Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Khoá luận tốt nghiệp chính sách dân tộc của đảng trong thời kì đổi mới (1986 2006)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (597.01 KB, 64 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LICH SỬ

===£T)CŨỊ|oa===

VI VĂN THẾ

CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG
TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI (1986 - 2006)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN VĂN DŨNG

HÀ NỘI - 2016


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này. Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo đã
tận tình hướng dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và rèn luyện ở
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
Xin chân thành cảm ơn Thầy TS. Nguyên Văn Dũng đã tận tình, chu đáo hướng
dẫn tôi thực hiện khóa luận này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài, tuy nhiên do mới làm quen với
công tác nghiên cứu khoa học, cũng như hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên
không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp của quý
Thầy, Cô giáo và các bạn sinh viên để khóa luận được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 19 tháng 4 năm 2016


Sinh viên

Vi Văn Thế


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự hướng
dẫn khoa học của TS. Nguyễn Văn Dũng. Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong đề
tài này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình thức nào trước đây. Những số
liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác
giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phàn tài liệu tham khảo.
Ngoài ra, trong luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu
của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về
nội dung khóa luận của mình. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 không liên quan đén
những vi phạm tác quyền, bản quyền do tôi gây ra trong quá trình thực hiện (nếu có).
Hà Nội, ngày 19 tháng 4 năm 2016
Tác giả

Vi Văn Thế


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ..........................................................................................................1
Chương 1. Cơ SỞ HÌNH THÀNH CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG
TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI (1986 - 2006) ...................................................... 5
1.1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ DÂN
TỘC .................................................................................................................... 5
1.2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ CÔNG TÁC

DÂN TỘC ........................................................................................................ 11
1.2.1. về vấn đề dân tộc ................................................................................... 11
1.2.2. về công tác dân tộc ................................................................................ 17
1.3. KHÁI QUÁT VỀ CÁC DÂN TỘC Ở VIỆT NAM ................................20
1.4. KHÁI QUÁT VỀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC TRƯỚC NĂM 1986 ......27
Chương 2. ĐẢNG LÃNH ĐẠO THựC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC TỪ
NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2006 ........................................................................... 31
2.1. CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG TỪ SAU ĐỔI MỚI ĐẾN NĂM
2006 .................................................................................................................. 31
2.1.1. về kinh tế ............................................................................................... 32
2.1.2. về giáo dục đào tạo................................................................................ 34
2.1.3. về y tế .................................................................................................... 35
2.1.4. về văn hóa ............................................................................................. 37
2.1.5. về an ninh quốc phòng .......................................................................... 40
2.2. THÀNH Tựu VÀ HẠN CHẾ CỦA VIỆC THựC HIỆN CHÍNH SÁCH
DÂN TỘC TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI......................................................... 42
2.2.1. Những thành tựu cơ bản ....................................................................... 42
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân ........................................................... 58
Chương 3. NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM.................................62
3.1. NHẬN XÉT ............................................................................................. 62


3.1.1. ưu điểm ...........................................................................................................62
3.1.2. Hạn chế ...........................................................................................................63
3.2.

MỘT SỐ KINH NGHIỆM .............................................................................65

KẾT LUẬN ............................................................................................................... 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................68



MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Xuất phát từ nhận thức về vị trí, vai trò của vấn đề dân tộc của một quốc gia đa
dân tộc như Việt Nam, sau khi ra đời và trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng
Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ chí Minh đã sớm xác định: đất
nước Việt Nam là một, cộng đồng các dân tộc ở nước ta là không thể chia cắt, các dân tộc
song trên đất nước đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ
nhau cùng phát triển. Đó cũng chính là nội dung xuyên suốt, bao trùm đường lối, chính

sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. Hiện thực lịch sử Đảng lãnh đạo xây dựng và
phát triển khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện chính sách dân tộc hàm chứa những
sáng tạo của Đảng trong lãnh đạo cách mạng và là một nội dung nghiên cứu có sức
hấp dẫn lớn đối với nhiều chuyên ngành khoa học, trong đó có khoa học lịch sử.Đen
nay, đã có không ít vấn đề nghiên cứu đề cập và làm sáng tỏ nhiều nội dung công tác
dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên vẫn còn có những vấn đề cần tiếp
tục được làm rõ thêm.
Hiện nay, trong bối cảnh đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng với
nhiều cơ hội và thách thức đan xen, Đảng ta xác định vẩn đề dân tộc là vẩn đề chiến
lược, cơ bản, lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình
Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, cùng nhau thực
hiện thẳng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn công tác dân tộc, thực hiện chính sách dân tộc trong

thời gian qua cũng đang đặt ra nhiều vấn đề rất cần được quan tâm giải quyết như: vấn
đề quan hệ dân tộc - quốc gia, dân tộc - tộc người, vấn đề di dân tự do, vấn đề đói
nghèo, vấn đề đất đai,... đòi hỏi hệ thống chính sách phải được xây dựng và vận hành
để đảm bảo mang lại quyền bình đẳng thực sự cho các dân tộc trên mọi lĩnh vực. Phát

triển chính sách dân tộc một cách đúng đắn, đáp ứng những yêu cầu khách quan, bức
thiết đang đặt ra, ngoài việc nghiên cứu thực tiễn, tiếp thu những thành tựu khoa học
trong nước và thế giới về lý luận, rất cần nghiên cứu, đúc kết những kinh nghiệm

