Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Giới thiệu luận văn về tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo pháp luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.29 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan

3

Mục lục

4

MỞ ĐẦU

6

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI SẢN XUẤT,
BUÔN BÁN HÀNG GIẢ HIỆN NAY Ở VIỆT NAM

1.1.

Hoạt động sản xuất, buôn bán hàng giả và sự ảnh hưởng của nó
tới sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam

13
13

1.2.

Khái niệm hàng giả; tội sản xuất, buôn bán hàng giả

17



1.2.1.

Khái niệm hàng giả

17

1.2.2.

Khái niệm tội sản xuất, buôn bán hàng giả

27

1.3.

Dấu hiệu pháp lý của tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo pháp
luật Hình sự Việt Nam.

32

1.3.1.

Khách thể của tội sản xuất, buôn bán hàng giả

36

1.3.2.

Mặt khách quan của tội sản xuất, buôn bán hàng giả


38

1.3.3

Chủ thể của tội phạm

39

1.3.4.

Mặt chủ quan của tội sản xuất, buôn bán hàng giả

41

1.4.

Trách nhiệm hình sự đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả ở
Việt Nam hiện nay

1.4.1.

Trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội sản xuất, buôn bán
hàng giả theo quy định tại khoản 1 Điều 156 BLHS năm 1999

1.4.2.

43

45


Trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội sản xuất, buôn bán
hàng giả thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 156

46

Bộ luật Hình sự năm 1999
1.4.3.

Sản xuất, buôn bán hàng giả trong trường hợp quy định tại

50


Khoản 3 Điều 156 Bộ luật Hình sự.
1.4.4.

Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội sản xuất, buôn bán
hàng giả theo quy định tại Khoản 4 Điều 156 Bộ luật hình sự

52

Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI SẢN XUẤT,

53

BUÔN BÁN HÀNG GIẢ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1.


Đặc điểm kinh tế - xã hội liên quan đến tội phạm sản xuất, buôn
bán hàng giả

2.2.

Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật hình sự đối với
tội sản xuất, buôn bán hàng giả.

53

58

Chương 3: NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA
BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN

66

HÀNG GIẢ

3.1.

Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả việc áp dụng các quy định
của Bộ luật hình sự về tội sản xuất, buôn bán hàng giả.

3.2.

Các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định
của Bộ luật Hình sự về tội sản xuất, buôn bán hàng giả

3.2.1.


Nâng cao hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật

3.2.2.

Nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng những quy định của pháp
luật hình sự về tội sản xuất, buôn bán hàng giả của các cơ quan

66

73
75

78

bảo vệ pháp luật
3.2.2.1

Tòa án nhân dân

78

3.2.2.2. Viện kiểm sát nhân dân

80

3.2.2.3. Cơ quan điều tra

82


3.3.

Nâng cao công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật.

83

3.4.

Đối với các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh

84

KẾT LUẬN

86


DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO

89


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Qua hai thập kỷ qua, với quá trình thực hiện công cuộc đổi mới Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta không ngừng phấn đấu, vượt qua mọi khó khăn thử thách, đẩy
mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
rất quan trọng. Với đường lối kinh tế của Đảng ta là đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa nước ta trở thành
nước công nghiệp, thoát khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao đời sống vật chất

và tinh thần. Công cuộc đổi mới toàn diện đó, nhất là đổi mới về quản lý kinh tế,
xóa bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, khuyến khích phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, thực hiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đưa
đất nước ta ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và thu được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội, tạo ra những chuyển biến tích cực về mọi mặt.
Những thành tựu đạt được đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng và Nhà
nước ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Tuy nhiên, do
đặc thù của nền kinh tế thị trường, do sức ép cạnh tranh và những yếu kém trong
quản lý kinh tế nên nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm có môi trường phát sinh, phát
triển, trong đó có tội sản xuất, buôn bán hàng giả. Sản xuất, buôn bán hàng giả có
mặt ở khắp nơi trên thị trường nhưng khâu xử lý kết quả còn ở mức độ nhất định.
Thực tế cho thấy, trong quá trình phát triển kinh tế, tình hình tội xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế như buôn lậu, kinh doanh trái phép, trốn thuế, quảng cáo gian dối,
và sản xuất, buôn bán hàng giả, … phát triển và diễn biến phức tạp, nhiều vụ án
xảy ra, nhiều vụ án đặc biệt nghiêm trọng, gây hậu quả nghiêm trọng và ảnh hưởng
tới sự phát triển của nền kinh tế, tới sức khỏe và đời sống của nhân dân.


