Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Nghiên cứu giải pháp giảm nghèo bền vững cho hộ nông dân trên địa bàn huyện hoàng su phì, tỉnh hà giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (535.02 KB, 93 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mỗi một quốc gia dù nền kinh tế đã phát triển nhưng trong xã hội quốc gia
đó vẫn luôn tồn tại một bộ phận không nhỏ là người nghèo. Vì vậy trong chương
trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong ngắn hạn và dài hạn,
Chính phủ luôn đề ra chương trình xóa đói, giảm nghèo được đặt trong chiến lược
và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT – XH) của quốc gia và địa phương.
Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến vấn đề đói nghèo, giải
quyết tình trạng đói nghèo trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Đảng ta khẳng định xóa đói, giảm nghèo (XĐGN) là chủ trương lớn của Đảng và
Nhà nước mà cả hệ thống chính trị phải nêu cao quyết tâm chính trị để thực hiện
bằng được mục tiêu quan trọng này nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần
cho người nghèo, thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, địa bàn
và giữa các dân tộc, nhóm dân cư trong xã hội.
Trong thực tế, hoạt động giảm nghèo đã đạt được những tiến bộ đáng kể
nhưng còn không ít khó khăn, thách thức cần vượt qua để thực hiện mục tiêu thiên
niên kỷ của Liên hiệp quốc mà Việt Nam đã cam kết. Trong những năm qua Việt
Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong công tác xóa đói giảm nghèo được
thế giới và các tổ chức quốc tế ghi nhận. Trong vòng 20 năm (1990 – 2010) tỷ lệ
nghèo ở Việt Nam đã giảm từ gần 60% xuống còn 20,7% với khoảng hơn 30 triệu
người thoát nghèo.
Hiện nay, tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước còn cao nằm ở tất cả các loại hình kinh
tế hộ, chủ yếu là hộ nông dân, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng
xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong đó có huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang.
Đến năm 2014 huyện Hoàng Su Phì vẫn nằm trong 62 huyện nghèo nhất cả
nước, tỷ lệ hộ nghèo của Hoàng Su Phì chiếm tới 34%, đặc biệt là ở các hộ nông
dân và dân tộc thiểu số. Vì vậy việc nghiên cứu, lý giải một cách có hệ thống, đánh
giá được thực trạng đói nghèo và đề xuất những giải pháp chủ yếu cho công tác
giảm nghèo bền vững cho hộ nông dân trên địa bàn huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà
Giang là rất cần thiết và có ý nghĩa.




2
Xuất phát từ thực tế trên, tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu giải
pháp giảm nghèo bền vững cho hộ nông dân trên địa bàn huyện Hoàng Su Phì,
tỉnh Hà Giang”
2. Mục tiêu nghiên cứu
* Mục tiêu chung
Đề tài nghiên cứu nhằm tìm hiểu thực trạng nghèo của hộ nông dân trên địa
bàn huyện. Những nguyên nhân dẫn đến nghèo và đưa ra những giải pháp góp phần
xóa đói, giảm nghèo bền vững.
* Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu đánh giá được thực trạng nghèo của hộ nông dân trên địa bàn
huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang.
- Phân tích những nguyên nhân dẫn đến nghèo của hộ nông dân trên địa bàn
huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang.
- Đề xuất giải pháp giảm nghèo bền vững cho hộ nông dân trên địa bàn
huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang.
3. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu giúp người dân địa phương huyện Hoàng Su Phì hiểu rõ
hơn về thực trạng nghèo trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời giúp những hộ thuộc
diện đói nghèo tự trang bị cho mình những tri thức hiểu biết cần thiết, biết khai thác
tiềm năng sẵn có ở địa phương, các nguồn nội lực của gia đình và bản thân. Phát
huy và vận dụng đúng đắn hợp lý các cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước đã
ban hành trong công tác xóa đói, giảm nghèo một cách thuận lợi, có hiệu quả.
Góp phần giúp các nhà quản lý ở địa phương có cái nhìn đầy đủ hơn về thực
trạng nghèo đói hiện nay. Từ đó có những cơ chế, chính sách đúng đắn, sát thực phù
hợp với nhu cầu giảm nghèo của người dân cũng như phù hợp với khả năng hỗ trợ
của Nhà nước. Mà mục tiêu quan trọng nhất là rút ngắn khoảng cách phân biệt giàu
nghèo giữa các vùng, các dân tộc, nhóm dân cư, giảm nghèo nhanh và phát triển bền

vững, tạo ra sự công bằng trong xã hội.
Kết quả nghiên cứu đề tài được coi là một tài liệu tham khảo cho sinh viên,
cán bộ nghiên cứu, các cấp chính quyền địa phương.


3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học
1.1.1. Một số khái niệm
* Khái niệm về nghèo đói
Khái niệm về đói nghèo được nêu ra tại Hội nghị bàn về XĐGN ở khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương do Eccap tổ chức tại Băng Cốc – Thái Lan tháng 9 năm
1993 như sau “Đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và
thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận, tùy theo
trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tạp quán của từng địa phương” [11].
Theo khái niệm này không có chuẩn nghèo chung cho mọi quốc gia, chuẩn nghèo
cao hay thấp phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi nước và thay đổi theo thời gian
và không gian.
Một khái niệm khác được đưa ra tại báo cáo chung của các nhà tài trợ hội
nghị tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam tháng 12 năm 2003 như sau: “Nghèo là
tình trạng bị thiếu ở nhiều phương diện: thu nhập hạn chế hoặc thiếu cơ hội tạo thu
nhập, thiếu tài sản để đảm bảo tiêu dùng trong những lúc khó khăn và dễ bị tổn
thương trước những đột biến bất lợi, ít được tham gia quá trình ra quyết định…”.
Khái niệm này cho thấy người nghèo không chỉ thiếu thốn về vật chất mà còn thiếu
thốn cả về đời sống văn hóa tinh thần, vị thế trong xã hội thấp. Tuy nhiên tiêu chí và
chuẩn mực đánh giá phân loại sự nghèo còn phụ thuộc vào từng vùng, từng điều
kiện lịch sử nhất định.
Để phân biệt một cách chi tiết hơn, người ta còn phân chia nghèo thành hai
loại là nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. Sự phân chia này giúp cho mỗi quốc gia

đề ra những giải pháp XĐGN phù hợp. Trên thực tế thì sự cố gắng của mỗi quốc gia
cũng chỉ xóa được nghèo tuyệt đối, còn nghèo tương đối thì luôn tồn tại hiện diện ở
bất kể quốc gia nào, trình độ phát triển kinh tế nào.
+ Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng của một số bộ phận dân cư không có khả
năng thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống. Nó là tình trạng con
người không có ăn, không đủ lượng dinh dưỡng tối thiểu, cần thiết. Theo quy định


4
của Ngân hàng Thế giới (WB) nhu cầu dinh dưỡng đối với các nước Đông Nam Á
phải đạt số lượng là 2.100 calo/người/ngày.
+ Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức
trung bình của cộng đồng ở một thời kỳ nhất định. Nghèo tương đối phát triển theo
không gian và thời gian nhất định, tùy thuộc vào mức sống chung của xã hội. Như
vậy, nghèo tương đối gắn liền với sự chêch lệch về mức sống của một bộ phận dân
cư so với mức sống trung bình của địa phương ở một thời kỳ nhất định.
* Khái niệm về giảm nghèo
Giảm nghèo là làm cho bộ phận dân cư nghèo nâng cao mức sống, từng bước
thoát khỏi tình trạng nghèo. Điều này được thể hiện ở tỷ lệ phần trăm và số lượng
người nghèo giảm xuống. Hay giảm nghèo là quá trình chuyển bộ phận dân cư
nghèo lên mức sống cao hơn.
Sự thống nhất giữa hai mục tiêu này: Nếu giảm nghèo đạt được mục tiêu thì
đồng thời cũng xóa đói luôn. Do vậy thực chất giảm nghèo và xóa đói là đồng
nghĩa.
* Khái niệm về hộ, hộ nông dân
+ Khái niệm về hộ: Có nhiều quan điểm khác nhau định nghĩa về hộ, có thể
hiểu hộ theo định nghĩa sau:
“Hộ là tất cả những người sống chung trong một mái nhà. Nhóm người đó
bao gồm những người cùng chung huyết tộc và những người làm công” – Theo từ
điển ngôn ngữ của Mỹ (Oxford Press – 1987).

