Tải bản đầy đủ (.docx) (85 trang)

Khoá luận tốt nghiệp đảng lãnh đạo hoạt động kinh tế đối ngoại từ năm 2005 đến năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.4 KB, 85 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH sử
===o0o===

BÙI THỊ QUỲNH NGA

ĐÁNG LẢNH ĐẠO
HOAT ĐÔNG KINH TÉ ĐỐI NGOAI
• • •

TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2015
KHÓA LUẬN TÓT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt

HÀ NỘI,


Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo Trần Thị Vui đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành khóa
luận tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn thầy cô trong Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2, đặc biệt các thầy cô trong Khoa
Lịch sử đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt thời gian qua.
Với những hạn chế về thời gian cũng như kiến thức của bản thân nên khóa luận khó tránh khỏi những hạn chế,
thiếu sót. Em rất mong sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn!
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu riêng tôi. Công trình này được thực hiện dưới sự hướng dẫn
của Tiến sĩ Trần Thị Vui.
Các kết quả nêu ữong khóa luận chưa công bố trong bất kỳ công trình nào và cũng không trùng với kết quả
nghiên cứu của bất kỳ một tác giả nào.
Các số liệu sử dụng ữong khóa luận là trung thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học và có nguồn gốc rõ
ràng.


Sinh viên
Bùi Thị Quỳnh Nga


MUC LUC
• •


BẢNG QUY ƯỚC CÁC CHỮ YIẾT TẮT

ADB: Ngân hàng phát ữiển châu Á
AFTA: Khu vực mậu dịch tự daAŨEAN
APEC: Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á- Thái Bình Dương
ASEM: Diễn đàn hợp tác Á- Âu
ASEAN: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
DN: Doanh nghiệp
EU: Liên minh châu Âu
FDI: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
FTA: Hiệp định Thương mại tự do
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội
IMF: Quỹ tiền tệ quốc tế
KH&CN: Khoa học và công nghệ
NAFTA: Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ
NSNN: Ngân sách nhà nước
MFN: Tối huệ quốc
ODA: Vốn hỗ trợ phát ữiển chính thức
OECD: Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
RCEP: Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực
SHTT: Sở hữu trí tuệ

TNCs: Các công ty xuyên quốc gia


TPP: Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
TTCK: Thị trường chứng khoán
WB: Ngân hàng thế giới
WTO: Tổ chức Thương mại thế giới
XHCN: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
í . Lý do chọn đề tài

Những năm đầu thế kỷ XXI, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trên
thế giới phát triển mạnh mẽ, tạo bước nhảy vọt về chất, thúc đẩy sản xuất vật
chất, tạo ra nhiều ngành kinh tế mới. Toàn cầu hóa diễn ra sâu sắc dẫn đến nền
sản xuất vật chất và đời sống người dân các nước cũng có sự thay đổi. Toàn cầu
hóa kinh tế nổi lên như một xu hướng định hướng, dẫn dắt quá trình phát triển
của thế giới.
Mở cửa và hội nhập các quốc gia vào cộng đồng quốc tế dẫn đến cải
cách thể chế và cơ cấu lại nền kinh tế để có sức mạnh trong cạnh tranh.
Đây là quá trình mang lại cơ hội và xung lực cho sự phát triển đồng thời
cũng đặt ra những thách thức.
Khi toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan và cách mạng khoa
học kỹ - thuật trở thành động lực của sự phát triển thì hoạt động kinh tế đối
ngoại ngày càng khẳng định là chỗ dựa thiết yếu.
Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh một nước nghèo,
bị chiến ưanh tàn phá nặng nề, kinh tế, kĩ thuật lạc hậu, trình độ phát triển xã
hội thấp do đó việc tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài có tầm quan trọng đặc
biệt. Phát triển kinh tế đối ngoại trở thành một trong những định hướng lớn của

nền kinh tế quốc dân. Qua đó, Việt Nam mở rộng được thị trường xuất - nhập
khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tiếp thu khoa học - công nghệ tiên tiến,
phát triển các lĩnh vực dịch vụ và đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài. Nhu cầu đó
ngày càng trở nên bức xúc trước nguy cơ ngày càng tụt hậu xa hơn về kinh tế so
với khu vực và thế giới.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng tập trung nhiều nguồn lực cho việc đổi
mới, mở rộng, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại. Thời kì này Đảng


đã ban hành nhiều nghị quyết có liên quan và nghị quyết chuyên đề về hoạt
động kinh tế đối ngoại: Nghị quyết số 13 - NQ/TW của Bộ Chính trị năm 2001.
Văn kiện Đại hội Đảng thời kì đổi mới, có phần đánh giá thực tiễn trước
khi xác định phương hướng, nhiệm vụ của hoạt động kinh tế đối ngoại, nêu rõ
tư tưởng chỉ đạo, phương châm và cách thức thực hiện. Các văn kiện của Đảng
gắn việc đổi mới, mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại với
“chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền
kinh tế Việt Nam từng bước hội nhập vào kinh tế quốc tế, góp phần tích cực
thúc đẩy kinh tế xã hội thoát ra khỏi khủng hoảng và có bước phát triển ổn
định, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thực hiện “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Tuy nhiên, sự chỉ đạo, điều hành hoạt động kinh tế đối ngoại còn bất cập.
Khả năng độc lập, tự chủ của nền kinh tế còn yếu, thiếu sức cạnh tranh, nhập
siêu lớn ...
Một chương trình tổng kết hệ thống toàn diện những chủ trương của
Đảng đối với hoạt động kinh tế đối ngoại đánh giá những thành công, hạn chế,
rút kinh nghiệm để khắc phục và phát triển là một việc làm cần thiết, có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Với lý do ữên, em chọn vấn đề “Đảng lãnh đạo hoạt động kinh tể đối ngoại
từ năm 2005 đến năm 2015” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp cử nhân Lịch sử


Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Là một đề tài đa dạng, đề tài Đảng lãnh đạo hoạt động kinh tế đối ngoại
đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế. Mỗi
công trình nghiên cứu đề cập đến những khía cạnh khác nhau, hay lựa chọn
những giai đoạn khác nhau trong quá trình lãnh đạo hoạt động kinh tế đối


ngoại.
Trước hết phải kể đến công trình: Năm 1998, Masahiko Aoki- Hyung Ki
Kim- Masahữo Okuno Fujiwara, Vai trò của Chính phủ trong phát triển kinh tể
Đông Á: Phân tích thể chế so sánh, Oxford University Press, USA, 1998. Cuốn

sách giải thích “điều kỳ diệu của Đông Á” để tìm ra sự đa dạng của các nền
kinh tế khác nhau của Đông Á cũng như tính cần thiết và sự can thiệp của
Chính phủ các nước trong mối quan hệ kinh tế đối với bên ngoài.
Một công trình nữa phải kể đến là “ Kinh tể đối ngoại Việt Nam, nội dung giải pháp - hiệu quả”, Vũ Phạm Quyết Thắng, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1994 phân

tích: Cho đến năm 1994, nền kinh tế Việt Nam xếp vào loại thấp kém của thế
giới (184/ 204 nước). Dấu ấn sâu đậm xác định từ đại hội VI của Đảng đã đưa
ra những tư tưởng, quan điểm mới trong định hướng thiết kế một nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần. Một nền kinh tế như thế tất yếu phải là một nền
kinh tế mở. Tác giả cho rằng, bắt đầu thời điểm đó những tư tưởng, quan điểm
mới về kinh tế đối ngoại được hình thành [28; tr 3-4].
Năm 2013, Đinh Xuân Lý công bố công trình “Đối ngoại Việt Nam qua
các thời kỳ lịch sử (1945- 2012)”, (Nxb Đại học quốc gia Hà Nội), ở một số nội
dung nhất định, cuốn sách trình bày chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước Việt Nam về kinh tế đối ngoại cùng với đúc rút một số bài học kinh
nghiệm về hoạch định chủ trương và thực hiện đường lối đối ngoại tác giả kết
luận: “Lĩnh vực đối ngoại, từ quan điểm, đường lối, chính sách đến phương

châm và phương pháp, hoạt động thực tiễn, vừa phải đảm bảo lợi ích quốc gia
dân tộc, vừa phải thích ứng với đặc điểm và xu thế quốc tế [20; tr.349].
Năm 2005, tạp chí Lịch sử Đảng số 1 đăng bài “Vai trỏ lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam trên lĩnh vực kinh tế đổi ngoại và hội nhập kinh tể quốc tế trong
quá trình đổi mới” của Hoàng Ngọc Hòa. Theo tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam


trong suốt 75 năm lãnh đạo cách mạng không bao giờ theo đuổi “đường lối biệt
lập” mà luôn coi việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc “là một trong những nguyên tắc cơ bản trong đường lối
chiến lược” [16; tr.25], bước vào thời kỳ đổi mới, nắm bắt xu thế khách quan và
tác động của toàn cầu hóa, vượt lên trên thử thách, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
phân tích đánh giá tình hình thế giới, đề ra đường lối kinh tế đối ngoại và hội
nhập quốc tế đúng đắn, góp phần tạo lên thế và lực mới đưa đất nước vững
bước tiến vào thế kỷ XXI.
Bài báo “Quá trình đổi mới tư duy của Đảng về xây dựng nền kinh tế độc lập
tự chủ và hội nhập kỉnh tể quốc tể” của Nguyễn Thị Thu Hiền( Tạp chí Lịch sử

Đảng số 7, 2010) cho rằng cùng với quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam
với khu vực và thế giới, chủ trương, tư tưởng chỉ đạo của Đảng về xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ “ngày càng đầy đủ và cụ thể hơn” [15; tr.57]. Mối
quan hệ giữa hai nội dung này được Đảng đề cập nhiều hơn tại Đại hội IX và
Đại hội X.
Như vậy, các công trình chủ yếu tập trung ở các báo cáo, bài tạp chí. Cho
đến nay chưa có công trình nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống về sự lãnh
đạo của Đảng đối với hoạt động kinh tế đối ngoại trong giai đoạn 2005- 2015.
Vì vậy, với mong muốn bổ khuyết vào khoảng trống đó, em đã lựa chọn vấn đề
“Đảng lãnh đạo hoạt động kinh tế đối ngoại từ năm 2005 đến năm 2015 ” làm đề tài

khóa luận tốt nghiệp, với mong muốn phân tích những chủ trương của Đảng về

hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động kinh tế đối ngoại trong các nhiệm kỳ Đại
hội Đảng, trên cơ sở đó đưa ra những nhận xét và một số kinh nghiệm trong quá
trình lãnh đạo hoạt động kinh tế đối ngoại của Đảng.
3. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung khoa học: Hoạt động về hợp tác đầu tư với nước ngoài; hoạt


