Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ LỊCH sử ĐẢNG ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM LÃNH đạo bảo vệ CHỦ QUYỀN BIỂN, đảo của tổ QUỐC GIAI đoạn từ 1986 đến 2001

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (890.5 KB, 114 trang )

3
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia ven Biển Đông, có bờ biển dài 3260 km,
thềm lục địa thuộc chủ quyền và quyền tài phán rộng một triệu km 2, với nhiều
vịnh biển có giá trị và hơn 3000 đảo lớn, nhỏ; trong đó có hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa án ngữ ngoài cửa biển; Việt Nam được coi là nước có
vị trí chiến lược thuận lợi về biển. Vùng biển, đảo Việt Nam giàu tài nguyên
thiên nhiên và có vị trí đặc biệt quan trọng về quốc phòng, an ninh quốc gia
và khu vực. Do vị trí chiến lược về kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội, và an
ninh - quốc phòng, cho nên vấn đề khai thác nguồn lợi biển và quản lý, bảo vệ
vùng biển, đảo của Tổ quốc đã được đặt ra như một tất yếu từ rất sớm trong
quá trình xây dựng, phát triển đối với dân tộc ta.
Từ năm 1945 đến nay, cùng với sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân
chủ cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam), lịch sử
chinh phục biển, đảo Tổ quốc đã bước sang một trang mới. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, quản lý của Nhà nước ta, vùng biển, đảo của Tổ quốc, đã và đang
dần có một vị thế xứng đáng trong quá trình phát triển đi lên của dân tộc.
Thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, trong giai đoạn từ năm 1986 đến năm
2001, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo luôn được Đảng đặc biệt quan
tâm và coi đó là nhiệm vụ trọng yếu trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN.Tuy nhiên, bảo vệ chủ quyền biển, đảo là bảo vệ một địa bàn vô
cùng phức tạp và hết sức nhạy cảm, liên quan tới nhiều yếu tố lịch sử, pháp lý,
trong đó có cả những yếu tố chưa có sự đồng thuận trong đời sống chính trị quốc
tế.
Hiện nay, trong xu thế nguồn tài nguyên trên lục địa ngày càng cạn
kiệt, khi khoa học - công nghệ phát triển cho phép con người có thể khai
thác nguồn lợi biển tốt hơn, các quốc gia ven biển trên thế giới và một số



4
quốc gia không có biển, đều hướng về biển và coi hướng phát triển về biển
như một cứu cánh. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều người cho rằng: thế kỷ
XXI là “Thế kỷ Đại Dương”. Một số nước lớn, trong đó có Trung Quốc coi
biển là lối thoát duy nhất trên bước đường phát triển.
Biển Đông, vốn là một vùng biển có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự
giao lưu, phát triển của khu vực và thế giới, cho nên luôn được nhiều nước
quan tâm chú ý. Các nước ven biển trong khu vực, vì có quyền lợi trực tiếp ở
đây luôn tăng cường đẩy mạnh quá trình tranh chấp chủ quyền biển, đảo. Một
số nước có tiềm lực khoa học – kỹ thuật, tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh như:
Mỹ, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản… vì các tham vọng kinh tế, chính trị riêng
của mình luôn tìm mọi cách can thiệp sâu vào địa bàn này, khiến cho tình
hình Biển Đông trở nên vô cùng phức tạp. Có thể nói, Biển Đông chính là
“điểm nóng”, nơi hội tụ rất nhiều mâu thuẫn căng thẳng về kinh tế, chính trị
của khu vực và thế giới. Nguy cơ bùng phát xung đột vũ trang, thậm trí bùng
nổ một cuộc chiến tranh giữa các quốc gia với nhau là rất lớn…
Tất cả các yếu tố nêu trên, đã và đang tác động mạnh mẽ tới an ninh
quốc gia, cũng như tới chiến lược bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam.
Điều đó đòi hỏi trong quá trình phát triển, Việt Nam phải không ngừng nêu
cao tinh thần cảnh giác nhằm đối phó với mọi diễn biến bất ngờ có thể xảy ra.
Phát triển kinh tế biển, đi đôi với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh
bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia trên biển đặt ra như một yêu cầu khách
quan, cấp thiết.
Thực tiễn cho thấy, quá trình Đảng lãnh đạo bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ
quốc từ năm 1986 đến năm 2001, có nhiều thành công, nhưng cũng còn nhiều
hạn chế, khuyết điểm, mà hạn chế lớn nhất chính là Đảng đã chậm đề ra
Chiến lược biển, trong đó có Chiến lược bảo vệ chủ quyền biển, đảo, nhằm
đáp ứng yêu cầu đặt ra trong giai đoạn cách mạng mới. Con đường cách mạng



5
phía trước còn dài và có nhiều thử thách; hướng phát triển về biển trong đó
gắn phát triển kinh tế biển với bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển
phải được coi là ưu tiên số một; vươn lên trở thành một quốc gia mạnh về
biển là thách thức lớn đối với dân tộc và đối với sự nghiệp cách mạng của
Đảng. Thách thức đó đang đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam hơn lúc nào hết
cần phải nêu cao bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thần độc lập, tự chủ, sáng
tạo của một Đảng cầm quyền, để đề ra những quyết sách kịp thời, đúng đắn
nhằm bảo vệ vững chắc vùng biển, đảo Tổ quốc, tạo điều kiện đưa đất nước
tiếp tục vươn lên.
Làm rõ quá trình Đảng lãnh đạo bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong thời
kỳ đổi mới toàn diện đất nước từ năm 1986 đến năm 2001, qua đó rút ra những
kinh nghiệm quý báu là việc làm cần thiết, có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và tính
thời sự cấp thiết.
Với ý nghĩa đó, tác giả chọn vấn đề “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc từ năm 1986 đến năm 2001” làm đề
tài luận văn Thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Bảo vệ chủ quyền biển, đảo là nhiệm vụ trọng yếu trong Chiến lược
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đó là một vấn đề lớn có ý nghĩa lý luận,
thực tiễn sâu sắc, nên luôn thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các đồng chí
lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quân đội ta và của nhiều nhà khoa học trong,
ngoài nước, tiêu biểu là các công trình sau:
Các bài viết của các đồng chí Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội:
Nông Đức Mạnh (Tổng Bí thư BCHTW Đảng Cộng sản Việt Nam), với bài
“Hải quân nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt cùng toàn dân bảo vệ
vững chắc vùng biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc” – Báo QĐND ngày 8-52005; Trần Đức Lương (nguyên Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa


6

Việt Nam), với “Những chiến sỹ Hải quân tiêu biểu” – Báo QĐND ngày 5-52005; Nguyễn Văn Hiến (Tư lệnh Quân chủng Hải quân), với “Xây dựng thế
trận chiến tranh nhân dân trên biển” – Báo QĐND ngày 7-5-2005; Nguyễn
Văn Tình (Chính uỷ Quân chủng Hải quân), với “Lực lượng nòng cốt bảo vệ
vững chắc vùng biển, đảo Tổ quốc” – Báo QĐND ngày 6-5-2005; Đỗ Xuân
Công (nguyên Tư lệnh Quân chủng Hải quân), với “Tăng cường sức mạnh
quốc phòng, bảo vệ vững chắc vùng biển, đảo của Tổ quốc” - Tạp chí quốc
phòng toàn dân số 6-2002… Những bài viết này chủ yếu đề cập đến quan
điểm, chủ trương, chính sách chung của Đảng và Nhà nước ta đối với nhiệm
vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo đồng thời nêu bật một số yêu cầu nhằm tăng
cường sức mạnh bảo vệ vững chắc vùng biển, đảo Tổ quốc trong tình hình
cách mạng mới.
Các sách chuyên luận, chuyên khảo về vấn đề biển, đảo, có: Vũ Phi,
với “Vùng biển và quyền làm chủ” – Nxb QĐND – Hà Nội 1984; Lê Đức Tố,
Hoàng Trọng Lập…, với “Quản lý biển” – Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội –
Hà Nội 2005; Lưu Văn Lợi, với “Việt Nam đất, biển, trời” – Nxb CAND –
Hà Nội 1990; Hồng Thao, với “Hai Hiệp định vịnh Bắc Bộ – Một chế độ
pháp lý mới” – Hà Nội 2005… Đây là các tác phẩm chuyên khảo về những
vấn đề liên quan đến việc khai thác và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của nước
ta, trong đó có đưa ra những định hướng và các giải pháp cho việc phát triển
kinh tế biển gắn với tăng cường quốc phòng – an ninh bảo vệ vững chắc chủ
quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Các đề tài khoa học, các luận văn, luận án tiến sĩ, tiêu biểu như:
Nguyễn Văn Nhã, với “Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa” - Luận án tiến sỹ lịch sử, chuyên ngành lịch sử
Việt Nam, mã số 50315 – Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Trường
Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn – Thành phố Hồ Chí Minh 2002; Tập thể


7
các nhà nghiên cứu thuộc Trường Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn Hà

Nội, Đại học Quốc gia Hà Nội, với đề tài cấp Nhà nước “Hợp đồng nghiên
cứu khoa học về lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa” – Mã số BĐHĐ 01-01; Vụ Biển, Ban biên giới, Bộ Ngoại giao,
với đề tài “Chiến lược bảo vệ chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên các
vùng biển, đảo Việt Nam đến năm 2020” - Đề tài khoa học cấp Nhà nước do
Thạc sỹ Huỳnh Minh Chính làm chủ nhiệm – Hà Nội 2003… Đây là những
công trình nghiên cứu có giá trị, phản ánh tổng quan lịch sử vùng biển, đảo
Việt Nam, đồng thời đề ra các giải pháp, biện pháp để thực hiện nhiệm vụ bảo
vệ vùng biển, đảo Tổ quốc. Trong các công trình nghiên cứu nêu trên, đáng
chú ý là đề tài “Chiến lược bảo vệ chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên
các vùng biển, đảo Việt Nam đến 2020”. Đề tài này đã làm rõ được nhiều vấn
đề liên quan đến chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta đối với nhiệm
vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc; đề tài đã đề ra các giải pháp chiến
lược cụ thể để Việt Nam có thể phấn đấu trở thành một quốc gia mạnh về biển
trong thời gian trước mắt cũng như lâu dài…
Một số công trình nghiên cứu của nước ngoài, đề cập đến vấn đề tranh
chấp chủ quyền trên Biển Đông giữa các nước trong khu vực, đặc biệt là vấn
đề tranh chấp chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, ví dụ như:
Đaniel. J.Dzurck, với “Cuộc tranh chấp quần đảo Trường Sa: ai là người sở
hữu đầu tiên?” – Tạp chí Thông tin biển, số 2 - 1996; Monique Chemilier –
Gendreau, với “Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” – Nxb
CTQG, Hà Nội 1996; Paul Medes Antunes, với “Phân tích về địa lý - chính
trị cuộc xung đột và tranh chấp biên giới Trung – Việt liên quan đến quần
đảo Paracel và Spraly ở biển Nam Trung Hoa” (Luận án tiến sĩ – 2002,
Trường Đại học Pari I, Tatheon Sorbone – bản dịch lưu tại Ban Biên giới, Bộ
Ngoại giao); Viện Nghiên cứu các vấn đề Châu Á tại Ham Buốc, với “Các


8
đảo tranh chấp ở vùng biển Nam Trung Hoa, Hoàng Sa – Trường Sa – Pratas

– bãi Macclesfield” (Ban Biên giới, Bộ Ngoại giao dịch và giới thiệu, Hà Nội
2002); Viện nghiên cứu khoa học pháp lý quốc tế – Trường Đại học Tổng hợp
Philippin, với “quần đảo Trường Sa: liệu có còn thích hợp khi tranh cãi về
vấn đề chủ quyền” (Ban Biên giới, Bộ Ngoại giao - Nxb Pháp lý, Hà Nội,
2002).
Tổng quan nội dung các bài viết, các sách chuyên luận, chuyên khảo và
các công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh liên quan
đến vấn đề biển, đảo nói chung, trong đó có vấn đề bảo vệ chủ quyền biển,
đảo của Việt Nam. Mặc dù chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về quá
trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển,
đảo của Tổ quốc dưới góc độ Khoa học Lịch sử Đảng, nhưng đó chính là
những tư liệu, tài liệu quý, giúp cho tác giả có thể tiếp cận về nội dung,
phương pháp trong quá trình nghiên cứu thực hiện luận văn của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ.
* Mục đích:- Làm rõ sự đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong quá trình lãnh đạo bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc từ năm 1986 đến
năm 2001, qua đó rút ra những kinh nghiệm để chúng ta có thể vận dụng vào sự
nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ: - Làm rõ nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc là
yêu cầu khách quan, cấp thiết trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
thời kỳ đổi mới đất nước.
- Phân tích, luận giải làm rõ quan điểm, đường lối và sự chỉ đạo của
Đảng về bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc từ năm 1986 đến năm 2001;
- Đánh giá kết quả, làm rõ nguyên nhân, hạn chế; rút ra một số kinh
nghiệm từ quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền
biển, đảo.


9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

* Đối tượng: Đề tài nghiên cứu chủ trương và chỉ đạo của Đảng
thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc từ năm 1986
đến năm 2001.
* Phạm vi:
- Về thời gian: Đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu các vấn đề liên
quan đến việc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo bảo vệ chủ quyền
biển, đảo từ tháng 12 năm 1986 đến tháng 4 năm 2001. Tuy nhiên, để
có cơ sở luận giải sâu sắc vấn đề, tác giả vẫn phải đề cập khái quát đến
một số vấn đề có liên quan diễn ra trước tháng 12 năm 1986 và sau
tháng 4 năm 2001;
- Về nội dung: Nội dung bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc theo tư
duy mới của Đảng, có nội hàm rộng, bao gồm nhiều vấn đề liên quan đến
chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của nước ta trên biển gắn với
các nhiệm vụ cụ thể như bảo vệ độc lập, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng,
Nhà nước, nhân dân; bảo vệ nền văn hoá và lợi ích dân tộc; bảo vệ trật tự an
ninh, môi trường biển...Tuy nhiên, vì nhiều lý do chủ quan và khách quan
tác giả chưa có điều kiện nghiên cứu tất cả. Trong khuôn khổ của luận văn
tốt nghiệp cao học tác giả chỉ tập trung đi sâu luận giải vấn đề Đảng lãnh
đạo bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc gắn với nhiệm vụ bảo vệ độc lập
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia Việt Nam trên các vùng biển, đảo
Tổ quốc.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, luật
pháp quốc tế về biển (Công ước biển 1958, Luật biển 1982) và quan điểm,


10
đường lối của Đảng về bảo vệ chủ quyền biển, đảo là cơ sở lý luận chủ yếu để
các tác giả thực hiện đề tài.

* Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp lịch sử, phương pháp logíc và sự kết hợp 2 phương pháp
này là những phương pháp chính để các tác giả thực hiện đề tài; ngoài ra các
phương pháp khác như phương pháp đồng đại, lịch đại, quy nạp, diễn dịch, so
sánh và thống kê, tổng hợp cũng được các tác giả sử dụng với tư cách là
phương pháp hỗ trợ trong quá trình nghiên cứu.
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ quá trình Đảng lãnh đạo bảo vệ chủ
quyền biển, đảo từ 1986 đến 2001, thông qua đó nâng cao niềm tin của quần
chúng nhân dân đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN dưới sự
lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ mới.
Luận văn có thể dùng làm tư liệu tham khảo, phục vụ cho công tác nghiên
cứu, giảng dạy Lịch sử Đảng ở các Học viện, nhà trường trong và ngoài quân
đội.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục.
Luận văn kết cấu thành 2 chương, 4 tiết.


11
Chương 1
CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ
BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO TỔ QUỐC TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2001

1.1. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo – một yêu cầu cấp thiết đối với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ đổi mới đất nước
1.1.1. Vị trí, vai trò của biển, đảo Việt Nam đối với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc
Biển Đông là tên mà người Việt Nam dùng để gọi vùng biển được bao
bọc bởi: Đài Loan, quần đảo Philippin ở phía Đông; quần đảo Inđônêxia, bán

đảo Malaixia ở phía Nam; bán đảo Đông Dương ở phía Tây và lục địa Nam
Trung Hoa ở phía Bắc. Trong sinh hoạt quốc tế, Biển Đông thường được gọi
là biển Nam Trung Hoa (The south China sea), theo nguyên tắc đặt tên quốc
tế, dựa vào vị trí tương đối gần nhất của một lục địa tiếp giáp lớn nhất đó là
lục địa Trung Hoa, hoàn toàn không có hàm nghĩa Biển Đông thuộc sở hữu
riêng của người Trung Quốc. Thực tế, theo tập quán lịch sử gắn với chủ
quyền lãnh thổ của các quốc gia được xác lập từ rất lâu đời và được quốc tế
thừa nhận, cũng như theo Công ước Luật biển quốc tế quy định (Công ước
1958 và Luật biển quốc tế 1982), Biển Đông gắn với chủ quyền và lợi ích trực
tiếp của các quốc gia: Việt Nam, Thái Lan, Inđônêxia, Malayxia, Philippin,
Brunây, Campuchia, Singapo và Trung Quốc.
Về mặt địa lý, Biển Đông là một biển nửa kín nằm ở phía Tây Thái
Bình Dương, có diện tích vào khoảng 3triệu 400.000km 2, trải dài từ vĩ độ 3 0
lên đến vĩ độ 260 Bắc và từ kinh độ 1000 đến 210 Đông với độ sâu trung bình là
1140m và độ sâu cực đại là 5016m. Đường trục dài nhất của Biển Đông kéo
dài theo hướng Đông Bắc – Tây Nam tính từ đường ranh giới phía Bắc (Phúc
Kiến – Bắc Đài Loan) đến đường ranh giới phía Nam (Sumatra – Bankan –
Bilitơn – Borneo) dài khoảng 3520km. Nơi rộng nhất của Biển Đông không


12
qúa 600 hải lý (khoảng gần 1200km). Biển Đông thông với Thái Bình Dương
qua eo biển Đài Loan (phía Đông Bắc) và eo biển Basi nằm giữa Philipin và
Đài Loan. Về phía Tây Nam, con đường duy nhất trực tiếp nối biển Đông với
Ấn Độ Dương là eo biển Malacca. Về phía Đông Nam, có thể đi qua eo biển
sâu Mondoro và eo biển Balabac để đến biển Sulu – một biển nối liền Ấn Độ
Dương với Thái Bình Dương.
Biển Đông, được coi như “một biển đảo”, với hàng ngàn các đảo lớn
nhỏ, trong đó có 2 quần đảo án ngữ trung tâm Biển Đông, thuộc chủ quyền
của Việt Nam là quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.

Biển Đông có 2 vịnh lớn là vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái Lan. Vịnh Bắc
Bộ nằm ở phía Tây Bắc Biển Đông do bờ biển và đảo của hai quốc gia Việt
Nam , Trung Quốc bao bọc. Vịnh có diện tích khoảng 124.500km 2 và có hai
cửa thông ra Biển Đông: cửa phía Nam vịnh rộng 211km, cửa phía Đông Bắc
qua eo biển Quỳnh Châu rộng khoảng 20km. Độ sâu trung bình của vịnh Bắc Bộ
là 50m. Vịnh Thái Lan nằm ở phía Tây Nam Biển Đông, do bờ biển của Việt
Nam, Campuchia, Thái Lan, Malayxia bao bọc. Diện tích của vịnh là
293.000km2 với độ sâu lớn nhất khoảng 80m và độ sâu cửa vịnh vào khoảng
60m.
Biển Đông là tuyến hàng hải quan trọng thông thương giữa Ấn Độ
Dương và Thái Bình Dương. Ở cả 4 phía của Biển Đông đều có đường thông
ra Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương qua các eo biển. Trên bản đồ giao
thông vận tải thế giới, hầu hết các tuyến hàng không và hàng hải quốc tế đều
đi qua Biển Đông – Biển Đông chính là nút giao thông quan trọng bậc nhất
của các con đường giao thông huyết mạch, nối liền giữa Thái Bình Dương và
Ấn Độ Dương; giữa Châu Âu, Trung Cận Đông, với Trung Quốc, Nhật Bản
và các nước khu vực Đông Nam Á.
Biển Đông là vùng biển giàu tiềm năng phát triển kinh tế, đồng thời


13
còn là vùng biển án ngữ vị trí chiến lược có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình
phát triển của thế giới và khu vực. Biển Đông chứa đựng nhiều nguồn tài
nguyên có giá trị kinh tế cao với trữ lượng lớn: Tài nguyên hải sản, tài nguyên
khoáng sản, tài nguyên dầu khí, tài nguyên năng lượng… Chỉ tính riêng trữ
lượng dầu khí trên vùng biển Việt Nam theo tính toán đã lên tới 10 tỷ tấn dầu
quy đổi. . Trong xu thế các nguồn nguyên liệu trên lục địa ngày càng cạn kiệt,
nếu các nước trong khu vực quanh Biển Đông quản lý, khai thác tốt nguồn tài
nguyên này, thì đây sẽ là thế mạnh, là lợi thế đặc biệt trong quá trình cạnh
tranh để phát triển thành khu vực thịnh vượng, bền vững lâu dài.