“Hộ là một đơn vị cơ bản của xã hội, có liên quan đến sản xuất, tái sản xuất,
đến tiêu dùng và các hoạt động xã hội khác” (Thảo luận quốc tế lần thứ 4 về Quản
lý nông trại tại Hà Lan, 1980”.
+ Khái niệm hộ nông dân: Hộ nông dân là những hộ chủ yếu hoạt động nông
nghiệp theo nghĩa rộng, bao gồm cả nghề rừng, nghề cá và hoạt động phi nông
nghiệp ở nông thôn.
Theo Elliss – 1988 thì “Hộ nông dân là các nông hộ thu hoạch các phương
tiện sống từ ruộng đất, sử dụng chủ yếu lao động gia đình trong sản xuất nông trại,
nằm trong một hệ thống kinh tế rộng lớn nhưng về cơ bản được đặc trưng bằng việc


5
tham gia một phần trong thị trường hoạt động với một trình độ hoàn chỉnh không
cao”.
Hộ nông dân có những đặc điểm chính đó là:
- Hộ nông dân là một đơn vị kinh tế cơ sở, vừa là một đơn vị sản xuất vừa là
một đơn vị tiêu dùng.
- Các hộ nông dân ngoài hoạt động nông nghiệp còn tham gia vào hoạt động
phi nông nghiệp với các mức độ khác nhau.
Do đó chúng ta cần quan tâm đến nông dân vì nông dân là lực lượng đông
đảo, chủ yếu, năng động và nhạy cảm, là nguồn cung cấp nhân lực, lương thực, thực
phẩm và tiêu thụ sản phẩm của công nghiệp và các ngành khác. Vì vậy trong công
tác phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, tìm hiểu, nghiên cứu giải pháp giảm
nghèo bền vững cho hộ nông dân cần phải được quan tâm.
1.1.2. Vấn đề về giảm nghèo bền vững
Giảm nghèo bền vững là một khái niệm mới được đưa vào sử dụng khá phổ
biến trong thời gian gần đây trên các diễn đàn, trên các hội nghị, hội thảo và các
chính sách vĩ mô về công tác xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên đến nay chúng ta vẫn
chưa có một khái niệm cụ thể nào về thuật ngữ này. Do vậy, để tìm hiểu khái niệm
về giảm nghèo bền vững chúng ta cần phải tìm hiểu rộng hơn về các vấn đề này, nó

bao gồm các nội dung về giảm nghèo và phát triển bền vững.
1.1.2.1. Quan điểm về thoát nghèo, tái nghèo, rớt xuống nghèo và thoát nghèo
bền vững
Chúng tôi chưa thể đưa ra một cách đầy đủ khái niệm về thoát nghèo, tái
nghèo, rớt xuống nghèo và thoát nghèo bền vững, nhưng để phục vụ cho việc
nghiên cứu đề tài, cần thiết phải làm rõ các nội dung này. Qua nghiên cứu tài liệu và
tham khảo ý kiến các chuyên gia và các nhà khoa học, chúng tôi xin được trình bày
một số quan điểm về các nội dung trên.
Thoát nghèo: Một hộ được coi là thoát nghèo khi hộ đang là hộ nghèo theo
chuẩn nghèo, đã có được thu nhập bình quân đầu người cao hơn mức nghèo theo
chuẩn nghèo cho từng khu vực và trong từng giai đoạn khác nhau, ví dụ trong giai
đoạn 2011 – 2015 là những hộ có thu nhập trên 400.000 đồng/người/tháng đối với


6
khu vực nông thôn và trên 500.000 đồng/người/tháng đối với thành thị được coi là
hộ thoát nghèo.
Tái nghèo: Một hộ được gọi là tái nghèo khi hộ đó đã thoát nghèo nhưng vì
nguyên nhân nào đó đã không còn đủ khả năng ứng phó với những bất lợi trong
cuộc sống dẫn đến đói nghèo, tức là có mức thu nhập thấp hơn mức chuẩn nghèo
cho từng khu vực và trong từng giai đoạn. Hiện tượng này xảy ra khá phổ biến khi
có các tác động của thiên tai, rủi ro, bệnh tật hoặc do chuẩn nghèo thay đổi lên mức
cao hơn.
Rớt xuống nghèo: Một hộ được gọi là rớt xuống nghèo nếu hộ thường xuyên
có thu nhập ở trên mức nghèo theo chuẩn nghèo cho từng khu vực và trong từng
giai đoạn khác nhau, nhưng vì một lý do nào đó hộ không còn đủ cơ hội để ứng phó
với những bất lợi trong cuộc sống hoặc có thu nhập của hộ chỉ thấp hơn mức chuẩn
nghèo cho từng khu vực và trong từng giai đoạn.
Thoát nghèo bền vững: Một hộ được gọi là thoát nghèo bền vững nếu đang là
hộ nghèo đã có thu nhập ổn định và phát triển có mức thu nhập trên mức chuẩn

nghèo cho từng khu vực, trong từng giai đoạn (kể cả việc tăng mức chuẩn nghèo),
họ không bị tái nghèo và có các kỹ năng, đủ năng lực để ứng phó với những bất lợi
xảy ra.
1.1.2.2. Giảm nghèo bền vững là gì?
Như vậy, tuy chưa có một khái niệm chung, đầy đủ cho “Giảm nghèo bền
vững” nhưng có thể hiểu là để giảm nghèo bền vững cần phải kết hợp và thỏa mãn
cả hai yêu cầu đó là: Giảm nghèo và Phát triển bền vững, điều đó thể hiện trên các
khía cạnh tạo cơ hội cho người nghèo thoát nghèo, ổn định và không ngừng tăng thu
nhập để không bị tái nghèo khi có các tác động bất lợi của tự nhiên và xã hội. Việc
giảm nghèo phải đảm bảo cùng với sự phát triển bền vững trên các mặt kinh tế, xã
hội và môi trường.
1.1.3. Chuẩn mực xác định đói nghèo
1.1.3.1. Chuẩn mực xác định nghèo đói trên thế giới
Phương pháp xác định đường đói nghèo theo chuẩn nghèo quốc tế do Tổng
cục Thống kê, Ngân hàng thế giới xác định và được thực hiện trong các cuộc khảo


7
sát mức sống dân cư ở Việt Nam (năm 1992 – 1993 và năm 1997 – 1998). Đường
đói nghèo thứ 2 ở mức cao hơn gọi là đường đói nghèo chung (bao gồm cả mặt
hàng lương thực, thực phẩm và phi lương thực, thực phẩm). Đường đói nghèo về
lương thực, thực phẩm được xác định theo chuẩn mà hầu hết các nước đang phát
triển cũng như Tổ chức Y tế Thế giới và các cơ quan khác đã xây dựng mức kcal tối
thiểu cần thiết cho mỗi thể trạng con người, là chuẩn về nhu cầu 2.100
kcal/người/ngày. Những người có mức chi tiêu dưới mức chi cần thiết để đạt được
lượng kcal này gọi là nghèo về lương thực, thực phẩm. Đường đói nghèo chung tính
thêm các chi phí cho các mặt hàng phi lương thực, thực phẩm. Tính cả chi phí này
với đường đói nghèo về lương thực, thực phẩm ta có đường đói nghèo chung (chuẩn
nghèo).
Để tiện cho việc điều tra khảo sát, tính toán và đánh giá, người ta chuyển từ

nhu cầu chi tiêu sang mức thu nhập. Những người có mức thu nhập thấp hơn chuẩn
nghèo được xếp vào nhóm người nghèo, còn những ai có mức thu nhập thấp hơn
mức chi tiêu cho lương thực, thực phẩm thì được xếp vào nghèo về lương thực, thực
phẩm. Một điều đáng lưu ý là khi xác định người nghèo phải gắn với thu nhập bình
quân của hộ gia đình, tuy vậy tỷ lệ hộ nghèo không đồng nghĩa với tỷ lệ người
nghèo.
Thông thường trong một quốc gia, tỷ lệ người nghèo bao giờ cũng cao hơn tỷ
lệ hộ nghèo, vì vậy quy mô của hộ gia đình của nhóm hộ nghèo thường lớn hơn hộ
không nghèo.
Chuẩn nghèo là một khái niệm động, nó biến động theo không gian và thời
gian. Về không gian nó biến động theo trình độ phát triển KT – XH của từng vùng
hay từng quốc gia. Ví dụ ở Việt Nam, chuẩn nghèo thay đổi theo vùng sinh thái
khác nhau, đó là vùng đô thị, vùng nông thôn đồng bằng, vùng nông thôn miền núi
[1]. Về thời gian, chuẩn nghèo đói cũng có sự biến động. Nó biến động theo trình
độ phát triển KT – XH và nhu cầu của con người theo từng giai đoạn lịch sử, vì kinh
tế, xã hội phát triển thì đời sống con người cũng được cải thiện tốt hơn, tất nhiên
không phải tất cả các nhóm dân cư đều có tốc độ cải thiện giống nhau, thông thường
thì nhóm không nghèo có tốc độ tăng mức thu nhập, mức sống cao hơn nhóm nghèo