động ngoại thương; xuất nhập khẩu; hợp tác khoa học - kỹ thuật; chuyển giao
khoa học - công nghệ; các hoạt động dịch vụ nhằm thu ngoại tệ: du lịch quốc tế,
bảo hiểm quốc tế, vận tải quốc tế.
Thời gian: Từ năm 2005 đến năm 2015, đặc biệt là Đại hội X (2006) và
Đại hội XI (2011) của Đảng.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Khóa luận dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm chỉ đạo nghiên cứu sử học của Đảng.
về phương pháp nghiên cứu, khóa luận đã sử dụng nhiều phương pháp

nghiên cứu khác nhau: phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phân tích, so
sánh...
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích'. Đề tài tìm hiểu về chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng đối với

phát triển kinh tế đối ngoại từ năm 2005 đến năm 2015, từ đó khẳng định vai
trò và thành tựu về sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động kinh tế đối ngoại.
Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, đề tài cần giải quyết những nhiệm

vụ cơ bản sau:
Thứ nhất, khái quát và phân tích những đặc điểm của tình hình mới trong
và ngoài nước, những chủ trương và sự chỉ đạo hoạt động kinh tế đối ngoại của
Đảng.

Thứ hai, đánh giá những thành tựu và hạn chế về sự lãnh đạo của Đảng
trong hoạt động kinh tế đối ngoại từ năm 2005 đến năm 2015.
6. Đóng góp của đề tài
Đồ tài nghiên cứu về Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự phát triển
kinh tế đối ngoại có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Vì vậy, nghiên cứu đề
tài sẽ có nhiều đóng góp.


về mặt lý luận: Đề tài nghiên cứu góp phần cung cấp một số hiểu biết về

nghiên cứu kinh tế đối ngoại.
về mặt thực tiễn: Đe tài góp phần tìm hiểu về vai trò của Đảng Cộng Sản

Việt Nam ưong việc lãnh đạo phát triển kinh tế đối ngoại. Đồng thời giúp chúng
ta có thể tham khảo khi giảngjạy, nghiên cứu vai trò của Đảng đối với phát triển
kinh tế, đặc biệt là kinh tế đối ngoại.
7. Bố cuc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài đuợc
chia làm 3 chuơng:
Chuơng 1 : Đảng lãnh đạo phát triển hoạt động kinh tế đối ngoại từ năm
2005 đến năm 2010.
Chuơng 2: Đảng lãnh đạo phát triển hoạt động kinh tế đối ngoại từ năm
2010 đến năm 2015.
Chuơng 3 : Nhận xét và một số kinh nghiệm.


CHƯƠNG 1
ĐẢNG LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG KINH TẾ ĐỐI • • •
NGOẠI TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2010


1.1. Những yếu tố tác đông đến sư lãnh đao mở rông hoat đông kinh tế đối
ngoại của Đảng
1.1.1. Khái quát hoạt động kinh tế đối ngoại trước năm 2005
Từ năm 1986, Việt Nam từng bước chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam từ
cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế nhiều thành phần; mở rộng và đa dạng
hoá, đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, hội nhập vào kinh tế khu vực và
thế giới. Qua hơn mười sáu năm thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam đã đạt
được nhiều thành tựu to lớn, nhưng cũng gặp không ít khó khăn trong kinh tế
đối ngoại, thể hiện qua một số mặt sau:
Trong quá trình đổi mới kinh tế trong nước, kinh tế đối ngoại, Việt Nam
đã có nhiều cố gắng nhằm thiết lập môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế
đối ngoại nói riêng và tổng thể nền kinh tế nói chung. Gồm một số sự kiện lớn
sau đây: Nối lại quan hệ tín dụng bình thường với IMF và WB, đàm phán thắng
lợi tại Câu Lạc bộ Paris và London nhằm giảm, xoá, hoãn nợ Chính phủ và
công ty của Việt Nam, tạo điều kiện hình thành cơ chế Hội nghị tư vấn (CG)
hàng năm cam kết ODA cho Việt Nam bắt đầu từ 1993. Đây có thể coi là một
mốc quan trọng phá thế bao vây cấm vận của các thế lực đế quốc và thù địch;
Ký Hiệp định Bali và trở thành thành viên ASEAN năm 1995, tiếp đó tham gia
AFTA vào năm 1996; Thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ năm 1995 và ký
Hiệp định thương mại với Mỹ năm 2001 với điều khoản tối huệ quốc tạo thuận
lợi cho hàng hoá ta thâm nhập thị trường Mỹ; Ký Hiệp định khung về hợp tác
phát ữiển với EU (năm 1995), tạo điều kiện cho các hiệp định cụ thể về hàng


dệt, nông thuỷ sản thâm nhập vào thị trường EU; Tham gia APEC (1998 ),
ASEM tạo điều kiện cho quá ữình hội nhập kinh tế khu vực và liên khu vực;
Gửi đơn gia nhập WTO năm 1995 và đang quá trình đàm phán gia nhập tổ chức
này vào năm 2005.
Từ năm 1990, các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc, các nước