Việt Nam là một quốc gia nằm trên bờ phía Tây của Biển Đông, có vị
trí chiến lược thuận lợi về biển. Việt Nam có bờ biển dài 3260km, được coi là
quốc gia có tỷ lệ chiều dài bờ biển so với đất liền thuộc loại cao nhất thế giới.
Tỷ lệ chiều dài bờ biển trên diện tích đất liền của Việt Nam là 0,01 đứng đầu
Đông Nam Á và đứng thứ 27 trên tổng số 157 quốc gia ven biển trên thế giới
(trên thế giới, trung bình 600km 2 đất liền mới có 1km bờ biển, tỷ lệ đó ở Việt
Nam là 100km2/1km; Thái Lan là 140km2/1km; Trung Quốc là 500km2/1km).
Ngoài hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam có hệ thống đảo
ven bờ bao gồm hơn 3000 hòn đảo lớn nhỏ với tổng diện tích trên 1600km 2,
trong đó có 24 đảo có diện tích trên 10km 2, 84 đảo có diện tích 1km2, 66 đảo
có cư dân sinh sống, với tổng dân số khoảng 155.000 người. Mật độ dân số
trung bình trên các đảo là 95người/km 2. Các đảo lớn nhất là Đảo Phú Quốc
(567 km2 có 50.000 người dân sinh sống), đảo Cái Bầu (200km 2/ 21.000 dân),
đảo Cát Bà (149km2/15.000 dân), đảo Phú Quý (32km2/18.000 dân), Côn
Đảo (56,7km2/21.000 dân), đảo Lý Sơn (3km2/ 16.000 dân). Hệ thống các đảo
ven bờ và xa bờ của Việt Nam có vị trí chiến lược quan trọng: Đó là những
điểm tiền tiêu bảo vệ Tổ quốc, đồng thời cũng là điểm tựa thuận lợi để khai
thác các nguồn lợi, phát triển kinh tế biển và vươn ra khai thác biển cả trong


14
tương lai.
Theo luật pháp quốc tế về biển, đặc biệt là Công ước của Liên hợp
quốc về Luật biển (1982), một quốc gia ven biển có chủ quyền, quyền chủ
quyền và quyền tài phán trên vùng biển bao gồm: vùng nội thuỷ, vùng lãnh
hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, vùng thềm lục địa.
Trong đó quy định:
Vùng nội thuỷ, là vùng biển nằm phía trong của đường cơ sở để tính
chiều rộng lãnh hải. Vùng nước thuộc nội thuỷ có chế độ pháp lý như lãnh thổ
trên đất liền. Đây là vùng thuộc chủ quyền hoàn toàn bất khả xâm phạm của

một quốc gia ven biển, được coi như một bộ phận cấu thành lãnh thổ không
thể tách rời của quốc gia đó.
Vùng lãnh hải, là vùng biển có chiều rộng 12 hải lý (một hải lý bằng
1.852m), tính từ đường cơ sở, có chế độ pháp lý tương tự như lãnh thổ trên
đất liền. Ranh giới ngoài của lãnh hải được coi là biên giới của quốc gia trên
biển. Trong lãnh hải, tàu thuyền của các quốc gia khác được hưởng quyền qua
lại không gây hại và thường đi theo tuyến phân luồng giao thông biển của
quốc gia ven biển quy định.
Vùng tiếp giáp lãnh hải, là vùng biển rộng 12 hải lý tiếp giáp và tính từ
ranh giới ngoài của lãnh hải, hợp với vùng lãnh hải thành vùng biển rộng 24
hải lý. Trong vùng tiếp giáp, quốc gia ven biển có quyền quy định biện pháp
ngăn ngừa và trừng trị các hành vi vi phạm đối với luật lệ về nhập cư, thuế
khoá, y tế xảy ra trong lãnh thổ hay lãnh hải của mình.
Vùng đặc quyền kinh tế, là vùng biển rộng 200 hải lý tính từ đường cơ
sở. Trong vùng biển này, quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với mọi
loại tài nguyên thiên nhiên và các hoạt động kinh tế nhằm khai thác, sử dụng
các tài nguyên thiên nhiên đó; có quyền tài phán đối với các hoạt động nghiên
cứu khoa học, bảo vệ môi trường biển, xây dựng và lắp đặt các công trình, các


15
thiết bị nhân tạo. Tuy nhiên, các nước khác cũng có quyền tự do hàng hải, đặt
dây cáp và ống dẫn ngấm trên vùng này, nhưng với điều kiện phải thông qua
và được sự đồng ý của quốc gia ven biển.
Vùng thềm lục địa, là vùng đáy và lòng đất đáy biển nằm bên ngoài
lãnh hải của quốc gia ven biển, trên phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất
liền ra đến bờ ngoài của rìa lục địa hoặc tới giới hạn 200 hải lý tính từ đường
cơ sở lãnh hải khi bờ ngoài của rìa lục địa ở khoảng cách gần hơn. Tuy
nhiên, bề rộng tối đa của thềm lục địa tính theo bờ ngoài của rìa lục địa dù
thế nào cũng không được vượt quá giới hạn 350 hải lý tính từ đường cơ sở

lãnh hải, hoặc không quá 100 hải lý bên ngoài đường đẳng sâu 2.500m. Đối
với thềm lục địa, quốc gia ven biển có quyền chủ quyền và quyền tài phán
tương tự như trong vùng đặc quyền kinh tế. Quyền chủ quyền của quốc gia
ven biển trên thềm lục địa là đương nhiên, không phụ thuộc vào việc quốc
gia đó có tuyên bố hay không.
Ngoài việc quy định các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán
của quốc gia ven biển, luật pháp quốc tế cũng quy định rõ chế độ pháp lý đối
với Biển cả, Vùng hay còn gọi là Công biển và đáy đại dương.
Biển cả (Công biển): là vùng biển nằm ngoài các vùng biển thuộc phạm
vi chủ quyền và quyền tài phán của những quốc gia ven biển. Biển cả được để
ngỏ cho tất cả các quốc gia, dù là những quốc gia có biển hay không có biển.
Trong vùng biển này, tất cả các quốc gia đều được hưởng các quyền tự do,
như: tự do hàng hải; tự do hàng không; tự do đặt các dây cáp và ống dẫn
ngầm; tự do xây dựng các đảo nhân tạo và các thiết bị khác được pháp luật
quốc tế cho phép; tự do đánh bắt hải sản và tự do nghiên cứu khoa học…
Vùng (đáy đại dương): là đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm ngoài
các vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia. Vùng và tài nguyên của Vùng là di
sản chung của nhân loại. Mọi quốc gia đều có quyền tiến hành thăm dò, khai


16
thác trên phạm vi Vùng theo đúng nguyên tắc bảo đảm các lợi ích của những
quốc gia khác thông qua Cơ quan quyền lực quốc tế được thành lập theo quy
định của Công ước 1982. Cơ quan quyền lực quốc tế có nhiệm vụ điều chỉnh,
giám sát sự công bằng cho mỗi quốc gia ở Vùng tránh tình trạng các nước có
tiềm lực khoa học kỹ thuật mạnh, lấn át các nước nghèo chậm phát triển (đây
cũng là một trong những lý do mà Mỹ không ký kết hiệp ước này) [5, tr15- 34 ].
Ngày 23-6-1994, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khoá IX, kỳ họp thứ 5, đã ra Nghị quyết phê chuẩn Công ước của Liên hợp
quốc về Luật biển năm 1982 (Công ước này có hiệu lực từ ngày 16-11-1994).

Trên cơ sở phù hợp với các quy định của Công ước 1982, vùng nội thuỷ, vùng
lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam được mở rộng
về phía biển. Với những quy định này, đất nước Việt Nam chúng ta không chỉ
đơn thuần là lục địa hình chữ S, mà còn là một “nước Việt Nam biển”, với
một vùng biển, đảo rộng hơn 1 triệu km 2, gấp 3 lần diện tích lãnh thổ đất liền
của Tổ quốc. Toàn bộ vùng biển, đảo rộng lớn đó của Việt Nam là một bộ
phận cấu thành không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam.
Xét trên tất cả các mặt: kinh tế, chính trị - xã hội, an ninh quốc phòng,
vùng biển, đảo Việt Nam là một địa bàn chiến lược vô cùng quan trọng đối
với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Về mặt kinh tế: vùng biển, đảo Việt Nam là địa bàn giàu tiềm năng cho
phát triển kinh tế đất nước. Do có vị trí chiến lược, nằm trên các tuyến hàng
hải huyết mạch thông thương gữa khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và các
khu vực khác, vùng biển, đảo Việt Nam chính là “cầu nối” cực kỳ quan trọng
để mở rộng giao lưu kinh tế và thu hút đầu tư từ các nước trong khu vực, cũng
như các nước trên thế giới. Đồng thời, đó là nơi chứa đựng, cung cấp cho
chúng ta nhiều nguồn tài nguyên có giá trị kinh tế cao, hết sức phong phú, đa
dạng với một trữ lượng tương đối lớn.


