Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân theo quy định của bộ luật dân sự 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.38 KB, 16 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ HƢƠNG TRÀ

QUYỀN HIẾN BỘ PHẬN CƠ THỂ CỦA CÁ NHÂN
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005

Chuyên ngành : Luật Dân sự
Mã số
: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHÙNG TRUNG TẬP

Hà Nội – 2008

1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Theo xu huớng phát triển của thế giới, các nước liên kết với nhau trên
tất cả các lĩnh vực để phát triển đất nước ngày một hoàn thiện hơn. Hội nhập
kinh tế, quốc tế trên phạm vi khu vực và toàn cầu nhất là vấn đề gia nhập Tổ
chức thương mại thế giới đã giúp cho tất cả các nước khác nhau trên thế giới
có điều kiện tăng trưởng và phát triển. Sự liên kết đã tạo nên sự bền vững
trong tất cả các lĩnh vực trong xã hội về văn hóa, chính trị, kinh tế, giáo dục,
pháp luật, công nghệ sinh học, khoa học ngành y…khoa học ngành y đã thực
sự phát triển mạnh mẽ trong việc tìm tòi khám phá ra các phương pháp chữa


bệnh mới trên cơ thể con người, cứu sống rất nhiều bệnh nhân với chất lượng
cuộc sống rất tốt. Để các phương pháp chữa bệnh mới được thực hiện một
cách có hiệu quả trong cuộc sống cần có quy pháp pháp luật để điều chỉnh. Vì
vậy, đa số các nước phát triển trên thế giới đã ban hành pháp luật để điều
chỉnh quan hệ trong lĩnh vực khoa học ngành y, quy chế pháp lý càng chặt
chẽ, hoàn chỉnh, đúng đắn, kịp thời sẽ tạo nguồn lực quan trọng, góp phần
định hướng phát triển cho một công nghệ y sinh học của các nước trên thế
giới, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội.
Việt Nam đã và đang từng bước hoàn thiện mình về kinh tế, pháp luật,
xã hội, văn hóa, y tế... để đáp ứng nhu cầu phát triển của toàn nhân loại. Sau
thời kỳ kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp Việt Nam đã chuyển sang nền
kinh tế thị trường vì vậy điều kiện kinh tế xã hội của đất nước ngày càng phát
triển kéo theo sự phát triển của mỗi một người dân về điều kiện sống, nhu cầu
của người dân ngày càng tăng, quyền của mỗi một cá nhân cần được pháp luật
bảo hộ càng cao, các quan niệm về chính trị, đạo đức, xã hội, công nghệ…của

2


người dân cũng có nhiều thay đổi theo hướng tốt đẹp hơn, hoàn thiện hơn.
Công nghệ sinh học ở Việt Nam cũng đang từng bước bắt kịp với thế giới,
chúng ta đã đạt được rất nhiều thành tựu đáng tự hào, đặc biệt là kỹ thuật y
học. Trong đó, việc cho-nhận, cấy ghép các bộ phận cơ thể là một trong
những thành tựu xứng đáng được tự hào, rất nhiều cuộc phẫu thuật cấy, ghép
bộ phận cơ thể người đã được thực hiện rất thành công. Theo điều tra xã hội
học cho thấy số người bị bệnh gan, tim, thận, phổi…cần phải thực hiện phẫu
thuật cấy, ghép ở Việt Nam lên tới con số hàng trăm, hàng nghìn. Đây là nhu
cầu rất khẩn thiết của những con người đang bị bệnh tật dày vò. Tìm kiếm bộ
phận cơ thể để cấy, ghép cũng là một điều rất khó khăn vì ngoài vấn đề hiến
bộ phận cơ thể người của cá nhân được đặt ra để cứu giúp những người trong

