Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ LỊCH sử DẢNG ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM LÃNH đạo kết hợp QUỐC PHÒNG với KINH tế TRONG CÔNG CUỘC đổi mới GIAI đoàn từ 1991 đến 2001

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.17 KB, 107 trang )

-3-

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc
ta trong mấy nghìn năm lịch sử. Trong công cuộc đổi mới, quy luật đó được biểu
hiện tập trung ở hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam XHCN. kết hợp QP với KT là một dạng thức của việc kết
hợp hai nhiệm vụ chiến lược, là điều kiện bảo đảm thực hiện thắng lợi hai nhiệm
vụ đó trên thực tế. Đó là chủ trương đúng đắn và nhất quán của Đảng, Nhà nước
ta. Thực hiện chủ trương đó trên phạm vi cả nước đã triển khai nhiều hình thức
hoạt động phong phú, mang lại những kết quả quan trọng, góp phần giữ vững ổn
định chính trị - xã hội, kinh tế phát triển, quốc phòng được củng cố vững chắc.
Đây là một thành tựu nổi bật trong thắng lợi chung của những năm đổi mới từ
1991 đến 2001 trên đất nước ta.
Tình hình thế giới những năm từ 1991 đến 2001 diễn biến phức tạp,
CNXH tạm thời lâm vào thoái trào. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát
triển với trình độ ngày càng cao, tác động sâu sắc tới mọi mặt đời sống xã hội,
đặc biệt về khoa học công nghệ quân sự và vũ khí trang bị hiện đại. Các mâu
thuẫn của thời đại vẫn tồn tại và phát triển, có mặt còn sâu sắc hơn. Nguy cơ
chiến tranh thế giới huỷ diệt bị đẩy lùi, nhưng những cuộc xung đột vũ trang,
chiến tranh cục bộ, xung đột sắc tộc, dân tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp lật
đổ, khủng bố diễn ra khắp nơi. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đẩy
mạnh chiến lược “Diễn biến hoà bình” kết hợp bạo loạn lật đổ nhằm xoá bỏ
các Đảng Cộng sản và các nước XHCN còn lại. Việt Nam được chúng xác
định là một trọng điểm chống phá, nhằm xoá bỏ CNXH và sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực hiện mục tiêu trên, các thế lực thù địch tăng
cường chống phá cách mạng Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh
tế, văn hoá - xã hội, quốc phòng - an ninh… Trên lĩnh vực kinh tế, chúng lợi



-4-

dụng con đường đầu tư, hợp tác, liên doanh, cổ vũ phát triển kinh tế tư nhân,
khoét sâu mặt trái kinh tế thị trường làm cho ta rối loạn về kinh tế, tìm cớ can
thiệp sâu hơn vào công việc nội bộ của ta, hướng ta đi theo con đường tư bản
chủ nghĩa. Về quốc phòng, các thế lực thù địch thực hiện âm mưu “phi chính
trị hoá” quân đội, tách quân đội khỏi sự lãnh đạo của Đảng, nuôi dưỡng các
lực lượng người Việt Nam phản động ở nước ngoài, kết hợp các hoạt động
tình báo gián điệp, tạo dựng lực lượng phản cách mạng tìm cách xâm nhập về
nước phá hoại công cuộc hoà bình của nhân dân ta.
Trong điều kiện mới, cách mạng Việt Nam đứng trước những cơ hội
lớn, hoà bình, hợp tác, phát triển đang trở thành xu thế của nhiều quốc gia
trên thế giới. Tuy vậy, chúng ta đang phải đối mặt với những thách thức
không thể xem thường, bốn nguy cơ lớn của cách mạng Việt Nam còn tồn
tại, không thể khắc phục trong thời gian ngắn. Thực tế đó đặt ra yêu cầu
cấp thiết đẩy mạnh phát triển kinh tế đi đôi với củng cố quốc phòng, bảo
đảm sự phát triển ổn định bền vững.
Những năm vừa qua, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được,
chúng ta còn những hạn chế trong thực hiện chủ trương kết hợp QP với KT
của Đảng, không ít người trong xã hội chưa nhận thức đầy đủ vai trò của sự
kết hợp đó, còn mơ hồ, mất cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn chống phá của
các thế lực thù địch… Do đó, cần nghiên cứu quá trình Đảng lãnh đạo, chỉ
đạo kết hợp QP với KT, rút ra những bài học kinh nghiệm nhằm quán triệt sâu
sắc hơn nữa quan điểm của Đảng ta về kết hợp QP với KT trong tình hình
cách mạng hiện nay, thống nhất quan điểm tư tưởng, tiếp tục nâng cao trách
nhiệm và năng lực tổ chức triển khai kết hợp QP với KT trong sự nghiệp xây
dựng và BVTQ ở nước ta đạt kết quả cao hơn. Bởi vậy, tác giả chọn đề tài
“Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo kết hợp quốc phòng với kinh tế



-5-

trong công cuộc đổi mới từ 1991 đến 2001” làm luận văn thạc sĩ lịch sử,
chuyên ngành lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.


-6-

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề kết hợp QP với KT ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu ở
các góc độ khác nhau như: Cuốn “Kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế trong
tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” của Nguyễn Văn Rinh, Nxb
QĐND, H.2003; cuốn “Mấy vấn đề đảm bảo kinh tế cho quốc phòng ở nước ta
hiện nay” của Nguyễn Đường - Nguyễn Anh Bắc, Nxb QĐND, H.1986; đề tài:
“Những vấn đề kinh tế quân sự cơ bản và cấp bách ở nước ta hiện nay” (Đề tài cấp
học viện) do tiến sĩ Nguyễn Ngọc Hồi chủ nhiệm đề tài, hoàn thành năm 1998.
Những cuốn sách và đề tài nêu trên đã đề cập đến những luận điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa kinh tế với chiến tranh và
quân đội; làm rõ những vấn đề có tính quy luật về kinh tế quân sự, xây dựng tiềm
lực kinh tế quân sự và đảm bảo kinh tế cho quốc phòng ở nước ta, nhằm thực hiện
thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng là xây dựng và BVTQ Việt Nam
XHCN. Đồng thời, khẳng định vai trò của quân đội, lực lượng nòng cốt tham gia
xây dựng và phát triển kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh trên các địa bàn
chiến lược. Nhiệm vụ đó là sự cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII; IX của Đảng, và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quân lần thứ VII, về
việc kết hợp QP với KT trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà
nước ta.
Các bài viết và bài báo khoa học như: “5 năm thực hiện Nghị định 19/CP
của Chính phủ về công tác quốc phòng ở các bộ, ngành và địa phương - kết quả và
phương hướng” của Lê Văn Dũng, Tạp chí QPTD, số 5/2000; “Đổi mới kết hợp

kinh tế với quốc phòng” của Vũ Quang Lộc, Tạp chí QPTD, số 3/1994; “Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và sự nghiệp quốc phòng, an ninh” của Đoàn Chương, Tạp
chí QPTD, số 10/1995; “Quan điểm của Đảng về kết hợp quốc phòng, an ninh với
kinh tế trong công cuộc đổi mới” của Nguyễn Hữu Luận, Tạp chí GDLLCT,
HVCTQS, số 3 (61) 2000; “Kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh ở một huyện