17
Nguồn tài nguyên sinh vật biển: Biển Đông nằm trong khu vực nhiệt
đới gió mùa. Vì vậy, nguồn sinh vật biển ở đây rất phong phú, đa dạng về
giống nòi bao gồm: nguồn lợi tôm cá; nguồn lợi các loài nhuyễn thể (trai,
sò, ốc, mực…); nguồn lợi rừng nước mặn (đước, sú, vẹt, tràm) và các loài
san hô, rong biển v.v… Vùng biển, đảo Việt Nam được đánh giá là vùng
biển giàu có, có hệ sinh thái phong phú vào bậc nhất của khu vực và thế
giới. Chỉ tính riêng về cá, ở đây đã có tới 2.030 loài khác nhau với trữ
lượng khoảng 2.770 nghìn tấn, trong đó có tới hơn 100 loài cá có giá trị
kinh tế cao. Biển, đảo Việt Nam có thể cung ứng khoảng 20% nhu cầu

thực phẩm cho cư dân nước ta, đồng thời đáp ứng các yêu cầu xuất khẩu
mang lại nguồn lợi kinh tế to lớn cho đất nước.
Nguồn tài nguyên khoáng sản: Về tiềm năng khoáng sản trên vùng biển
Việt Nam, cho đến nay chưa có sự khảo sát đầy đủ. Tuy nhiên, bước đầu có
thể thấy vùng biển, đảo Việt Nam chứa đựng trong lòng nhiều nguồn tài
nguyên khoáng sản như: Titan, zircon, thiếc, vàng, ilmenit, đất hiếm, cát thủy
tinh, dầu khí… trong đó, nhiều khoáng sản có trữ lượng lớn, đặc biệt có giá trị
kinh tế cao như dầu khí. Dầu khí được coi là nguồn tài nguyên quan trọng và
có giá trị kinh tế lớn nhất ở thềm lục địa Việt Nam (theo kết quả khảo sát của
các nhà khoa học, trong vùng Biển Đông chỉ tính riêng lượng dầu khí, trữ
lượng đã lên tới 14,1 tỷ thùng, trong đó ở thềm lục địa của biển Việt Nam trữ
lượng vào khoảng 2,9 tỷ thùng). Hiện nay, Việt Nam đã và đang tích cực đầu
tư công nghệ, kỹ thuật kết hợp với hợp tác quốc tế để thăm dò và từng bước khai
thác nguồn dầu khí ở vùng biển nước ta. Đến nay, chúng ta đã bước đầu xác định
được nhiều bồn trầm tích có khả năng dầu khí, như bồn Cửu Long, Nam Côn Sơn,
các bồn ở vùng biển Trung Bộ, bồn Sông Hồng và bồn Thổ Chu – Mã Lai trong
vịnh Thái Lan. Một số mỏ dầu khí đã đi vào khai thác với kết qủa khả quan, mang
lại nguồn ngoại tệ lớn cho đất nước (mỏ Bạch Hổ, mỏ Rồng…).


18
Triển vọng phát triển ngành dầu khí ở nước ta là rất lớn. Ngành công
nghiệp dầu khí ở nước ta đang có những bước khởi sắc và ngày càng khẳng định
là một ngành kinh tế mũi nhọn mang lại nguồn lợi kinh tế cao cho Việt Nam.
Về giao thông vận tải biển: Việt Nam là một quốc gia ven Biển Đông,
có nhiều ưu thế về địa lý cho việc phát triển ngành giao thông hàng hải.
Người ta ví Việt Nam như một “ngôi nhà mặt phố” để nói tới tiềm năng to lớn
về phát triển thương mại, dịch vụ trong nước và quốc tế. Trong đó, cần phải
nói tới vị trí chiến lược của Việt Nam trong lĩnh vực hàng hải. Bờ biển Việt
Nam dài, vùng biển rộng với nhiều eo, vịnh biển, cửa sông phân bố khá dày

từ Bắc vào Nam rất thuận lợi cho việc xây dựng hệ thống cảng biển, trong đó
nhiều nơi có khả năng xây dựng các cảng nước sâu mang tầm cỡ khu vực và
quốc tế, như: Cái Lân, Cửa Ông, Nghi Sơn, Chân Mây, Dung Quất, Văn
Phong, Cam Ranh… hơn nữa bờ biển và vùng biển nước ta, nhất là ở khu vực
Trung Bộ, rất gần với các tuyến hàng hải quốc tế. Những yếu tố đó cho phép
chúng ta bằng đường biển có thể giao thông thuận lợi với tất cả các nước
trong khu vực và trên thế giới, đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi để
chúng ta phát triển ngành dịch vụ hàng hải.
Tài nguyên du lịch: vùng ven biển nói riêng và các vùng biển, đảo Việt
Nam nói chung có ưu thế lớn trong việc hình thành và phát triển các trung
tâm du lịch. Dọc bờ biển có khoảng trên 100 bãi biển lớn, nhỏ thuận lợi cho
phát triển du lịch, trong đó có khoảng 20 bãi biển đạt quy mô và tiêu chuẩn
quốc tế. Các bãi biển nước ta nhìn chung khá bằng phẳng, nước trong, độ
sóng và cấp gió vừa phải, không có ổ xoáy và cá dữ…rất thích hợp cho tắm
biển và vui chơi giải trí trên biển. Các khu vực có tiềm năng du lịch biển lớn
là Vịnh Hạ Long, Quảng Ninh, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Vũng
Tàu...
Tại các khu vực này có thể hình thành các quần thể du lịch biển hiện


19
đại có tầm cỡ quốc tế với nhiều loại hình hoạt động hấp dẫn như tham quan
kết hợp với nghiên cứu, hội nghị, giao dịch thương mại, thể thao, nghỉ ngơi,
giải trí và chữa bệnh…
Ngoài các nguồn tài nguyên nêu trên, cũng cần phải nói thêm rằng, với
một vị trí chiến lược, vùng biển, đảo của nước ta còn được coi là cửa ngõ, là
nơi tạo điều kiện thuận lợi cho nước ta mở rộng giao lưu, thông thương buôn
bán với tất cả các nước trong khu vực và trên thế giới.
Trong xu thế, nguồn tài nguyên trên lục địa ngày càng cạn kiệt, khi các
nước có biển và cả các nước không có biển, đều nhất loạt hướng ra biển, coi

