và tất yếu nảy sinh những nhu cầu mới,
đồng thời họ cũng cải tạo những quan hệ xã hội cũ, xây dựng những quan hệ
xã hội mới. Từ đó làm cho chính bản thân con người và xã hội loài người vận
động, phát triển không ngừng. Cho nên, nhu cầu tồn tại, phát triển của con
người vừa là cơ sở, động lực thúc đẩy mọi hoạt động của cá nhân, vừa tạo ra
sự vận động, phát triển của lịch sử.
Tuy nhiên, nhu cầu của con người chỉ được thoả mãn trong cộng đồng
xã hội. Vì nhu cầu là sự thống nhất giữa đòi hỏi tất yếu bên trong của chủ thể
(cá nhân hoặc nhóm xã hội) với điều kiện môi trường xung quanh (cộng đồng
xã hội), nghĩa là nhu cầu cá nhân phải “trở thành” nhu cầu xã hội. Xã hội loài
người càng phát triển thì sự thoả mãn nhu cầu của mỗi cá nhân càng phụ
thuộc chặt chẽ vào các quan hệ xã hội. Mối quan hệ phụ thuộc đó tạo nên tính
cộng đồng của con người trong đời sống xã hội. C.Mác đã khẳng định “Bản

chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng
biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan
hệ xã hội”[34, tr.11]. Luận điểm của C.Mác đã vượt qua tất cả các quan niệm
triết học trong lịch sử, coi bản chất con người là trừu tượng, bất biến, phi lịch
sử, xã hội; đồng thời khẳng định tính phổ biến, tính hiện thực, tính lịch sử xã
hội của bản chất con người. Mặt khác, Ông còn khẳng định tính chất xã hội,
lịch sử trong hoạt động của con người. Con người là chủ thể của các quan hệ
xã hội, chủ thể của nhận thức, tư duy và hoạt động thực tiễn. Tính tích cực xã


11
hội là thuộc tính bản chất người, nó hình thành, phát triển và được biểu hiện
trong hoạt động thực tiễn của con người.
Nhu cầu của cá nhân và xã hội được thỏa mãn trên cơ sở giải quyết mối
quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội. Quan hệ lợi ích là quan hệ xã hội
khách quan giữa các chủ thể (cá nhân hoặc tập thể xã hội) có cùng nhu cầu,
cùng đối tượng thoả mãn và việc thực hiện những nhu cầu ấy.
Trong mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội thì lợi ích cá
nhân luôn gắn liền với lợi ích xã hội. Với mỗi con người thì lợi ích riêng, lợi
ích bản thân bao giờ cũng có ý nghĩa quyết định, là động lực trực tiếp thôi
thúc cá nhân hoạt động. Lợi ích cá nhân là cơ sở hình thành động cơ, thái độ,
trách nhiệm trong ý thức và hành động của họ. Nó làm cho xã hội phong phú,
đa dạng, góp phần tạo nên sự tồn tại và phát triển của cộng đồng xã hội. Tuy
nhiên, không một cá nhân nào có thể tồn tại tách khỏi đời sống xã hội. Trong
đời sống, cá nhân luôn bị quy định hết sức chặt chẽ bởi sự phát triển của cả
cộng đồng và lợi ích xã hội. Vì vậy, lợi ích cá nhân chỉ được đảm bảo trong
một cộng đồng xã hội nhất định, gắn với một hoàn cảnh lịch sử nhất định.
Lợi ích xã hội là lợi ích nhằm thoả mãn những nhu cầu chung của các
thành viên trong cộng đồng xã hội. Nó vừa là điều kiện để thoả mãn cho lợi
ích cá nhân, vừa giữ vai trò định hướng cho việc thực hiện những lợi ích cá

nhân. Cá nhân chỉ được thoả mãn lợi ích khi cộng đồng xã hội bảo đảm cho
họ. Vì vậy, chỉ khi nào tạo lập được mối quan hệ hài hoà giữa lợi ích chung
và lợi ích riêng, lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội thì mới tạo nên động lực
mạnh mẽ cho sự phát triển không những cho cá nhân mà cả cộng đồng xã hội.
Từ những phân tích trên có thể khái quát thực chất tính tích cực xã hội
như sau: Tính tích cực xã hội là toàn bộ ý thức và hoạt động thực tiễn mang
tính tích cực của con người, nhằm thỏa mãn những nhu cầu và thực hiện lợi


12
ích chung của cộng đồng xã hội, đồng thời thúc đẩy xã hội vận động và phát
triển.
Tính tích cực xã hội khác với tính tích cực cá nhân và nhóm xã hội.
Tính tích cực xã hội bao giờ cũng biểu hiện ở tính tích cực của mỗi cá nhân
và nhóm xã hội. Nhưng tính tích cực của cá nhân và nhóm xã hội chỉ trở
thành tính tích cực xã hội khi nó là ý thức và những hành động nhằm thoả
mãn nhu cầu, thực hiện lợi ích chung của xã hội.
Tính tích cực xã hội và ý thức xã hội có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Tính tích cực xã hội là ý thức xã hội ở cấp độ phản ánh cao và được biểu
hiện tập trung trong hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực, thúc đẩy lịch sử xã
hội phát triển. Cho nên ý thức con người càng sâu sắc, tính tích cực xã hội của
họ càng cao. Ngược lại, tính tích cực xã hội càng được nâng cao sẽ thúc đẩy
con người phản ánh hiện thực đúng đắn, sâu sắc hơn, làm cho ý thức phát
triển.
Tính tích cực xã hội của con người được thể hiện trong hoạt động
thực tiễn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội như: kinh tế, chính trị,
văn hoá xã hội…Tương ứng với mỗi lĩnh vực đó, có những loại hình tính
tích cực xã hội khác nhau. Tính TCCT-XH là một trong những loại hình cơ
bản của tính tích cực xã hội.
* Tính tích cực chính trị- xã hội