thời kỳ bệnh tật rất quan trọng. Đồng hành với sự phát triển kỹ thuật y học
hiện đại, quy chế pháp lý để kiểm soát nó cùng các hoạt động trực tiếp liên
quan cũng dần được xây dựng và đang từng bước cố gắng hoàn thiện của Việt
Nam cũng càng ngày càng phát triển. Lần đầu tiên pháp luật Việt Nam quy
định về lĩnh vực này trong Luật bảo vệ sức khoẻ nhân dân 1989 với quy định
cho và ghép các bộ phận cơ thể người (Điều 30) đã cho phép các cơ sở y tế có
thể có một căn cứ pháp lý để thực hiện chức phận thầy thuốc cứu người của
mình. Cho đến nay BLDS 2005 (Điều 33) đã chính thức ghi nhận quyền năng
của các chủ thể trong vấn đề này với tư cách là quyền nhân thân không thể
phủ nhận. Đây là cơ sở pháp lý mang tính tiền đề cho việc xây dựng và phát
triển hoàn thiện quy chế pháp lý về cho, lấy, cấy, ghép bộ phận cơ thể người
trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đồng thời tạo cơ hội phát triển mới của y
học Việt Nam. Quy định trong Bộ luật dân sự năm 2005 chỉ mang tính
nguyên tắc và những quy định này đã được cụ thể hóa trong Luật hiến, lấy,
ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006 nhằm điều chỉnh
các quan hệ phát sinh từ việc áp dụng những kỹ thuật y học tiến bộ này trong

3


đời sống xã hội. Pháp luật quy định chặt chẽ vấn đề này vừa phù hợp với đạo
đức, truyền thống, văn hóa, vừa đảm bảo quyền của cá nhân được Nhà nước
bảo hộ. Quyền hiến bộ phận cơ thể nguời của cá nhân là quyền nhân thân thể
hiện sự tự định đoạt của họ đối với các bộ phận trên cơ thể mình. Việc hiến bộ
phận cơ thể người được thực hiện một cách đúng đắn sẽ có ý nghĩa tiến bộ và
nhân đạo sâu sắc, góp phần vào sự phát triển của y học và khoa học vì con
người.
Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về vấn đề này là rất quan trọng để
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi một cá nhân trong xã hội, đảm
bảo các điều luật được ban hành trong Bộ luật dân sự được thực thi có hiệu

quả cao. Tôi đã chọn đề tài “quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân theo Bộ
luật dân sự 2005” để nghiên cứu, tìm hiểu giúp bạn đọc có thể hiểu hơn về
quyền được hiến bộ phận cơ thể của mỗi một cá nhân trong xã hội, thực trạng
hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người ở Việt Nam cũng như các quy định
của pháp luật Việt Nam về vấn đề này, góp phần hoàn thiện hơn nữa hệ thống
pháp luật Việt Nam trong hoạt động hiến, lấy, ghép Bộ phận cơ thể người.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể đã được thực hiện thành công ở
nhiều nước trên thế giới từ rất lâu, đến nay đã rất phổ biến, đây là phương
pháp điều trị mang lại cuộc sống cho rất nhiều người bệnh nên có ý nghĩa
nhân đạo rất sâu sắc. Ở Việt Nam, nhu cầu được ghép là rất lớn và ngày càng
gia tăng, tuy nhiên nguồn cung cấp bộ phận cơ thể người để đáp ứng nhu cầu
được ghép lại rất khan hiếm khiến nhiều người bệnh phải ra nước ngoài để
ghép trong khi chi phí cho một cuộc phẫu thuật ở nước ngoài lại rất cao. Kỹ
thuật y khoa, trình độ y bác sỹ của Việt Nam đã phát triển đáp ứng được yêu
cầu của kỹ thuật cấy ghép bộ phận cơ thể người nhưng tại sao người bệnh vẫn