-7-

miền núi Tây Nguyên” của Nguyễn Dũng, Tạp chí QPTD, số 10/2000; “Xây dựng
khu kinh tế - quốc phòng, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc
phòng, an ninh trên những địa bàn chiến lược của Tổ quốc hiện nay” của Trương
Tuấn Biểu, Tạp chí GDLLCT, HVCTQS, số 1(65) 2000; “Giáo dục quốc phòng
góp phần xây dựng tiềm lực tinh thần trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa ngày nay” của Đồng Xuân Quách, Tạp chí QPTD, số 4/2003. Các bài viết
trên đã đề cập về tính tất yếu khách quan phải kết hợp QP với KT trong công cuộc
đổi mới ở nước ta và những yêu cầu mới của sự nghiệp CNH,HĐH đất nước đặt ra
cho quốc phòng, an ninh. Để đảm bảo phát triển bền vững đúng định hướng
XHCN, kết hợp QP với KT phải trở thành một quan điểm trong phương hướng
phát triển; khẳng định chủ trương đó trên thực tế cũng như kết quả đã đạt được.
Đồng thời, đề xuất các giải pháp về đổi mới cơ chế, chính sách để gắn lợi ích và
trách nhiệm của các cấp, các ngành, các thành phần kinh tế trong việc kết hợp QP
với KT. Ngoài ra các bài viết còn đề cập quân đội thực hiện kết hợp QP với KT
bằng xây dựng các khu KT - QP, kết quả đạt được và những yêu cầu đặt ra. Khẳng
định vai trò của công tác quốc phòng và nhiệm vụ giáo dục quốc phòng, đánh giá
những thành tựu, hạn chế và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xây
dựng nền QPTD và nhiệm vụ giáo dục quốc phòng trong giai đoạn mới của cách
mạng.
Các luận văn, luận án có liên quan như: “Kết hợp công nghiệp quốc
phòng với công nghiệp dân dụng ở nước ta hiện nay” luận án tiến sĩ kinh tế của

Trần Đăng Bộ, HVCTQG Hồ Chí Minh, H.1999; “Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa từ 1986 đến 1996” luận án tiến sĩ lịch sử của Đặng Bá Minh, HVCTQG
Hồ Chí Minh, H.2002; “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa từ 1986 đến 2001” luận án tiến sĩ lịch sử của Nguyễn Hữu
Luận, HVCTQG Hồ Chí Minh, H.2004. Những lận án trên đã đề cập đến những
chủ trương của Đảng về kết hợp QP với KT trong ngành công nghiệp thông qua


-8-

sự kết hợp giữa CNQP với công nghiệp dân dụng, đồng thời khẳng định chủ
trương đó là sự biểu hiện trên thực tế của hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và
BVTQ XHCN, có mối quan hệ biện chứng tác động lẫn nhau và kết hợp QP với
KT là một quan điểm trong chiến lược BVTQ Việt Nam XHCN.
Nhìn chung, những tài liệu trên đã cung cấp nhiều thông tin phong phú
cả về lý luận và thực tiễn về kết hợp QP với KT trong công cuộc đổi mới. Tuy
nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về “Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo kết hợp quốc phòng với kinh tế trong công cuộc
đổi mới từ 1991 đến 2001” dưới góc độ khoa học lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam. Nhưng những công trình, bài báo và các luận án nêu trên là nguồn tài
liệu tham khảo có giá trị cho luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
Mục đích
Thông qua trình bày có hệ thống cơ sở lý luận, thực tiễn và đường lối,
sự chỉ đạo cũng như kết quả lãnh đạo của Đảng ta đối với việc thực hiện kết
hợp QP với KT từ 1991 đến 2001, rút ra một số kinh nghiệm, qua đó làm nổi
bật tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng trong lãnh đạo công cuộc đổi
mới nói chung, kết hợp QP với KT nói riêng, góp phần củng cố lòng tin của
nhân dân ta vào sự lãnh đạo của Đảng.

Nhiệm vụ
- Làm sáng tỏ việc thực hiện kết hợp QP với KT là yêu cầu khách quan
trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta từ 1991 đến 2001.
- Phân tích, luận giải chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về kết hợp QP
với KT từ 1991 đến 2001.
- Làm rõ thành tựu, hạn chế, nguyên nhân, rút ra một số kinh nghiệm
trong quá trình Đảng lãnh đạo kết hợp QP với KT từ 1991 đến 2001.


-9-

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng
Luận văn nghiên cứu Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo kết hợp QP
với KT là chủ yếu; bên cạnh đó khai thác một số vấn đề về mối quan hệ
ngược lại của sự kết hợp kinh tế với quốc phòng trong công cuộc đổi mới.
Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ giới hạn trong khoảng thời gian từ 1991 đến 2001. Tuy
nhiên, để bảo đảm tính kế thừa có hệ thống luận văn có đề cập đến một số sự
kiện liên quan trước năm 1991 và sau năm 2001.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận văn lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối
quan điểm của Đảng làm cơ sở nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, luận
văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc và kết hợp hai
phương pháp đó, cùng với các phương pháp đồng đại, lịch đại, so sánh, tổng
hợp, chuyên gia, thống kê làm phương pháp nghiên cứu.
6. Ý nghĩa của luận văn

Luận văn góp phần khẳng định tính đúng đắn sáng tạo trong đường lối
đổi mới của Đảng về kết hợp QP với KT từ 1991 đến 2001, cung cấp tư liệu
thực tiễn, cơ sở lý luận, cứ liệu phục vụ công tác lãnh đạo chỉ đạo của Đảng,
các cấp, các ngành trong thực hiện kết hợp QP với KT thời gian tiếp theo đạt
kết quả cao hơn. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu,
giảng dạy môn lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam ở các Học viện, nhà trường
trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của luân văn


- 10 -

Luận văn gồm có phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), phần kết luận và
danh mục tài liệu tham khảo.


- 11 -

Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ KẾT HỢP
QUỐC PHÒNG VỚI KINH TẾ TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
TỪ 1991 ĐẾN 2001
1.1. Chủ trương của Đảng về kết hợp quốc phòng với kinh tế trong
công cuộc đổi mới từ 1991 đến 2001
1.1.1. Kết hợp quốc phòng với kinh tế là yêu cầu khách quan trong
công cuộc đổi mới ở nước ta từ 1991 đến 2001
Kết hợp QP với KT là một hiện tượng xã hội mang tính quy luật, nảy
sinh trong xã hội có giai cấp, Nhà nước, được xuất phát từ chính mối quan hệ
giữa kinh tế với chiến tranh và quân đội, từ yêu cầu thực tiễn phải giải quyết
mối quan hệ giữa xây dựng đất nước và bảo vệ đất nước của mỗi quốc gia.

Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về kết
hợp quốc phòng với kinh tế
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ giữa kinh tế và quốc phòng là hai lĩnh
vực hoạt động khác nhau và tuân theo những quy luật riêng, nhưng giữa
chúng lại luôn có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau để cùng
tồn tại phát triển trong xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp. Trong mối
quan hệ đó, kinh tế bao giờ cũng giữ vai trò quyết định, quốc phòng chịu sự
chi phối và phụ thuộc vào kinh tế, nhưng có tác động tích cực trở lại đối với
kinh tế, bảo vệ và thúc đẩy kinh tế phát triển.
Quốc phòng là tổng thể các hoạt động đối nội, đối ngoại về quân sự
chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học... của Nhà nước và nhân dân để phòng thủ
đất nước, với đặc trưng là sức mạnh quân sự, trong đó sức mạnh của quốc phòng
phụ thuộc chặt chẽ và trước hết vào kinh tế, gồm cả trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất và tính chất xã hội của nền kinh tế, cũng như khả năng huy động
kinh tế cho xây dựng củng cố quốc phòng. Ph.Ăngghen đã khẳng định: "không


- 12 -

có gì lại phụ thuộc vào những tiền đề kinh tế hơn là chính ngay quân đội và hạm
đội" [02, tr.235]. Phát triển kinh tế tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật, của cải cho
xã hội, tạo lập ra cơ sở hạ tầng của xã hội, Chính cơ sở hạ tầng đó là nền tảng,
tiền đề của tiềm lực và sức mạnh của quốc phòng. Do đó, không thể không
xây dựng tiềm lực và sức mạnh quốc phòng từ những tiền đề kinh tế,
V.I.Lênin đã chỉ rõ "Chúng ta chủ trương BVTQ nên chúng ta đòi hỏi phải có
thái độ nghiêm túc đối với vấn đề khả năng quốc phòng và đối với vấn đề
chuẩn bị chiến đấu của nước nhà. Cuộc chiến tranh cách mạng này cần được
chuẩn bị lâu dài, nghiêm túc bắt đầu phát triển kinh tế, tổ chức tốt đường
sắt…" [31, tr.480]. Do đó, không thể có quốc phòng vững mạnh của một nước
nếu không bắt đầu từ việc xây dựng, phát triển kinh tế của nước đó. Tuy

nhiên, không phải cứ có kinh tế mạnh là tự khắc có quốc phòng mạnh, mà
phải thông qua sự kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng một
cách chủ động có ý thức của quá trình phát triển kinh tế với tăng cường đầu tư
cho quốc phòng.
Để bảo vệ thành quả cách mạng XHCN và sự nghiệp xây dựng CNXH,
tất yếu phải chăm lo củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang vững
mạnh. Có thể nói quốc phòng cũng là một hoạt động tất yếu khách quan xuất
hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước. Quốc phòng mạnh tạo ra môi trường
hoà bình, ổn định để phát triển kinh tế, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ
chính quyền và chế độ xã hội XHCN. Do vậy, kinh tế muốn phát triển ổn định
vững chắc thì phải kết hợp QP với KT. Việc đầu tư cho quốc phòng tuy rất
tốn kém nhưng đó là sự cần thiết khách quan.
Nét đặc sắc trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là tư tưởng chiến
tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Để BVTQ, Hồ Chí Minh đã chủ
trương xây dựng nền QPTD, lực lượng vũ trang nhân dân, kết hợp xây dựng
đất nước với bảo vệ đất nước, chuẩn bị mọi mặt cho đất nước sẵn sàng tiến


- 13 -

hành chiến tranh BVTQ thắng lợi. Vì thế Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng với
Đảng ta đề ra đường lối vừa kháng chiến vừa kiến quốc, Người chỉ rõ "Cuộc
kháng chiến lâu dài của chúng ta được thắng lợi là do chúng ta động viên kinh
tế được thành công, vì chúng ta có biết động viên kinh tế một cách khôn
khéo, thực lực của chúng ta mới được đầy đủ và bên bỉ" [33, tr.477]. Trong
Báo cáo Chính trị tại Đại hội lần thứ II của Đảng (1951), Chủ Tịch Hồ Chí
Minh đã nhấn mạnh: "Kháng chiến trường kỳ thì Quân đội phải đủ súng đạn,
quân và dân phải đủ ăn, đủ mặc. Nước ta nghèo, kỹ thuật ta kém, những thành
phố có chút công nghiệp đều bị giặc chiếm. Chúng ta phải dùng tinh thần
hăng hái của toàn dân để tìm cách giải quyết sự thiếu kém về vật chất" [34,

tr.163].
Theo tư tưởng của Người, sức mạnh chiến đấu của quân đội là sức
mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố: vật chất, tinh thần, con người, vũ khí, kỹ
thuật, đạo đức, sức khoẻ, trình độ kỹ thuật, chiến thuật... Trong đó yếu tố con
người, yếu tố chính trị tính thần giữ vai trò quyết định. Đồng thời , Người
cũng nhấn mạnh vai trò không thể thiếu được của lực lượng vật chất, của yếu
tố kinh tế, Người nói "... Nếu chỉ biết đánh không nghĩ đến kinh tế thì hết gạo
sẽ không đánh được. Cho nên đánh là cố nhiên, nhưng không phải là chỉ đánh
thôi mà phải lo cả các mặt khác nữa" [34, tr.523]. Vì thế, Người luôn nhắc
nhở bộ đội phải "Thi đua học tập củng cố quốc phòng, giữ gìn hoà bình
BVTQ, giúp đỡ nhân dân tăng gia sản xuất, làm lực lượng trụ cột cho công
cuộc hoà bình, thống nhất, độc lập dân chủ của nước ta" [35, tr.412].
Hồ Chí Minh cho rằng, chiến tranh nhân dân là cuộc chiến tranh toàn
dân, toàn diện, trường kỳ, lấy sức mình là chính, đồng thời kết hợp chặt chẽ
với sức mạnh thời đại. Đó là cuộc kháng chiến toàn diện diễn ra trên tất cả các
mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá. Vì thế, phải xây dựng quyết tâm
kháng chiến, phải có lực lượng vật chất tinh thần dồi dào, phải có nghệ thuật