Quan niệm tính tích cực chính trị - xã hội:
Tính TCCT-XH là một trong những hình thái biểu hiện cơ bản, quan
trọng của tính tích cực xã hội, là hoạt động mang tính chủ động, sáng tạo, có
mục đích của các cá nhân, tập thể và toàn xã hội, dưới sự lãnh đạo của một
giai cấp, một chính đảng, giành và giữ địa vị chính trị của mình trong xã hội,
nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo khuynh hướng chính trị của mình.


13
Xem xét ở một góc độ khác, tính tích cực xã hội của con người biểu
hiện ở những hoạt động có ích về mặt xã hội, nhằm củng cố sự thống nhất của
một cộng đồng xã hội nhất định (thường là một giai cấp nhất định), bảo đảm
sự giúp đỡ lẫn nhau, sự đoàn kết giữa các thành viên của cộng đồng xã hội đó,
bảo vệ những lợi ích chung của cộng đồng đó, củng cố vị trí của cộng đồng
trong xã hội và làm yếu vị trí của cộng đồng đối lập. Trong xã hội có giai cấp
đối kháng, tính tích cực xã hội mang tính giai cấp, tính chính trị sâu sắc. Vì
vậy, tính TCCT-XH là một bộ phận cơ bản, có ý nghĩa chi phối mạnh mẽ tính
tích cực xã hội trên các lĩnh vực khác.
Chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội, rộng
hơn là của dân tộc về vấn đề quyền lực nhà nước, là cuộc đấu tranh để giành,
giữ và sử dụng quyền lực nhà nước, nhằm bảo vệ địa vị chính trị, lợi ích kinh
tế của giai cấp và cộng đồng dân tộc. Lênin cho rằng: “Chính trị là biểu hiện
tập trung của kinh tế” và “chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so
với kinh tế”[32, tr.349]. Vì vậy, trong xã hội có giai cấp đối kháng và đấu
tranh giai cấp, tính TCCT-XH của các giai cấp là khác nhau. Các chế độ xã
hội dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, giai cấp thống trị
luôn dùng địa vị và quyền lực của mình chi phối lợi ích xã hội, nhằm thoả
mãn nhu cầu, lợi ích riêng của giai cấp. Cho nên, giai cấp thống trị luôn chi
phối tính TCCT-XH của các giai cấp khác, hướng nó phục vụ cho mục đích
duy trì địa vị, lợi ích thống trị của giai cấp. Thực chất là tìm mọi cách hạn

chế, làm mờ nhạt tính TCCT-XH của các giai cấp khác bằng những luận điệu
lừa bịp, mỵ dân. Tuy nhiên, các giai cấp bị thống trị luôn hướng tính TCCTXH của họ vào các hoạt động chống lại chế độ chính trị và sự thống trị giai
cấp, tạo nên động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Chỉ đến cuộc đấu tranh giai
cấp giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản trong chế độ tư bản chủ nghĩa
là cuộc đấu tranh tự giác, sáng tạo thì tính TCCT-XH của giai cấp công nhân


14
và nhân dân lao động mới được khơi dậy và phát huy. Bởi vì cuộc đấu tranh
giai cấp này hướng tới mục tiêu xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế
độ XHCN, phát triển hơn hẳn về chất so với các chế độ xã hội trước nó.
Xét về cấu trúc, tính TCCT-XH bao gồm hai thành tố cơ bản là ý thức
chính trị - xã hội và những hành động chính trị - xã hội tích cực.
Ý thức chính trị - xã hội với tư cách là một hình thái ý thức xã hội có
hai cấp độ hệ tư tưởng chính trị và tâm lý chính trị. Hệ tư tưởng chính trị là hệ
thống các quan điểm, lý luận của giai cấp về địa vị lịch sử, nhiệm vụ chính trị,
đường lối chiến lược, sách lược của giai cấp đó trong cuộc đấu tranh giai cấp
nhằm đạt được mục tiêu của giai cấp. Cấp độ thấp của ý thức chính trị là tâm
lý chính trị phản ánh trực tiếp thái độ, tâm trạng của giai cấp về các hiện
tượng chính trị trong đời sống hàng ngày.
Với tư cách là thành tố của tính TCCT-XH, ý thức chính trị - xã hội là
sự phản ánh điều kiện hoàn cảnh lịch sử, đời sống chính trị - xã hội của con
người và bao gồm: tri thức chính trị, tình cảm chính trị, ý chí, niềm tin, lý
tưởng chính trị. Những nhân tố này gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau
tạo thành phẩm chất nhân cách chính trị của con người.
Tri thức chính trị - xã hội là sự phản ánh của con người về đời sống chính
trị - xã hội, là sự giác ngộ về địa vị, quyền lợi và nghĩa vụ của họ trong cuộc
đấu tranh chính trị. Nó còn là những hiểu biết về đối tượng, các quy luật đấu
tranh chính trị. Mỗi cá nhân bao giờ cũng là thành viên của một giai cấp, một
cộng đồng xã hội nhất định. Vì vậy, tri thức chính trị - xã hội của mỗi cá nhân