8
[1]. Theo quan niệm trên, Ngân hàng Thế giới đưa ra kiến nghị theo nghèo đói như
sau. [12]
+ Đối với các nước nghèo: Các cá nhân bị coi là nghèo khi mà có thu nhập
dưới 0,5 usd/ngày.
+ Đối với các nước đang phát triển là 1 usd/ngày.
+ Đối với các nước thuộc châu Mỹ La Tinh và Caribe là 2 usd/ngày.
+ Các nước Đông Âu là 4 usd/ngày.
+ Các nước công nghiệp phát triển là 14,4 usd/ngày.
Vì vậy, các quốc gia đều tự đưa ra chuẩn nghèo riêng của mình, thông

thường nó thấp hơn thang nghèo mà Ngân hàng đưa ra. Ví dụ Mỹ đưa ra chuẩn
nghèo là mức thu nhập dưới 16.000 kcal đối với một hộ gia đình chuẩn (gia đình 4
người) trong một năm, tương đương với 11,1 usd/ngày/người; Trung Quốc đưa ra
chuẩn nghèo 960 nhân dân tệ một năm/1 người, tương đương với 0,33
usd/ngày/người. [11]
1.1.3.2. Chuẩn mức xác định đói nghèo ở Việt Nam
Căn cứ vào quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế, nguồn lực tài chính và
mức sống thực tế của người dân ở từng vùng, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội
Việt Nam đưa ra chuẩn nghèo đói nhằm lập danh sách hộ nghèo từ cấp thôn, xã và
danh sách xã nghèo từ cấp huyện trở lên. [5]
Bảng 1.1: Chuẩn nghèo đói được xác định qua các thời kỳ từ năm
1993 đến 2015
Giai đoạn
1. Giai đoạn 1993 – 1995
Khu vực nông thôn
Khu vực thành thị
2. Giai đoạn 1995 – 1997
Vùng nông thôn miền núi, hải đảo
Vùng nông thôn đồng bằng, trung du
Vùng thành thị
3. Giai đoạn 1997 – 2000

Đơn vị tính
Gạo
Kg/người/tháng
Kg/người/tháng
Gạo
Kg/người/tháng
Kg/người/tháng
Kg/người/tháng

Tiền

Hộ đói
(Dưới mức)

Hộ nghèo
(Dưới mức)

8
13

15
20

13
13
13

15
20
25


9
Vùng nông thôn miền núi, hải đảo
Vùng nông thôn đồng bằng, trung du
Vùng thành thị
4. Giai đoạn 2001 – 2005
Vùng nông thôn miền núi, hải đảo
Vùng nông thôn đồng bằng, trung du

Vùng thành thị
5. Giai đoạn 2005 – 2010
Khu vực nông thôn
Khu vực thành thị
6. Giai đoạn 2010 – 2015
Khu vực nông thôn
Khu vực thành thị

Đồng/người/tháng
45.000
55.000
Đồng/người/tháng
45.000
70.000
Đồng/người/tháng
45.000
90.000
Tiền
Đồng/người/tháng
80.000
Đồng/người/tháng
100.000
Đồng/người/tháng
150.000
Tiền
Đồng/người/tháng
200.000
Đồng/người/tháng
260.000
Tiền

Đồng/người/tháng
400.000
Đồng/người/tháng
500.000
Nguồn: Bộ Lao động Thương binh xã hội

1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Tình hình xóa đói giảm nghèo trên thế giới
Thực trạng nghèo đói đã diễn ra rất phổ biến và ở tất cả mọi nơi trên thế giới.
Từ những nước có nền kinh tế phát triển, đang phát triển và chậm phát triển. Song
nghèo đói tập trung nhiều nhất ở các quốc gia chậm phát triển và đang phát triển, số
người nghèo đói tập trung chủ yếu ở Châu Á và Châu Phi. Theo Ngân hàng Thế
giới, Châu Phi là khu vực có nhiều người nghèo cùng cực nhất trên thế giới với mức
chi tiêu trung bình khoảng 70 Uscent/ngày, thấp hơn nhiều so với khu vực khác;
Vùng Nam Sa mạc Sahara là khu vực duy nhất mà tỷ lệ người nghèo hầu như không
thay đổi: 51% năm 1981 và 50% năm 2008, nếu tính theo đầu người, số người sống
dưới mức nghèo khổ ở khu vực này còn tăng gấp đôi, từ 202 triệu người năm 1981
lên 384 triệu người vào năm 2008. Nhưng ngay cả nước Mỹ, một cường quốc kinh
tế thế giới cũng không phải ngoại lệ. Theo tính toán của Cục Thống kê Mỹ, năm
2008 tỷ lệ nghèo đói chính thức trong tổng số dân nước này sẽ tăng từ 12,5% lên
15,3% tương đương 45,7 triệu người. Thu nhập bình quân đầu người giảm xuống
còn 50.303 usd và 9,8 triệu hộ phải sống nhờ vào thực phẩm cứu trợ.
Cũng theo Ngân hàng Thế giới khi giá lương thực lên cao làm tăng ngay số
người nghèo đói lên và sự giảm sút thu nhập trên toàn cầu cũng là nguyên nhân làm


10
cho tình trạng nghèo đói tăng thêm. Nhưng hầu hết những người nghèo đói trên thế
giới lại là nông dân (những người trực tiếp sản xuất ra lương thực). Khi giá lương
thực giảm đi, người nông dân lại là những người bị thiệt thòi, tổn thương nhất do

nông sản là những thứ họ phải bán đi để lấy tiền trang trải cho các chi tiêu khác.
Nhìn tổng thể mặc dù thế giới đã đạt được những thành tựu trong phát triển
kinh tế, ổn định chính trị…đời sống của người dân ở một số khu vực đã được nâng
cao rõ rệt. Tuy nhiên vấn đề nghèo đói vẫn hiện hữu trên các quốc gia và vùng lãnh
thổ, do vậy vấn đề nghèo đói không phải là vấn đề riêng của một quốc gia nào, mà
là nhiệm vụ chung của tất cả các nước. Điều này cho thấy để thực hiện công tác xóa
đói giảm nghèo thành công không chỉ có nỗ lực riêng của từng quốc gia mà đòi hỏi
sự nỗ lực chung tay của tất cả các quốc gia trên thế giới và các tổ chức quốc tế.
- Ở Trung Quốc: từ khi cách mạng vô sản thàng công (1949) có thể chia quá
trình phát triển kinh tế, phân hóa giàu nghèo và các hoạt động XĐGN làm hai giai
đoạn: từ năm 1949 đến năm 1977 là thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH)
theo mô hình kế hoạch hóa tập trung và từ năm 1977 đến nay thực hiện cải cách
kinh tế theo hướng nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Nhờ cải cách và đổi mới nền kinh tế có hiệu quả và thực hiện một số chính
sách XĐGN nên số người nghèo ở Trung Quốc giảm xuống nhanh chóng. Nếu theo
mức chuẩn nghèo của Cục Thống kê Trung ương Trung Quốc là có thu nhập 100
nhân dân tệ/người/năm thì số người nghèo ở nông thôn 1978 là 250 triệu người
(chiếm 30% dân số); đến năm 2004 tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn 10%. Tuy vậy dân nghèo
nói riêng và dân cư Trung Quốc nói chung vẫn còn thu nhập thấp và mức hưởng thụ
các dịch vụ xã hội vẫn thấp kém. Cùng với những vấn đề yếu kém khác nên mặc dù
thu nhập bình quân đầu người ở Trung Quốc năm 2005 đã vượt 1.000 usd, thoát
khỏi danh sách các nước có thu nhập thấp, nhưng trong xã hội còn tiềm ẩn nhiều
mâu thuẫn gay gắt, bất ổn.
- Ở Ấn Độ: Ấn Độ là nước có số người nghèo đói nhiều nhất thế giới với sự
phân hóa giàu nghèo cũng khá nghiêm trọng (khoảng 420 triệu người nghèo đói,
chiếm 55% dân số cả nước vào những năm 1960). Để giải quyết vấn đề này, Chính
Phủ Ấn Độ đã đề ra nhiều giải pháp: “Cuộc cách mạng xanh” tăng cường công tác