4


phải ra nước ngoài để ghép, tại sao dân số Việt Nam rất đông mà bộ phận cơ
thể người để cứu sống bệnh nhân lại rất khan hiếm?
Vì vậy, mục đích nghiên cứu đề tài này là nghiên cứu về các yếu tố của
quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân, Bộ luật dân sự Việt Nam 2005, pháp
luật chuyên ngành quy định như thế nào về vấn đề này? thực trạng hiến bộ
phận cơ thể của cá nhân được thực hiện tại Việt Nam ra sao? So với một số
nước trên thế giới việc hiến bộ phận cơ thể của cá nhân có phát triển không?
có thua kém hay tụt hậu gì so với các nước trong khu vực và trên thế giới
không? qua đó đề ra hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật để đạt hiệu
quả cao mà không vi phạm đạo đức, phong tục tập quán của người Việt Nam

và đề xuất những quy định của pháp luật cho phù hợp với thực tế và xu hướng
phát triển của y học Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài “Quyền hiến bộ phận cơ thể của cá
nhân theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005” là:
- Quy định của một số nước trên thế giới về quyền hiến bộ phận cơ thể;
- Tiến trình phát triển các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền
hiến bộ phận cơ thể;
- Các yếu tố của quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân;
- Thực trạng pháp luật Việt Nam về quyền hiến bộ phận cơ thể;
- Hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền hiến bộ phận
cơ thể.
Hiến, lấy, ghép bộ phận cơ thể là một lĩnh vực rất rộng vừa liên quan
đến y học vừa liên quan đến pháp luật. Tuy nhiên trong Luận văn này chỉ
nghiên cứu đến khía cạnh pháp lý về quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân
theo quy định của pháp luật Việt Nam từ trước cho đến nay. Để các quy định

5


về hiến bộ phận cơ thể được thực thi có hiệu quả trong thực tế Luận văn đã
nghiên cứu, phân tích những hạn chế của các quy định pháp luật và đưa ra
một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật của Việt Nam về
quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân.
4. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiến bộ phận cơ thể là một việc làm nhân đạo đã cứu sống rất nhiều
người bệnh. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động hiến bộ phận cơ
thể pháp luật của một số nước trong khu vực và trên thế giới cũng đã quy định
vấn đề này thành Luật riêng và quy định cụ thể trong pháp luật chuyên ngành
như Pháp, Hoa kỳ, Nhật, Singapore, Trung Quốc....Do đó đã có rất nhiều bài

viết, nhiều công trình nghiên cứu khoa học, nhiều cuộc hội thảo thảo luận về
vấn đề này.
Hiến bộ phận cơ thể là vấn đề bức thiết để chữa bệnh cho bệnh nhân
thoát khỏi hiểm nghèo, tuy nhiên ở Việt Nam đây là vấn đề mới có tính nhạy
cảm cao liên quan đến phong tục tập quán của người Á Đông nên các đề tài
nghiên cứu, các bài viết về vấn đề này còn rất ít. Trong ngành y học đã có
nhiều công trình nghiên cứu cấp nhà nước về vấn đề ghép mô, thận,
tạng...thực nghiệm cho những người bị bệnh mạn tính ở giai đoạn cuối như đề
tài : Nghiên cứu một số vấn đề về ghép gan để tiến hành ghép gan trên người
tại Việt Nam, đề tài cấp nhà nước của Học Viện Quân Y năm 2005 hay bài
giảng tại Học viện Quân Y của Đỗ Tất Cường và Cộng sự : Ghép tạng, ghép
thận và hồi sức điều trị sau ghép năm 2002.
Về lĩnh vực pháp luật, hiến bộ phận cơ thể tuy là vấn đề cấp thiết
nhưng nó mới được quy định mang tính nguyên tắc trong Bộ luật dân sự 2005
và được cụ thể hóa trong Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và