cũng như của cộng đồng xã hội chính là việc nắm vững đường lối chiến lược,
sách lược, phương pháp, hình thức đấu tranh của giai cấp, cộng đồng, nhằm đạt
tới mục tiêu chính trị đã được đề ra. Tri thức chính trị là khâu đầu tiên của quá
trình hình thành các nhân tố khác trong ý thức chính trị, làm cho con người ta


15
hiểu họ cần phải làm gì, làm như thế nào, theo nguyên tắc nào, từ đó chỉ đạo
hành động chính trị có hiệu quả hơn.
Tình cảm chính trị là những thái độ của cá nhân, cộng đồng nảy sinh do
sự phù hợp hay không phù hợp của hành động chính trị so với những chuẩn
mực của xã hội, là sự rung động nội tâm của cá nhân về các hiện tượng chính
trị - xã hội. Tình cảm chính trị tác động mạnh mẽ đến hành động chính trị - xã
hội của cá nhân, tập thể. Tình cảm chính trị - xã hội tích cực chỉ xuất hiện trên
cơ sở thế giới quan khoa học, tri thức khoa học, lập trường quan điểm cách
mạng.
Tri thức, tình cảm tích cực là nền tảng xây dựng ý chí, niền tin khoa học
vững chắc. Ý chí chính trị là sức mạnh tạo ra năng lực hoạt động có mục đích
làm cho con người có khả năng vượt qua mọi khó khăn gian khổ, hoàn thành
mọi nhiện vụ chính trị của bản thân. Niềm tin chính trị là sự hoà quyện một
cách hữu cơ giữa tri thức khoa học, tình cảm, ý chí. Nó có tác dụng thúc đấy
con người hành động phù hợp với mục đích, lý tưởng chính trị của họ. Trong
mỗi cá nhân niềm tin chịu sự chi phối của lập trường giai cấp mà cá nhân là
thành viên. Niềm tin vững chắc sẽ tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy hành động
vươn tới mục đích cao cả của cuộc sống, đó là lý tưởng sống. Nói đến niềm
tin bao giờ cũng gắn liền với hoạt động thực tiễn. Không có niềm tin thực sự
nào lại không được bộc lộ trong hành động cụ thể của con người. Từ tri thức
đến niềm tin và hành động là một thể thống nhất.
Ý thức chính trị là tiền đề chủ quan để điều chỉnh hành động chính trị của
con người. Hành động chính trị là sự tác động qua lại của con người trong mối

quan hệ cá nhân, giai cấp và xã hội nhằm duy trì sự thống nhất của giai cấp
cầm quyền, cộng đồng xã hội. Ý thức chính trị - xã hội tích cực không chỉ biểu
hiện trong tư tưởng, tình cảm, mà còn điều chỉnh hành động chính trị - xã hội
tích cực, thúc đẩy đời sống chính trị - xã hội phát triển.


16
Như vậy, tính TCCT-XH là một thể thống nhất giữa ý thức và hành động
chính trị - xã hội tích cực, sự hòa quyện giữa tri thức, tình cảm, ý chí, niềm tin,
thái độ, động cơ và hoạt động thực tiễn, tạo nên phẩm chất chính trị - xã hội
của cá nhân và cộng đồng xã hội. Nó thể hiện vai trò to lớn của con người
trong đời sống chính trị - xã hội.
Cơ sở hình thành tính TCCT-XH:
Tính TCCT-XH của con người được hình thành trên cơ sở giác ngộ về ý
thức chính trị - xã hội của giai cấp. Ý thức chính trị - xã hội của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động là hệ tư tưởng chính trị của giai cấp công nhân - học
thuyết Mác - Lênin - tự bản thân nó đã mang bản chất cách mạng và ý nghĩa
tích cực. Chủ nghĩa Mác - Lênin là lý luận khoa học, cách mạng, phản ánh
đúng đắn những quy luật khách quan của lịch sử xã hội và nó trang bị cho con
người thế giới quan khoa học, phương pháp luận cách mạng. Nó luận giải cơ sở
khoa học về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, làm cơ sở cho Đảng Cộng
sản hoạch định đường lối chiến lược, sách lược, phương pháp cách mạng đúng
đắn, chỉ đạo và tổ chức hoạt động thực tiễn đấu tranh cách mạng của quần
chúng nhân dân lao động có hiệu quả. Đây là nền tảng lý luận, tư tưởng hình
thành, phát triển tính TCCT-XH của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Ở nước ta hiện nay, ý thức chính trị - xã hội tích cực là tổng hợp những
tri thức về lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; về quan
điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và sự giác ngộ
sâu sắc về vai trò, nhiệm vụ chính trị của bản thân đói với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Những tri thức đó làm cơ sở

xây dựng tình cảm cách mạng trong sáng của giai cấp công nhân, tình yêu
quê hương, đất nước, tình đồng chí, đồng bào và hình thành nhân sinh
quan, niềm tin, lý tưởng cộng sản chủ nghĩa.