thuộc OECD và các nước Châu Á đã nối lại viện trợ cho Việt Nam. Nguồn vốn
ODA song phương đã tăng từ 75 triệu USD/năm trong giai đoạn 1985- 1990 lên
khoảng 350 triệu USD năm 1992. Tuy nhiên, quan hệ với các tổ chức tín dụng
quốc tế chỉ được chính thức nối lại từ năm 1993 với Hội nghị các nhà tài trợ
dành cho Việt Nam tại Paris (sau này là Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ
dành cho Việt Nam - Hội nghị CG). Sau 10 Hội nghị CG (từ 1993 đến 2003,
các nhà tài trợ đã cam kết dành cho Việt Nam tổng cộng là 25,39 tỷ USD (năm
2003 các nhà tài trợ đã cam kết hỗ trợ Việt Nam 2,84 tỷ USD. Tổng giá trị vốn
ODA đã được hợp thức hoá bằng các hiệp định ký kết đạt khoảng 16,6 tỷ USD
( trong đó đã giải ngân khoảng 11 tỷ), bằng 83% tổng nguồn vốn ODA đã cam
kết, tập trung vào giao thông vận tải và điện.
Trong khi ODA trên thế giới ngày càng giảm, nhiều nhà tài trợ cắt giảm
ODA do yêu cầu trong nước, ODA cam kết dành cho Việt Nam vẫn tăng. Các
nhà tài trợ lớn nhất cho Việt Nam là Nhật Bản, WB và ADB, chiếm khoảng
70% tổng giá trị các hiệp định đã ký kết.
Tình thế giới và khu vực những năm đầu thế kỷ XXI diễn biến phức tạp,
nhất là sự kiện khủng bố ngày 11-9-2001 ở Mỹ. Chủ nghĩa đế quốc thực hiện
chính sách bá quyền, đánh đòn phủ đầu, gây ra chiến tranh ở Ápganixtan, Irắc...
làm cho tình hình thế giới trở lên phức tạp. Đấu tranh dân tộc và giai cấp trên
thế giới trở lên phức tạp và quyết liệt hơn. Thiên tai dịch bệnh xảy ra ở nhiều
nơi như dịch bệnh SARS (năm 2003), dịch cúm gia cầm (năm 2004, 2005) gây
thiệt hại nhiều về người và của ảnh hưởng đến thu hút khách du lịch quốc tế.


Đặc biệt các nước ASEAN chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính - kinh tế
năm 1997 - 1998. Tuy nhiên, trước tình hình thế giới như vậy nhưng hoạt động
kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam có bước tiến mới
quan trọng.
Xuất nhập khẩu tăng nhanh. Tổng kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm
(2000- 2005) đạt 111 tỷ USD, tăng bình quân 17,5%/năm (kế hoạch 16%/năm).

Một số sản phẩm của nước ta như gạo, cao su, may mặc, giày dép, hải sản... đã
có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Vốn đầu tư nước ngoài cả ODA và FDI liên tục tăng qua các năm. vốn
ODA ký kết đạt 11,2 tỷ USD; vốn giải ngân đạt 7,9 tỷ USD, tập trung cho xây
dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội , đào tạo nguồn nhân lực... vốn FDI có bước
chuyển tích cực, tăng mạnh từ năm 2004, tổng mức vốn đăng ký đạt 20,9 tỷ
USD, vượt trên 39% so với kế hoạch, trong đó, thực hiện 14,3 tỷ USD, vượt
30% so với kế hoạch. Các doanh nghiệp Việt Nam đã có một số dự án đầu tư ra
nước ngoài như khai thác dầu ở Angiêri, Singapore, trồng cao su ở Lào.
Hội nhập kinh tế quốc tế có bước tiến mới. Quan hệ kinh tế giữa Việt
Nam với các tổ chức quốc tế, các nước trên thế giới và khu vực tiếp tục được
mở rộng. Việc triển khai thực hiện Hiệp định khu vực mậu dịch tự do ASEAN,
Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ theo cam kết đã mang lại hiệu quả.
Đàm phán để gia nhập WTO được đẩy mạnh. Các hiệp định song phương, đa
phương khác được ký kết và triển khai. Những cố gắng đó góp phần tạo ra
bước phát triển mới rất quan trọng cho kinh tế đối ngoại.
1.1.2.

Đặc điểm tình hình quốc tế và trong nước những năm 2005-

2010
Tình hình quốc tế
Trong những năm qua, tình hình thế giới và khu vực thay đổi nhanh
chóng với những diễn biến phức tạp. Xu thế hình thành trật tự thế giới mới theo


hướng đa cực ngày càng rõ. Các nước lớn gia tăng tập hợp lực lượng không chỉ
ở khía cạnh chính trị - an ninh truyền thống mà còn trong cả lĩnh vực kinh tế.
Cạnh tranh địa - chính trị chiến lược diễn ra hết sức gay gắt, các nước lớn đẩy
mạnh tập hợp lực lượng ở nhiều địa bàn chiến lược. Quan hệ giữa các nước lớn

tiếp tục vận động trong khuôn khổ vừa hợp tác, vừa đấu tranh, song mặt cạnh
tranh có biểu hiện diễn biến phức tạp. Đã có nhiều sáng kiến hợp tác, liên kết,
kết nối kinh tế liên lục địa, trong đó các nước lớn đóng vai trò chủ đạo, hoặc
với tư cách khởi xướng ý tưởng, hoặc có khả năng chi phối chủ yếu, đã được
đưa ra. Trong khi đó, kinh tế thế giới nhiều năm qua vẫn chưa thực sự phục hồi
vững chắc, tốc độ tăng trưởng chậm hơn kỳ vọng. Trên thế giới, hoà bình, hợp
tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Kinh tế thế giới và khu vực tiếp tục phục hồi
và phát triển nhưng vẫn tiềm ẩn những yếu tố bất trắc khó lường. Toàn cầu hoá
kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình
đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước đang
phát triển. Cạnh tranh kinh tế - thương mại, giành giật các nguồn tài nguyên,
năng lượng, thị trường, nguồn vốn, công nghệ... giữa các nước ngày càng gay
gắt. Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt và những đột phá lớn.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới diễn ra năm 2008, đã có tác động to
lớn đến nền kinh tế thế giới trong đó có Việt Nam. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
sụt giảm và bộc lộ một số hạn chế lớn trong thời gian dài.
Những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn
giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai, hoạt động khủng
bố, những tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, biển đảo và các tài nguyên thiên
nhiên tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp. Các mâu
thuẫn lớn của thời đại vẫn rất gay gắt. Nhiều vấn đề toàn cầu bức xúc đòi hỏi
các quốc gia và các tổ chức quốc tế phối hợp giải quyết: khoảng cách chênh
lệch giữa các nhóm nước giàu và nước nghèo ngày càng lớn; sự gia tăng dân số