- 14 -

chỉ đạo chiến tranh tài giỏi, phải có hậu phương vững mạnh, phải vừa kháng
chiến vừa kiến quốc, vừa xây dựng, phát triển lực lượng... Vì vậy, Người kêu
gọi: "Chiến sĩ ở trước mặt trận thi đua giết giặc lập công thì đồng bào ở hậu
phương phải thi đua tăng gia sản xuất, hậu phương thi đua với tiền phương,
ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà nông là chiến sĩ " [34,
tr.178]. "tay cày tay súng, tay búa tay súng, ra sức phát triển sản xuất để phục
vụ kháng chiến" phát triển kinh tế của ta, phá hoại kinh tế của địch.
Kết hợp QP với KT là hoạt động có mục đích của xã hội trên cơ sở
nhận thức đúng quy luật khách quan, quốc phòng và kinh tế tuy là hai lĩnh

vực khác nhau nhưng thống nhất ở mục đích chung: phát triển kinh tế làm
giàu cho đất nước và xã hội, đồng thời tạo nền tảng vững chắc cho củng cố
quốc phòng. Xây dựng và củng cố quốc phòng có tác dụng trở lại thúc đẩy
kinh tế phát triển, tạo môi trường hoà bình ổn định để xây dựng đất nước. Do
đó, kết hợp QP với KT là tất yếu khách quan. Đó là sự gắn kết hai nhiệm vụ
xây dựng kinh tế với củng cố quốc phòng trong một chiến lược chung thống
nhất, được cụ thể hoá trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, ở cả tầm vĩ mô
và vi mô. Mục đích của sự kết hợp này nhằm đạt được đồng thời cả lợi ích
kinh tế và quốc phòng, không vì lợi ích này mà làm tổn hại đến lợi ích khác,
đảm bảo cho cả kinh tế và quốc phòng đều mạnh.
Kinh nghiệm kết hợp quốc phòng với kinh tế trong lịch sử
Trên thế giới, từ xa xưa, khi xuất hiện chế độ tư hữu, giai cấp và Nhà
nước, loài người đã thống nhất việc chế tạo công cụ lao động với việc sản
xuất vũ khí nhằm trang bị cho những tập đoàn người vũ trang để tiến hành các
cuộc chiến tranh và chiến tranh tự vệ. Cùng với sự phát triển của lực lượng
sản xuất, các cuộc chiến tranh cũng ngày càng mở rộng về quy mô, nó đã thu
hút vào đó ngày càng nhiều hơn lực lượng vật chất của các nước tham chiến.
Do đó, yêu cầu khách quan đòi hỏi các quốc gia độc lập có chủ quyền, dù


- 15 -

kinh tế phát triển hay kém phát triển đều phải thực hiện kết hợp QP với KT và
nó trở thành vấn đề có tính quy luật.
Ở nước ta kết hợp QP với KT luôn gắn liền với quá trình dựng nước
đi đôi với giữ nước của dân tộc qua mấy nghìn năm lịch sử. Đứng trước nguy
cơ thường xuyên bị phong kiến phương Bắc xâm lược, ông cha ta đã giương
cao ngọn cờ độc lập dân tộc, thực hiện kết hợp QP với KT, với tư tưởng muốn
“thủ quốc” phải "Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc". Trong thời
bình ông cha ta đã chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc nhằm

xây dựng "thế trận lòng dân" để "yên dân" mà "vẹn đất" và phát triển kinh
tế, đi đôi với chăm lo củng cố thế trận phòng thủ, xây dựng tiềm lực và
thực lực quân sự với quan điểm "ngụ binh ư nông"; "động vi binh, tịnh vi
dân" . Trong xây dựng kinh tế đã khai hoang lập ấp ở những nơi xung yếu
để "phục binh sẵn, phá thế giặc dữ" từ xa, phát triển nghề thủ công vừa sản
xuất công cụ sản xuất vừa sản xuất vũ khí cho toàn dân đánh giặc, mở
mang đường xá, đào sông ngòi, kênh rạch, xây đắp đề điều để vừa phát
triển kinh tế, vừa tạo thế trận đánh giặc và cơ động lực lượng trong chiến
tranh BVTQ. Khi có chiến tranh xảy ra đã huy động được sức người, sức
của, từ làng, xã, huyện, tỉnh cho đến cả nước để tiến hành chiến tranh nhân
dân rộng khắp với "thế trận làng - nước", "cả nước đánh giặc".
Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, dưới
sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chúng ta thực hiện chủ trương
"vừa kháng chiến vừa kiến quốc" "thực hiện kháng chiến để kiến quốc, kiến quốc
để kháng chiến". Ở vùng tự do, chúng ta đã xây dựng một số xí nghiệp công
nghiệp vừa sản xuất phục vụ dân sự vừa sản xuất phục vụ nhu cầu của cuộc
kháng chiến; nhiều nghề thủ công được phát triển vừa sản xuất công cụ lao động,
vừa sản xuất vũ khí trang bị cho nhân dân đánh giặc, thực hiện khẩu hiệu "giặc


- 16 -

đến thì đánh, giặc đi thì tăng gia sản xuất", "toàn dân đánh giặc toàn diện đánh
giặc". Việc tiến hành giảm tô, cải cách ruộng đất, thực hiện người cày có ruộng
đã tạo ra sức sản xuất mới ở nông thôn, góp phần quan trọng cho việc huy động
sức người, sức của ngày càng lớn cho cuộc kháng chiến giành được thắng lợi.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và tiến hành cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam, Đảng ta đã lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh công cuộc
xây dựng CNXH ở miền Bắc, bước đầu xây dựng chế độ mới, nền kinh tế
mới, nền văn hoá mới, với một hệ thống giá trị mới, phản ánh bản chất ưu việt

của CNXH, kinh tế phát triển toàn diện, lực lượng sản xuất được tạo lập cùng
với quan hệ sản xuất tiên tiến, đời sống nhân dân được nâng cao, quốc phòng
được tăng cường vững mạnh. Miền Bắc trở thành nhân tố quyết định đối với
cách mạng cả nước, hậu phương vững chắc của cách mạng ở miền Nam. Miền
Bắc đã chi viện đắc lực sức người, sức của cho miền Nam đánh thắng hoàn
toàn đế quốc Mỹ xâm lược. Điều đó càng khẳng định chủ trương “vừa kháng
chiến, vừa kiến quốc” của Đảng là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp.
Từ 1975 đến 1991, cả nước độc lập thống nhất và quá độ đi lên CNXH,
việc thực hiện kết hợp QP với KT được Đảng ta khẳng định là một nội dung
rất quan trọng trong đường lối xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN và đã
được triển khai trên quy mô rộng lớn và toàn diện hơn. Nhất là từ 1986 đến
1991 với tư duy mới về kinh tế và quốc phòng, việc kết hợp QP với KT trên
phạm vi cả nước cũng như ở các bộ ngành Trung ương và ở các địa phương
có bước chuyển biến và đạt nhiều kết quả.
Nhìn lại suốt chiều dài lịch sử qua các thời kỳ ở nước ta có thể khẳng
định: Nhờ chính sách nhất quán về thực hiện kết hợp QP với KT nên mọi tiềm
năng của đất nước đều được huy động cho xây dựng phát triển kinh tế, củng
cố tiềm lực, thế trận QPTD vững mạnh từ trong thời bình, và khi đất nước bị
xâm lược đã động viên được sức mạnh tổng hợp lớn nhất đánh bại các đội
quân xâm lược trong những điều kiện lịch sử khác nhau. Đó là quy luật tồn tại