17
Tính TCCT-XH còn được hình thành trên cơ sở giải quyết tốt mối
quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội trên lập trường của giai cấp công
nhân. Lợi ích của giai cấp công nhân với lợi ích của quần chúng nhân dân lao
động và lợi ích dân tộc là thống nhất với nhau. Giải phóng giai cấp, giải
phóng con người, giải phóng xã hội là mục tiêu cách mạng của giai cấp công
nhân và cũng là mục tiêu chung của toàn xã hội. Nhu cầu được phát triển toàn
diện cả về kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội là nhu cầu chung của mọi người.
Nhu cầu, lợi ích của cá nhân có sự thống nhất, phát triển hài hòa với nhu cầu,
lợi ích xã hội. Cho nên, đến CNXH thì tính TCCT-XH của quần chúng nhân
dân mới ngày càng phát triển và biểu hiện rõ nét. Vì vậy, Đảng Cộng sản và
Nhà nước XHCN cần quan tâm bồi dưỡng, phát triển một cách đầy đủ nhất
tính TCCT-XH của nhân dân bằng việc chăm lo bảo đảm lợi ích, giải quyết
hài hòa mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội.
Trong chế độ XHCN, tính TCCT-XH là hình thái biểu hiện cơ bản,
quan trọng nhất của tính tích cực xã hội, là hoạt động tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo của quần chúng nhân dân, nhằm xây dựng và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc XHCN, và lợi ích của nhân dân lao động, tạo nên sự ổn định và đảm
bảo cho sự phát triển không ngừng của CNXH. Hoạt động chính trị - xã hội
của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động được thực hiện bằng
chế độ dân chủ XHCN, nhằm duy trì vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, vì
lợi ích của nhân dân và toàn xã hội. Đó là hoạt động đấu tranh của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động cải tạo chế độ chính trị - xã hội cũ, xây dựng
và bảo vệ chế độ chính trị - xã hội XHCN. Để hình thành và phát triển tính
TCCT-XH của nhân dân, Đảng Cộng sản phải luôn định hướng hoạt động cho

mỗi cá nhân và toàn xã hội vào mục tiêu chung của cách mạng.
Vai trò của tính tích cực chính trị - xã hội:


18
Trước hết, tính TCCT-XH là động lực bên trong thúc đẩy hoạt động
thực tiễn chính trị - xã hội của con người.
Tính TCCT-XH của con người có vai trò to lớn đối với đời sống xã hội
nói chung, đời sống chính trị - xã hội nói riêng. Nâng cao tri thức, bồi dưỡng
tình cảm, xây dựng niềm tin, lý tưởng là những yếu tố cơ bản cấu thành thế
giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng chỉ đạo hoạt động thực tiễn
của con người. Tính TCCT-XH chuyển hoá thành nhu cầu, động cơ hành
động chính trị-xã hội của mỗi cá nhân với tư cách là chủ thể nhận thức và
hoạt động thực tiễn. Nó sẽ tạo động lực bên trong thúc đẩy cá nhân hành động
và nâng cao hiệu quả hoạt động thực tiễn của họ. Lênin đã dạy: “Chúng ta căn
cứ vào cái gì để xét đoán những tư tưởng, tình cảm thực của các cá nhân có
thực. Tất nhiên căn cứ đó chỉ có thể là những hoạt động của các cá nhân
ấy”[28, tr.235].
Cho nên, bàn về vai trò của tính TCCT-XH thực chất là nói đến vai trò
to lớn của nhân tố con người trong các hoạt động thực tiễn nhằm thúc đẩy xã
hội phát triển không ngừng. Tính TCCT-XH thể hiện vai trò to lớn của những
chủ thể chính trị, với những hoạt động chính trị - xã hội cần thiết, vừa xuất
phát từ yêu cầu khách quan của đời sống chính trị - xã hội, vừa đáp ứng nhu
cầu của chủ thể, nhằm xoá bỏ những quan hệ chính trị- xã hội cũ, lạc hậu; bảo
vệ và xây dựng những quan hệ chính trị- xã hội mới, tiến bộ hơn. Thực chất là
xây dựng và bảo vệ chế độ chính trị - xã hội tiến bộ, tạo môi trường thuận lợi
cho sự phát triển các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Hai là, tính TCCT-XH là nhân tố giữ vai trò định hướng cho sự phát
triển và hoàn thiện nhân cách con người.
Tính TCCT-XH còn là nhân tố định hướng cho sự bồi dưỡng, phát triển

toàn diện nhân cách của con người. Bởi vì, không có gì thúc đẩy sự phát triển và
tự hoàn thiện nhân cách bằng quan điểm sống tích cực. Nghĩa là con người
không thể sống và phát triển nhân cách cá nhân, lại không quan tâm đến công