Sản xuất, buôn bán hàng giả là một lực cản lớn đối với sự phát triển kinh tế
của nước ta. Nhưng để đấu tranh, phòng chống tội phạm sản xuất, buôn bán hàng
giả sẽ thực hiện như thế nào? Cơ sở lý luận về hình sự hoá, khái niệm hàng giả,
quy định tội sản xuất, buôn bán hàng giả trong Luật Hình sự như thế nào và việc
nhận thức về hàng giả trong thực tiễn ra sao, cũng như chúng ta cần có những biện
pháp nào để phòng, chống tội sản xuất, buôn bàn hàng giả có hiệu quả? Về mặt lý
luận, xung quanh tội sản xuất, buôn bán hàng giả, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau,
thậm chí trái ngược nhau.
Có thể thấy trong những năm qua, nhất là từ năm 2000 trở lại đây, các cơ
quan bảo vệ pháp luật đã tích cực tổ chức điều tra, khám phá và xử lý kịp thời
nhiều vụ án sản xuất, buôn bán hàng giả. Song do nhiều nguyên nhân khác nhau

mà tình hình tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả vẫn không giảm, thậm chí còn
tăng đến chóng mặt, gây ra nhiều thiệt hại cho các đơn vị kinh tế, doanh nghiệp và
nhân dân. Một số vụ gây hoang mang trong tư tưởng quần chúng nhân dân, tác
động đến sự phát triển của nền kinh tế, đời sống nhân dân, từ đó ảnh hưởng đến sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bên cạnh đó, các biện pháp đấu
tranh, phòng chống cũng như quá trình điều tra khám phá loại tội này còn nhiều bất
cập, chưa có sự phối hợp cần thiết giữa các lực lượng thực thi pháp luật, sự hỗ trợ
của người tiêu dùng, của quần chúng nhân dân còn hạn chế, nên hiệu quả xử lý các
vụ án sản xuất, buôn bán hàng giả còn thấp. Tỷ lệ các vụ án được phát hiện thấp,
tiến hành điều tra chậm, đề nghị xử lý bằng hình sự chưa cao.
Nước ta đã trở thành thành viên chính thức Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO), một trong những vấn đề Việt Nam cam kết thực hiện là bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp, chống sản xuất, buôn bán hàng giả nhằm đảm bảo sự cạnh tranh
lành mạnh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu (các doanh nghiệp,
các nhà sản xuất kinh doanh), quyền và lợi ích của người tiêu dùng cũng như uy tín
của Việt Nam trong hợp tác thương mại quốc tế. Hiện nay, Việt Nam đang bước


đầu hoàn thiện các văn bản pháp luật cho phù hợp với sự hội nhập chung của thế
giới, thể hiện rõ quyết tâm đổi mới toàn diện nhằm thiết lập một nền kinh tế thị
trường mang tính cạnh tranh cao, đủ sức hội nhập một cách sâu rộng vào nền kinh
tế thế giới, từng bước nâng cao vị thế của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Cùng
với sự hội nhập đó, các sản phẩm, hàng hóa cũng đa dạng. Từ sự đa dạng đó đã tạo
điều kiện cho sản xuất, buôn bán hàng giả không còn bó hẹp trong phạm vi một số
sản phẩm, mà lan tới hầu hết các chủng loại sản phẩm, đe doạ mọi khía cạnh của
hoạt động kinh doanh, điều này không chỉ gây thất thu thuế cho Nhà nước, mà còn
gây thiệt hại trực tiếp cho nhà sản xuất và người tiêu dùng. Vì vậy, Đảng và Nhà
nước ta coi việc phòng, chống sản xuất, buôn bán hàng giả là nhiệm vụ quan trọng,
cấp bách cần phải có giải pháp đồng bộ, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, từng bước
đẩy lùi hoạt động sản xuất, buôn bán hàng giả. Mọi hành vi sản xuất, buôn bán,