- 17 -

và phát triển của dân tộc Việt Nam. Bài học quý giá đó, được Đảng ta vận
dụng và phát triển đến đỉnh cao trong thời đại mới.
Tình hình thế giới, trong nước và những vấn đề đặt ra liên quan đến
kết hợp quốc phòng với kinh tế trong công cuộc đổi mới từ 1991 đến 2001
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ có sự phát triển nhanh, sâu rộng
mang tính toàn cầu tác động sâu sắc tới lĩnh vực quân sự, xuất hiện các loại

vũ khí công nghệ cao, các loại hình chiến tranh hiện đại.
Chế độ XHCN ở các nước Đông Âu, Liên Xô sụp đổ, CNXH tạm thời
lâm vào thoái trào, tương quan lực lượng nghiêng về chủ nghĩa đế quốc. Tuy
vậy, thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH
trên toàn thế giới. Những mâu thuẫn cơ bản vẫn tồn tại và biểu hiện sâu sắc
phức tạp, đa dạng hơn. Chiến tranh lạnh kết thúc, Châu Âu bị đảo lộn, Châu
Á - Thái Bình Dương là vùng kinh tế phát triển năng động, trong đó Trung
Quốc có vai trò ngày càng lớn. Các nước ASEAN đã thể hiện được tính độc
lập, tự chủ, trong mối quan hệ quốc tế, đến trước năm 1996 đã từng là khu
vực phát triển năng động, có tốc độ tăng trưởng cao, Tuy nhiên trong từng
nước đều có những vấn đề về tôn giáo, sắc tộc, lãnh thổ, tranh chấp chủ quyền
Biển Đông giữa một số nước với Trung Quốc và sự can thiệp trực tiếp của
Mỹ vào từng nước. Do khủng hoảng tài chính - tiền tệ (7/1997) tiềm lực kinh
tế của ASEAN giảm sút, bộc lộ những hạn chế do phụ thuộc quá nhiều vào
bên ngoài về vốn, công nghệ, thị trường ở mức độ khác nhau. Sau đó các
nước ASEAN đã từng bước đi vào ổn định, nền kinh tế một số nước đã có
tăng trưởng. Tuy nhiên, khu vực Đông Nam Á vẫn còn tồn tại nhiều nhân tố
có thể dẫn tới sự mất ổn định về chính trị, quân sự. Song, xu thế chung là giải
quyết các tranh chấp, các mâu thuẫn thông qua thương lượng, đàm phán nhằm
duy trì hoà bình, ổn định trong khu vực và hợp tác cùng phát triển.


- 18 -

Quan hệ quốc tế vận động theo xu thế chung là hoà bình, độc lập và
phát triển. Nhưng những biến động phức tạp của tình hình thế giới, sự gia
tăng "áp đặt toàn cầu" của chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ đang
uy hiếp nghiêm trọng hoà bình, độc lập của các dân tộc, sự ổn định và phát
triển của các khu vực. Sau khi các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô tan
dã, chúng đã chuyển trọng tâm chống phá các nước XHCN còn lại trên thế

giới, trong đó chúng coi Việt Nam là một trọng điểm. Âm mưu cơ bản, lâu dài
của các thế lực phản động là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và
chế độ XHCN ở Việt Nam, thủ tiêu nền độc lập dân tộc, chuyển hoá nước ta
theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Đồng thời chúng còn tìm cách chia rẽ Việt
Nam với các nước láng giềng và các nước bạn hữu trên thế giới.
Thực hiện âm mưu trên, các thế lực thù địch áp dụng các thủ đoạn tổng
hợp, kết hợp "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ và răn đe quân sự, trong đó
lấy "diễn biến hoà bình" kết hợp bạo loạn lật đổ làm thủ đoạn chính. Từ khi
quan hệ ngoại giao Việt Nam - Hoa Kỳ được ký kết (tháng 7 năm 1995)
chúng triệt để lợi dụng sự hiện diện "phi quân sự" để đẩy mạnh "diễn biến hòa
bình" với các chiến lược "phá rã niềm tin", "khoét sâu nội bộ", "ngoại giao
thân thiện", "chi phối đầu tư" hòng xoá bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam. Mỹ là
quốc gia có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn, chưa từ bỏ âm mưu xâm lược Việt
Nam, nhưng trước mắt Mỹ bình thường hoá quan hệ với Việt Nam vì lợi ích
của Mỹ. Trong điều kiện đó Mỹ vừa là đối tác vừa là đối tượng của cách
mạng nước ta. Trong những năm đổi mới, chúng liên tục chống phá cách
mạng nước ta trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá,
quốc phòng, an ninh. Âm mưu của chúng là nhanh chóng chiếm lĩnh thị
trường, khống chế về kinh tế, thúc đẩy quá trình "tư nhân hoá" "tư bản hoá"
nền kinh tế đất nước, kết hợp với tăng cường chống phá về chính trị, văn hoá,
lối sống, tình báo gián điệp, đồng thời tạo dựng lực lượng chống đối và sử


- 19 -

dụng lực lượng phản động người Việt Nam ở trong nước và lưu vong ở nước
ngoài xâm nhập về hòng gây bạo loạn lật đổ chính quyền. Đồng thời chúng
tiếp tục chuẩn bị lực lượng quân sự, khôi phục và tăng cường khối liên minh
quân sự giữa Mỹ và một số thế lực chống cộng ở khu vực Đông Nam Á. Mặt
khác, biên giới và lãnh hải của Tổ quốc luôn bị đe doạ xâm phạm, nhất là ở