6


hiến, lấy xác năm 2006 nên có rất ít người nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề
này. Tuy nhiên, cũng có mốt số bài viết đề cập về vấn đề này như:
- Luận văn thạc sỹ: Quyền nhân thân liên quan đến thân thể của cá
nhân theo quy định trong Bộ luật dân sự 2005 của Lê Thị Hoa tháng 12/2006;
- Bài viết của Tiến sỹ Phùng Trung Tập về quyền hiến bộ phận cơ thể
hoặc hiến xác sau khi chết đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 5 tháng
3/2005;
- Khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Minh Du trường Đại học Luật Hà
Nội về quyền hiến bộ phận cơ thể theo quy định của Bộ luật dân sự 2005
tháng 5/ 2006;
- Khóa luận tốt nghiệp của Trần Thị Thu Trang trường Đại học Luật Hà

Nội về Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến lấy xác. Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn năm 2008;
- Bài viết của Nguyễn Mạnh Cường về Một số suy nghĩ khi Luật Hiến,
lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác được Quốc Hội thông
qua trên Thông tin phổ biến giáo dục pháp luật về y tế số 04 tháng 12/2006;
Ngoài ra còn có cuộc tọa đàm về Pháp lệnh hiến, lấy, ghép mô, bộ phận
cơ thể người và khám nghiệm tử thi do Nhà pháp luật Việt pháp tổ chức năm
2004.
Các bài báo, tạp chí, tọa đàm và khóa luận tốt nghiệp đã đề cập về vấn
đề này nhưng vào các thời điểm khác nhau trong khi tình hình thực tiễn và
pháp luật có nhiều thay đổi mang tính chất bước ngoặt nên chưa toàn diện và
chưa đầy đủ về mặt pháp lý, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đặt ra,
hơn nữa các bài viết trên không đi sâu phân tích quyền hiến bộ phận cơ thể
của cá nhân mà chỉ phân tích vấn đề này một cách tổng quát. Là điều luật mới
trong bộ luật dân sự nhưng nó đã đáp ứng nhu cầu cấp bách của xã hội cũng
chính vì vậy tác giả đã mạnh dạn nghiên cứu vấn đề này để quá trình thực

7


hiện điều luật được hoàn thiện hơn, đưa ra một số giải pháp giải quyết sự tồn
tại của pháp luật trong việc quy định về quyền hiến bộ phận cơ thể của cá
nhân.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để để tài đạt hiệu quả cao trong thực tiễn, trong quá trình nghiên cứu
để tài đã sử dụng các phương pháp truyền thống như :
+ Phương pháp duy vật biện chứng
+ Phương pháp lịch sử
+ Phương pháp so sánh
+ Phương pháp phân tích tài liệu

+ Phương pháp tổng hợp, đánh giá
+ Phương pháp quy nạp
+ Phương pháp diễn dịch
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của Luận văn
Qua quá trình nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật về
quyền hiến bộ phận cơ thể của các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam
tác giả đã đánh giá được thực trạng của Pháp luật Việt Nam về vấn đề này.
Dựa trên sự đánh giá đó tác giả đã đưa ra được một số giải pháp nhằm góp
phần hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật về quyền hiến bộ phận cơ
thể của cá nhân, đảm bảo các quy định của pháp luật được thực thi một cách
có hiệu quả trong thực tế. Khi pháp luật về hiến bộ phận cơ thể người được
hoàn thiện và thống nhất như thế sẽ có nhiều nguồn hiến bộ phận cơ thể cứu
sống được nhiều người bệnh, giải quyết được tình trạng khan hiếm nguồn
cung cấp bộ phận cơ thể người ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của Luận văn.
- Phần mở đầu

8


- Chương 1 : Khái quát chung về quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân
- Chương 2 : Các yếu tố của quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân
- Chương 3 : Thực trạng pháp luật Việt Nam về quyền hiến bộ phận cơ thể
của cá nhân và hướng hoàn thiện những quy định của pháp luật về quyền hiến
bộ phận cơ thể của cá nhân
- Kết luận
Với đề tài còn khá mới này ở Việt Nam, tác giả biết rằng hạn chế của
mình còn nhiều, thiếu sót và lỗi không phải là ít và rất có thể Quý thầy cô và
các bạn đọc có những điều không đồng ý với tác giả song tác giả cũng hy
vọng có được sự ủng hộ, đóng góp ý kiến của Quý thầy cô và các bạn đọc.