vận chuyển, tàng trữ hàng giả được phát hiện đều phải xử lý theo pháp luật góp
phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ an ninh
quốc gia và giữ gìn trật tự xã hội, phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội
của đất nước.
Vì vậy, từ thực tiễn nêu trên đã lý giải cho tác giả chọn đề tài: “Tội sản
xuất, buôn bán hàng giả theo pháp luật hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn
thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài luận văn
Phòng, chống tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nói chung và tội
sản xuất, buôn bán hàng giả nói riêng đã được quy định trong Bộ luật Hình sự và
được một số nhà luật học đề cập một cách khái quát về tội sản xuất, buôn bán hàng
giả như Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 1997; Giáo trình luật hình sự Việt
Nam, tập II của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, 1998; Giáo
trình luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân


dân, 2000; Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2002; Bình luận khoa
học Bộ luật Hình sự 1999 (Phần các tội phạm) của TS. Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn
Luyện, LS. ThS. Phạm Thanh Bình, TS. Nguyễn Đức Mai, ThS. Nguyễn Sĩ Đại,
ThS. Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001,... Tuy nhiên, các
công trình nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở một phạm vi hẹp, chưa đề cập một
cách trực tiếp, tổng thể và phương hướng hoàn thiện loại tội phạm này.
Tội sản xuất, buôn bán hàng giả vẫn chưa được quan tâm đúng mức, các
nghiên cứu về tội sản xuất, buôn bán hàng giả thường mới chỉ đề cập, tập trung
nghiên cứu chung với các tội phạm khác liên quan đến các đối tượng hàng giả cụ
thể đã được quy định tại các điều luật cụ thể khác hoặc từ góc độ khác. Cho đến
nay chưa có một công trình chuyên khảo nào nghiên cứu toàn được giải pháp hoàn
thiện pháp luật hình sự nhằm nâng cao hiệu quả khi xử lý tội phạm. Vì vậy, cần

phải nghiên cứu tội sản xuất, buôn bán hàng giả tương đối có hệ thống, toàn diện
từ góc độ lý luận và thực tiễn, trên cơ sở đó đề ra phương hướng và các giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự về tội sản xuất, buôn bán hàng giả.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu những vấn đề lý luận
và thực tiễn đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ
sở đó xây dựng hệ thống giải pháp, những định hướng và kiến nghị nhằm nâng cao
hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả.
Để đạt được những mục đích trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ cụ
thể sau:
- Nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận về tội sản xuất, buôn bán
hàng giả hiện nay ở Việt Nam.
- Phân tích các các quy định của Bộ luật hình sự về tội sản xuất, buôn bán
hàng giả.


- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật Hình sự đối với
tội sản xuất, buôn bán hàng giả ở Việt Nam; làm sáng tỏ thực tiễn áp dụng loại tội
phạm này, nêu lên những vướng mắc trong điều tra, truy tố, xét xử.
- Đưa ra các kiến nghị hoàn thiện Bộ luật hình sự nhằm nâng cao hiệu quả
áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về tội sản xuất, buôn bán hàng giả, góp
phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của đề tài những vấn đề lý luận, thực tiễn đối với tội
sản xuất, buôn bán hàng giả ở Việt Nam hiện nay và định hướng về tổ chức cuộc
đấu tranh của toàn xã hội với hiện tượng tội phạm nói chung và tội phạm trong
hoạt động sản xuất, buôn bán hàng giả nói riêng.
Về phạm vi nghiên cứu, luận văn tập trung nghiên cứu tội sản xuất, buôn
bán hàng giả được quy định tại Điều 156 chương XVI-BLHS năm 1999. Luận văn
cũng đi sâu nghiên cứu tình hình thực tiễn, những quy định của pháp luật hình sự

đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả nhằm làm rõ các dấu hiệu pháp lý và những
nội dung cần nghiên cứu về mặt lý luận trên lĩnh vực này nhằm phục vụ tốt hơn
cho việc xác định tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả, cho cuộc đấu tranh phòng,
chống loại tội phạm trong nền kinh tế thị trường.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân, và về xây dựng pháp luật
Phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử.
Để phù hợp với đối tượng, nhiệm vụ và mục đích của đề tài, luận văn sử
dụng một cách linh hoạt và hợp lý các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: Phương


pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê, lôgíc, kết hợp với các phương pháp
khác như so sánh pháp luật, điều tra xã hội.
6. Những đóng góp mới về khoa học của đề tài
Qua kết quả nghiên cứu và phân tích, đánh giá tình hình tội phạm đối với
tội sản xuất, buôn bán hàng giả, tác giả đã chỉ ra những vướng mắc, bất cập, định
hướng,… trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử loại tội phạm này. Đồng thời, đề
xuất hệ thống các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng
những quy định của pháp luật hình sự về tội sản xuất, buôn bán hàng giả.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Những kết quả đạt được của luận văn có ý nghĩa quan trọng trong việc góp
phần nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của pháp luật hình sự hiện
hành về tội sản xuất, buôn bán hàng giả. Thông qua kết quả nghiên cứu và các đề
xuất, tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào việc phát triển khoa
học luật hình sự nói chung, hoàn thiện về tội sản xuất, buôn bán hàng giả nói riêng.
Luận văn đề cập các giải pháp phòng, chống có hiệu quả các tội phạm sản
xuất, buôn bán hàng giả để các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp có thể tham

khảo, góp phần hỗ trợ cho việc xây dựng kế hoạch tổ chức đấu tranh phòng, chống
tội phạm có hiệu quả đối với loại tội phạm này.
Luận văn còn là tài liệu nghiên cứu của giáo viên, cán bộ nghiên cứu, học
sinh các trường đào tạo pháp luật tại Việt Nam.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, mục lục và danh mục các tài liệu tham
khảo, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về Tội sản xuất, buôn bán hàng giả hiện
nay ở Việt Nam;
Chương 2. Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật hình sự đối với
tội sản xuất, buôn bán hàng giả ở Việt Nam hiện nay;


Chương 3. Nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự về tội
sản xuất, buôn bán hàng giả.


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN
HÀNG GIẢ HIỆN NAY Ở VIỆT NAM

1.1 HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG
CỦA NÓ TỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM

Từ năm 1986, Đảng và Nhà nước ta bắt đầu thực hiện chiến lược đổi mới
và mở cửa nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. “Nhiệm
vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử
thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, “tăng trưởng kinh tế nhanh,

hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội,
bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao tích luỹ
từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào đầu
thế kỷ sau” [ 1 ]. Với mục tiêu xây dựng, phát triển đó, Đảng và Nhà nước ta đã
đạt được những kết quả về tăng trưởng sản xuất, đáp ứng được nhu cầu của người
tiêu dùng và toàn xã hội bằng cách cung cấp một lượng hàng hoá nhiều về số
lượng, chủng loại, nhãn hiệu và kiểu dáng. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển đó,
chúng ta cũng phải đương đầu với những mặt trái của nền kinh tế này, trong đó có
nạn sản xuất, buôn bán hàng giả. Hàng giả được sản xuất giống như hàng thật về
mọi mặt (giả về nội dung, giả về hình thức hoặc giả cả về nội dung lẫn hình thức)
khiến cho người tiêu dùng rất khó phân biệt. Hàng giả ngày càng xuất hiện tràn lan
trên thị trường làm ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc dân, đến trật tự xã hội, an ninh
quốc phòng, các công ty kinh doanh hợp pháp và đến lòng tin đối với người tiêu
dùng.


Vì vậy, nếu cứ để tình trạng hàng giả và hoạt động sản xuất, buôn bán hàng
giả xuất hiện tràn lan trên thị trường mà không có các biện pháp xử lý hữu hiệu sẽ
ảnh hưởng đến nhiều mặt về đời sống, kinh tế, an ninh, chính trị, lòng tin của
người tiêu dùng, của doanh nghiệp đối với các cơ quan quản lý nhà nước, đến sự
hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế. Cho nên, Nhà nước ta xác định rõ hậu quả ảnh
hưởng của hàng giả làm thiệt hại lớn về kinh tế, vi phạm đạo đức, gây mất trật tự
xã hội, ảnh hưởng đến chính trị xã hội, làm các nhà lãnh đạo khó hoạch định được
đúng hướng.
Hiện nay, hàng giả không còn bó hẹp trong phạm vi một số sản phẩm có
thương hiệu nổi tiếng mà nó lan tới hầu hết các chủng loại sản phẩm, đe doạ mọi
khía cạnh của hoạt động kinh doanh. Vì vậy, việc phòng, chống sản xuất, buôn bán
hàng giả vẫn đang là bài toán không có lời giải. Từ các sản phẩm tiêu dùng đơn
giản, rẻ tiền như bao diêm, cây bút đến đồ uống, quần áo, giày dép, đồ gia dụng, đồ
mỹ phẩm, vật liệu xây dựng,…cho đến các sản phẩm cao cấp được sản xuất bằng