cùng với các luồng dân di cư; tình trạng khan hiếm nguồn năng lượng, cạn kiệt
tài nguyên, môi trường tự nhiên bị huỷ hoại; khí hậu diễn biến ngày càng xấu,
kèm theo những thiên tai khủng khiếp; các dịch bệnh lớn, các tội phạm xuyên
quốc gia có chiều hướng tăng.
Tình hình các khu vực trên thế giới cũng có nhiều biến động. Ngoại trừ

một số chuyển biến tích cực, như việc bình thường hóa quan hệ giữa Mỹ và Cuba, hay I-ran và nhóm P5+1 đạt được thỏa thuận hạt nhân lịch sử, các “điểm
nóng” khác vẫn trong tình trạng bế tắc, chưa tìm được lối thoát. Tại một số địa
bàn, xung đột, tranh chấp còn có xu hướng căng thẳng hơn, xuất hiện thêm các
“điểm nóng” mới, tác động mạnh tới tình hình an ninh thế giới.
Châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục là khu vực tăng trưởng kinh tế năng
động với việc đẩy mạnh nhiều hoạt động hợp tác, liên kết kinh tế. Việc hiện
thực hóa Cộng đồng ASEAN góp phần tạo động lực mới giữa các quốc gia
thành viên và củng cố vị trí trung tâm của ASEAN tại khu vực. Tuy vậy, đây
cũng là địa bàn hội tụ hầu hết những đặc điểm phức tạp chung của tình hình thế
giới. Việc các nước lớn đẩy mạnh cạnh tranh chiến lược, gia tăng ảnh hưởng tại
khu vực cùng với các vấn đề nội bộ của nhiều nước đã và đang làm gia tăng
nguy cơ tiềm ẩn đối với môi trường hòa bình, ổn định của khu vực. Tranh chấp
chủ quyền biển, đảo và chủ nghĩa dân tộc cực đoan có xu hướng căng thẳng
hơn; tình hình Biển Đông có nhiều diễn biến rất phức tạp.
Tình hình đó tác động sâu sắc, nhiều chiều tới Việt Nam, một mặt, tạo ra
nhiều cơ hội; mặt khác, đặt ra những thách thức rất lớn đối với môi trường an
ninh, phát triển và không gian sinh tồn của đất nước, đòi hỏi công tác đối ngoại
đảng, cũng như toàn thể mặt trận đối ngoại nói chung phải không ngừng nỗ lực,
củng cố, đưa các mối quan hệ đối ngoại đi vào chiều sâu, nâng cao chất lượng,
hiệu quả hội nhập quốc tế, góp phần tạo thế và lực mới cho đất nước, phục vụ
đắc lực nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tình hình trong nước


Trong nước, những thành tựu 5 năm qua (2001 - 2005) và 20 năm đổi
mới (1986 - 2006) làm cho thế và lực nước ta lớn mạnh lên nhiều so với trước.
Việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế, giữ vững môi trường hoà bình tạo thêm nhiều thuận lợi cho nhân dân
ta đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội với tốc độ nhanh hơn.
Việt Nam đẩy nhanh các hoạt động kinh tế đối ngoại với các nước

ASEAN, EU, Nhật Bản, Trung Quốc, mở cửa sang các thị trường mới, trong đó
có Mỹ, hàng xuất khẩu chủ yếu tập ữung vào nông - hải sản, hàng may mặc,
dầu thô, hàng điện tử..., trong đó lợi thế nhất của ta là hàng nông, lâm, thủy sản.
Hàng may mặc và giày dép là lợi thế của nước ta vì nó sử dụng nhiều lao động,
nếu mở rộng được thị trường tiêu thụ ra ngoài nước sẽ tạo được nhiều công ăn,
việc làm và thu nhập, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp
sang công nghiệp, vấn đề là phải đầu tư công nghệ để nâng cao chất lượng sản
phẩm, đáp ứng yêu cầu nâng cao sức cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị
trường thế giới, nhất là vào Mỹ và EU.
Việt Nam đã là thành viên và tích cực đóng góp vào hoạt động của các tổ
chức quốc tế, khu vực như Liên Hợp Quốc, ASEAN, APEC, ASEM, tham gia
các cam kết xây dựng thị trường tự do khu vực ASEAN (AFTA)... và trở thành
thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào tháng 1 năm 2007.
Nhờ thắng lợi của hơn 20 năm đổi mới, dựa trên chính sách đối ngoại đúng
đắn, Việt Nam có quan hệ hòa bình, hữu nghị rộng lớn trong quan hệ quốc tế.
Uy tín và vị thế của nước ta trên thế giới và khu vực không ngừng tăng lên.
Điều đó đã tạo thêm nhiều thuận lợi cho công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế xã hội nhanh hơn.
Tuy nhiên, Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen
nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ
thách thức nào. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu


vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo
đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí là nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội chưa được khắc phục. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện
âm mưu "diễn biến hoà bình", gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài "dân
chủ", "nhân quyền" hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta.
1.2.