Luận văn được hoàn thành dựa trên sự giúp đỡ nhiệt tình của Tiến sỹ Phùng
Trung Tập và đồng thời là kết quả quá trình nghiên cứu của bản thân. Qua
đây, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Tiến sỹ Phùng Trung tập đã giúp tôi
hoàn thành Luận văn này.

9


CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN HIẾN BỘ PHẬN CƠ THỂ
CỦA CÁ NHÂN
1.1. Quyền hiến bộ phận cơ thể của cá nhân ở một số nƣớc trên thế giới.
Từ nền văn minh cổ đại, ước mơ của con người thể hiện ở các huyền
thoại với mong muốn có thể gắn lại đầu, tay, chân….cho con người. Từ thế kỷ
XII đến thế kỷ XVI từ ngữ (greffe, graft) ghép xuất phát từ tiếng Hy Lạp,
greife là con dao sắc nhọn dùng để cấy ghép mô, cành tạo cây lai giống với
đoạn ghép (greffon, graft) và cây chủ mang hoặc nhận đoạn ghép (porte
greffe, implant, recipienti)1
Bắt đầu từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX đã xuất hiện việc cấy ghép một
số bộ phận cơ thể (BPCT) ở gia cầm, gia súc như cấy ghép cựa gà lên mào gà,
lên tai bò, cấy ghép da trên lưng cừu và cấy ghép mảnh biểu bì da tự thân lên
vết thương ở người.
Từ thế kỷ XX việc hiến BPCT và ghép BPCT người được thực hiện ở
nhiều nước trên thế giới. Công tác ghép BPCT người được khởi đầu bằng việc
ghép thận thực nghiệm và ghép thận tử thi vào người. Ở Áo năm 1902 có
Emerich Ulmann thực hiện việc ghép thận trên chó và ghép thận lợn cho
người. Năm 1912 ở nước Pháp có ông Elexis Carrel đã đạt giải thưởng Nobel
từ việc ghép thận trên chó, kỹ thuật nối các mạch máu rửa thận bằng dung
dịch Locke. Đồng thời thực hiện ghép nối chi, ghép tim phổi, ruột, lách, giáp
trạng, buồng trứng, tinh hoàn trên động vật. Việc ghép thận tử thi cho người,

ghép thận tử tù cho người, ghép thận lấy từ người bệnh đột tử trên bàn mổ
ghép cho người đều được các nhà khoa học của các nước như Ukraina, Hoa
1

Giáo sư - tiến sỹ khoa học Lê Thế Trung: “Chiến lược tổng thể về ghép mô, tạng và bộ phận cơ thể trong
giai đoạn 2006 – 2010 và tầm nhìn đến 2020”, Tạp chí y học thảm họa và bỏng, số 1/2006, tr.7