11

thủy lợi, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp (kỹ thuật canh tác
và giống mới…) để tăng năng suất cây trồng, phấn đấu tự túc lương thực, với bài
học dựa vào sức mình là chính, vì thế cuối những năm 1960 sản lượng lương thực
đã tăng 3%/năm, chấm dứt tình trạng phải nhập khẩu lương thực.
- Ở Hàn Quốc: Sau chiến tranh Thế giới lần thứ 2, Chính phủ Hàn Quốc
không chú ý đến việc phát triển nông nghiệp nông thôn mà đi vào tập trung phát
triển ở các vùng đô thị, xây dựng các khu công nghiệp tập trung ở các thành phố
lớn, thế nhưng 60% dân số Hàn Quốc sống ở khu vực nông thôn, cuộc sống nghèo
đói, tuyệt đại đa số là tá điền, ruộng đất tập trung vào sở hữu của giai cấp địa chủ,
nhân dân sống trong nghèo đói tột cùng. Từ đó gây ra làn sóng di cư tự do từ nông
thôn vào thành thị để kiếm việc làm, đã gây nên tình trạng mất ổn định chính trị - xã
hội, Chính phủ không thể kiểm soát nổi. Để ổn định tình chính trị - xã hội, Chính
phủ Hàn Quốc buộc phải xem lại các chính sách kinh tế - xã hội của mình, cuối
cùng đã phải quyết định đến việc điều chỉnh chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở
khu vực nông thôn và một chương trình phát triển nông nghiệp nông thôn được đưa
ra gồm có 4 nội dung cơ bản đó là:
Một là, Mở rộng hệ thống tín dụng nông thôn bằng cách tăng số tiền cho hộ
nông dân vay.
Hai là, Nhà nước thu mua ngũ cốc của nông dân với giá cao.
Ba là, Thay giống lúa mới có năng suất cao.
Bốn là, Khuyến khích xây dựng cộng đồng mới, mô hình mới ở nông thôn
bằng việc thành lập các HTX sản xuất và đội ngũ lao động để sửa chữa đường xá,
cầu cống và nâng cấp nhà ở.
Với những nội dung trên, Chính phủ Hàn Quốc đã phần nào giúp nhân dân
có việc làm, ổn định cuộc sống, giảm bớt tình trạng di dân ra thành thị để tìm việc
làm. Chính sách này được thể hiện thông qua kế hoạch 10 năm cải tiến cơ cấu kinh
tế nông thôn theo hướng đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp, từng bước đưa nền kinh
tế phát triển, nhằm xóa đói giảm nghèo cho người dân nghèo ở khu vực nông thôn,
tiêu biểu nhất về chương trình phát triển nông thôn của Chính Phủ Hàn Quốc là
phong trào Saemaul trong những năm từ 1960 đến trước 1980, kết quả là sau một



12
thời gian thực hiện phong trào đã có tác động mạnh mẽ đến công cuộc phát triển
kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn, bộ mặt nông thôn có những đổi thay rõ nét.
1.2.2. Xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam
1.2.2.1. Một số kết quả trong công tác giảm nghèo tại Việt Nam
Từ năm 1986 đến nay: Do thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, nền kinh tế
nước ta cũng được đổi mới chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền
kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Trong thời
gian này (từ Đại hội VI đến Đại hội X), Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ
trương, chính sách phù hợp nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế, XĐGN, giải quyết
vấn đề phân hóa giàu nghèo. Tại Đại hội VII (1991) Đảng ta đã khẳng định: “Cùng
với quá trình đổi mới, tăng trưởng kinh tế, phải tiến hành công tác xóa đói giảm
nghèo, thực hiện công bằng xã hội, tránh sự phân hóa giàu nghèo vượt quá sự cho
phép”. [9]
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng
định thực hiện chủ trương XĐGN gắn với khuyến khích mọi người làm giàu theo
luật pháp. Phấn đấu “Tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn mới) giảm xuống còn 10 – 11%
vào năm 2010”. (Theo chuẩn mới tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam năm 2005 khoảng
22%).
Từ những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, Ban chỉ đạo chương trình
mục tiêu XĐGN quốc gia, các Bộ, ngành, đoàn thể Trung ương và các địa phương
đã đề ra nhiều giải pháp cụ thể, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến người nghèo,
tạo điều kiện cho người nghèo tự vươn lên cứu mình, góp phần thực hiện có hiệu
quả chương trình XĐGN bền vững, giải quyết vấn đề phân hóa giàu nghèo thời gian
qua. Kết quả là trong 5 năm 2001 – 2005 thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia
về XĐGN, cả nước đã có 4.354 triệu lượt hộ được vay vốn tín dụng ưu đãi, trên 2
triệu lượt người nghèo được hướng dẫn cách làm ăn, hơn 1.000 công trình thiết yếu
đã được đầu tư ở 997 xã nghèo, trên 11 triệu lượt người được thẻ BHYT, đã có 15

triệu lượt học sinh nghèo và dân tộc thiểu số được miễn giảm học phí, 2,5 triệu lượt
học sinh được hỗ trợ sách giáo khoa và hỗ trợ vở viết. Đặc biệt chương trình đã hỗ
trợ làm mới và sửa chữa được 432,700 căn nhà cho hộ nghèo, qua đó nâng tổng số


13
tỉnh, thành phố được công nhận hoàn thành xóa dột nát lên con số 21 tỉnh, thành, bộ
mặt của các xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn đã được cải thiện một bước đáng kể.
Điều này được chứng minh qua việc phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng có ý nghĩa
chính trị, xã hội sâu sắc như: trường học, trạm y tế, hệ thống đường giao thông, thủy
lợi, kinh tế phát triển, cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân ở
các xã nghèo, nhất là nhóm hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi, vùng
sâu, vùng xa. Đặc biệt trong năm 2006 những kết quả về xóa đói giảm nghèo ngày
càng được khẳng, cả nước đã có 1.556 triệu lượt hộ nghèo được vay vốn tín dụng
ưu đãi, tổ chức mở được 12.000 lớp tập huấn chuyển giao khoa học, kỹ thuật cho
người nghèo. [6]
Để đẩy mạnh công tác XĐGN, giúp các huyện nghèo có điều kiện phát triển
kinh tế, nâng cao thu nhập bình quân đầu người từ năm 2015 – 2020 gấp 5 – 6 lần
hiện nay, tại phiên họp ngày 18 tháng 11 năm 2008, Chính phủ đã thảo luận và
quyết nghị về việc triển khai thực hiện Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và
bền vững đối với 61 huyện thuộc 20 tỉnh có số hộ nghèo trên 50%. Cụ thể là ban
hành Nghị quyết số 30a/2008/NQ – CP ngày 27 tháng 12 năm 2008 về chương trình
hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo. Đây là một nhiệm
vụ rất khó khăn, nặng nề nhưng có ý nghĩa to lớn về mặt kinh tế, chính trị, xã hội và
an ninh, quốc phòng, vì thế Chính phủ đã giao cho các Bộ, ngành ở Trung ương và
các địa phương nghiên cứu tham mưu cơ chế, chính sách cụ thể, phù hợp, cụ thể hóa
các mục tiêu để tổ chức thực hiện và quyết tâm chỉ đạo đạt hiệu quả chương trình
này, góp phần làm giảm chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng, miền, các dân tộc
cùng cả nước XĐGN bền vững.
1.2.2.2. Kinh nghiệm xóa đói giảm nghèo ở một số địa phương của Việt Nam

* Kinh nghiệm xóa đói giảm nghèo của tỉnh Lào Cai
Lào Cai là một tỉnh vùng cao biên giới ở phía Bắc của Việt Nam có tới 203,5
km đường biên giới giáp với tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) có 8 huyện, 1 thành phố,
trong đó có 4 huyện vùng cao biên giới là Mường Khương, Bát Xát, Bảo Thắng và
Si Ma Cai. Cả 4 huyện trên đều là những huyện rất khó khăn của tỉnh Lào Cai và là
4 trong số những huyện khó khăn nhất của cả nước với tỷ lệ hộ nghèo chung trên