Chủ trương và sư chỉ đao hoat đông kinh tế đối ngoai của

Đảng trong giai đoạn 2005 - 2010
1.2.1.

Chủ trương của Đảng

Đại hội X của Đảng (2006) nêu nhiệm vụ: “Đẩy mạnh hoạt động kinh tế
đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu
vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất, tạo
bước ngoặt về hội nhập kinh tế và hoạt động kinh tế đối ngoại”.
Chủ trương này được kế thừa và phát triển từ Đại hội VII của Đảng với
chủ trương: “Mở rộng, đa dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc
giữ vững độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi” [7; tr.81]. Đại hội VIII
đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư của Ban chấp hành Trung ương khóa
VIII về kinh tế đối ngoại đã nhấn mạnh: “Chủ động chuẩn bị các điều kiện cần
thiết về cán bộ, luật pháp và nhất là về những sản phẩm mà chúng ta có khả
năng cạnh tranh để hội nhập thị trường khu vực và thị trường quốc tế. Tiến
hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định Thương mại với Mỹ,
gia nhập APEC và WTO. Có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện các cam
kết trong khuôn khổ AFTA” [8; tr.60].
Đại hội IX của Đảng đưa ra chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế và khu vực”. Sau Đại hội IX, Bộ Chính trị khóa IX đã ra Nghị quyết 07 về
hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết Trung ương 9 khóa IX nhấn mạnh: “Chủ
động và khẩn trương hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các


cam kết quốc tế đa phương, song phương nước ta đã ký và chuẩn bị tốt điều
kiện để sớm gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO)”.
Như vậy, sau hơn 20 năm đổi mới, từ nhận thức đúng đắn tính tất yếu

khách quan và những vấn đề của toàn cầu hóa, Đảng đã xác định rõ chủ trương
đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn, hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực, tạo bước ngoặt về hội nhập kinh tế và hoạt
động kinh tế đối ngoại. Điều này thể hiện khi Việt Nam gia nhập WTO (tháng
1/ 2007).
Đường lối đối ngoại Đại hội VII “Độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa
phương hóa các quan hệ đối ngoại” đã đánh dấu một bước khởi đầu cho tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong bối cảnh quốc tế mới. Mở
rộng quan hệ hợp tác kinh tế đa phương là điều kiện để giữ thế cân bằng, tránh
sự lệ thuộc một chiều vào một số đối tác nhất định. Đó là một giải pháp để vừa
mở rộng các mối quan hệ kinh tế, vừa giữ độc lập tự chủ.
Với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ và mở rộng Việt Nam đã mở
rộng quan hệ kinh tế đối ngoại song phương và đa phương với nhiều nhóm đối
tượng khác nhau dưới nhiều hình thức và trên nhiều lĩnh vực. Nhờ chủ trương
đúng đắn của Đảng, Việt Nam đã có những thành công đáng kể trong hội nhập
kinh tế quốc tế.
Triển khai thực hiện đường lối “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, Bộ
Chính trị ra Nghị quyết 07- NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết
này mang tính chất đột phá và đóng vai trò quan trọng, là “kim chỉ nam” hướng
dẫn, thống nhất về mặt nhận thức và hành động trong toàn Đảng, toàn dân và
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Nghị quyết nêu ra quan điểm
trong quá trình hội nhập đồng thời nêu ra nhiệm vụ cụ thể cần thực hiện trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong đó nêu rõ: “Chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức


quản lý nhằm đẩy mạnh CNH, HĐH theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực
hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Trên cơ sở xác định mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Nghị quyết đã nêu nguyên

tắc cơ bản và bao trùm trong hội nhập kinh tế quốc tế là “bảo đảm giữ vững độc
lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm giữ vững an ninh quốc gia,
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc”.
Tiếp tục nhấn mạnh chủ trương “gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”. Đại hội X của Đảng đã đưa ra
những quyết sách quan trọng, trong đó xác định bước đột phá mới về hội nhập
kinh tế quốc tế với quan điểm chỉ đạo: “Đẩy mạnh hơn nữa hoạt động kinh tế
đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh
tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu
cao nhất, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ ưình, phù hợp
với chiến lược phát triển đất nước đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020,
thực hiện cam kết với các nước về thương mại, đầu tư và các lĩnh vực khác,
chuẩn bị tốt các điều kiện để ký kết và thực hiện các Hiệp định thương mại tự
do song phương và đa phương”... Đây là bước phát triển mới, cụ thể hóa hơn
nữa chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, được Đảng khởi xướng
trong công cuộc đổi mới đất nước, trên cơ sở kế thừa và phát huy những thành
quả đạt được trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Đại hội X đã nhấn mạnh nhiệm vụ: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh
tế quốc tế”, “hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu,
khu vực và song phương”. Chủ động theo tinh thần Đại hội X đó là: chủ động
sáng tạo, phân tích, lựa chọn, chủ động dự báo được những tình huống thuận
lợi và khó khăn khi mở cửa, hội nhập để từ đó chủ động quyết định các đường
lối chiến lược, chính sách, chủ trương [10; ữ.55].
Với quan điểm chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế Đại hội X


có chính sách cụ thể: “Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu và
đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục
vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất... Tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế, cải
thiện môi trường đầu tư, thu hút các nguồn vốn ODA, FDI; đầu tư gián tiếp tín

dụng thương mại và các nguồn vốn khác... duy trì tỷ lệ vay nợ nước ngoài hợp
lý, an toàn. Phát huy vai trò chủ thể và tính năng động của doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế... Xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, khuyến khích
các doanh nghiệp Việt Nam hợp tác liên doanh với doanh nghiệp nước ngoài và
mạnlrxlạn đầu tư ra nước ngoài” [10; tr.l 12- 115].
Trên đây là những chủ trương của Đảng lãnh đạo hoạt động kinh tế đối
ngoại phát triển.
1.2.2.