biển là cứu cánh trên bước đường sinh tồn và phát triển, người ta đã và đang
nói tới thế kỷ thứ XXI là thế kỷ của biển khơi – Thế kỷ đại dương. Điều đó
càng cho thấy, tầm quan trọng đặc biệt của biển đối với cả nhân loại trong
qúa trình phát triển. Nước ta có lợi thế về biển, vùng biển, đảo rộng lớn của
nước ta giầu tiềm năng kinh tế, nếu chúng ta biết quản lý, bảo vệ và khai
thác tốt những tiềm năng đó, thì đây sẽ là tiền đề cơ sở có ý nghĩa lớn góp
phần đưa Việt Nam phát triển vững mạnh, nhanh chóng trở thành một nước
giàu có và phồn thịnh. Vì lẽ như vậy, hiện nay vấn đề khai thác tối đa tiềm
năng và lợi thế nhiều mặt của vùng biển, đảo Tổ quốc để phát triển kinh tế
biển vững mạnh với tốc độ phát triển nhanh, tạo sự chuyển biến cơ bản theo
hướng CNH, HĐH; tăng cường bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia trên
biển phải được coi là một trọng điểm trong việc thực hiện chiến lược kinh tế xã hội của nước ta.
Về mặt chính trị xã hội: Nước ta hiện nay có 28/64 tỉnh thành phố ven
biển với tổng dân số xấp xỉ 41,2 triệu người chiếm gần 50% dân số cả nước.
Trong đó có khoảng 21 triệu người trực tiếp sinh sống ở các vùng biển, đảo
và vùng ven biển. Tuy nhiên, mật độ dân số ở các vùng ven biển là không
đồng đều. Mật độ trung bình của các tỉnh ven biển trên cả nước là 369


20
người/km2. Riêng ở các tỉnh vùng biển phía Bắc tính từ Quảng Ninh đến Ninh
Bình mật độ là 981 người/km 2, còn ở khu vực từ Thanh Hoá đến Thừa Thiên
Huế mật độ là 198 người/km 2; tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên cao; trình độ dân
trí tương đối thấp… Trong điều kiện, vùng biển, đảo nước ta hiện nay được
mở rộng ra phía biển với hơn 1 triệu km2, đây sẽ là địa bàn quan trọng để
chúng ta có thể phân bố lại cơ cấu dân cư trong vùng và trong toàn quốc, gắn
với tiến hành phân công lại lao động xã hội góp phần giải quyết sức ép về sự
gia tăng dân số và sự thiếu việc làm của cư dân trên phạm vi cả nước. Nếu
tiến hành tốt các chính sách điều chỉnh cơ cấu dân cư và phân công lại lao
động bằng việc thúc đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế biển, đó sẽ là một

việc làm hết sức có ý nghĩa không chỉ đối với sự phát triển kinh tế chung của
cả nước mà còn mang ý nghĩa chính trị – xã hội sâu sắc.
Về an ninh, quốc phòng: Do đặc điểm vị thế địa hình Việt Nam, phần
đất liền chạy dài theo hướng Bắc - Nam, chiều ngang Đông - Tây hẹp, có
nơi rất hẹp, chỉ vào khoảng 50 đến 60km (như ở Quảng Bình); một bên tựa
vào những dãy núi cao được ví như bức tường thành tự nhiên hiểm trở, bảo
vệ sườn phía Tây - Bắc, một bên hướng ra biển cả mênh mông; toàn bộ địa
hình trên đất liền bị chia cắt mạnh bởi dòng chảy của gần hai trăm con sông
đổ ra biển; bờ biển quanh co, khúc khuỷu, nhiều nơi biển ăn sâu vào đất liền
tạo ra các vũng, vịnh vừa kín gió vừa hiểm yếu về mặt quân sự có thể xây
dựng thành các quân cảng, các căn cứ quân sự mang tầm chiến lược đặc
biệt, ví dụ như khu vực Vũng Rô (Phú Yên), đặc biệt là Cam Ranh (Khánh
Hòa) – là một trong những hải cảng quân sự tốt nhất hiện nay trên thế giới.
Với một thềm lục địa rộng hơn 1 triệu km 2, cùng hơn 3000 hòn đảo nằm rải
rác khắp mặt biển, chia thành nhiều tuyến gần, xa bờ, trong đó có hai quần
đảo án ngữ ngoài cửa biển là Hoàng Sa và Trường Sa… vùng biển, đảo Việt
Nam được coi là “phên dậu” , là cửa ngõ trong thế phòng thủ chiến lược bảo


21
vệ Tổ quốc. Biển, đảo vừa là địa bàn đứng chân, vừa là địa bàn xây dựng
thế trận chiến lược hết sức lợi hại để chống và đánh kẻ thù khi chúng tấn
công, xâm nhập vào nước ta. Khi có chiến tranh xảy ra, chính hệ thống các
đảo gần bờ, trong đó có các điểm đảo quan trọng như: Cô Tô, Quan Lạn,
Ngọc Vừng, (Quảng Ninh), Cát Bà, Bạch Long Vĩ (Hải Phòng), Hòn Mê,
Hòn Mắt (Thanh – Nghệ Tĩnh), Hòn La, Cồn Cỏ (Quảng Bình), Lý Sơn
(Quảng Ngãi), Hòn Tre (Khánh Hòa), Phú Quý (Bình Thuận), Phú Quốc
(Kiên Giang)… sẽ tạo ra bức tường thành tự nhiên vững chắc bảo vệ sườn
phía Đông – Nam Tổ quốc. Đây là những địa bàn lý tưởng xây dựng địa bàn
đứng chân, xây dựng lực lượng, các căn cứ hậu cần quân sự để tổ chức tấn

công kẻ thù khi bị kẻ thù gây sức ép và phong toả các lực lượng của ta trên
đất liền, đồng thời là điểm tựa để chúng ta vươn ra biển cả, mở rộng địa bàn
đứng chân, chủ động đánh địch từ xa trước khi chúng có ý đồ uy hiếp lãnh
hải Tổ quốc. Riêng hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa nằm ở giữa Biển
Đông, án ngữ cửa biển nước ta, là hai quần đảo có vị trí chiến lược đặc biệt
cả về kinh tế và quân sự. Nắm giữ được hai quần đảo này sẽ cho phép có lợi
thế khống chế được các con đường hàng hải quan trọng đi qua Biển Đông,
đồng thời khống chế được mọi hoạt động diễn ra trong khu vực. Hoàng Sa
và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, chính là “tấm lá chắn thép”
bảo vệ cửa ngõ trọng yếu của đất nước.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, cha ông ta đã luôn chú trọng
đến địa bàn biển, đảo, vì nơi đây là địa bàn sống của cư dân, đồng thời là
địa bàn xung yếu để xây dựng thế trận chiến lược chống kẻ thù xâm lược
bảo vệ Tổ quốc. Xuyên suốt lịch sử thời phong kiến , vùng biển, đảo Tổ
quốc luôn được quan tâm xây dựng phát triển, trở thành thế trận phòng thủ
lợi hại trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Thời Lý – Trần - Lê, các triều đại
phong kiến đã xây dựng tuyến phòng thủ Ngọc Vừng – Quan Lạn, trên