14
địa bàn là 49,87%, đặc biệt là huyện Si Ma Cai là huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất
là 73,9% (năm 2005). Sau một thời gian hơn 6 năm thực hiện Chương trình 30a,
Lào Cai đã tập trung ưu tiên cho những hạng mục phát triển cơ sở hạ tầng, đồng
thời lồng ghép với Chương trình mục tiêu quốc gia và một số chương trình hỗ trợ
khác như: Chương trình 167; Chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở; Chương trình
134; Chương trình 135; Chương trình 186, 120, Đề án 79 sắp xếp và ổn định dân
cư… nhằm triển khai có hiệu quả Chương trình 30a. Kết quả đạt được rất khả quan
như:
+ Đã sắp xếp ổn định cho 3.560 hộ ra khỏi vùng khó khăn, nguy hiểm đến
nơi ở mới và ổn định đời sống cho 24.127 hộ; hình thành nhiều điểm dân cư tập
trung, như trung tâm cụm xã, thôn bản mới; nâng cao hiệu quả sử dụng công trình;
tạo thuận lợi cho việc quy hoạch những vùng sản xuất chuyên canh, phát triển hệ
thống dịch vụ sản xuất và sinh hoạt.
+ Thực hiện các dự án hỗ trợ sản xuất, chế biến tiêu thụ, phát triển ngành
nghề nông thôn nhằm nâng tỷ lệ cơ giới hóa trong các khâu làm đất, thu hoạch,
nâng cao giá trị sản phẩm sau thu hoạch nhất là các vùng trọng điểm thâm canh. Kết
quả có 913 hộ được hưởng lợi từ việc xây dựng các mô hình, 7.212hộ được hỗ trợ
phương tiện, vật dụng, nông cụ các loại.
+ Thực hiện chính sách trợ giá, trợ cước các mặt hàng vật tư nông nghiệp
cho nông dân tổng kinh phí 21,711 tỷ đồng; trong đó phân bón 11,210 tỷ đồng,
giống cây trồng 5,877 tỷ đồng, vận chuyển giống thủy sản 0,12 tỷ đồng, giống vật

nuôi 3,7tỷ đồng, trợ cước vận chuyển tiêu thụ 0,8 tỷ đồng.
+ Giải quyết việc làm và đào tạo nghề: Đã giải quyết việc làm mới cho
22.297 lao động, bình quân 4.459 lao động/năm.
+ Thực hiện đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng: Xây dựng được gần 711 công
trình cơ sở hạ tầng các loại, trong đó riêng Chương trình 135 đầu tư xây dựng 484
công trình; 100% các xã của 4 huyện biên giới có đường ô tô đến trung tâm xã, xây
dựng 232 công trình thủy lợi với 750 km kênh mương, nâng diện tích tưới tiêu tăng
thêm 1.130 ha; 230 công trình cấp nước sinh hoạt, 350 hệ thống cấp nước tự chảy
và 5.600 dụng cụ chứa nước các loại, tăng thêm 86.000 người được sử dụng nước.


15
1.2.2.3. Bài học rút ra từ kinh nghiệm giảm nghèo bền vững trên thế giới và Việt
Nam
Một là, phải nhận thức đầy đủ và hiểu rõ được tầm quan trọng của công tác
xóa đói giảm nghèo. Coi đây là một trong những chính sách ưu tiên trong quá trình
phát triển kinh tế, xã hội, là mục tiêu hàng đầu của các mục tiêu thiên niên kỷ.
Trong quá trình lãnh đạo, ra quyết định và chỉ đạo thực hiện công tác XĐGN phải
hướng vào những vùng còn tỷ lệ hộ nghèo cao như vùng sâu, vùng xa, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số với tinh thần: về chủ trương phải đúng trọng tâm, trọng điểm;
về chỉ đạo điều hành phải quyết liệt, đạt kết quả cao, biết được khối lượng công việc
cần phải làm, lực lượng tham gia thực hiện, thời gian hoàn thành; người đứng đầu
phải cương quyết, gương mẫu, sâu sát, sáng tạo, linh hoạt nhưng thực hiện đúng với
quy định của pháp luật.
Hai là, xây dựng lộ trình thực hiện các chính sách, cơ chế đặc thù, các biện
pháp đột phá, nhằm thực hiện có hiệu quả công tác xóa đói, giảm nghèo trên địa
bàn. Đi đôi với công tác này, phải tích cực giải quyết việc làm cho người lao động,
gắn với đào tạo nguồn nhân lực, nhất là đào tạo nghề ngắn hạn cho lao động ở nông
thôn trong lĩnh vực nông nghiệp và phi nông nghiệp nhằm nâng cao kiến thức tay
nghề, đủ điều kiện tham gia thị trường lao động chất lượng. Đây là một trong những

giải pháp tích cực có tác động rất lớn đối với công tác xóa đói, giảm nghèo.
- Ba là, xã hội hóa hoạt động XĐGN, tăng cường công tác khuyến nông,
khuyến lâm, khuyến ngư và hỗ trợ phát triển các làng nghề truyền thông. Phấu đấu
thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo nhanh và bền vững thông qua việc đẩy
mạnh các chương trình đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, các chương trình
hỗ trợ về sản xuất, an sinh xã hội và đời sống cho các hộ dân, kết hợp và lồng ghép
với các chương trình phát triển kinh tế, xã hội trên từng địa bàn và dựa trên cơ sở đề
xuất của nhân dân cho phù hợp, sát thực tế.
- Bốn là, thiết lập cơ chế phân bổ ngân sách công bằng, minh bạch và có tính
khuyến khích cao, tạo điều kiện cho các hộ chủ động trong việc huy động nguồn lực
tại chỗ cũng như lồng ghép với các nguồn khác, góp phần nâng cao hiệu quả thực
hiện chương trình. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc sử dụng nguồn lực, đảm bảo


16
đúng mục tiêu, đúng đối tượng, không thất thoát; kiên quyết xử lý nghiêm các tổ
chức, cá nhân sử dụng nguồn kinh phí của chương trình không đúng mục đích,
không có hiệu quả.
- Năm là, tập trung đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, thực hành tiết kiệm,
tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất và đời sống, thực hiện có hiệu quả
chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo giai đoạn 2011 – 2015.
1.2.2.4. Những bài học kinh nghiệm rút ra cho huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà
Giang
- Bài học về định hướng mục tiêu xoá đói, giảm nghèo
Ngay từ những ngày đầu mới thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
một trong những nhiệm vụ đầu tiên mà Bác Hồ đã chỉ đạo là chống giặc đói. Vấn đề
công bằng xã hội là vấn đề có quan hệ trực tiếp và quyết định đối với việc xóa đói
giảm nghèo đã được Đảng ta luôn quan tâm chú ý. Những Đại hội Đảng gần đây, từ
Đại hội VI đến Đại hội X, Đảng ta đã có nhiều Nghị quyết, nhiều văn bản đề cập tới
vấn đề công bằng xã hội. Chúng ta hiểu công bằng xã hội vừa là mục tiêu, vừa là

động lực để phát triển. Công bằng xã hội không bó hẹp trong lĩnh vực kinh tế mà
liên quan tới tất cả các lĩnh vực kinh tế - chính trị - pháp luật - văn hóa - xã hội.
Công bằng xã hội phải được giải quyết và chỉ có thể được giải quyết gắn liền với sự
phát triển sản xuất, xây dựng xã hội thực sự dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc Việt
Nam. Công bằng xã hội đòi hỏi phải huy động mọi nguồn lực trong nhân dân, xã
hội hóa nhiệm vụ đền ơn đáp nghĩa, xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội trên cơ sở vừa tăng nhanh tốc độ phát triển, vừa giảm dần sự mất
cân đối giữa các vùng; giảm dần khoảng cách về thu nhập, mức sống, hưởng thụ
văn hóa, giáo dục, bảo vệ sức khỏe của các tầng lớp dân cư ở các vùng khác nhau.
Đặc biệt, công bằng xã hội đòi hỏi phải thực hiện tốt chương trình xóa đói giảm
nghèo, an sinh xã hội.
- Bài học về việc bảo đảm tính bền vững của xoá đói giảm nghèo
Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng kể trong
công cuộc xoá đói giảm nghèo. Tuy nhiên, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh nhưng chưa


17
bền vững, điều kiện sống và sản xuất ở các xã nghèo, xã miền núi còn gặp nhiều
khó khăn; khoảng cách chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa thành thị và nông
thôn, giữa đồng bằng và miền núi, giữa nhóm hộ giàu và hộ nghèo có xu hướng gia
tăng, phân hóa.
Tình trạng nghèo và chậm phát triển ở Việt Nam giai đoạn 2011 - 2015 được
dự báo là sẽ tập trung ở các “túi nghèo”, “lõi nghèo” như vùng dân tộc thiểu số và
miền núi, vùng bãi ngang ven biển hay nghèo đô thị... Ngoài việc cần phải có sự
thay đổi cơ bản về cách tiếp cận trong giảm nghèo, giai đoạn 2011 - 2015 cũng đặt
ra những nhu cầu trong việc có cách làm mới, hướng đi mới trong việc kết hợp giữa
giảm nghèo đơn thuần và giảm nghèo gắn với phát triển bền vững.
1.2.3. Chủ trương, quan điểm, mục tiêu của Nhà nước về giảm nghèo
1.2.3.1. Chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước về giảm nghèo