Sự chỉ đạo của Đảng

I.2.2.I.

Đổi mới cơ chế, chính sách hoạt động xuất- nhập khẩu

Sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO), tình hình xuất khấu có nhiều khởi sắc hơn so với giai đoạn
trước. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tăng trưởng xuất khẩu khá cao
trong năm 2007 và 2008, tương ứng là 21,9%, và 29,1%. Sau khi giảm 8,9%
vào năm 2009 do tác động của khủng hoảng tài chính thế giới, xuất khẩu tăng
trở lại ở mức 25,5% năm 2010.
Trong cả giai đoạn 2007-2010, xuất khẩu đã tăng 2,4 lần, từ 39,8 tỷ USD
lên 96,9 tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân đạt 19,5%/năm, cao
hơn chỉ tiêu 16%/năm trong kế hoạch 5 năm 2006-2010.
Từ năm 2007, tình hình nhập khẩu cũng bắt đầu biến động mạnh. Tăng
trưởng nhập khẩu đạt tới 40% năm 2007 và 28,6% năm 2008. Do tác động của
suy thoái kinh tế thế giới, nhập khẩu giảm còn 13,3% năm 2009.
Nhập khẩu dường như chỉ tăng nhanh đột biến ngay sau khi nước ta gia
nhập WTO, nhưng sau đó tăng chậm lại. Điều này có thể là do Việt Nam đã dần
thích ứng với cuộc chơi trong WTO, ở cả cấp hoạch định chính sách và cấp



doanh nghiệp. Nhập khẩu tăng trước hết là để bù đắp chênh lệch đầu tư - tiết
kiệm do đầu tư tăng mạnh.
Tính theo tỷ lệ kim ngạch xuất - nhập khẩu hàng hóa trên GDP, độ mở
thương mại của Việt Nam đã tăng gần như liên tục, từ 130,4% năm 2005 lên
157,4% vào năm 2008. Sau khi sụt giảm vào năm 2009, độ mở thương mại tăng
trở lại kể từ năm 2010.
Các chính sách đẩy mạnh hoạt động xuất - nhập khẩu:
Thống nhất và thể chế hóa các luật xuất nhập khẩu và các văn bản dưới
luật. Thực hiện tự do hóa các hoạt động xuất nhập khẩu bằng pháp luật, hạn chế
tiến tới hủy bỏ chế độ cấp quota cho việc xuất khẩu.
Thực hiện chính sách nền kinh tế nhiều thành phần trong hoạt động xuất
nhập khấu với các biện pháp đảm bảo cho các thành phần kinh tế được bình
đẳng trong kinh doanh xuất - nhập khẩu.
Khuyến khích hoạt động xuất khẩu bằng các chính sách hỗ trợ như giảm
thuế xuất khẩu, lập quỹ trợ giá... Động viên các nguồn vốn hướng vào sản xuất
kinh doanh các mặt hàng có chất lượng cao phục vụ xuất khẩu.
Xúc tiến mở rộng xuất- nhập khẩu bằng cách:
Xây dựng các mặt hàng chủ lực đạt chất lượng cao để hướng sự cố gắng
của các đơn vị xuất - nhập khẩu vào một chương trình chung.
Khuyến khích tiếp thị bằng cách tổ chức hệ thống thông tin, đặt các văn
phòng đại diện ở nước ngoài và nhiều hình thức phong phú khác.
Tổ chức lại mạng lưới sản xuất- xuất nhập khẩu theo hướng mở rộng
quyền cho các doành nghiệp tự quyết định các phương án sản xuất, kinh doanh,
xóa bỏ hình thức chủ quản cấp trên và chế độ giao chỉ tiêu kế hoạch “ cứng”
cho cơ sở.
Thành lập một vài tập đoàn công ty kinh doanh tổng hợp mạnh có đủ
năng lực về vốn và về thị trường để xâm nhập thị trường thế giới.
Tham gia vào các Hiệp định Thương mại quốc tế với các nước trên thế



giới và khu vực.
I.2.2.2.

Hợp tác kỉnh tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài

Việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) năm 2006 đánh dấu
bước ngoặt lớn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Các
dòng vốn đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng đột biến, nhất là nguồn vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Năm 2007, lượng vốn FDI đăng ký đạt
21,348 tỷ USD, tăng gần 80% so với năm 2006 (năm 2006 đạt 12,044 tỷ USD),
và đạt mức kỷ lục gần 72 tỷ USD vào năm 2008. Tuy nhiên, sau đó lượng FDI
lại liên tục giảm: năm 2009 đạt 23,107 tỷ USD; 2010 đạt 19,764 tỷ USD.
Những kết quả thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, khẳng định môi trường kinh doanh
Việt Nam đã có sự cải thiện đáng kể trong những năm qua. Tuy nhiên, trước bối
cảnh sự cạnh tranh mạnh mẽ trong thu hút đầu tư giữa các quốc gia, Việt Nam
cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ cơ chế chính sách, tạo môi trường kỉnh doanh
hấp dẫn.
Yêu cầu phát triển nội tại và thực tiễn khách quan trong công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã và đang đòi hỏi Việt Nam cần tới một
nguồn vốn đầu tư to lớn để hội nhập cùng dòng chảy kinh tế - xã hội fren thế
giới.
Hợp tác quốc tế là xu thế tất yếu, là con đường hiệu quả nhất mà bất kỳ
quốc gia nào cũng phải làm khi có đủ điều kiện, và buộc phải thực hiện bởi sức
ép bên trong, bên ngoài nước và Việt Nam cũng không phải ngoại lệ.
Tình hình cụ thể của Việt Nam đòi hỏi phải nhanh chóng nâng cao thu
nhập quốc dân. Đòi hỏi đó buộc Việt Nam phải có một nguồn vốn đầu tư rất
lớn, nguồn vốn này không thể hoàn toàn trông chờ vào nguồn tích lũy nội bộ