22
vùng biển Đông – Bắc. Cảng Vân Đồn trở thành một thương cảng, đồng
thời là một quân cảng nổi tiếng của Đại Việt. Năm 1172, vua Lý Nhân
Tông đã đích thân đi tuần tra các đảo ngoài biển và cho vẽ bản đồ các vùng
biển, đảo. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, việc vẽ bản đồ lãnh thổ
quốc gia trên biển được tiến hành. Thời nhà Nguyễn, dưới đời vua Minh
Mạng, Nhà nước đã cho ấn bản tập Thiên Nam Tứ Chi Lộ Đồ (theo một số
nguồn sử liệu, tập bản đồ này ra đời vào năm 1686), có ghi rõ địa danh hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên bản đồ đất nước. Cũng chính vua
Minh Mạng đã xuống lệnh cho cắm cột mốc, bia chủ quyền, xây dựng chùa
miếu và trồng cây ngoài các đảo Hoàng sa, Trường sa… Như vậy, rõ ràng

hoạt động của các ông vua thời phong kiến đã cho thấy ngay từ rất sớm dân
tộc ta đã có ý thức về biển, đảo, coi biển, đảo là địa bàn quan trọng trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lịch sử dựng nước của dân tộc
cũng cho thấy rằng, dân tộc ta là một dân tộc giỏi thuỷ chiến. Lợi dụng địa
bàn sông nước, địa bàn biển đảo để xây dựng thế trận, tổ chức các đòn
đánh chiến lược nhằm giành thắng lợi trong cuộc chiến chính là một nét
tinh tuý trong nghệ thuật tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của người
Việt Nam. Những trận chiến như: Trận chiến trên cửa sông Bạch Đằng, do
Ngô Quyền chỉ huy, đánh bại quân xâm lược Nam Hán (938); trận chiến
trên sông Như Nguyệt, thời nhà Lý, do Lý Thường Kiệt chỉ huy đánh bại
quân xâm lược Tống (1075 – 1077); trận chiến trên cửa sông Bạch Đằng,
thời nhà Trần do Trần Quốc Tuấn chỉ huy đánh bại đoàn thuỷ binh hàng
vạn tên của quân xâm lược Mông - Nguyên (1288); trận chiến Rạch Gầm –
Soài Mút do Nguyễn Huệ chỉ huy đánh bại 5 vạn quân Xiêm (1785)…
chính là những minh chứng hùng hồn khẳng định truyền thống quý báu đó.
Ngay ở thời kỳ hiện đại, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954
- 1975), khi đế quốc Mỹ tìm mọi cách chia cắt, phong tỏa chúng ta trên đất


23
liền với mưu đồ chặn đứng con đường tiếp tế của hậu phương miền Bắc
XHCN cho tiền tuyến miền Nam, Đảng và Nhà nước ta đã quyết định mở
con đường xuyên Biển Đông để tiếp viện cho chiến trường miền Nam
thành công, góp phần thắng lợi vào chiến thắng của cuộc kháng chiến.
Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng vùng biển, đảo cũng chính là nơi mà
kẻ thù thường hay lợi dụng để đột nhập, tấn công xâm lược nước ta. Lịch
sử dân tộc đã chứng minh trong 14 cuộc xâm lược Việt Nam, có tới 10
cuộc kẻ thù tấn công xâm lược chúng ta từ hướng biển. Điều đó càng cho
thấy, vùng biển, đảo Việt Nam có một vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng
không chỉ đối với phát triển kinh tế – xã hội, mà còn với cả quốc phòng,

an ninh đất nước. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc không chỉ mang ý
nghĩa là bảo vệ một địa bàn sống, địa bàn phát triển kinh tế của đất nước,
mà đó còn là bảo vệ một địa bàn phòng thủ chiến lược lợi hại, nằm trong
thế trận quốc phòng – an ninh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
1.1.2. Chính sách của các nước đối với Biển Đông và tác động của
nó tới việc bảo vệ chủ quyền biển đảo của nước ta hiện nay
Trong xu thế nguồn nguyên liệu trên lục địa ngày càng cạn kiệt không
gian sống trên đất liền ngày càng trở nên chật chội do sự bùng nổ gia tăng dân
số, hầu hết các quốc gia trên thế giới, nhất là các quốc gia có tiềm lực kinh
tế, khoa học - kỹ thụât, quân sự mạnh, như Anh, Pháp, Mĩ, Trung Quốc… Bắt
đầu bước vào một cuộc đua tranh lớn nhằm “tranh đoạt không gian sinh tồn”
trong khoảng không vũ trụ và tầng sâu hải dương. Hướng ra biển được coi là
xu thế phổ biến đối với tất cả quốc gia có biển, cũng như không có biển.
Biển Đông, do có vị trí cực kỳ quan trọng về kinh tế, quân sự đã trở
thành địa bàn có ý nghĩa to lớn trong chiến lược phát triển không chỉ đối với
Việt Nam, các nước xung quanh Biển Đông mà còn đối với cả nhiều cường quốc
khác như Mĩ, Nga, Nhật Bản, Trung Quốc… Xuất phát từ nhiều lợi ích kinh tế,


24
chính trị khác nhau, các nước đều muốn khẳng định thế mạnh trên biển, để tranh
giành ảnh hưởng, cũng như lợi ích của mình ở địa bàn chiến lược này.
Đối với Mỹ: Vốn là một cường quốc hàng đầu của thế giới, nằm bên bờ
2 đại dương lớn là Đại Tây Dương và Thái Bình Dương. Vì thế Mỹ khẳng
định, họ trước hết phải là “Một cường quốc đại dương”. Biển Đông có vị trí
chiến lược đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của khu vực và thế giới,
đồng thời cũng là khu vực mà Mỹ có nhiều đồng minh chính trị và lợi ích
kinh tế. Cho nên, Mỹ luôn tìm mọi cách tăng cường duy trì ảnh hưởng và sự
có mặt ở đây nhằm vừa bảo đảm an toàn cho con đường huyết mạch trên biển
giữa Mỹ với các nước Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, Trung Cận Đông…

vừa khống chế khu vực, thực hiện mưu đồ làm bá chủ thế giới. Trong báo cáo
của Bộ Trưởng quốc phòng Mĩ Oenbơgiơ trình Quốc hội vào năm tài chính
1984, đã khẳng định:
Tầm quan trọng của an ninh Đông Á và Thái Bình Dương đối với Mĩ
được thể hiện bằng những hiệp ước tay đôi với Nhật Bản, Triều Tiên,
Philipphin; Hiệp ước Manila cộng thêm Thái Lan vào với những nước
cùng ký Hiệp ước của chúng ta; và Hiệp ước của chúng ta với Oxtrâylia
và Niudilân – Hiệp ước Azus. Tầm quan trọng đó được cân bằng cao
hơn bằng việc triển khai các lực lượng trên bộ và trên không ở Triều
Tiên, Nhật Bản và việc triển khai thêm Hạm đội 7 ở Thái Bình Dương.
Những mục tiêu quan trọng nhất của chúng ta, cùng với bạn bè đồng
minh của chúng ta trong khu vực này là: duy trì an ninh những đường
biển chủ yếu của chúng ta, những lợi ích của Mỹ trong khu vực…ngăn
chặn Liên Xô, Bắc Triều Tiên và Việt Nam không được can thiệp vào
công việc của các nước khác; xây dựng mối quan hệ chiến lược lâu bền
với Cộng hoà nhân dân Trung Hoa và ủng hộ sự ổn định và độc lập của
các nước bạn [35 tr.176].