19
việc và nhiệm vụ của xã hội, của cộng đồng giai cấp, dân tộc mà mình là một
thành viên. Tính TCCT-XH là động lực bên trong thôi thúc con người sống có lý
tưởng cao đẹp, có ước vọng và niềm khao khát sống, từ đó họ đem hết sức lực,
khả năng của bản thân để phục vụ cho lợi ích cộng đồng, lợi ích xã hội. Đóng
góp công sức cho sự phát triển của cộng đồng xã hội (giai cấp, dân tộc, nhân
loại), vì lợi ích chung của xã hội luôn là thước đo giá trị, chuẩn mực đánh giá
nhân cách của mỗi người.
Ba là, vai trò tính TCCT-XH của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN ngày càng tăng.
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, xuất phát từ bản
chất tốt đẹp của chế độ chính trị XHCN và yêu cầu của sự nghiệp cách mạng,
vai trò tính TCCT-XH của giai cấp công nhân và nhân dân lao động cần được
khơi đậy và phát huy hơn bao giờ hết. Bởi lẽ cách mạng XHCN là cuộc cách
mạng thực sự của nhân dân, vì nhân dân, do nhân dân tiến hành; là cuộc cách
mạng toàn diện, triệt để, lâu dài, và cũng không ít khó khăn, gian khổ. Chỉ có
phát huy và khơi dậy một cách đầy đủ, toàn diện tính TCCT-XH của nhân
dân, của cả dân tộc thì mới đảm bảo chắc chắn cho sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ thành quả cách mạng, bảo vệ chế độ và Tổ quốc XHCN.
Thực tiễn sự nghiệp cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo, nhất là
trong những năm đổi mới đã chứng minh vai trò to lớn tính TCCT-XH nhân
dân ta. Nước ta đổi mới thành công, đạt được những thành tựu to lớn và đang
vững bước trên con đường xây dựng CNXH, có một bài học hết sức cơ bản,
quan trọng đã được Đảng ta tổng kết đó là “lấy dân làm gốc”. Đây thực chất
cũng là khẳng định vai trò to lớn tính TCCT-XH của toàn thể nhân dân ta.

Nếu không phát huy được tính TCCT-XH của quần chúng nhân dân thì
cách mạng sẽ gặp không ít khó khăn, thậm chí thất bại. Thực tế đã cho thấy
khi quần chúng thờ ơ với chính trị, không tham gia vào các hoạt động chính
trị thì không thể có phong trào cách mạng nào phát triển, không có giai cấp,


20
lực lượng lãnh đạo nào có thể giành thắng lợi được. Những năm cuối thể kỷ
XX, sự xụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu có nhiều nguyên nhân,
nhưng trong đó có những sai lầm của các Đảng Cộng sản dẫn đến phai nhạt
tính TCCT-XH của nhân dân, dẫn đến sự thờ ơ của quần chúng với đời sống
chính trị và cuối cùng là không bảo vệ đảng, nhà nước, chế độ XHCN.
Ở nước ta, từ những năm đầu thế kỷ XX, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, cách mạng Việt Nam đã thu được những thắng lợi to lớn.
Tính TCCT-XH của nhân dân ta đã được phát huy mạnh mẽ. Nước ta từ một
nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một nước độc lập, tự do, tiến lên
xây dựng CNXH. Hiện nay chúng ta đang tiến hành công cuộc đổi mới, đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN trong tình hình mới. Hơn lúc nào hết vai trò tính TCCT-XH của
nhân dân cần được phát huy một cách đầy đủ, toàn diện nhất.
1.1.2. Tính TCCT-XH của thanh niên tỉnh Lâm Đồng trong xây dựng
nền QPTD hiện nay
*Những đặc điểm và nội dung cơ bản xây dựng nền QPTD ở tỉnh
Lâm Đồng hiện nay
Quốc phòng là công cuộc giữ nước của một quốc gia, dân tộc. QPTD
là quan điểm cơ bản chỉ đạo việc xây dựng nền quốc phòng của nước ta hiện
nay. “Đó là nền quốc phòng mang tính chất “vì dân, do dân, của dân”, phát
triển theo phương hướng: toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự
cường và ngày càng hiện đại, kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng
và an ninh dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước,

do nhân dân làm chủ, sẵn sàng đánh bại mọi hành động xâm lược và bạo
loạn lật đổ của các thế lực đế quốc và phản động, bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam XHCN”[50, tr.848].