1


thành công và không thành công của quá trình thực hiện các chính sách dân tộc trước
đây.
Đề tài “Chính sách dân tộc của Đảng trong thời kì đổi mới (1986 - 2006)”
là rất cần thiết và có ý nghĩa thiết thực, góp phàn làm sáng rõ quá trình và những sáng
tạo của Đảng trong lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc trong thời kì đổi mới có tầm
quan trọng về mặt chiến lược; góp phần đấu tranh chống lại âm mưu của các thế lực
thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc nhằm phá vỡ khối đại đoàn két các dân tộc Việt Nam;
cung cấp những luận cứ khoa học cho công tác phát triển lý luận xây dựng và hoàn
thiện chính sách dân tộc, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đề tài đã liệt kê một số công trình nghiên cứu về vấn đề dân tộc và chính sách
dân tộc nói chung như: Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tể - xã hội ở miền
núi, Nxb CTQG, H, 1996; 50 năm các dân tộc thiểu sổ Việt Nam (1945 - 1995), Nxb

Khoa học Xã Hội, H, 1995 do Bé Viết Đằng (chủ biên); Bảo đảm bình đẳng và tăng
cường hợp tác giữa các dân tộc trong phát triển kinh tể -xã hội ở nước ta hiện nay của tác

giả Hoàng Chí Bảo, Nxb CTQG, H, 2009; Viện nghiên cứu chính sách dân tộc và
miền núi, vấn đề dân tộc và định hướng xây dựng chính sách dân tộc trong thời kỳ công
nghiệp hóa hiện đại hóa, Nxb CTQG, H, 2002; vấn đề dân tộc và công tác dân tộc ở
nước ta, Nxb CTQG, H, 2001; Những vẩn đề cơ bản về chính sách dân tộc ở nước ta
hiện nay do Phan Xuân Sơn và Lưu Văn Quảng (chủ biên), Nxb Lý luận chính trị, H,


2010; Miền núi Việt Nam thành tựu và phát triển những năm đổi mới, Nxb Nông nghiệp,
H, 2002 của các tác giả Trần Văn Thuật, Nguyễn Lâm Thành, Nguyễn Hữu Hải (chủ
biên); vẩn đề dân tộc và công tác dân tộc sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần
thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, (Kỷ yểu hội thảo), Nxb CTQG, H,

2009. Đây là những công trình nghiên cứu có giá trị lý luận và thực tiễn.
Trong các công trình nói trên, vấn đề dân tộc đều được nghiên cứu ở nhiều góc
độ khác nhau từ kinh tế, văn hóa, xã hội... Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên
cứu một cách hệ thống quan điểm, chủ trương của Đảng, làm rõ quá trình Đảng chỉ
đạo thực hiện chính sách dân tộc toong thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến năm 2006 để

2


từ đó, trên cơ sở đánh giá những thành tựu và hạn chế rút ra được những kinh nghiệm
toong quá trình thực hiện chính sách dân tộc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Đe tài nghiên cứu nhằm mục đích làm rõ nội dung, phương thức lãnh đạo thực
hiện chính sách dân tộc của Đảng từ năm 1986 đến năm 2006. Làm nổi bật tính chủ
động và sáng tạo của Đảng về việc thực thi chính sách dân tộc một cách khéo léo, hài
hòa giữa từng vùng miền, từng địa phương. Đồng thời, cung cấp thêm các luận cứ
khoa học để Đảng và Nhà nước tiếp tục bổ sung và phát triển đường lối, chính sách
đối với các dân tộc trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Nghiên cứu, hệ thống hóa quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam
về các chính sách dân tộc từ năm 1986 đến năm 2006 để thấy rõ được bước phát triển
trong tư duy, nhận thức và chỉ đạo thực tiễn của Đảng về vấn đề dân tộc và chính sách
dân tộc.
- Phân tích, làm rõ quá trình Đảng chỉ đạo thực hiện chính sách dân tộc từ năm

1986 đến 2006.
- Chỉ ra những thành công và hạn ché, từ đó rút ra một số kinh nghiệm có ý
nghĩa trong việc chỉ đạo thực hiện chính sách dân tộc trong các năm tiếp theo.
4. Đối tượng và phạm vỉ nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Những quan điểm, chủ trương của Đảng về vấn đề dân tộc và chính sách dân
tộc.
- Sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và đảng bộ các địa phương trong cả
nước trong quá trình triển khai thực hiện chính sách dân tộc từ năm 1986 đến năm
2006
- Kết quả đạt được sau 20 năm đổi mới thực hiện chính sách dân tộc và một số
hạn ché còn tồn tại.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Đồ tài tập trung nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm 1986 đến năm

3


2006 nhằm muốn có một độ lùi lịch sử nhất định để đánh giá hiệu quả của quá trình
thực hiện chính sách dân tộc sau 20 năm đổi mới.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc.
Đặc biệt, đề tài đã vận dụng triệt để những quan điểm, chính sách đổi mới của Đảng
và Nhà nước về chính sách dân tộc.
- Đe tài chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử và phương pháp
logic. Ngoài ra, tác giả đã vận dụng một số phương pháp khác như: phương pháp
thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, phân tích xã hội học...
- Nguồn tư liệu của để tài chủ yếu dựa vào các văn kiện, nghị quyết của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng, các văn bản của Nhà nước, các báo cáo của Vụ Chính

sách dân tộc - ủy ban Dân tộc miền núi, số liệu của một sô địa phương và một số sách
chuyên khảo, đề tài khoa học, bài nghiên cứu có liên quan.
6. Đóng góp của khóa luận
- Hệ thống hóa nguồn tư liệu về công tác dân tộc của Đảng.
- Đưa ra một số kinh nghiệm có giá trị lý luận và thực tiễn.
- Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ hoạt động nghiên cứu về chính
sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
7. Bổ cục khóa luận
Ngoài các phần Phụ lục, Mở đầu và Tài liệu tham khảo, Khóa luận có bố cục:

Chương 1: Cơ sở hình thành chính sách dân tộc của Đảng trong thời kì đổi mới
(1986-2006)
Chương 2: Đảng lãnh đạo thực hiện Chính sách dân tộc từ năm 1986 đến
năm 2006
Chương 3 :Nhận xét và một số kinh nghiệm

4


Chương 1
Cơ SỞ HÌNH THÀNH CHÍNH SÁCH DÂN Tôc
CỦA ĐẢNG TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI (1986 - 2006)

1.1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ DÂN Tộc
Nói về quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin với vấn đề dân tộc có nghĩa rằng
chúng ta phải đề cập đến: Quan niệm về sự ra đời và phát triển của dân tộc; Nhìn nhận
phong trào dân tộc trong sự phát triển của nhân loại; Quan điểm về việc giải quyết vẩn đề
dân tộc.

về sự ra đời của khối cộng đồng dân tộc với tư cách là dân tộc - quốc gia, có nhả

nước (Nation - Etat hay Nation State). Mỗi quốc gia có hoàn cảnh lịch sử, văn hóa cụ
thể mà sự hình thành dân tộc theo tiêu chí trên không giống nhau, không phải chỉ xuất
hiện trong thời kỳ hình thành Chủ nghĩa Tư bản ở Phương Tây; Việt Nam và một số
khu vực khác trên thế giới không như vậy, mà dân tộc - nhà nước ra đời từ rất sớm.
Sự ra đời và phát triển của phong trào dân tộc trong xã hội có giai cấp thì theo

quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin được chia làm ba thời kỳ:
Một, thời kỳ thủ tiêu Ché độ Phong kiến và thiết lập Chủ nghĩa Tư bản. Do sự

phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất nên ở Châu Âu thế kỉ XVII, XVIII,
XIX đã hình thành phong trào dân tộc và thành lập các quốc gia độc lập dân tộc. về
mặt bản chất thì đây là cuộc cách mạng dân chủ tư sản trong lòng xã hội phong kiến
do giai cấp Tư sản lãnh đạo. Trong xu thế đó, ở Đông Âu đã hình thành các quốc gia
tập quyền, trong các quốc gia đó các dân tộc ở trình độ phát triển không đều nhau,
hình thành trong các thời gian khác nhau. Điểm đáng chú ý là trong các quốc gia có
nhiều dân tộc đó có tình trạng áp bức dân tộc, đó là sự áp bức, bóc lột của dân tộc có
trình độ phát triển cao và sớm hơn với các dân tộc kém phát triển. Đây chính là
nguyên nhân làm cho các dân tộc bị áp bức trong các quốc gia đó nảy sinh yêu càu đấu
tranh đòi tách ra thành các quốc gia độc lập như ở Áo, Nga, ... Trong thời kỳ đó,
những người lãnh đạo chủ yếu thuộc giai cấp Tư sản của các dân tộc bị áp bức (giai

5


cấp vô sản lúc này chưa phát triển).
Hai, thời kỳ chủ nghĩa Đế quốc - thời kỳ các quốc gia Tư bản đã hoàn thiện. Do

bản chất của nền kinh té - xã hội, do nhu cầu phát triển của Chủ nghĩa Tư bản đòi hỏi
phải mở rộng thị trường vượt ra khỏi chính các quốc gia tư bản phát triển nên các quốc
gia này đã tiến hành xâm lược các quốc gia và dân tộc chậm phát triển hơn. Các dân

tộc và quốc gia kém phát triển hơn trên thé giới (trong đó có Việt Nam) bị các nước
Chủ nghĩa Tư bản xâm lược và khai thác tài nguyên thiên nhiên, các di sản văn hóa,
bóc lột sức lao động... về làm giàu cho “chính quốc”. Tình trạng đó làm nảy sinh một
xu thế xã hội từ phía các dân tộc bị áp bức, bóc lột đối với các quốc gia Tư bản
Phương Tây đi xâm lược, đó là sự đấu tranh chống lại bóc lột, nô dịch về chính trị,
kinh tế, văn hóa đối với họ mà chúng ta thường gọi là phong trào dân tộc. Ban đàu
phong trào này cũng do giai cấp Tư sản lãnh đạo, song không đi đến thành công. Sau
này, do sự lớn mạnh của phong trào công nhân quốc tế và sự lớn mạnh của giai cấp vô
sản trong lòng xã hội tư bản, giai cấp tư sản dân tộc lại có xu hướng thỏa hiệp với đế
quốc, nhất là sau Cách mạng Tháng Mười Nga (1917). Từ đó trở đi, giai cấp vô sản
thé giới nắm vai trò lãnh đạo các cuộc đấu tranh của phong trào dân tộc đòi các quyền
dân tộc cơ bản .
Hai thời kỳ trên là thời kỳ áp bức dân tộc diễn ra gay gắt, phong trào dân tộc với
mục tiêu đấu tranh chống áp bức, nô dịch dân tộc diễn ra từ đầu đến cuối, vấn đề dân
tộc nói chung chưa được giải quyết. Nếu thời kỳ thứ nhất vấn đề dân tộc không vượt
ra khỏi khuôn khổ một số quốc gia phát triển sớm ở Châu Âu thì thời kỳ thứ hai Vấn
đề dân tộc lại trở thành phong trào chung của nhiều quốc gia bị áp bức trên thế giới, là
phong trào của các nước thuộc địa chống lại Chủ nghĩa Đế quốc. Một điểm đặc biệt là
ở thời kỳ thứ hai có sự xuất hiện và phát triển của giai cấp vô sản thì sự tương đồng về
quyền lợi của các dân tộc và của giai cấp vô sản đã đưa họ lên vị thế lãnh đạo các
phong trào dân tộc. Phong trào dân tộc, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc gắn chặt với
cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp vô sản ở các quốc gia và trên thế giới.
Ba, thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa - thành tựu của phong trào đấu tranh giải

phóng dân tộc, xóa bỏ sự áp bức, nô dịch, bóc lột của Chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa

6


đế quốc, hình thành nên một loại hình dân tộc thường được gọi là dân tộc xã hội chủ

nghĩa. Các khối cộng đồng người với tư cách là dân tộc trong xã hội tư bản (thời kỳ

một và hai) hay trong xã hội xã hội chủ nghĩa đều được đặc trưng bởi sự cộng đồng
bền vững về kinh tế, ngôn ngữ, lãnh thổ và các đặc điểm tộc người thể hiện qua các
đặc trưng về sinh hoạt - văn hóa.
Tuy nhiên, ở các nước thuộc địa phụ thuộc, sau khi giải phóng khỏi ách đô hộ
của nước ngoài thì quá trình tộc người diễn ra phức tạp. Xu thế chung là trong bối
cảnh mới các dân tộc trong quốc gia xích lại gần nhau về kinh tế, văn hóa, chính trị. Ở
các quốc gia, biên giới, chính trị ngày nay đã trở thành ranh giới giữa các cộng đồng
lịch sử lớn của một loại hình mới. Một số quốc gia Châu Á như Ấn Độ, Nê Pan, Thái
Lan,... thành phàn cư dân có thể thuần nhất song cũng có thể không thuần nhất. Mặt
khác, sự tham gia vào cuộc đấu tranh chung của phong trào dân tộc chống lại sự xâm
lược của bên ngoài chính là điều kiện khách quan để hình thành và củng cố các mối
quan hệ dân cư trong các quốc gia đó về chính trị, kinh tế, xã hội, ý thức về một tổ
quốc.
Nội dung thứ ba là quan điểm về việc giải quyết vẩn đề dân tộc của chủ nghĩa Mác
- Lênin. Thời kỳ của chủ nghĩa Tư bản trước độc quyền và thời kỳ chủ nghĩa Tư bản
độc quyền, c. Mác, Ph. Ăngghen và V. I. Lênin đã nêu ra các vấn đề dân tộc, giai cấp
về phương diện lý luận và thực tiễn. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin
trong nhiều tác phẩm đã bàn luận về vấn đề dân tộc, thể hiện quan điểm của học thuyết
Mác - Lênin trong việc nhìn nhận và giải quyết vấn đề dân tộc. Thực ra trong thời kỳ
của c. Mác và Ph. Ăngghen vấn đề dân tộc chưa nổi lên, bức xúc như thời kỳ lịch sử
của V. I. Lênin.
Tuy nhiên, vấn đề dân tộc tự quyết được c. Mác bàn đến khi đề cập đến tình hình
của Ai - rơ - len trong mối quan hệ với nước Anh trong một bức của ông: “... Trước
kia, tôi coi việc Ai-rơ-len tách khỏi nước Anh là không thể có được. Ngày nay thì tôi
lại coi đó là việc không thể tránh khỏi, dẫu cho sau khi phân lập lại đi đến kết thành
liên bang” [54, tr.249]

7



Kế thừa quan điểm của c. Mác và Ph. Ăngghen và căn cứ vào tình hình phong
trào dân tộc trong thời đại của mình, V. I. Lênin đã có nhiều công trình bàn về vấn đề
dân tộc. Ông đã có những ý kiến rất sâu sắc về vấn đề dân tộc. Trong tác phẩm Ý kiến
phê phán về vẩn đề dân tộc, Lênin đã viết: “Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư

bản, có hai xu hướng lịch sử trong vấn đề dân tộc. Xu hướng thứ nhất là: sự thức tỉnh
của đời sống dân tộc và của các phong trào dân tộc, cuộc đấu tranh chống mọi ách áp
bức dân tộc, việc thiết lập các quốc gia dân tộc. Xu hướng thứ hai là: việc phát triển và
tăng cường đủ mọi thứ quan hệ giữa các dân tộc, việc xóa bỏ những hàng rào ngăn
cách các dân tộc và việc thiết lập sự thống nhất quốc té của tư sản, của đời sống kinh
tế nói chung, của chính trị, của khoa học,v.v..” [53, t24, tr.157]. Và ông cho rằng “Cả
hai xu hướng đó là quy luật phổ biến của chủ nghĩa tư bản” [53, t24, tr.158].
Theo V. I. Lênin, chủ nghĩa dân tộc tư sản và chủ nghĩa quốc tế vô sản là hai
khẩu hiệu đối lập không thể dung hòa được, là biểu hiện của hai giai cấp trong thế giới
tư bản, là biểu thị của hai chính sách, hơn thé nữa là “thé giới quan” trong vấn đề dân
tộc. Trong nhiều tác phẩm quan trọng của mình như: về quyền dân tộc tự quyết, Ý kiến
phê phán về vẩn đề dân tộc, Những kết quả thảo luận về quyền tự quyết, Sơ thảo lần thứ
nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vẩn đề thuộc địa, V .

V...

V. I. Lênin đã phát

triển học thuyết Mác về vấn đề dân tộc, xuất phát từ những hoàn cảnh cụ thể của cách
mạng vô sản, của phong trào giải phóng dân tộc và thuộc địa. Trong thời đại đế quốc
chủ nghĩa vẩn đề dân tộc trở thành vấn đề thuộc địa và như vậy chủ nghĩa đế quốc
đồng thời cũng là chủ nghĩa bóc lột các dân tộc một cách tinh vi và bạo ngược. Trong
thời đại của mình, V. I. Lênin đã nêu lên khẩu hiệu: “Vô sản tất cả các nước và các dân

tộc bị áp bức, đoàn kết lại”.

Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn các dân tộc bị áp bức dưới chế độ Nga Sa
hoàng, Lênin đã rút ra những vấn đề, đặc điểm chính yếu để từ đó đưa ra các nguyên
tắc cơ bản của chính sách dân tộc, của quan điểm giải quyết vấn đề dân tộc của Đảng
Cộng sản Bônsêvich Nga. Trong Cương lĩnh nổi tiếng về quyền dân tộc tự quyết, V. I.
Lênin đã đưa ra các vấn đề có tính nguyên tắc cho việc giải quyết vấn đề dân tộc trong
thời đại mình: “ Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết:

8


liên hợp công nhân tất cả các dân tộc lại”[54, t25, tr.375]. Qua nội dung trên chúng ta
thấy có ba nội dung quan trọng trong cương lĩnh đó là:
- Một, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng. Đây là một trong những nguyên tắc
quan trọng trong Cương lĩnh của Lênin về vấn đề dân tộc. Đó là thực hiện quyền bình
đẳng thực sự đối với các dân tộc về chính trị, kinh tế, văn hóa.
Quyền bình đẳng của các dân tộc trước và sau khi giai cấp vô sản giành chính
quyền từ tay giai cấp tư sản trong thời đại của Lênin được hiểu là: Trước khi giành
chính quyền, quyền bình đẳng là một bộ phận của sự đòi hỏi dân chủ chung, là quyền
dùng để lôi cuốn các dân tộc bị áp bức vào cuộc đấu tranh cách mạng. 9auk hi chính
quyền về tay giai cấp vô sản thì đó là quyền của các công dân trong một nhà nước của
mình, không phụ thuộc dân tộc trong mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa được ghi
trong văn bản pháp quy cao nhất - Hiến pháp của các quốc gia.
- Hai, quyền tự quyết của các dân tộc. Trong bối cảnh thời đại của mình, V.I.
Lênin đã đề ra “quyền dân tộc tự quyết” nghĩa là “quyền phân lập và thành lập một
quốc gia dân tộc riêng biệt” đối với ba loại nước liên quan:
1. Các nước tư bản tiên tiến ở Tây Âu và nước Mỹ;
2. Các nước ở Đông Âu;
3. Các nước nửa thuộc địa và thuộc địa;

Quyền dân tộc tự quyết là một biện pháp tích cực trong đấu tranh của giai cấp vô
sản cho sự xích lại gần nhau giữa các dân tộc, tạo điều kiện để các dân tộc tự nguyện,
đoàn kết và phát triển thuận lợi.
Trong thời đại của Lênin những năm đầu thế kỉ XX, cũng nhu xu thế phát triển
chung của nhân loại hiện nay, khẩu hiệu “các dân tộc tự quyết” không phải là để các
dân tộc tách ra mà là để các dân tộc xích lại gần nhau. Cách hiểu đúng khẩu hiệu trên
đó là gạt bỏ tất cả mọi sự ngờ vực, mọi cơ sở nghi ngờ về mưu đồ xâm lược của dân
tộc này đối với dân tộc khác và nhằm chuẩn bị cho các dân tộc tiếp đến sự liên minh
tự nguyện vào một quốc gia xã hội chủ nghĩa đa dân tộc.
V.I. Lênin cũng chỉ ra rằng: Chủ nghĩa xã hội có mục đích xóa bỏ tình trạng
nhân loại bị chia cắt thành những quốc gia nhỏ, xóa bỏ mọi trạng thái biệt lập giữa các

9


dân tộc, vừa làm cho các dân tộc gần gũi nhau vừa thực hiện việc hợp nhất các dân
tộc... Vấn đề tự trị của các khu vực là một hình thức để gải quyết vấn đề dân tộc trong
một quốc gia đa dân tộc. Tất nhiên tùy tình hình cụ thể của từng quốc gia có những
vùng “có những đặc điểm quan trọng đôi chút về kinh té hoặc lối sinh sống và có một
thành phần dân tộc riêng trong dân cư, v.v...”
-Ba, liên hợp công nhân tất cả các dân tộc lại. Đây là luận điểm về sự liên minh
quốc té và đoàn két nhân dân lao động của tất cả các dân tộc trong cuộc đấu tranh
chống các giai cấp bóc lột vì sự giải phóng dân tộc và xã hội. V.I.Lênin kiên trì
nguyên tắc thống nhất giữa các nhiệm vụ dân tộc và nhiệm vụ quốc té của giai cấp
công nhân. Chủ nghĩa quốc tế vô sản thể hiện tính chất chung của những quyền lợi cơ
bản và những ý nguyện tiến bộ của nhân dân lao động tất cả các dân tộc đối lập với
chủ nghĩa dân tộc tư sản gây thù hằn chia rẽ dân tộc.
Tư tưởng của V.I. Lênin về sự hợp nhất, đoàn két những người vô sản trên thế
giới được thể hiện rõ trong tác phẩm Ý kiến phê phán về vẩn đề dân tộc. Trong tác phẩm
này Lênin đã đề cập: nếu trong xã hội tư bản có “những cuộc xung đột dân tộc không