Biển Đông và quần đảo Trường Sa, làm cho chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng
đối phó với các tình huống "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ kết hợp với
can thiệp bằng lực lượng vũ trang từ bên ngoài, đồng thời cần đề phòng có thể
xảy ra các tình huống xung đột vũ trang ở vùng biển, hải đảo, vùng biên giới
của Tổ quốc và sẵn sàng đối phó với các tình huống phức tạp khác có thể xảy
ra.
Về quốc phòng, mục tiêu của chúng là thực hiện âm mưu "phi chính trị
hoá" tiến tới vô hiệu hoá các lực lượng vũ trang nhân dân ta. Bên cạnh đó,
thông qua liên kết, liên doanh để tìm mọi cách kìm hãm, ngăn cản sự nghiệp
xây dựng tiềm lực, thế trận QPTD của ta. Chúng đặc biệt coi trọng việc tuyên
truyền gây mất cảnh giác cách mạng, mơ hồ giai cấp và đấu tranh giai cấp
trong đảng viên, cán bộ các cấp và nhân dân ta, bằng nhiều thủ đoạn tinh vi,
đưa ra nhiều lý lẽ về nhu cầu tiên quyết của một nền kinh tế hiện đại, để qua
việc làm ăn kinh tế với ta tìm mọi cách đứng chân được ở những địa bàn xung
yếu, có ý nghĩa chiến lược trong thế trận phòng thủ đất nước của ta như: sân
bay, bến cảng, đầu các tuyến giao thông quan trọng, các điểm cao khống chế.
Ngoài Mỹ, các lực lượng quan hệ với ta, họ đều có mục đích riêng, vừa
muốn kìm chế, chi phối ta, vừa muốn tăng cường quan hệ với ta. Tranh thủ ta
đi cùng với họ để họ phát huy lợi thế trong tranh chấp quyền lợi ở khu vực.
Do đó họ cũng vừa là đối tác, vừa là đối tượng của cách mạng nước ta.
Đến năm 1991, công cuộc đổi mới của nhân dân ta đã đạt được những
thành tựu quan trọng. Nền kinh tế đã có tăng trưởng khá, chính trị cơ bản ổn


- 20 -

định, an ninh, quốc phòng được giữ vững; đối ngoại không ngừng được mở
rộng, nhân dân tin tưởng và quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng.
Tuy nhiên, chúng ta đang đứng trước khó khăn thách thức rất to lớn:
"Đất nước ta vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, công cuộc đổi

mới còn những mặt hạn chế, nhiều vấn đề kinh tế - xã hội nóng bỏng, chưa
được giải quyết" [19, tr.50] trực tiếp là bốn nguy cơ mà Hội nghị giữa nhiệm
kỳ khoá VII chỉ ra đã và đang diễn biến phức tạp. Các nguy cơ này có mối
quan hệ tác động lẫn nhau, không thể xem nhẹ nguy cơ nào.
Từ bối cảnh trên đặt ra nhiều vấn đề liên quan đến việc thực hiện kết
hợp QP với KT ở nước ta trong công cuộc đổi mới từ 1991 đến 2001.
Một là, từ vị trí chiến lược về địa lý, chính trị, kinh tế của nước ta trong
khu vực và trên thế giới.
Do Việt Nam nằm ở giao điểm lợi ích chiến lược của nhiều cường
quốc, có vị trí quan trọng trong chiến lược của các nước, cho nên phải chủ
động về chiến lược và sách lược khôn khéo nhằm khai thác và tận dụng các
lợi thế để củng cố vị thế và tăng cường sức mạnh chính trị, kinh tế cũng như
quốc phòng của mình. Trước hết phải tận dụng xu thế hoà bình, liên kết và
hợp tác để đảm bảo điều kiện quốc tế thuận lợi phục vụ cho công cuộc CNH,
HĐH đất nước. Đồng thời, chúng ta phải hết sức quan tâm bảo vệ chủ quyền
toàn vẹn lãnh thổ và an ninh chính trị trước những diễn biến phức tạp của tình
hình quốc tế và khu vực, chủ động đối phó với các tình huống có thể xảy ra.
Bởi vì, tuy có diện tích cỡ trung bình nhưng nước ta lại có chiều dài về biên
giới, có phạm vi lãnh hải rộng lớn tiếp giáp với nhiều tuyến giao lưu chiến
lược của khu vực và thế giới. Đòi hỏi việc định hướng chiến lược của quốc
phòng không chỉ bó hẹp trên một vài hướng hoặc một vài tình huống tác chiến
cụ thể. Hơn nữa, với cơ cấu địa hình núi rừng, sông rạch và đồng bằng, cơ cấu
vùng nông thôn và thành thị trong quá trình CNH, HĐH đất nước, tất yếu đặt


- 21 -

ra cho quốc phòng Việt Nam phải tính đến các giải pháp phòng thủ địa
phương gắn với xây dựng các vùng chiến lược KT - QP và phòng thủ tác
chiến của lực lượng vũ trang trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao. Mặt

khác, nước ta có sự đa dạng về cơ cấu dân cư, có nhiều thành phần tôn giáo
khác nhau, nhiều dân tộc sống đan xen trên toàn bộ địa bàn lãnh thổ có mối
quan hệ truyền thống, láng giềng với nhiều quốc gia. Điều đó đặt ra việc kết
hợp QP với KT phải được tính toán kỹ lưỡng từ vĩ mô đến vi mô trong quá
trình xây dựng và BVTQ.
Hai là, môi trường và điều kiện phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng
của đất nước đã có những thay đổi khác trước.
Những năm từ 1991 đến 2001, chúng ta thực hiện đường lối đổi mới
xây dựng phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Việc tìm
ra và áp dụng một cơ chế kết hợp QP với KT thích hợp có hiệu lực, hiệu quả
là vấn đề không đơn giản. Một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước
ta là rất mới mẻ và đang trong quá trình hình thành, trong khi cơ chế chính sách
và hệ thống pháp luật của ta lại chưa hoàn chỉnh đồng bộ. Với một nền kinh tế
nhiều thành phần, các doanh nghiệp, xí nghiệp có quyền tự chủ trong sản xuất
kinh doanh và thực sự đi vào hạch toán kinh tế. nếu từng xí nghiệp, doanh
nghiệp, từng đơn vị sản xuất không có ý thức tự giác, chủ động kết hợp phát triển
kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, không biết tự bảo vệ mình thì rất dễ
bộc lộ nhiều sơ hở, nảy sinh nhiều phức tạp cho sự củng cố nền QPTD. Điều đó
đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải luôn có những chủ trương mới và kịp thời bổ
sung, điều chỉnh các quy định, luật lệ để bảo đảm cơ sở pháp lý cho việc kiểm tra,
giám sát thực hiện nghiêm túc có kết quả kết hợp QP với KT trong thời kỳ mới.
Mặt khác, chúng ta đã và đang chuyển sang thực hiện chính sách kinh
tế "mở cửa" mở rộng quan hệ làm ăn với các nước trong khu vực và trên thế