21
Theo đó, nền quốc phòng của nước ta được xây dựng với bản chất là
quốc phòng “của dân, do dân, vì dân”, nhân dân làm chủ, dưới sự lãnh đạo
tuyệt đối, trực tiếp của Đảng, quản lý thống nhất của Nhà nước ta. Bản chất
ấy quyết định tính chất, quy định phương hướng toàn dân, toàn diện, độc
lập, tự chủ, tự lực, tự cường và ngày càng hiện đại của nền quốc phòng nước
ta.
Xây dựng nền QPTD, toàn diện là nền quốc phòng dựa vào sức mạnh
của nhân dân, trên cơ sở phát huy sức mạnh nhân dân cả về vật chất và tinh
thần, ý thức tự giác của mỗi người dân, cũng như toàn xã hội. Xây dựng nền
QPTD không chỉ là nhiệm vụ của riêng lực lượng vũ trang, mà nó là hành
động cách mạng của mọi tầng lớp nhân dân, trong tất cả các lĩnh vực hoạt
động của đời sống xã hội. Đó là sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố và tăng cường.
Hiện nay, nền quốc phòng vững chắc nhất là nền quốc phòng dựa trên sức
mạnh của thế trận lòng dân. Điều đó yêu cầu mỗi người dân đều góp phần
củng cố quốc phòng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, luôn nâng cao tinh thần
trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
Xây dựng nền QPTD, toàn diện luôn gắn với độc lập, tự chủ, tự lực, tự
cường và ngày càng hiện đại một yêu cầu cấp bách hiện nay. Đó là nền quốc
phòng dựa vào sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, phát huy sức mạnh “nội
lực” là chính. Trên cơ sở lộ trình thích hợp, hiện đại hoá nền QPTD cả về
con người và vũ khí trang bị, vật chất và tinh thần, cơ cấu tổ chức và khoa
học công nghệ. Nhưng cơ bản nhất vẫn là nâng cao chất lượng nhân tố con
người, trong đó có tính TCCT-XH của nhân dân trong xây dựng nền QPTD.

Xây dựng nền QPTD ở nước ta còn mang tính chất tự vệ tích cực. Đó là
quá trình xây dựng và củng cố các tiềm lực của nền quốc phòng nước ta:
chính trị - tinh thần, kinh tế, khoa học công nghệ, quân sự. Xây dựng thế trận


22
QPTD vững chắc, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân
vững mạnh làm nòng cốt, đủ sức ngăn ngừa chiến tranh và đáp ứng mọi
phương thức chiến tranh, sẵn sàng đánh bại mọi hành động xâm lược và bạo
loạn lật đổ của các thế lực đế quốc và phản động, giữ vững hoà bình, ổn định
chính trị, xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong mọi tình
huống.
Từ những nội dung cơ bản trên đòi hỏi các cấp, các ngành, địa phương
luôn quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, cụ thể hoá quan điểm của Đảng, chủ động, tích cực xây dựng địa
phương mình góp phần cùng cả nước tạo lập nền QPTD vững mạnh toàn diện.
Những đặc điểm của tỉnh Lâm Đồng tác động đến xây dựng nền
quốc phòng toàn dân hiện nay:
Về tự nhiên: Lâm Đồng là một tỉnh nằm ở phía Nam Tây Nguyên, diện
tích khoảng 9.764km2, phía Bắc giáp tỉnh Đắc Lắc, Đắc Nông, phía Đông
giáp tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, phía Tây giáp tỉnh Bình Phước, Đồng Nai.
Lâm Đồng có 12 đơn vị hành chính: Thành phố Đà Lạt, Thị xã Bảo Lộc và 10
huyện (Đơn Dương, Đức Trọng, Di Linh, Lạc Dương, Đam Rông, Đạ Huoai,
Đạ Tẻh, Cát Tiên, Bảo Lâm, Lâm Hà). Địa hình của Lâm Đồng hầu hết nằm ở
phía Nam dãy Trường Sơn, có độ cao trung bình từ 1000 - 1500 m. Vị trí và
địa hình của tỉnh Lâm Đồng rất có giá trị trong xây dựng thế trận QPTD, nhất
là khu vực xây dựng khu vực phòng thủ, căn cứ chiến đấu của lực lượng vũ
trang địa phương tạo lập thế trận chiến tranh nhân dân.
Tuy nhiên, địa hình rừng núi gây nhiều khó khăn cho việc bố trí và cơ
động lực lượng. Nằm ở khu vực có lượng mưa tương đối lớn, độ ẩm cao, có

ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng xây dựng các công trình quân sự, công sự
trận địa, hầm hào dễ bị sụt lở. Mạng lưới đường giao thông nội địa ở một số
huyện miền núi như Lâm Hà, Bảo Lâm, Lạc Dương đang xuống cấp, gây cản
trở quá trình cơ động lực lượng trong tác chiến. Về mùa khô thiếu nước, nhất


23
là ở vùng núi cao. Đặc điểm này đòi hỏi các cấp uỷ đảng, chính quyền địa
phương trong lãnh đạo và chỉ đạo phải chủ động phối hợp chặt chẽ các mặt
công tác, phát huy tinh thần trách nhiệm, tính tích cực, sáng tạo của các lực
lượng, tìm ra giải pháp khắc phục khó khăn về địa hình, thời tiết để tiến hành
có hiệu quả công tác xây dựng nền QPTD ở địa phương.
Về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội: Đảng bộ và nhân dân tỉnh Lâm
Đồng vốn có truyền thống kiên cường, bất khuất trong các cuộc kháng chiến
chống giặc ngoại xâm trước đây. Trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay, dưới sự lãnh đạo
của Đảng và Nhà nước ta, cùng với sự nỗ lực, cố gắng của Đảng bộ, chính
quyền và nhân dân toàn tỉnh, Lâm Đồng đã thu được những thành tựu to lớn.
Từ năm 2000 đến nay, thu nhập bình quân đầu người tăng, sản phẩm quốc nội
của tỉnh tăng 10,7%/năm, cao hơn mức bình quân cả nước. Tình hình chính trị
cơ bản ổn định, kinh tế từng bước phát triển, đời sống nhân dân ngày càng
được cải thiện. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc huy động tiềm lực vật chất,
tinh thần cho quá trình xây dựng nền QPTD của địa phương.
Nhưng Lâm Đồng vẫn còn là một tỉnh nghèo, kém phát triển so với các
tỉnh trong khu vực, tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng
của địa phương, cơ sở hạ tầng xã hội còn thấp kém. Trình độ dân trí nhìn
chung còn thấp so với cả nước, đời sống của nhân dân các dân tộc thiểu số có
nhiều khó khăn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế mới chất lượng
giáo dục và đào tạo còn thấp, công tác chăm sóc sức khỏe cho đồng bào gặp
nhiều khó khăn. Những vấn đề trên đã gây khó khăn cho quá trình lãnh đạo,