lối thoát” thì “giai cấp vô sản không thể tán thành bất cứ một sự thừa nhận nào đối với
chủ nghĩa dân tộc cả; trái lại nó tán thành bất cứ cái gì giúp vào việc xóa bỏ mọi sự
phân biệt dân tộc, vào việc phá hủy bức tường ngăn cách các dân tộc, tán thành bất cứ
cái gì làm cho mối liên hệ giữa các dân tộc được luôn luôn mật thiết, bất cứ cái gì dẫn
đến sự hợp nhất các dân tộc. Hành động khác đi, có nghĩa là đứng về phía chủ nghĩa
dân tộc Phi-li-xtanh phản động” [55, tr.31]
Theo nhiều nhà nghiên cứu ở nước ta hiện nay, sau khi V.I. Lênin mất, chính
sách dân tộc của V.I. Lênin ở Liên Xô không được thực hiện một cách đúng đắn và có
biểu hiện xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc. Sự
thất bại do việc thực hiện Chính sách dân tộc ở Liên Xô do yếu tố chủ quan là chính
và yếu tố khách quan với âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. GS.
Phan Hữu Dật khi đề cập đến vấn đề trên đã cho rằng: “Nguyên nhân và cũng là hậu
quả của Chính sách dân tộc ở Liên Xô là do đã không tuân thủ nguyên lý đúng đắn của
chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc.

10


Trong những năm cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI vẩn đề dân tộc vẫn mang tính
thời sự và có nhiều diễn biến phức tạp cùng với các vấn đề khác như tôn giáo, nhân
quyền,...Đây là các vấn đề nhạy cảm đối với các dân tộc quốc gia và thành phàn tộc
người (ethnies) trong các quốc gia đa dân tộc. Đó cũng chính là vấn đề các thế lực thù
địch quốc tế tìm mọi cách lợi dụng, tận dụng để phá vỡ khối đại đoàn kết, chia rẽ các
thành phần dân tộc trong các quốc gia và giữa các quốc... Trong bối cảnh đó, các
nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về Dân tộc và vẩn đề dân tộc vẫn là cơ sở lý luận
để chúng ta vận dụng vào hoàn cảnh thực tiễn của đất nước trong thời đại mới.
1.2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN Tộc VÀ CÔNG TÁC DÂN
TỘC
1.2.1. về vấn để dân tộc
Trong những năm 20 của thế kỉ XX Hồ Chí Minh là người đã tìm ra con đường

giải phóng dân tộc đó là con đường cách mạng vô sản, đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin.
Những năm vừa qua, ở nước ta có nhiều công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh
về vấn đề dân tộc. Có hai nhóm khác nhau với hai cách nghiên cứu, tiếp cận tư tưởng
của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc:
- Nhóm thứ nhất [43, tr.45-50] khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
dân tộc được thể hiện qua các nội dung sau:
a, Vẩn đề dân tộc chi có thể được giải quyết triệt để bằng con đường cách mạng vô
sản: Nội dung này phân tích quan điểm dân tộc đặt trong hoàn cảnh của một nước

thuộc địa nửa phong kiến. Khi chủ tịch Hồ Chí Minh bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin
vào những năm 20 của thế kỉ XX đặc biệt là khi Người đọc được Luận cương của
Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Người đã rút ra két luận rằng: “Chỉ có giải phóng
giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là

sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản” [27, tr.416].
Khi đề cập về vấn đề dân tộc và cách mạng vô sản thì chủ tịch Hồ Chí Minh đã
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vẩn đề dân tộc và giai cấp; khẳng định con đường
đi đến thực hiện quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam trong việc tiến hành cách mạng dân
tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa; khẳng định tương lai của các dân tộc gan

11


liền với chủ nghĩa xã hội. Cách mạng vô sản là cuộc cách mạng to lớn ở nước ta, đồng

thời bao gồm cả hai tiến trình giải phóng gắn bó mật thiết với nhau: giải phóng dân tộc
và giải phóng giai cấp - đây là điều mà hầu hét các nhà yêu nước phong kiến và tư sản
thời kì trước Hồ Chí Minh bế tắc và không nhìn thấy được.
b, Khẳng định Việt Nam là một quốc gia thong nhất gồm nhiều dân tộc: Đây là tư
tưởng nhất quán và sâu sắc của chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó vừa thể hiện tính

thống nhất vừa thể hiện tính đa dạng của quốc gia đa dân tộc như Việt Nam.
Tính thong nhất của quốc gia là một thực tại khách quan, là sản phẩm của lịch sử

và mối quan hệ lâu đời của các thành phần tộc người cùng sinh sống trên lãnh thổ
quốc gia Việt Nam. Nước ta là một quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em cùng
sinh sống từ lâu đời. Với bề dày lịch sử hơn bốn ngàn năm, các dân tộc đã cùng nhau
sinh sống, lao động, liên két lại chống giặc ngoại xâm... tất cả những điều này đã tạo
nên một dân tộc Việt Nam mang bản lĩnh, bản sắc văn hóa, cốt cách riêng của quốc
gia Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về một nước Việt Nam thống nhất bao gồm
nhiều dân tộc anh em đã được Người thể hiện trong nhiều tác phẩm, bài viết, bài phát
biểu như tác phẩm Lịch sử nước ta bằng thơ hay trong Thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu
số miền Nam năm 1946... Người luôn có một khát khao cháy bỏng khi mà đất nước ta

chưa giành được độc lập, tự do chính là muốn giải phóng các dân tộc khỏi ách áp bức,
bóc lột, nô dịch của chủ nghĩa thực dân đế quốc.
về tỉnh đa dạng, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rằng: “Nước ta có nhiều dân tộc,

đấy là điểm tốt”[27, tr.137]. Dân tộc Việt Nam là một cộng đồng đa dân tộc có lịch sử,
văn hóa lâu đời và nhiều giá trị, mang bản sắc văn hóa độc đáo tạo nên tính phong
phú, đa dạng trong tính thống nhất của quốc gia dân tộc. Với nhãn quan chính trị sâu
rộng, tính nhân văn sâu sắc thì trong suốt quá trình tìm đường giải phóng dân tộc, Hồ
Chí Minh đã luôn ý thức và coi trọng nét độc đáo, bản sắc riêng của các thành phần
dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Tính đa dạng cũng có nghĩa là phải hiểu được những phong tục tập quán của các
dân tộc anh em trong cộng đồng quốc gia để có những biện pháp hoạt động nhằm cùng