công nghệ cao như xe máy, đồ điện tử, điện lạnh, các sản phẩm băng đĩa,… Mặt
hàng nào bán chạy trên thị trường hoặc hàng hóa có thương hiệu là lập tức hàng
nhái kiểu dáng, mẫu mã thậm chí sao chép hoàn toàn xuất hiện. Hàng giả có thể
được sản xuất và tiêu thụ trong nước hoặc sản xuất trong nước tiêu thụ ở nước
ngoài hoặc sản xuất ở nước ngoài và tiêu thụ ở trong nước. Hàng giả có thể là được
sản xuất, làm giả một phần hoặc toàn bộ từ bao bì cho đến nội dung bên trong chất lượng của sản phẩm.
Hoạt động sản xuất, buôn bán hàng giả đã ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián
tiếp đối với người tiêu dùng. Trong quá trình sinh hoạt, người tiêu dùng mua các
sản phẩm, hàng hoá nhưng đã bị mua phải hàng giả, đáp ứng không đủ hoặc không
đáp ứng được mục đích sử dụng sản phẩm, hàng hoá nên ngoài thiệt hại về kinh tế
còn ảnh hưởng đến lòng tin của người tiêu dùng. Đối với những loại hàng giả như
đồ gia dụng, mỹ phẩm không những không tăng thêm sức khỏe, sắc đẹp cho người


tiêu dùng mà còn gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của họ, thậm chí có trường hợp
gây tử vong. Với người tiêu dùng, khi mua phải hàng giả, họ thường im lặng chịu
thiệt vì ngại thủ tục pháp lý phiền phức, mất thời gian, công sức để chứng minh.
Còn vấn đề trách nhiệm pháp lý? Trong phạm vi chức năng của mình, các tổ chức
xã hội như Hội bảo vệ người tiêu dùng chỉ có thể xử lý theo hình thức hoà giải, yêu
cầu người bán hàng đổi sản phẩm thật cho người tiêu dùng. Các cơ quan chức năng
như Quản lý thị trường, Công an kinh tế chỉ chủ yếu xử phạt hành chính nhưng
khung hình phạt quá thấp so với khoản lợi bất chính nên không có tác dụng răn đe
đối với những người sản xuất và kinh doanh hàng giả.
Để sản xuất các loại hàng hoá, các cơ sở sản xuất hoặc doanh nghiệp sản
xuất phải sử dụng nguyên liệu để tiến hành sản xuất. Nhưng các nguyên liệu dùng
để sản xuất đó lại là hàng giả nên hàng hoá được làm ra đó sẽ là hàng kém chất
lượng hoặc có khi không có giá trị sử dụng ảnh hưởng đến sự phát triển cả nền
kinh tế, xã hội của đất nước, sức khoẻ của người tiêu dùng. Nguy hiểm nhất là các
loại thực phẩm, mỹ phẩm giả vì chúng gây hại trực tiếp đến sức khoẻ con người.
Ví dụ: Một số loại mỹ phẩm như dầu gội đầu, kem dưỡng da, phấn son được làm

giả và bán ra thị trường. Khi người tiêu dùng mua về dùng thị bị dụng tóc, nấm đầu
hoặc gây ra dị ứng da, nổi mụn, có những trường hợp dẫn đến gây tử vong,….
Hay đối với các công trình xây dựng, khi xây dựng các công trình xây dựng
các đơn vị cung ứng vật tư hoặc các đơn vị thi công sử dụng các sản phẩm vật liệu
xây dựng được làm giả để xây lên các công trình xây dựng như xi măng, sắt,
thép,… các vật liệu làm giả đó kém chất lượng ảnh hưởng trực tiếp đến công trình
xây dựng, giảm chất lượng công trình, làm rạn nứt và nguy hại hơn là công trình bị
sụp đổ gây nguy hiểm đến tính mạng của nhiều người và làm thiệt hại đến nền kinh
tế quốc dân.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
CÁC VĂN BẢN, NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẢNG


1.

Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01 của Bộ
Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian
tới, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5 của Bộ
Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6 của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC

7. Bộ Thương mại - Bộ Tài chính - Bộ Công An - Bộ Khoa học Công nghệ và
Môi trường (2001), Thông tư liên tịch số 10/2001/TTLT-BTM-BTC-BCABKHCNMT hướng dẫn Chỉ thị số 31/1999/CT-TTg ngày 27/10 của Thủ
tướng Chính phủ, www.luatvietnam.com.vn
8. Thủ tướng Chính phủ (1999), Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ số 31/1999/CT
- TTg ngày 27/10 về đấu tranh phòng chống sản xuất và buôn bán hàng
giả, www.luatvietnam.com.vn
9. Thủ tướng Chính phủ (1996), Quyết định số 96/TTg ngày 18/02 của Thủ tướng
Chính phủ ban hành quy chế về trách nhiệm và quan hệ phối hợp hoạt
động giữa các cơ quan quản lý Nhà nước trong công tác quản lý thị
trường, chống buôn lậu và các hành vi kinh doanh trái phép,
www.luatvietnam.com.vn


10. Hội đồng Bộ trưởng (1991), Nghị định của Hội đồng Bộ trưởng số 140-HĐBT
ngày 25/4 quy định về kiểm tra, xử lý việc sản xuất, buôn bán hàng giả,
www.luatvietnam.com.vn.
11. Chính phủ (2001), Nghị định số 69/2001/NĐ - CP quy định chi tiết thi hành
Pháp lệnh Bảo vệ người tiêu dùng, www.luatvietnam.com.vn.
12. Quốc hội (2002), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm
1946, 1959, 1980, 1992 và sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp
1992), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Quốc hội (1998), Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 1985, Hà Nội.
14. Quốc hội (2002), Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 1999, Hà Nội.
15. Quốc hội (2004), Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 2003, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Quốc hội (2005), Bộ Luật dân sự nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Quốc hội (2005), Luật Sở hữu trí tuệ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, www.luatvietnam.com.vn.
18. Quốc hội (2005), Luật Doanh nghiệp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, www.luatvietnam.com.vn
19. Quốc hội (2005), Luật Thương mại của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, www.luatvietnam.com.vn
20. Tòa án nhân dân tối cao (1998), Nghị quyết số 01/1998/NQ-HĐTP ngày
21-9 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp
dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự đã được sửa đổi, bổ sung lần
thứ tư, Hà Nội.


21. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12-5
của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một
số quy định của Bộ luật Hình sự, Hà Nội.
22. Uỷ Ban thường vụ Quốc hội, (1999), Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng, www.luatvietnam.com.vn.
23. Uỷ Ban thường vụ Quốc hội (1982), Pháp lệnh về trừng trị tội đầu cơ, buôn
lậu, sản xuất hàng giả, buôn bán hàng giả
24. Uỷ Ban thường vụ Quốc hội (2004), Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO KHÁC

25. Lê Cảm (1999), Hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn xây
dựng nhà nước pháp quyền, một số vấn đề cơ bản của Phần chung, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
26. Lê Cảm (chủ biên) (2001), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội.
27. Lê Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần


chung, (Sách chuyên khảo sau đại học), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
28. Nguyễn Ngọc Hòa (1991), Tội phạm trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
29. Đinh Văn Quế (2005), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự phần các tội phạm,
Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
30. Bình luận Bộ luật Hình sự 1999 (1999), Nxb Công an nhân dân
31. Đinh Văn Quế (2000), Tìm hiểu về Hình phạt và quyết định hình phạt trong
luật Hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia.
32. Nguyễn Mai Bộ (2004), Pháp luật hình sự về các tội xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế, Nxb tư pháp.
33. Bùi Ngọc Cường (2004), Một số vấn đề về quyền tự do kinh doanh trong pháp


luật kinh doanh kinh tế hiện hành ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia.
34. Trường Đại học Luật Hà Nội (2000). Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
35. Tạp chí Dân chủ và pháp luật (2005), Số chuyên đề về Luật hình sự một số
nước trên thế giới, Hà Nội.
36. Trần Ngọc Việt (2001), Tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả thực trạng và
biện pháp phòng, chống, Luận án Tiến sĩ Luật học, Viện nghiên cứu Nhà
nước và pháp luật.



×