10


Kỳ, Pháp thực hiện nhưng đều thất bại. Việc cấy ghép BPCT đã thành công
thực sự từ những năm 1954 ở Pháp và Hoa Kỳ2.
Các nhà nghiên cứu trên thế giới thực hiện thành công việc ghép BPCT
trên người và động vật là một thành tựu lớn trong ngành y học thế giới. Vì
vậy, ghép tạng là một trong mười phát minh lớn của thế kỷ XX3. Khi bước
sang thế kỷ XXI các nhà khoa học trên thế giới đã nhất trí nêu mười phát
minh lớn tiêu biểu trong thế kỷ XX trong đó có ghép tạng đó là: máy bay,
truyền hình, máy tính, năng lượng hạt nhân, laser, internet, du hành vũ trụ,
kháng sinh, cấu trúc DNA và ghép tạng.
Các thành tựu về kỹ thuật ghép mô, BPCT người trên thế giới đã trải qua
gần nửa thế kỷ thực hiện và đã có những bước tiến rất đáng kể. Vì thế, ngày
nay việc hiến, lấy, ghép mô, BPCT người đã trở nên phổ biến trên toàn thế
giới. Để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động hiến, lấy, ghép mô, BPCT người một
số nước trên thế giới đã có đạo luật điều chỉnh quan hệ trong việc hiến, lấy,
ghép mô, BPCT người như Pháp, Mỹ, Canada, Úc, Bỉ, Trung Quốc, Nhật
Bản, Singapore, Thái Lan…
+ Pháp luật hiến bộ phận cơ thể ở các nước Châu Âu.
Ở các nước Châu Âu, các quy định pháp luật về hiến, lấy, ghép mô,
BPCT người đã được triển khai thực hiện từ rất sớm, tạo điều kiện thuận lợi
cho ngành phẫu thuật ghép mô, BPCT người phát triển một cách mạnh mẽ

vào những thập kỷ gần đây như Pháp năm 1952, Vương Quốc Anh năm 1961,
Đan Mạch, Italia năm 1967, Na-Uy năm 1973, Thụy Điển năm 1975, Hy Lạp
năm 1983…các nước này đều quy định việc lấy mô, BPCT của người sống

2

Carpentier (1992), Transplantation d’organes, Flammarion, Paris; J.A.Davidson (1998) “Kidney & Pancrcas
Transplantation”, Landes Bioscience – Austin Texas, USA
3
Lê Thế Trung, Phạm Mạnh Hùng (2002): “Xây dựng ngành ghép tạng – Một thành tựu mới của y học Việt
Nam”, Kỷ niệm 10 năm ghép thận 4/6/1992 – 4/6/2002 tạp chí thông tin y dược số 6/2002

11


Tiếng Việt
* Nghị quyết, chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc:
1.

Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (khóa VIInăm 1991), Nghị quyết hội nghị lần thứ 4.

2.

Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 46/NQ-TW ngày 23-2-2005 về công
tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân.

3.

Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2-6-2005 về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020.


* Văn bản pháp luật:
4.

Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 (Sửa đổi, bổ sung năm
2002).

5.

Bộ luật Dân sự nước CHXHCN Việt Nam (1995, 2005).

6.

Bộ luật Hình sự nước CHXHCN Việt Nam (1999).

7.

Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân nước CHXHCN Việt Nam (Năm 1989).

8.

Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác
CHXHCN Việt Nam (Năm 2006).

9.

Điều lệ Khám bệnh, chữa bệnh và phục hồi chức năng ban hành kèm
theo Nghị định của Hội đồng Bộ trưởng số 23-HĐBT ngày 24 tháng 1
năm 1991.


10. Thông tư số 23/2001-TT-BYT ngày 22 tháng 11 năm 2001 của Bộ Y Tế
hướng dẫn tạm thời việc tự nguyện hiến thi thể sau khi chết và việc tiếp
nhận, bảo quản, sử dụng thi thể trong các Trường Đại học Y.
11. Quy trình kỹ thuật ghép gan từ người cho sống ban hành kèm theo Quyết
định số 43/2006/QĐ-BYT ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ
Y tế.