- 22 -

giới, chủ động từng bước hội nhập kinh tế vào thị trường quốc tế, do đó chứa
đựng những cơ hội lớn và những nguy cơ, thách thức mới cần phải có sự tham

gia tích cực của các cấp, các ngành, dưới sự lãnh đạo tập trung thống nhất của
Đảng và sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Đòi hỏi trong quá trình triển khai
thực hiện các chương trình, dự án kinh tế, văn hoá và khoa học công nghệ với
đối tác nước ngoài, các cấp, các ngành, các địa phương và các đơn vị kinh tế
phải biết tự bảo vệ, nhận rõ đối tác, tỉnh táo phát hiện và đấu tranh ngăn chặn
kịp thời, có hiệu quả với mọi âm mưu và hành động của các thế lực thù địch
lợi dụng con đường hợp tác kinh tế, văn hoá để xâm nhập, phá hoại nền độc
lập và an ninh chính trị của ta. Đồng thời cũng đòi hỏi nhiệm vụ quốc phòng
phải được tăng cường, góp phần tạo điều kiện môi trường ổn định để các đối
tác yên tâm, tin tưởng làm ăn lâu dài với ta.
Ba là, quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước sẽ có những thay đổi
về nhiều mặt và nảy sinh những mâu thuẫn mới phải được xử lý thông qua
việc kết hợp QP với KT.
Để CNH, HĐH đất nước, tất yếu phải có sự chuyển dịch lớn về cơ cấu
kinh tế, hình thành nhiều vùng, ngành, khu công nghiệp, khu kinh tế mới. Do
vậy, phải điều chỉnh, bổ xung chiến lược quốc phòng, chiến lược BVTQ.
Cùng với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình có sự phân công lại
lao động xã hội, phân bố lại dân cư trên các vùng, miền đất nước và ở từng
địa phương. Điều đó, cũng phải tổ chức, bố trí và sắp xếp các lực lượng vũ
trang cho phù hợp với kế hoạch, phương án tác chiến phòng thủ trên phạm vi
cả nước và từng địa phương.
Mâu thuẫn mới nảy sinh lớn nhất là mâu thuẫn giữa khả năng có hạn
của nền kinh tế với nhu cầu phải đầu tư cho phát triển kinh tế và tăng cường
quốc phòng. Để giải quyết mâu thuẫn này, phải tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH
đất nước thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh", nhằm tạo ra cơ sở vật


- 23 -

chất kỹ thuật, xây dựng củng cố quốc phòng vững mạnh. Như vậy, trong tình

hình mới, chúng ta một mặt vẫn phải tập trung sức vốn, kỹ thuật rất lớn cho
CNH, HĐH. Đồng thời phải coi trọng tăng cường củng cố quốc phòng, tăng
cường sức mạnh BVTQ. Thực hiện vấn đề này chính là chúng ta giải quyết
một cách cân đối, hài hoà giữa phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc
phòng trong quá trình CNH, HĐH đất nước, tạo nên sức mạnh quốc phòng
lớn nhất góp phần ứng phó thắng lợi với mọi tình huống xẩy ra, làm thất bại
mọi âm mưu xâm lược của kẻ thù, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
XHCN.
Bốn là, một bộ phận cán bộ nhà nước và nhân dân chưa có nhận thức
và hành động đúng đắn về kết hợp QP với KT.
Khi cả nước đang ra sức thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược
xây dựng và BVTQ trong thời kỳ đổi mới, thì một bộ phận cán bộ và nhân
dân còn có biểu hiện nhận thức và hành động sai lệch về kết hợp QP với KT,
đặc biệt là giai đoạn trước và sau khi CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ.
Trong đó, nổi lên là loại nhận thức thuần tuý kinh tế, cho rằng chỉ cần kinh tế
mạnh thì sẽ mua được vũ khí hiện đại, đủ sức giành thắng lợi khi kẻ thù sử
dụng vũ khí công nghệ cao chống lại chúng ta, không phù hợp với xu thế đổi
mới tư duy kinh tế và quốc phòng BVTQ của Đảng ta.
Bên cạnh đó, lại có nhận thức tách rời mối quan hệ giữa kinh tế với
quốc phòng, chưa am hiểu quy luật kết hợp QP với KT và tác động của quy
luật này đối với sự nghiệp đổi mới, còn mơ hồ mất cảnh giác với âm mưu
“Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch, nhất là trong điều kiện nền
kinh tế mở, dẫn đến trong tổ chức thực hiện các quy hoạch, kế hoạch chỉ chú
ý đến lợi ích kinh tế, không chú ý hoặc xâm phạm đến thế trận phòng thủ và
các công trình quốc phòng… thực tế đó đòi hỏi Đảng ta không những phải đổi
mới mạnh mẽ công tác tư tưởng, lý luận, công tác giáo dục chính trị tư tưởng


- 24 -


- giáo dục quốc phòng mà còn phải có hệ thống cơ chế, chính sách và giải
pháp hợp lý về kết hợp QP với KT đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bền
vững, quốc phòng ngày càng được tăng cường giữ vững hoà bình, ổn định để
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước theo đúng định hướng XHCN.
Từ cơ sở lý luận, thực tiễn đã trình bày cho thấy việc kết hợp QP với
KT là yêu cầu khách quan và cấp thiết trong công cuộc đổi mới trên đất
nước ta từ 1991 đến 2001. Đòi hỏi các cấp, các ngành các lĩnh vực hoạt
động nhất là trên lĩnh vực kinh tế và quốc phòng phải nhận thức đầy đủ
thống nhất, có hành động đúng đắn, phối kết hợp chặt chẽ trong tổ chức
thực hiện, thể hiện tính toàn diện, đồng bộ cả về quan điểm, mục tiêu, yêu
cầu, nội dung, phương thức và giải pháp thực hiện sự kết hợp đó trong quá
trình đổi mới đất nước từ năm 1991 đến 2001.
1.1.2. Chủ trương của Đảng về kết hợp quốc phòng với kinh tế trong
công cuộc đổi mới từ 1991 đến 2001
Hầu hết các văn kiện của Đảng từ 1991 đến 2001 đều chỉ rõ: trong khi
xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, chúng ta không được xem
nhẹ, buông lơi nhiệm vụ quốc phòng BVTQ, phải kết hợp nhiệm vụ quốc
phòng với kinh tế trong chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
cũng như trong chiến lược và kế hoạch củng cố quốc phòng, sao cho mỗi
bước tiến của sự phát triển kinh tế là một bước tăng cường thêm tiềm lực
quốc phòng, ngược lại quốc phòng ngày càng vững chắc lại tạo thêm điều
kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.
Chủ trương của Đảng về kết hợp QP với KT trong công cuộc đổi mới
từ 1991 đến 2001 được thể hiện tập trung ở những vấn đề chủ yếu sau:
Quan điểm của Đảng về sự kết hợp
Một là, kết hợp QP với KT phải toàn diện, cơ bản, lâu dài ngay từ
trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch xây dựng, phát triển kinh tế với