Một là, phải coi xóa đói giảm nghèo là nhiệm vụ to lớn của cả hệ thống chính
trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo điều hành của Nhà nước
XĐNG là một chủ trương của Đảng, Nhà nước, là yếu tố quan trọng đảm bảo
sự ổn định phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó cũng là
nhiệm vụ rất nặng nề của toàn xã hội hiện nay.
Ngay từ khi nước ta mới giành được độc lập (1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã từng chỉ rõ: Giành được độc lập rồi mà nhân dân vẫn sống trong cảnh nghèo nàn,
lạc hậu thì độc lập đó phỏng có ích gì? Người còn nhấn mạnh phải ra sức phát triển
sản xuất, kinh tế làm cho mọi người ra khỏi đói nghèo lam lũ, vươn lên đủ ăn, khá
giả, giàu có. Ai đã giàu có rồi vươn lên giàu có hơn nữa. Hơn ai hết, Người nhận
thấy: Đói nghèo, lạc hậu, dốt nát là những kẻ thù nội xâm làm suy yếu đất nước và
chế độ. Chỉ có vượt qua đói nghèo lạc hậu, tiến tới phát triển và ngày càng phát
triển, tất cả vì hạnh phúc của nhân dân, đó mới là mặt tích cực, bản chất của chủ
nghĩa xã hội.
Theo lời dạy của Bác Hồ, từ nhiều năm nay Đảng và Nhà nước ta đã đẩy
mạnh cuộc vận động XĐGN, coi đó là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và toàn
xã hội. Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 29/11/1997 về lãnh đạo công
tác XĐGN. Chỉ thị xác định: Xóa đói giảm nghèo là một nhiệm vụ quan trọng trong


18
chiến lược ổn định, phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện định hướng xã hội chủ
nghĩa; kế tục và phát huy truyền thống tương thân, tương ái của dân tộc. Phong trào
XĐGN được khởi đầu từ năm 1992 từ thành phố Hồ Chí Minh và trở thành một
chương trình quốc gia vào cuối năm 1998, XĐGN đã thu hút sự quan tâm của toàn
xã hội, đặc biệt là hàng triệu những người nghèo tham gia. Với nhiệm vụ to lớn
cũng như đầy khó khăn trở ngại, XĐGN không chỉ đứng lại ở các chủ trương,
đường lối chung mà phải có sự phối hợp đồng bộ, nhất quán từ chủ trương, đường
lối của Đảng, các chính sách biện pháp quản lý, điều hành cụ thể của Nhà nước và
cuối cùng là sự nỗ lực của chính bản thân những người nghèo.

Hai là, cần phải kết hợp chặt chẽ giữa các biện pháp về kinh tế với chính
sách xã hội và giữ vững ổn định chính trị trong xóa đói giảm nghèo.
Đói nghèo trước hết là vấn đề kinh tế, đồng thời cũng là vấn đề xã hội, hậu
quả của đói nghèo tác động trực tiếp đến hiện trạng phát triển kinh tế và thông qua
kinh tế tác động đến tình hình xã hội. Vì đói nghèo dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo,
trong nền kinh tế thị trường phân hóa giàu nghèo không chỉ là phân hóa thu nhập,
tài sản, mức sống mà còn kéo theo phân hóa xã hội như mức học vấn, văn hóa, lối
sống, vị thế xã hội, quan hệ xã hội, phân hóa giàu nghèo khi vượt quá giới hạn cho
phép sẽ biến thành phân hóa giai cấp làm suy yếu khối liên minh công – nông – trí
thức và sự bền vững của chế độ chính trị, làm chệnh hướng xã hội chủ nghĩa.
Vì vậy XĐGN không chỉ có các chính sách, biện pháp phát triển kinh tế mà
còn gắn liền với các chính sách xã hội, đặt trong tổng thể của sự ổn định chính trị.
Trong đó ổn định chính trị vừa là yêu cầu hàng đầu, là nền tảng cơ bản, vừa là điều
kiện để phát triển kinh tế, thực hiện XĐGN bền vững.
Có thể khẳng định chính sách xã hội không chỉ tạo ra nền tảng ổn định xã hội
để phát triển, mà còn tạo ra động lực của sự phát triển, bởi vì giải quyết các vấn đề
xã hội là thực hiện giải phóng sức lao động, hướng tới xây dựng con người làm chủ
xã hội. Vì vậy không thể coi chính sách xã hội là cái đuôi và đi sau chính sách kinh
tế; giải quyết tốt những vấn đề xã hội là điều kiện ổn định để thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế.


19
Phát triển kinh tế, phải đặc biệt chú trọng bảo vệ lợi ích, quan tâm đến đời
sống của các tầng lớp trong xã hội như công nhân, nông dân, trí thức....Đây chính là
cơ sở của chế độ chính trị, không được để xảy ra hiện tượng người lao động bị bần
cùng hóa, bị bóc lột một cách tràn lan, quá mức, nhất là trong điều kiện phát triển
nền kinh tế thị trường.
Ổn định chính trị là điều kiện cần thiết để XĐGN, những thành công của
công tác XĐGN sẽ là nhân tố quan trọng để củng cố, bảo vệ chế độ chính trị, giữ

vững ổn định chính trị, phát triển đất nước. Mọi biện pháp XĐGN phải phải nhìn
nhận từ góc độ kinh tế - xã hội và hơn nữa phải nhìn nhận từ góc độ chính trị.
Ba là, coi trọng việc phát huy tính tự lực, tự chủ, tự vươn lên của chính người
nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo.
Đảng, Nhà nước đã nhận định đúng đắn, đầy đủ XĐGN là nhiệm vụ to lớn
của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội nhưng Đảng, Nhà nước không thể làm thay,
mà muốn vượt qua được đói nghèo phải bằng sự nỗ lực vươn lên của chính người
nghèo, hộ nghèo. Nhà nước, cộng đồng xã hội chỉ thể hiện vai trò trung tâm là tạo
điều kiện hỗ trợ, tạo môi trường thuận lợi để người nghèo tiếp cận với các nguồn
lực phát triển, còn người nghèo phát huy được những nguồn lực đó hay không thì
phụ thuộc vào chính họ. Nhà nước hãy hướng dẫn chỉ cách làm ăn cho họ, chứ
không nên cho sẵn miếng cơm, vì vậy ông cha ta thường có câu cho vàng không
bằng chỉ đàng làm ăn. Còn XĐGN bằng cứu trợ nhân đạo thuần túy chỉ là giải pháp
thụ động, tình thế, phi kinh tế và không thể giải quyết được triệt để đói nghèo.
Bốn là, huy động và khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực của địa phương,
đồng thời mở rộng và khai thác có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài cho công tác
XĐGN.
Xóa đói giảm nghèo là nhiệm vụ rất khó khăn và không thể thực hiện được
trong vài ngày, vài tháng, nó đòi hỏi các nguồn lực vật chất và tinh thần rất to lớn,
trong đó trước hết là các nguồn lực vật chất như: tài nguyên, đất đai, kỹ thuật, công
nghệ, thị trường, trình độ tay nghề...của người lao động và các môi trường chính trị,
xã hội, kết cấu hạ tầng khác.


20
Nguồn tài chính của Nhà nước là rất quan trọng, song không thể chỉ trông
chờ vào một nguồn đó, nhất là trong điều kiện ngân sách quốc gia còn hạn hẹp,
ngân sách địa phương thu không đủ chi, hàng phải nhận trợ cấp ngân sách từ trung
ương, mà phải huy động mọi nguồn lực tài chính có thể huy động được cho công tác
XĐGN.