12


12. Quy trình kỹ thuật ghép thận từ người cho sống ban hành kèm theo
Quyết định số 43/2006/QĐ-BYT ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Bộ
trưởng Bộ Y tế.
13. Quy định về điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhân sự đối với cơ sở
tiếp nhận và bảo quản xác của người hiến ban hành kèm theo Quyết định
số 35/2007/QĐ-BYT ngày 5 tháng 10 năm 2007.
14. Quyết định số 06/2008/QĐ-BTY ngày 14 tháng 2 năm 2008 về việc ban
hành Quy định về tổ chức và hoạt động của Hội đồng tư vấn lấy, ghép bộ
phận cơ thể người không tái sinh ở người sống.
15. Quyết định số 07/2008/QĐ-BTY ngày 14 tháng 2 năm 2008 về việc ban
hành các mẫu đơn tự nguyện hiến, hủy đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể
ở người sống, sau khi chết và hiến xác; các mẫu thẻ đăng ký hiến mô, bộ
phận cơ thể người sau khi chết và hiến xác.
16. Quyết định số 08/2008/QĐ-BTY ngày 14 tháng 2 năm 2008 về việc ban
hành Quy định về điều kiện đối với cơ sở y tế lấy, ghép mô, bộ phận cơ
thể người và trình tự, thủ tục cho phép cơ sở y tế hoạt động.
* Sách, giáo trình, công trình khoa học :
17. Nguyễn Minh Du (2006), “Quyền hiến bộ phận cơ thể theo quy định của
Bộ luật Dân sự 2005”, khóa luận tốt nghiệp, Đại học Luật Hà Nội.
18. Lê Thị Hoa (2006), “Quyền nhân thân liên quan đến thân thể của cá

nhân theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005”, luận văn thạc sỹ Luật
học, Đại học Luật Hà Nội.
19. Trần Thị Thu Trang (2008), “Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể
người và hiến, lấy xác-một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, khóa luận tốt
nghiệp, Đại học Luật Hà Nội.
20. Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam,
tập I, tập II, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

13


* Các bài viết trên tạp chí, bài báo, báo cáo khoa học:
21. Đỗ Tất Cường và Cộng sự (2002), "Ghép tạng, ghép thận và hồi sức
điều trị sau ghép", bài giảng tại Học viện Quân Y.
22. Đỗ Tất Cường (2006), “Nhu cầu ghép tạng và Luật hiến, lấy, ghép mô,
bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác tại Việt Nam”, Thông tin phổ biến
giáo dục pháp luật về y tế,Vụ pháp chế - Bộ y tế số 04 tháng 12/2006.
23. Vinh Giang (2007), “TP. Hồ Chí Minh: Ca đầu tiên dùng tế bào gốc
chữa bệnh mắt”, Báo điện tử Vietnamnet 08:01' 20/11/2007 (GMT+7,)
/>24. Ghép tạng-Một hoạt động y học không đơn giản, http:/www.dep.com.vn
ngày 19/04/2007.
25. Kim Liên (2007), “Vỡ quỹ bảo hiểm y tế: Hậu quả tất yếu của việc làm
thiếu

tính

khoa

học“.


Báo

Sài

Gòn

giải

phóng

điện

tử,

/>26. Nhà pháp luật Việt - Pháp (2004), tài liệu "Toạ đàm Pháp lệnh hiến, lấy,
ghép mô; bộ phận cơ thể người và khám nghiệm tử thi".
27. Nguyễn Huy Quang – Nguyễn Hoàng Phúc (2006), “Một số nội dung
quan trọng trong Luật hiến, lấy, ghép mô, Bộ phận cơ thể người và hiến,
lấy xác”, Thông tin phổ biến giáo dục pháp luật về y tế, số 04 tháng
12/2006, tr.2.
28. Đỗ Kim Sơn (2003), “Những khía cạnh pháp lý và y học trong lấy nội
tạng ở người chết não tự nguyện”, Website Bệnh viện Việt Đức, Update
23/4/2003
29. TS. Phùng Trung Tập (2005), “Về quyền hiến bộ phận cơ thể hoặc hiến
xác sau khi chết”, Tạp chí Tòa án nhân dân, tháng 3-2005, số 5.
30. GS.TS. Lê Thế Trung (1992), “Ghép thận-triển vọng ở Việt Nam”, Tạp
chí khoa học và Tổ Quốc, số 4/1992, tr.7.