chỉ đạo, tổ chức công tác xây dựng nền QPTD ở địa phương.
Về dân tộc, tôn giáo: Dân số tỉnh Lâm Đồng có 1.124.784 người, với
gần 40 dân tộc, trong đó các dân tộc thiểu số chiếm 23% dân số toàn tỉnh và
cư trú tại 95/143 xã, phường, thị trấn. Mật độ dân số của tỉnh Lâm Đồng là


24
187 người/ km2, nhưng phân bố dân cư không đều, tập trung chủ yếu ở thành
phố, thị xã, trung tâm huyện lỵ, còn các huyện vùng dân tộc, miền núi có nơi
chỉ có 17 người/km2[8, tr1]. Vấn đề di dân tự do đến Lâm Đồng có xu hướng
ngày càng gia tăng. Giữa các dân tộc có mối quan hệ gắn bó, đoàn kết tương
trợ, sống bình đẳng hoà thuận với nhau. Nhưng trình độ phát triển kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội giữa các dân tộc, các vùng có sự chênh lệch lớn và
nguy cơ còn giãn ra thêm. Ngôn ngữ, tập quán, phong tục và sắc thái văn hoá
các dân tộc cũng khác nhau.
Theo số liệu gần đây, tỉnh Lâm Đồng có 4 tôn giáo được Nhà nước
công nhận tư cách pháp nhân đang hoạt động. Đó là Phật giáo, Công giáo, Tin
Lành và Cao Đài. Tổng số tín đồ là 650.000 người, chiếm gần 60% dân số,
trong đó Phật giáo 310.000 người, Công giáo 260.000 người, Cao Đài 11.000
người, Tin Lành 68.550 người[8, tr.1]. Phần nhiều tín đồ các tôn giáo là nông
dân và các tầng lớp lao động, đồng bào các dân tộc thiểu số, các tín đồ tôn
giáo sống ở các địa phương trong toàn tỉnh. Tình hình đó đặt ra cho công tác
xây dựng nền QPTD phải có những nội dung, cách thức phù hợp, nhằm phát
huy tinh thần đoàn kết của các dân tộc, tôn giáo, đập tan những âm mưu, thủ
đoạn của các lực lượng thù địch chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc ở tỉnh
Lâm Đồng.
Những âm mưu, thủ đoạn phá hoại của các lực lượng thù địch ở tỉnh
Lâm Đồng hiện nay: Âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các lực
lượng thù địch trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng là sử dụng tổng hợp những biện
pháp phá hoại về kinh tế, chính trị, quân sự, văn hoá, an ninh trật tự, an toàn

xã hội. Chúng thường lợi dụng trình độ dân trí thấp, đời sống kinh tế của nhân
dân khó khăn, bằng các thủ đoạn lừa gạt về tinh thần, mua chuộc bằng kinh tế
và lén lút vận động đồng bào theo tôn giáo trái pháp luật. Các lực lượng thù
địch còn xúc tiến việc lối kéo, mua chuộc cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cơ


25
sở là người dân tộc thiểu số. Lợi dụng tình trạng tiêu cực, tham nhũng của
một số cán bộ thoái hoá, biến chất và chủ trương chống tham nhũng của Đảng
và Nhà nước ta để kích động gây mất trật tự trị an. Lợi dụng sự khác nhau về
phong tục, tập quán, tín ngưỡng tôn giáo để chia rẽ sự đoàn kết, gây mâu
thuẫn giữa đồng bào các dân tộc, các tôn giáo với nhau. Bên cạnh đó chúng
còn lợi dụng danh nghĩa du lịch, hợp tác kinh tế, hoạt động nhân đạo để thâm
nhập vào vùng sâu, vùng xa, tuyên truyền, móc nối chỉ đạo các lực lượng
ngụy quân, ngụy quyền có thái độ thù địch hoạt động chống phá ta.
Do vậy, công tác xây dựng nền QPTD ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay một
mặt phải thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ phòng chống “diễn biến hoà bình”,
mặt khác, phải chủ động để ứng phó thắng lợi các tình huống phức tạp khác
có thể xảy ra, giữ vững ổn định chính trị, an ninh trật tự ở địa phương.
Những đặc điểm trên là cơ sở thực tiễn để xác định nội dung, nhiệm
vụ, phương thức xây dựng nền QPTD ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay.
Nội dung xây dựng nền QPTD ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay:
Căn cứ vào nội dung xây dựng nền QPTD ở nước ta, căn cứ vào
phương hướng, yêu cầu xây dựng nền QPTD mà Đại hội đại biểu Đảng
bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ VIII và Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân sự tỉnh
Lâm Đồng khoá IX nhiệm kỳ 2005-2010 đã xác định. Công tác xây dựng
nền QPTD ở tỉnh Lâm Đồng hiện nay có những nội dung cụ thể sau đây:
Về xây dựng thế trận QPTD: Thường xuyên nắm vững quan điểm,
đường lối chính trị, quân sự của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của
toàn Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Lâm Đồng xây dựng thế trận