12



nhau phát triển kinh tế - xã hội hướng tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Tư tưởng đó
của Người được thể hiện qua lời căn dặn cán bộ tuyên giáo miền núi: “Một tỉnh có
đồng bào Thái, đồng bào Mèo thì tuyên truyền huấn luyện đối với đồng bào Thái khác,
đồng bào Mèo khác, phải có sự thay đổi cho thích hợp. Bởi vì đời sống, trình độ đồng
bào Mèo và đồng bào Thái khác nhau nên tuyên truyền huấn luyện phải khác”[28,
tr.127].
c, Tư tưởng về các dân tộc đoàn kết bình đẳng, tương trợ lẫn nhau trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: Đoàn két là một trong những di sản tư tưởng quan trọng

của chủ tịch Hồ Chí Minh đối với vấn đề dân tộc ở nước ta. Trong quá trình lãnh đạo
cách mạng và đặt nền móng cho ché độ xã hội mới với nhiều vấn đề phức tạp trong
đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng chế độ xã hội mới... Hồ Chí Minh đã hình
thành, xây dựng nên tư tưởng đoàn két bình đẳng, tương trợ lẫn nhau giữa các dân tộc.
Tư tưởng đó của Người còn là sự kế thừa và phát huy cao độ truyền thống đoàn kết
của dân tộc tạo nên sức mạnh vật chất vĩ đại của dân tộc trong thời đại của Người.
Tư tưởng đoàn kết, bình đẳng, tương trợ trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam
của Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng tư tưởng để Đảng và Nhà nước hoạch định và
thực hiện Chính sách dân tộc từ đó cho tới nay và đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng. Cũng trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn theo
dõi, nhắc nhở , uốn nắn những biểu hiện lệch lạc về tư tưởng đoàn két, bình đẳng,
tương trợ giữa các dân tộc với cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể, cán bộ đảng viên
các cấp. Người viết: “Phải khắc phục những tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, tự
ti dân tộc”. Người phân tích rõ cho cán bộ quần chúng hiểu rõ: “Người dân tộc lớn dễ
mắc bệnh kiêu ngạo. Cán bộ địa phương, nhân dân địa phương lại dễ cho mình là dân
tộc nhỏ bé, tự ti, cái gì cũng cho là mình không làm được, rồi không cố gắng. Đó là
những điểm phải tránh”[27, te. 136].
d, Tư tưởng làm cho miền núi tiến kịp miền xuôi, làm cho đồng bào các dân tộc ít
người được hưởng ngày càng đầy đủ hơn những quyền lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa:

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhận thức sâu sắc về sự phát triển giữa các dân tộc đa số

với các dân tộc thiểu số, giữa miền núi với miền xuôi là không đồng đều. Nhận thức

13


được điều đó, sau khi đất nước giành được độc lập Người đã chỉ đạo các cấp ủy Đảng,
chính quyền các địa phương, cán bộ phải làm sao nâng cao đời sống của nhân dân làm
cho các dân tộc thiểu số tiến kịp các dân tộc đa số, miền núi phát triển tiến kịp miền
xuôi. Người viết: “Dưới chế độ thực dân và phong kiến , đồng bào rẻo cao sống rất
cực khổ. Ngày nay, đồng bào rẻo cao được tự do bình đẳng, không bị áp bức, bóc lột
như trước kia. Nhưng đời sống vật chất, văn hóa chưa được nâng cao mấy. Đó là vì
cán bộ lãnh đạo không chú ý đầy đủ đén đồng bào rẻo cao. Bác thay mặt Trung ương
và Chính phủ giao cho cán bộ từ tỉnh đến xã phải ra sức giúp đỡ hơn nữa đồng bào rẻo
cao về mọi mặt”[27, tio, tr.323].
Nhóm thứ hai, khi đề cập về tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc thì lại đề

cập trên hai phương diện là phương diện vĩ mô và phương diện vi mô.
a, Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc trên phương diện vĩ mô: trên phương
diện này đề cập chủ yếu đến các nội dung tư tưởng của Hồ Chí Minh trong bối cảnh
lịch sử đất nước chưa giành được độc lập tự do. Và vấn đề dân tộc trong tư tưởng của
Hồ Chí Minh lúc bấy giờ là giành lại độc lập tự do cho toàn dân tộc bao gồm tất cả các
dân tộc cả đa số và thiểu số trên đất nước Việt Nam, làm cho các dân tộc từ thân phận
người nô lệ trở thành người làm chủ của đất nước.
b, Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc trên phương diện vỉ mô: trên phương
diện này chủ yếu là đề cập tới việc xác định đường lối, chính sách để đưa các dân tộc
thoát khỏi đói nghèo lạc hậu đi lên phát triển, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc
và văn minh.
Nhóm tác giả này khi đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc trên
phương diện vi mô đã điểm lại việc chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng những thuật ngữ
nào đề chỉ các thành phần dân tộc ở nước ta khi đề cập đến nội dung và việc giải quyết

vấn đề dân tộc như: dân tộc Kinh, dân tộc đa sổ, dân tộc thiểu số, đồng bào thượng du,
đồng bào hạ du, các dân tộc,v,v,... Chứ Người không dùng những thuật ngữ như thị tộc,
bộ tộc, sắc tộc mà Người chỉ dùng thuật ngữ dân tộc đề chỉ các dân tộc đa số và các

dân tộc thiểu số trong cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam. Tư tưởng của Hồ Chí
Minh về một dân tộc Việt Nam là cơ sở giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng dân