trong một thời gian ngắn của một đất nước đang phát triển.
Việt Nam có thể tranh thủ nguồn vốn từ các nước tư bản phát triển, mà
chủ yếu là vốn của các nhà tư bản của các tập đoàn một quốc gia hay đa quốc
gia, xuyên quốc gia.


vốn tư nhân vào Việt Nam không thể bằng con đường viện ữợ có hoàn
lại hay bằng con đường cho vay. Hơn nữa, Chính phủ Việt Nam hay bất kỳ một
nước mới phát triển nào cũng không có đủ khả năng để đi vay hay sử dụng các
nguồn vốn vay được trên mọi lĩnh vực. Do đó con đường chủ yếu để các nguồn
tư bản nước ngoài chảy vào Việt Nam là nhập khẩu vốn thông qua phương thức
thu hút và nhận đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Để nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài và hợp tác kinh tế, Đảng đã chỉ
đạo cần phải:
Xây dựng hệ quan điểm về vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài đối với
phát triển kinh tế.
Tạo lập môi trường đầu tư hấp Jan, đây là vấn đề có tính then chốt. Môi
trường đầu tư là tổng thể các bộ phận mà ở đó chúng tác động qua lại lẫn nhau
và chi phối mạnh mẽ đến các hoạt động đầu tư; buộc các nhà đầu tư phải tự
điều chỉnh các mục đích, hình thức và phạm vi hoạt động cho thích hợp, tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh và đưa đến hiệu quả cao trong
kinh doanh.
Sau khi đường lối đổi mới được Đại hội Đảng lần thứ VI thông qua, và
nhất là sau khi Việt Nam công bố Luật Đầu tư nước ngoài ở Việt Nam (1987),
hoạt động đầu tư nước ngoài trong những năm (2005- 2010) bước đầu đã thu
được nhiều thành tựu.
Việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) năm 2006 đánh dấu
bước ngoặt lớn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Các
dòng vốn đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng đột biến, nhất là nguồn vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Năm 2007, lượng vốn FDI đăng ký đạt

21,348 tỷ USD, tăng gần 80% so với năm 2006 (năm 2006 đạt 12,044 tỷ USD),
và đạt mức kỷ lục gần 72 tỷ USD vào năm 2008. Tuy nhiên, sau đó lượng FDI
lại liên tục giảm như: năm 2009 đạt 23,107 tỷ USD; năm 2010 đạt 19,764 tỷ.


Khủng hoảng tài chính toàn cầu (năm 2008) đã có những tác động tiêu
cực, khiến dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam bị sụt giảm đáng kể. Bên
cạnh đó, cũng phải kể đến những tồn tại, hạn chế chưa được khắc phục như:
Chưa phù hợp với quy hoạch phát triển ngành và vùng kinh tế, đầu tư vào khu
vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn còn thấp; phần lớn các doanh nghiệp hoạt
động về sản xuất và gia công, có giá trị gia tăng thấp; thiếu sự liên kết giữa các
doanh nghiệp FDI với nhau cũng như với khu vực kinh tế tư nhân trong nước,
hạn chế cơ hội doanh nghiệp trong nước tận dụng lợi thế về công nghệ và cải
thiện năng suất; Thu hút các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam còn
chưa tương xứng với tiềm năng, các nhà đầu tư lớn nhất là các tập đoàn tài
chính lớn chưa nhiều. Tỷ lệ đầu tư gián tiếp của tư nhân nước ngoài ở Việt Nam
còn chiếm tỷ lệ nhỏ, trong tổng đầu tư nước ngoài. Chủ yếu mới phát triển các
khu công nghiệp đa ngành, các khu công nghiệp đa ngành không có tác dụng
hỗ trợ nhau cùng phát triển, làm tăng chi phí giá thành sản phẩm do phí vận
chuyển lớn...
Trước bối cảnh đó, Việt Nam cần có những thay đổi cần thiết về cơ chế,
chính sách thu hút các nguồn lực từ đầu tư nước ngoài. Chính sách này có thể
được chia làm 3 loại: (1) Chính sách thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài; (2)
Chính sách nâng cấp chất lượng, hiệu quả các dự án FDI; (3) Chính sách
khuyến khích các mối quan hệ, liên kết giữa các công ty xuyên quốc gia
(TNCs) với doanh nghiệp trong nước, giữa các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài
với nhau.
Do nền kinh tế nước ta vẫn trong tình trạng phụ thuộc nhiều vào xuất
khẩu và dòng vốn đầu tư nước ngoài nên bị ảnh hưởng mạnh bởi sự suy giảm
đầu tư nước ngoài trên toàn cầu. Trước xu thế hạn chế dòng vốn của nhiều

nước, Việt Nam cần có sự thay đổi về chính sách thu hút: Không cần thu hút
quá nhiều, nhất là đối với dòng vốn FDI mà phải thu hút đúng nơi, đúng lĩnh


×