- 25 -


củng cố tăng cường quốc phòng trên phạm vi cả nước, từng vùng, từng
ngành và ở từng địa phương.
Việc củng cố quốc phòng, xây dựng nền QPTD phải dựa vào chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội để kết hợp chặt chẽ. Đại hội VII của Đảng đã
chỉ rõ: "kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế
trong quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế của cả nước và trên từng địa
phương" [19, tr.85]. Kết hợp QP với KT được thực hiện tốt là tiêu chuẩn quan
trọng để đánh giá kết quả và hiệu quả của các hoạt động kinh tế và hoạt động
quốc phòng.
Trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Đảng đã xác định
được chiến lược quốc phòng, trong đó đã xây dựng được kế hoạch động viên
công nghiệp và động viên nền kinh tế cho chiến tranh. Những chiến lược và
kế hoạch chiến lược đó đã kết hợp tốt được yều cầu của CNH, HĐH với yêu
cầu của quốc phòng, lấy đó làm một căn cứ quan trọng để xây dựng nền
QPTD. Đồng thời Bộ Quốc phòng đã tham gia với các bộ - ban - ngành và
các địa phương xây dựng các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - văn hoá
- xã hội trong quá trình CNH, HĐH; tham gia thẩm định các quy hoạch, kế
hoạch đó trước khi được cấp có thẩm quyền xét duyệt. Trong quá trình hoạch
định chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Đảng, Nhà nước đã kết
hợp được với những yêu cầu của nhiệm vụ quốc phòng đặt ra cho từng ngành,
từng địa phương, từng cơ sở để lựa chọn phương án phát triển tối ưu và các
giải pháp thực hiện vừa đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, vừa tăng tiềm
lực cho quốc phòng đủ mạnh để bảo vệ công cuộc hoà bình xây dựng đất
nước. Đặc biệt khi chúng ta đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, việc kết hợp QP
với KT càng cần thiết hơn lúc nào hết. Đại hội VIII của Đảng khẳng định:
"Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng trong việc quy hoạch và phát triển
các vùng kinh tế các ngành công nghiệp, lấy hiệu quả kinh tế gắn với yêu cầu



- 26 -

bảo đảm quốc phòng, an ninh làm cơ sở cho những chủ trương cụ thể" [20,
tr.184]. Các chương trình dự án phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình CNH,
HĐH đã thể hiện được sự kết hợp, đề cập đúng mức lợi ích của cả kinh tế và
quốc phòng. Củng cố, tăng cường quốc phòng vừa ra sức bảo vệ sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước, tận dụng kịp thời những thành tựu khoa học kỹ thuật,
công nghệ mới để từng bước hiện đại hoá lực lượng vũ trang. Đồng thời, quốc
phòng phát huy tiềm năng của mình góp phần đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH
và phát triển kinh tế - xã hội.
Dựa vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội dài hạn của đất nước, các
bộ - ban - ngành của Nhà nước và các địa phương đã triển khai thực hiện các
quy hoạch và kế hoạch kinh tế - xã hội của ngành và địa phương đến năm
2000 và 2020. Các quy hoạch và kế hoạch đó đã có sự kết hợp chặt chẽ với
quốc phòng, nhất là trong các quy hoạch và kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng
như: giao thông, thông tin, bến cảng, sân bay..., xây dựng các vùng kinh tế
trọng điểm, các khu công nghiệp tập trung, các khu chế xuất, các cơ sở liên
doanh với nước ngoài... Đã từng bước hoàn thiện và chấp hành nghiêm chỉnh
cơ chế phối hợp giữa bộ - ban - ngành và địa phương với Bộ Quốc phòng
trong việc thực hiện sự kết hợp QP với KT. Để bảo đảm chất lượng của các
quy hoạch và kế hoạch đó, công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức về kinh tế,
pháp luật, đối ngoại... cho lực lượng quốc phòng và kiến thức về quốc phòng
cho lực lượng làm kinh tế và các ngành khác của Đảng và Nhà nước đã từng
bước đi vào nề nếp và mang lại hiệu quả rõ rệt.
Đồng thời, Đảng đã lãnh đạo điều chỉnh, bổ sung kế hoạch chiến lược về
quốc phòng, làm cơ sở để tham mưu và tham gia thẩm định các quy hoạch và
kế hoạch kinh tế - văn hoá - xã hội của các ngành và địa phương. Bởi vì, không
chỉ do những yêu cầu mới của chiến tranh nhân dân BVTQ trong điều kiện
hiện đại đòi hỏi chúng ta phải điều chỉnh, bổ sung. Mà bản thân những sự biến



- 27 -

đổi của đất nước trong quá trình CNH, HĐH cũng đặt ra yêu cầu bổ sung, sửa
đổi và phát triển kế hoạch chiến lược về quốc phòng đã được xác định.
Mục tiêu đến năm 2020 mà Đảng ta xác định là phấn đấu đưa nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để thực hiện mục tiêu đó trong quá
trình CNH, HĐH sẽ tất yếu diễn ra quá trình đô thị hoá nông thôn, hình thành
nhiều đô thị lớn nhỏ và nhiều khu công nghiệp tập trung. Kinh tế đô thị sẽ giữ
vai trò chủ chốt quyết định nhịp độ tăng trưởng kinh tế, với cơ cấu mà tỷ lệ
công nghiệp và dịch vụ ngày càng chiếm ưu thế trong nền kinh tế quốc dân.
Đồng thời, chúng ta phải thường xuyên duy trì một lượng diện tích đất nông
nghiệp phù hợp để đảm bảo sản xuất lương thực, cũng như công tác bảo vệ
rừng, trồng mới và phát triển đất rừng để đảm bảo cho môi trường sinh thái...
sự biến đổi trong các tầng lớp dân cư, trong cơ cấu xã hội - giai cấp từ đó
cũng diễn ra. Với sự phát triển của khu vực đô thị như vậy, với hệ thống cơ sở
hạ tầng giao thông, bến cảng, sân bay ngày càng phát triển cả về số lượng và
trình độ hiện đại, với những khu công nghiệp tập trung, với sự biến đổi kinh
tế - xã hội như vậy, rõ ràng là bản đồ địa lý của đất nước sẽ khác trước rất
nhiều. Kế hoạch chiến lược về quốc phòng và việc thực hiện kết hợp QP với
KT không thể không được bổ sung, sửa đổi gắn liền với những vấn đề mới
cần nghiên cứu và giải quyết cả về kinh tế và khoa học nghệ thuật quân sự, về
kỹ thuật quân sự về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
Nền QPTD từ đó sẽ có những yêu cầu mới, việc xây dựng khu vực
phòng thủ trên các địa phương, công tác quân sự - quốc phòng ở địa phương
và ở các ngành Trung ương không những phải đi vào chiều sâu, có chất lượng
cao hơn mà còn phải có những sự phát triển mới. Do đó, việc kết hợp QP với
KT tất yếu có nhiều vấn đề mới nảy sinh đòi hỏi phải giải quyết. Nhận thức
được sự biến đổi đó, Đảng ta đã có nhiều chủ trương chính sách lãnh đạo xây
dựng nền QPTD, trong đó lấy việc phát huy sức mạnh và sự vững chắc của



×