QPTD. Nội dung trọng tâm là xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, huyện
vững chắc về chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng và an ninh.
Về xây dựng lực lượng QPTD: Không ngừng chăm lo xây dựng lực
lượng dân quân, tự vệ, dự bị động viên và bộ đội địa phương tỉnh Lâm


26
Đồng vững mạnh toàn diện. Thực hiện chế độ tuyển quân hàng năm đạt yêu
cầu cả về số lượng và chất lượng. Thực hiện tốt chính sách của Đảng, Nhà
nước về xây dựng QPTD và chính sách hậu phương quân đội. Đầu tư ngân
sách địa phương cho quốc phòng, từng bước tạo điều kiện cải thiện và nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của lực lượng vũ trang và bán vũ trang,
đảm bảo sẵn sàng chiến đấu.
Về xây dựng cơ sở chính trị - xã hội của nền QPTD: Nâng cao chất lượng
công tác giáo dục quốc phòng cho các tầng lớp nhân dân, trước hết là đội ngũ
cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang, thanh niên và học sinh. Nâng cao ý chí
cách mạng của nhân dân, nhận thức rõ âm mưu chiến lược “diễn biến hoà bình”
của các thế lực thù địch. Xây dựng cơ sở chính trị - xã hội của nền QPTD vững
mạnh, trước hết là tổ chức cơ sở đảng và lực lượng chính trị ở địa bàn dễ phát
sinh điểm nóng, không để bị động, bất ngờ.
Về xây dựng các tiềm lực của nền QPTD: Thực hiện tốt nhiệm vụ kết
hợp phát triển kinh tế - xã hội với xây dựng các tiềm lực của nền QPTD và
giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Tổ chức cho
nhân dân chủ động phòng chống âm mưu “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật
đổ của các lực lượng thù địch có hiệu quả.
*Những biểu hiện tính TCCT-XH của thanh niên tỉnh Lâm Đồng
trong xây dựng nền QPTD hiện nay
Theo số liệu chính thức của Tỉnh Đoàn Lâm Đồng, đến tháng 3 năm
2006 toàn tỉnh có 246.810 thanh niên từ 15 đến 35 tuổi; trong đó có 71.916
đoàn viên. Về cơ cấu, thanh niên nông thôn và đường phố chiếm 60%, thanh

niên công nhân viên chức chiếm 22,9%, thanh niên là học sinh, sinh viên
16,6%, thanh niên là lực lượng vũ trang thường trực 0,5%, thanh niên là
người dân tộc thiểu số và tôn giáo chiếm 25%. Tổng số thanh niên chiếm
khoảng 30% dân số, trên 50% lực lượng lao động toàn tỉnh[5, tr.1].


27
Thanh niên tỉnh Lâm Đồng là lực lượng xã hội hùng hậu, lực lượng chủ
yếu trong các cuộc vận động xã hội, các chương trình hành động cách mạng
và là lực lượng tham gia tích cực vào chương trình phát triển kinh tế, xã hội
của địa phương. Đồng thời, thanh niên tỉnh Lâm Đồng cũng là lực lượng cơ
bản tham gia các hoạt động xây dựng lực lượng, thế trận quốc phòng, an ninh,
xây dựng nền QPTD của tỉnh ngày càng vững mạnh.
Từ những nội dung lý luận về tính TCCT-XH và đặc điểm, nội dung
xây dựng nền QPTD ở tỉnh Lâm Đồng đã trình bày ở trên, có thể đi đến quan
niệm về tính TCCT-XH của thanh niên tỉnh Lâm Đồng trong xây dựng nền
QPTD hiện nay như sau:
Tính TCCT-XH của thanh niên tỉnh Lâm Đồng trong xây dựng nền
QPTD là tổng hợp những phẩm chất chính trị - xã hội, biểu hiện ý thức
và hành động tích cực, chủ động, tự giác, sáng tạo trong học tập, rèn
luyện, công tác, nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của người đoàn
viên, thanh niên, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng nền QPTD tỉnh
Lâm Đồng vững mạnh; góp phần xây dựng nền QPTD của cả nước, xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tính TCCT-XH của thanh niên tỉnh Lâm Đồng trong xây dựng nền
QPTD hiện nay được biểu hiện ở những nội dung chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, thường xuyên quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của
Đảng, pháp luật của Nhà nước ta về xây dựng nền QPTD trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay.
Đây là biểu hiện bản chất nhất tính TCCT-XH của thanh niên tỉnh Lâm

Đồng trong xây dựng nền QPTD hiện nay. Sự quán triệt sâu sắc quan điểm,
đường lối của Đảng thể hiện ở các nội dung sau đây:


×