Chỉ có thể huy động mọi nguồn lực trong xã hội bằng cả biện pháp kinh tế và
xã hội, mà tiêu biểu là xã hội hóa phong trào XĐGN để cùng với Nhà nước tập
trung sức giải quyết việc XĐGN. Không như vậy, không thể huy động được một
nguồn lực lớn, trị giá hàng nghìn tỷ đồng cho chương trình mục tiêu quốc gia xóa
đói, giảm nghèo. Nhà nước dù đầu tư mạnh đến đâu cho XĐGN cũng vẫn là có hạn.
Chỉ có sự đóng góp của toàn xã hội, mà trong đó Nhà nước là trung tâm mới có thể
thực hiện thành sự nghiệp XĐGN ở nước ta.
Xóa đói, giảm nghèo phải đặt trong quá trình mở rộng hợp tác, tranh thủ khai
thác và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực hỗ trợ từ các nước, các tổ chức quốc tế
bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú, phù hợp với điều kiện thực tế của Việt
Nam và thông lệ quốc tế.
Năm là, trong quá trình xóa đói giảm nghèo cần khuyến khích một bộ phận
dân cư vươn lên làm giàu, đồng thời ưu tiên xóa đói giảm nghèo ở các đối tượng
chính sách và vùng đặc biệt khó khăn.
Trong Văn kiện hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII có viết:
Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với XĐGN, coi một bộ phận dân cư giàu
trước là cần thiết cho sự phát triển. Đồng thời có chính sách ưu đãi hợp lý về tín
dụng, về thuế, đào tạo nghề nghiệp để tạo điều kiện cho người nghèo có thể vươn
lên làm đủ sống và phấn đấu trở thành khá giả. [10]
Bên cạnh việc khuyến khích một bộ phận dân cư có điều kiện vươn lên làm
giàu, cần có biện pháp ưu tiên đối với các hộ thuộc diện gia đình chính sách như
thương binh, liệt sĩ, các gia đình có công với nước để các hộ này có thể nhanh
chóng thoát nghèo. Đó chính là sự kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công
bằng xã hội.
1.2.3.2. Mục tiêu về giảm nghèo bền vững


21
Tạo sự chuyển biến nhanh hơn về đời sống vật chất, tinh thần của người
nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số thuộc các huyện nghèo, bảo đảm đến

năm 2020 ngang bằng các huyện khác trong khu vực. Hỗ trợ phát triển sản xuất
nông, lâm nghiệp bền vững, theo hướng sản xuất hàng hoá, khai thác tốt các thế
mạnh của địa phương. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phù hợp với đặc
điểm của từng huyện; chuyển đổi cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất
có hiệu quả theo quy hoạch; xây dựng xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn
hoá dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; bảo đảm
vững chắc an ninh, quốc phòng. [7]
1.3. Một số chương trình, dự án, chính sách giảm nghèo đã triển khai trên địa
bàn huyện Hoàng Su Phì
1.3.1. Chương trình giảm nghèo trên địa huyện
Hoàng Su Phì là một trong huyện vùng cao biên giới của tỉnh Hà Giang được
thụ hưởng chính sách hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững dành cho 62 huyện
nghèo nhất cả nước theo Nghị quyết 30a của Chính Phủ. Đối với những người nông
dân nghèo vùng cao thì đây là cơ hội tốt để giúp họ vươn lên thoát khỏi cuộc sống
khó khăn như hiện nay. Trong những năm gần đây Nhà nước đã đầu tư những công
trình trọng điểm cho công tác xóa đói giảm nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn như
chương trình 135, 134, dự án quy tụ ổn định dân cư, xây dựng hồ treo và nhiều
chính sách được thực hiện như: chính sách trợ giá, trợ cước, chính sách hỗ trợ đồng
bào dân tộc thiểu số theo QĐ 755, QĐ 102…và các chương trình, dự án phi chính
phủ như plan, dự án giảm nghèo dựa trên sự phát triển hàng hóa tỉnh Hà Giang
(CPRP) đã góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện
Hoàng Su Phì.
1.3.1.1. Chương trình 30a
- Tình hình triển khai và kết quả đạt được: Đề án giảm nghèo và bền vững
của huyện theo tinh thần Nghị quyết 30a của Chính Phủ, đã được huyện Hoàng Su
Phì tổ chức thực hiện nghiêm túc, triển khai kịp thời và huy động các nguồn lực để
thực hiện chương trình đạt được một số kết quả theo mục tiêu đề ra. Đến nay, tổng
nguồn vốn các dự án, chính sách thuộc chương trình này đã đầu tư, giải ngân trên



22
địa bàn đạt 190.184 tỷ đồng, trong đó vốn đầu tư phát triển 141.205 tỷ đồng và vốn
sự nghiệp 48.979 tỷ đồng. Ngoài ra các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, các
doanh nghiệp trong và ngoài huyện, các tổ chức đoàn thể, cộng đồng địa phương hỗ
trợ được 46.429 tỷ đồng. Từ nguồn vốn đầu tư, hỗ trợ thiết thực trên huyện đã hoàn
thành 41 công trình và đang thực hiện nhiều công trình xây dựng cơ sở hạ tầng giao
thông, thủy lợi, nhà văn hóa, đường điện… phục vụ phát triển kinh tế, nâng cao đời
sống văn hóa, tinh thần của nhân dân. Toàn huyện có 2.446 hộ và hơn 50 cộng đồng
dân cư được giao rừng và đất lâm nghiệp tham gia chăm sóc, bảo vệ rừng trồng với
tổng diện tích là 31.987 ha theo quy hoạch với tổng kinh phí 350,58 triệu đồng; giai
đoạn 2008 – 2013 có 2.623 hộ nghèo bằng 28.136 khẩu được hỗ trợ 422 tấn gạo;
trong đó riêng hộ nghèo các thôn biên giới là 459 hộ với 2.237 nhân khẩu được hỗ
trợ hơn 118 tấn gạo. Ngoài việc lập quy hoạch sản xuất nông lâm nghiệp giai đoạn
2012 – 2020, huyện đã hỗ trợ lần đầu cho 1.270 hộ giống cây lâm nghiệp để trồng
rừng; hỗ trợ cho người dân chuyển đổi giống cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế
cao, thuốc phòng trị bệnh cho gia súc, gia cầm cho hơn 105.860 lượt hộ với nguồn
kinh phí hỗ trợ 28.631,5 triệu đồng; cung ứng được 79 tấn giống lúa lai, 30 tấn giống
ngô lai; 2.446,9 tấn phân bón các loại cho các xã; nhân dân chuẩn bị phân chuồng
bón cho cây trồng được 75.850 tấn để góp phần thúc đẩy sản xuất nông lâm nghiệp;
thực hiện chính sách khai hoang phục hóa, tạo ruộng bậc thang để sản xuất nông
nghiệp, đã hỗ trợ cho 505 hộ trên địa bàn 18 xã với diện tích khai hoang phục hóa
được 66,98 ha, kinh phí hỗ là 669,8 triệu đồng [23]. Hoàng Su Phì cũng thực hiện
bước đầu có hiệu quả các chính sách tăng cường nguồn lực, dân số kế hoạch hóa gia
đình, phát triển giáo dục và y tế, ứng dụng khoa học và công nghệ, đào tạo dạy
nghề, nâng cao dân trí thông qua các lớp tập huấn về khoa học, kỹ thuật, quản lý, tư
vấn đi xuất khẩu lao động...
- Những tồn tại, hạn chế trong quá trình triển khai: Quá trình thực hiện Nghị
quyết 30a ở huyện Hoàng Su Phì cũng gặp những khó khăn, vướng mắc nhất định
như kinh phí của Trung ương bố trí cho huyện còn thấp so với nhu cầu của địa
phương; việc giải ngân vốn của một số dự án, chính sách thuộc chương trình này