25
Từ năm 1992, Mỹ đã rút các căn cứ quân sự ra khỏi Philippin,
nhưng vẫn tìm cách duy trì sự có mặt về quân sự ở Biển Đông. Hạm đội 7
của Mỹ vẫn thường xuyên qua lại Biển Đông, tổ chức các cuộc diễn tập
Hải quân song phương và đa phương với các nước thành viên của ASEAN.
Mấy năm gần đây, Mỹ đã gia tăng sự có mặt về quân sự, chuẩn bị cơ sở để
tăng cường khả năng can thiệp quân sự vào khu vực này. Đặc biệt, sau sự
kiện 11- 9 - 2001, lấy cớ chống khủng bố Mỹ đã vận động được một số
nước Đông Nam Á đồng ý cho Mỹ sử dụng các căn cứ quân sự trên lãnh
thổ của họ khi cần thiết. Gần đây, Mỹ còn tăng cường viện trợ cho những
nước liên quan đến tranh chấp quần đảo Trường Sa, tạo điều kiện cho họ có

thái độ cứng rắn và hành động kiên quyết hơn trong tranh chấp, khiến cho
tình hình thêm phần căng thẳng.
Đối với Nhật Bản: Là một quốc gia đảo, có diện tích không lớn
(372.000km2), nhưng dân số đã vượt quá 120 triệu người từ giữa thập kỷ 80
của thế kỷ XX, đất nước rất nghèo tài nguyên. Vì vậy, Nhật Bản coi hướng
phát triển về biển là yếu tố quan trọng để phát triển đất nước.
Theo người Nhật, Biển Đông có tầm quan trọng sống còn đối với nền
kinh tế của mình, xuất phát từ nhiều lý do, nhưng trong đó chủ yếu là vì:
Khoảng 50 – 70% lượng dầu nhập khẩu và 45% hàng hoá của Nhật Bản được
vận chuyển qua Biển Đông; Đông Nam Á là thị trường quan trọng của Nhật
Bản, đồng thời, đó cũng là nơi đang diễn ra sự tranh chấp gay gắt giữa Nhật
Bản với một số nước khác.
Nhật Bản muốn tăng cường vị thế chính trị ngang tầm với vị thế kinh tế
của mình trên thế giới, bằng cách can dự nhiều hơn vào các sự kiện của thế
giới và khu vực. Với Biển Đông, Nhật Bản muốn tăng cường ảnh hưởng của
mình, ngăn chặn, hạn chế tham vọng của Trung Quốc ở khu vực này, muốn
tham gia nhiều hơn vào việc giải quyết các vấn đề của Biển Đông, trong đó có


26
Trường Sa. Nhật Bản cũng muốn thăm dò, khai thác tài nguyên ở Biển Đông
và đặc biệt quan tâm đến nguồn dầu khí lớn ở đây. Vì lý do như vậy, Nhật
Bản đã tuyên bố đòi hỏi bảo đảm các con đường biển cách Nhật 1000 hải lý
(1852 km), bao gồm toàn bộ đường hàng hải trên Biển Đông. Về quân sự, tuy
chỉ có lực lượng phòng vệ, song Hải quân Nhật Bản đã được đánh giá là lực
lượng hải quân mạnh nhất khu vực Đông Á. Nhật Bản hiện có hơn 60 tàu hộ
vệ và tàu khu trục, 16 tàu ngầm, 200 máy bay chống tàu ngầm, 4 hạm đội
“Bát Đát” và 10 quần thể tàu bảo vệ. Bắt đầu từ những năm 90 của thế kỷ
XX, Nhật Bản trang bị tàu khu trục tên lửa cấp 2200 tấn, tàu ngầm cấp 2400
tấn, tàu tên lửa và ngư lôi cấp 1000 tấn, 100 máy bay tuần tra chống tàu

ngầm loại P-3C. Chính sách phòng vệ biển của Nhật Bản cơ bản luôn tỏ rõ
thái độ cứng rắn. Nhật Bản công khai tuyên bố chủ trương: sẵn sàng dùng lực
lượng hải quân mạnh để “dìm kẻ thù trên biển”. Hiện nay Nhật Bản vẫn tiếp
tục duy trì, tăng cường hợp tác với Mỹ trong việc phòng thủ chung ở Đông Á
nhằm tạo hậu thuẫn cho nhau, tăng cường thế lực khống chế lợi ích ở khu vực
này.
Đối với Trung Quốc: là một quốc gia lục địa khổng lồ (diện tích lục địa
9.600.000 km2), đồng thời, là quốc gia ven biển lớn (có 18.000km bờ biển).
Nhưng trong lịch sử, suốt một thời gian dài Trung Quốc chỉ quan tâm đến lục
địa mà ít quan tâm đến hướng phát triển về biển. Theo người Trung Quốc,
chính sự “quay lưng lại với biển” của dân tộc là một trong những lý do khiến
cho Trung Quốc chưa thể phát triển hưng thịnh như tiềm năng vốn có. Cho
đến đầu thế kỷ XX Trung Quốc mới chú ý đến biển, và bắt đầu có những hoạt
động tranh giành biển, đảo với các nước khác.
Từ thập kỷ 80 của thế kỷ XX, Trung Quốc bắt đầu nghiên cứu và định
hình chiến lược biển quốc gia, nhằm biến Trung Quốc trước hết thành cường
quốc biển trong khu vực, tiến tới thành một cường quốc biển hàng đầu thế


27
giới. Người Trung Quốc cho rằng: “Biển là lối thoát của dân tộc Trung Hoa để
sinh tồn và phát triển”, những phần biển mà Trung Quốc được hưởng chưa
tương xứng với tầm vóc của Trung Quốc. Vì vậy, việc tranh giành biển, đảo để
mở rộng chủ quyền lãnh thổ về phía biển là tất yếu đối với Trung Quốc.
Trong chiến lược biển của Trung quốc hiện nay, Biển Đông được coi là
hướng phát triển chủ yếu, là bàn đạp để tiến ra đại dương, là nơi thử nghiệm
chính sách vươn lên thành cường quốc hàng đầu thế giới của Trung Quốc.
Năm 1950, Trung Quốc công bố bản đồ xác định biên giới trên biển ở Cực
Nam là vĩ tuyến 400 Bắc. Điều đó cũng có nghĩa, Trung Quốc khẳng định
80% diện tích Biển Đông thuộc chủ quyền của Trung Quốc (năm 1906 bản đồ

Trung Quốc mới chỉ xác định Cực Nam ở 18 013’ Bắc – nằm tại cực Nam đảo
Hải Nam). Ngày 15-8-1951, Ngoại trưởng Chu Ân Lai tuyên bố yêu sách về
biển, đảo theo bản đồ mà Trung Quốc đã hoạch định. Trung Quốc cho rằng,
để đưa biên giới phía Nam đến vĩ tuyến 04 0 Bắc (đến đảo Borneo Indonexia), vấn đề mấu chốt là phải làm chủ hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa, xây dựng ở đó những căn cứ chiến lược để khống chế các nước
ven Biển Đông và toàn bộ khu vực Đông Nam Á (Thực tế từ năm 1974,
Trung Quốc đã chiếm Hoàng sa và hiện đang chiếm đóng trái phép 7 đảo,
thuộc quần đảo Trường sa của Việt Nam). Vì lý do đó, Trung Quốc đã tăng
cường đầu tư cho phát triển hải quân. Trung Quốc đã hoàn thành “Chương
trình xây dựng hải quân 13 năm (1987 – 2000)”. Hiện nay Hải quân Trung
Quốc được đánh giá là lực lượng hải quân lớn nhất, mạnh nhất khu vực, mạnh
hơn hải quân của tất cả các nước khác quanh Biển Đông cộng lại, đứng thứ
hai thế giới về quân số và số lượng máy bay của hải quân, thứ 3 thế giới về số
lượng tàu chiến đấu lớn và tàu ngầm. Hạm đội Nam Hải trước đây là hạm đội
yếu nhất, nay trở thành hạm đội mạnh nhất trong 3 hạm đội của Hải quân
Trung Quốc. Luật lãnh hải và vùng tiếp giáp của Trung Quốc giành cho Hải


×