14



31. GS.TS. Lê Thế Trung (2006), “Chiến lược tổng thể về ghép mô, tạng và
bộ phận cơ thể trong giai đoạn 2006-2010 và tầm nhìn đến 2020”, Tạp
chí y học thảm họa và bỏng, số 1/2006, tr.7.
32. GS.TS. Lê Thế Trung, Phạm Mạnh Hùng (2002): “Xây dựng ngành ghép
tạng-Một thành tựu mới của y học Việt Nam”, Kỷ niệm 10 năm ghép
thận 4/6/1992-4/6/2002 Tạp chí thông tin y dược số 6/2002.
33. “Thị trường của những bộ phận cơ thể”, Báo điện tử Lâm đồng, ngày 28
tháng

06

năm

mục

2001,

hồ





liệu,

http:/www.dalat.gov.vn/ctv/baold/2001/06/28/text/hoso-tulieu.html
34. Bạch Thông (2005), “Ghép tạng và những vấn đề liên quan”, Báo sức
khỏe và đời sống, ra ngày 19/09/2005.
Tiếng Anh

35. Carpentier (1992), Transplantation d’organes, Flammarion, Paris.
36. J.A.Davidson (1998) “Kidney & Pancrcas Transplantation”, Landes
Bioscience – Austin Texas, USA.
37. Fundacion renal – Council of Europe. In ternational figures on organ
donation and transplantation – 2004. Newsletter Transplant, Vol.10,
N01, September 2005.
38. Human

Organ

Transplant

Act-16

July

1987,

đường

dẫn

/>39. The Third Congress of Asian Society of Tranplantation Abstract
Bangkok, Thailand, 1993
40. World Health Organization – Western Pacific Region. Meeting Report.
Consultation Meeting on Transplantation with National Health
Authorities in the Western Pacific Region. Manila, Philippines, 7 – 9
November 2005.

15



* Tài liệu dịch ph ục v ụ cho các cuộc hội thảo khoa học của Vụ Pháp chếBộ Y tế
41. Bộ luật dân sự Pháp, NXB Tư pháp, 2006.
42. Bộ luật y tế cộng đồng Cộng hòa Pháp - phần lập pháp, bản dịch của Vụ
Pháp chế - Bộ Y tế.
43. Chỉ thị của Nghị viện Châu Âu và hội đồng Châu Âu Về việc xây dựng
các tiêu chuẩn về chất lượng và tính an toàn trong hoạt động cho, nhận,
kiểm soát, xử lý, lưu giữ, cung cấp mô và tế bào người, bản dịch của Vụ
Pháp chế - Bộ Y tế.
44. Đạo luật về lấy và ghép tạng của Bỉ (Bruxelles, ngày 13 tháng 6 năm
1986), bản dịch của Vụ Pháp chế - Bộ Y tế.
45. Đạo luật cho tạng thống nhất toàn Hoa Kỳ (1987), bản dịch của Vụ Pháp
chế - Bộ Y tế.
46. Đạo luật về mô người 1983, số 164 của New South Wales và Đạo luật về
mô người (sửa đổi) 1987, số 144 của New South Wales, bản dịch của Vụ
Pháp chế - Bộ Y tế.
47. Hệ thống Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người của Singapore,
bản dịch của Vụ Pháp chế - Bộ Y tế.
48. Luật Bảo vệ bào thai của Đức, 1990, bản dịch của Vụ Pháp chế - Bộ Y
tế.
49. Luật về phẫu thuật ghép tạng của Nhật Bản, ngày 16 tháng 7 năm Bình
Thành thứ 9 (năm 1997), bản dịch của Vụ Pháp chế - Bộ Y tế.
50. Pháp luật y sinh Cộng hòa Pháp, bản dịch của Vụ Pháp chế - Bộ Y tế.
51. Quy trình ghép gan từ người cho sống tại Nhật Bản và Đài Loan, bản
dịch của Vụ Pháp chế - Bộ Y tế.

16




×