còn chậm làm ảnh hưởng đến tiến độ và hiệu quả thực hiện dự án. Việc phê duyệt


23
đầu tư công trình của cấp có thẩm quyền nhìn chung còn chậm, chưa chặt chẽ, điều
chỉnh, bổ sung nhiều lần nên khó khăn cho chủ đầu tư triển khai thực hiện. Chương
trình còn phân cho nhiều cấp, nhiều ngành thực hiện nên một số đơn vị, địa phương
của huyện được giao nhiệm vụ thực hiện Đề án này còn lúng túng trong quản lý tài
chính, nghiệp vụ triển khai và tổ chức thực hiện dự án. Do chương trình này không
bố trí kinh phí cho hoạt động quản lý nên việc thực hiện gặp khó khăn, chưa khuyến
khích được tâm huyết của đội ngũ cán bộ trong quá trình thực hiện.
- Một số giải pháp tiếp theo cho việc thực hiện chương trình 30a: Để đạt
được kết quả tốt trong quá trình thực hiện Đề án giảm nghèo nhanh và bền vững
theo Nghị quyết 30a của Chính Phủ, trong thời gian tới huyện Hoàng Su Phì tiếp tục
tuyên truyền sâu rộng tới cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân vùng hưởng
lợi chương trình, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa hiểu rõ về
mục đích, ý nghĩa, các chính sách quan tâm của Đảng và Nhà nước mà mình được
hưởng để từ đó giúp họ nhận thức có trách nhiệm cùng tham gia. Chính quyền xã,
thôn kết hợp chặt chẽ với người dân địa phương trong việc sử dụng, bảo quản, khai
thác có hiệu quả, bền vững các công trình đã được nhà nước đầu tư đưa vào sử dụng
và hướng dẫn, định hướng cho người cho người dân sử dụng có hiệu quả, đúng mục
đích các nguồn lực hỗ trợ trực tiếp cho các hộ để phát triển kinh tế, sản xuất, tăng
thu nhập, cải thiện đời sống, hướng tới mục tiêu giảm nghèo nhanh và bền vững ở
vùng cao. Tỉnh tiếp tục quan tâm tăng cường công tác tập huấn cho cán bộ cấp
huyện, xã, thôn của những huyện trong tỉnh Hà Giang được thụ hưởng chương trình
30a để nâng cao trình độ quản lý và năng lực chỉ đạo, điều hành thực hiện các dự
án, chính sách của chương trình này. Các cấp chính quyền từ tỉnh đến cơ sở thực
hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát, nhất là công tác tự kiểm tra, giám sát của cấp
huyện, cấp xã, đảm bảo phát huy tốt dân chủ ở cơ sở để người dân tham gia quản lý,
giám sát việc thực hiện chương trình 30a trên địa bàn huyện Hoàng Su Phì.

1.3.1.2. Chương trình xây dựng Nông thôn mới
- Tình hình triển khai: Chương trình xây dựng nông thôn mới được triển khai
ở địa bàn 24/25 xã, thị trấn trong toàn huyện. Đến năm 2013 toàn huyện đã phê
duyệt xong quy hoạch NTM của 24/24 xã trong phạm vi chương trình, trong đó có 4


24
xã điểm thực hiện NTM giai đoạn 2011 – 2015 là xã Thông Nguyên, Nậm Ty, Nậm
Dịch, Pố Lồ. Phê duyệt xong và công bố đồ án NTM của 24/24 xã thực hiện chương
trình. Trên cơ sở đồ án đã được phê duyệt, UBND huyện giao cho các xã xây dựng
lập đề án chi tiết cho từng nội dung để có hướng triển khai hợp lý. Cùng với đó
huyện đã tập trung huy động tối đa nguồn lực từ việc lồng ghép các chương trình,
dự án của Nhà nước, gắn với việc xây dựng hạ tầng và các mục tiêu an sinh xã hội
với xây dựng NTM, với kinh phí trên 117.949 triệu đồng, trong đó đầu tư cho giao
thông, xây dựng, thủy lợi, điện, trường học, nhà văn hóa, chợ nông thôn là 117.357
triệu đồng; hỗ trợ cho công tác tuyên truyền qua 4 năm là 592 triệu đồng. Ngoài ra
vận động nhân dân hiến đất, góp công lao động, khai thác vật liệu ...quy tiền là
36.902 triệu đồng. Tính đến năm 2014 số xã trong huyện đạt được bộ tiêu chí như
sau. Năm 2011, 2012 có 01 xã đạt từ 5 – 9 tiêu chí (xã Thông Nguyên); 23 xã đạt từ
2 – 3 tiêu chí (các xã: Nậm Ty, Nậm Dịch, Nam Sơn, Pố Lồ, Bản Luốc, Hồ Thầu,
Pờ Ly Ngài, Thàng Tín, Tụ Nhân, Đản Ván, Sán Sả Hồ, Tân Tiến, Tả Sử Chóng,
Chiến Phố, Bản Péo, Nậm Khòa, Nàng Đôn, Túng Sán, Thèn Chu Phìn, Ngằm Đăng
Vài, Bản Nhùng, Bản Máy, Bản Phùng). Năm 2013 có 12 xã đạt từ 5 – 9 tiêu chí (xã
Thông Nguyên, Nậm Ty, Nậm Dịch, Pố Lồ, Nam Sơn, Pố Lồ, Bản Luốc, Hồ Thầu,
Pờ Ly Ngài, Thàng Tín, Tụ Nhân, Sán Sả Hồ); 12 xã đạt từ 3 – 4 tiêu chí (xã Đản
Ván, Tân Tiến, Tả Sử Chóng, Chiến Phố, Bản Péo, Nậm Khòa, Bản Máy, Bản
Phùng, Nàng Đôn, Túng Sán, Thèn Chu Phìn, Ngàm Đăng Vài, Bản Nhùng); Dự
kiến đến hết năm 2014 có 01 xã đạt 10 tiêu chí (xã Thông Nguyên); 15 xã đạt từ 5 –
9 tiêu chí; còn lại 8 xã đạt 5 tiêu chí [2]. Trong giai đoạn 2011 – 2015 nguồn vốn
của chương trình chỉ ưu tiên vào nội dung xây dựng cơ bản, còn các nội khác như:

Hỗ trợ phát triển sản xuất, tăng thu nhập cho người dân; hỗ trợ về y tế, giáo dục,
văn hóa, môi trường; xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, giữ gìn an ninh trật
tự... được huy động lồng ghép với nguồn vốn của chương trình, dự án khác để thực
hiện.
- Tồn tại, hạn chế và khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện: Nhận
thức của nhiều người dân và một số cán bộ về xây dựng NTM chưa đầy đủ, công tác
chỉ đạo điều hành ở một số cấp, các ngành còn lúng túng, còn hạn chế hạn chế về


25
trình độ chuyên môn, kiến thức kinh nghiệm về xây dựng NTM, nhất là đối với cấp
xã thiếu cán bộ chuyên trách. Việc chấp hành quy chế làm việc của một số ngành
thành viên chưa nghiêm túc, công tác tuyên truyền của các xã, thôn còn mang tính
hình thức, chưa phong phú, chưa đủ sức thuyết phục, nguồn vốn đầu tư ít, phân bổ
chậm chưa đáp ứng nhu cầu của địa phương...đã ảnh hưởng đến việc tổ chức thực
hiện chương trình theo lộ trình đề ra.
Xây dựng NTM là công việc mới khó khăn phức tạp đòi hỏi nguồn lực lớn
trong khi đó nguồn lực đầu tư, hỗ trợ từ chương trình trong 4 năm qua vẫn thấp,
tiềm lực kinh tế có hạn, dân còn nghèo; nội dung xây dựng NTM liên quan đến tất
cả các lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã hội, phạm vi địa bàn nông thôn rộng lớn, phức
tạp; về cơ chế chính sách còn nhiều bất cập, các cấp các ngành còn chưa có kinh
nghiệm; việc hướng dẫn triển khai thực hiện chương trình còn chậm và chưa đồng
bộ; Trình độ đội ngũ cán bộ cơ sở còn hạn chế chưa đáp ứng nhiệm vụ theo yêu cầu,
công tác tuyên truyền đã tích cực nhưng chưa sâu rộng nên còn nhiều cán bộ và
người dân nhận thức về nông thôn mới chưa đầy đủ; hệ thống cơ sở hạ tầng, mặt
bằng trên địa bàn huyện, hiện tại còn bất cập cho việc xây dựng hạ tầng theo tiêu
chí, những nguyên nhân và hạn chế trên ảnh hưởng không nhỏ đến việc triển khai
và kết quả thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM trên địa bàn
huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang.
1.3.1.3. Chương trình 135

- Giai đoạn I (1999 – 2005): Nhà nước đã đầu tư 268,823 tỷ đồng để xây
dựng 220 công trình hạ tầng thiết yếu như: đường giao thông, xây dựng trụ sở làm
việc UBND xã, trạm y tế, trường học, nhà lưu trú giáo viên và học sinh, công thủy
lợi, công trình cấp nước tập trung, xây dựng nhà chợ…hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ xã, thôn đặc biệt khó khăn. Kết thúc giai đoạn I đã có 3 xã (Thông Nguyên,
Nậm Ty, Nậm dịch) hoàn thành mục tiêu của chương trình.
- Giai đoạn II (2006 – 2009): Huyện Hoàng Su Phì tiếp tục được Nhà nước
đầu tư chương trình 135, bao gồm các hợp phần: Hỗ trợ sản xuất; xây dựng cơ sở hạ
tầng; dự án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ xã, thôn bản và cộng đồng; dự án hỗ trợ các
dịch vụ, cải thiện và nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, trợ giúp pháp lý. Về


×