14


tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức được rằng nước ta là một quốc gia đa dân
tộc với nhiều thành phàn dân tộc anh em có sự khác nhau về văn hóa, tiếng nói, phong
tục tập quán, trình độ... Đây không chỉ là nhãn quan chính trị mà còn là luận điểm
khoa học chân xác để giải quyết vấn đề dân tộc, để lãnh đạo việc hoạch định và thực
hiện chính sách dân tộc của Người.
Hồ Chí Minh không chỉ là người đã tìm và đưa chủ nghĩa Mác - Lênin vào nước
ta mà còn là người đã vận dụng một cách sáng tạo các nguyên tắc về vấn đề dân tộc
của chủ nghĩa Mác - Lênin vào tình hình thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Các nội
dung cõ bản về vấn ðề dân tộc cũng ðýợc Ngýời quan niệm phải thực hiện thông qua
hệ thống chính trị, thông qua chính sách dân tộc. Ðó chính là nguyên tắc ðýợc Ngýời
quán triệt và chỉ ðạo trong suốt quá trình cách mạng nước ta. Các nguyên tắc về vấn
đề dân tộc của Hồ Chí Minh đã được quán triệt trong việc hoạch định và thực hiện
chính sách dân tộc ở nước ta:
- về nguyên tắc đoàn kết, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn cứ vào nguyên lý của chủ

nghĩa Mác - Lênin và truyền thống dân tộc, vào thực tiễn tình hình các dân tộc ở nước
ta để đề ra chủ trương kế thừa và nâng cao một bước nội dung đoàn kết trong công tác
dân tộc ở nước ta. Người đưa ra khẩu hiệu: “Đoàn két, đoàn két, đại đoàn kết” đây
được coi là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố dân tộc, giai cấp, quốc tế và thời đại

của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khẩu hiệu này là nhằm kêu gọi và thực hiện 3 cấp độ của
nội dung đoàn kết: đoàn kết trong Đảng - đoàn kết dân tộc - đoàn kết quốc tế. Nội hàm
của vấn đề đoàn kết do Hồ Chí Minh đưa ra có nhiều sáng tạo hơn so với các nội dung
đoàn két trước đó của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin.
- về nguyên tắc bình đẳng, dựa trên cơ sở quán triệt tư tưởng chủ nghĩa Mác Lênin về vấn đề dân tộc và căn cứ vào nhận thức sâu sắc của Người về tình hình thực
tiễn dân tộc ở nước ta đã đề ra nguyên tắc này và luôn được coi trọng trong việc hoạch
định các chính sách dân tộc qua các thời kì. Bình đẳng là yếu tố không thể thiếu trong
quan hệ giữa các dân tộc và chính sách dân tộc để tạo nên sự đoàn kết vững chắc giữa
các dân tộc. Bình đẳng được đặt ra vừa là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về

15


vấn đề dân tộc, đồng thời cũng vừa xuất phát từ hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam là
một quốc gia đa dân tộc, cộng đồng các tộc người vừa ở tình trạng phát triển không
đều vừa nằm trong tình hình xã hội thực dân, phong kiến bị kìm hãm sự phát triển về
chính trị, kinh tế, xã hội...
Chính sách dân tộc của Hồ Chí Minh, của Đảng và Nhà nước ta là làm sao cho
các dân tộc rút ngắn khoảng cách phát triển, để các dân tộc thực sự làm chủ đất nước,
làm chủ vận mệnh của mình về tất cả mọi mặt. Chỉ có thực sự bình đẳng thì các mục
tiêu trên mới có khả năng trở thành hiện thực.
- về nguyên tắc tương ữợ, đây là nguyên tắc có tính độc đáo trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về công tác dân tộc. Người coi trọng và đề cao tinh thần tương trợ giữa các
dân tộc. Đây là nguyên tắc vừa có tính pháp lý vừa phù hợp với truyền thống văn hóa
dân tộc. Việc đưa ra nguyên tắc này của Hồ Chí Minh vừa phản ánh những cơ sở lý
luận vừa phản ánh, kế thừa và phát huy truyền thống tương thân tương ái của cộng
đồng các dân tộc nước ta. Những truyền thống của dân tộc như “Bầu ơi thương lấy bí
cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” hay “Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
người trong một nước phải thương nhau cùng”... được chủ tịch Hồ Chí Minh ké thừa
và nâng lên một tầm cao mới. Người còn nghiêm túc phê phán tư tưởng lớn, dân tộc

hẹp hòi.
- về quyền dân tộc tự quyết: đây chính là một trong những nguyên tắc cơ bản
trong chính sách dân tộc của Lênin. Khi nghiên cứu vấn đề này trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về vấn đề dân tộc, nhóm thứ hai này đã cho rằng nó được biểu hiện dưới hai
cấp độ khác nhau: 1) cấp độ dân tộc - quốc gia, đó chính là cuộc đấu tranh giành độc
lập tự do cho toàn dân tộc Việt (chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ); 2) Cấp độ tộc
người, vấn đề dân tộc tự quyết là thực hiện ba nguyên tắc: đoàn két, bình đẳng, tương
trợ để các dân tộc được phát triển, hòa nhập vào sự phát triển chung của đất nước và
rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các dân tộc.
Ngoài hai nhóm tác giả trên còn có một nhóm thứ ba, đó là quan điểm của tác giả
trong cuốn sách mang tên: Chủ tịch Hồ Chí Minh và vấn đề dân tộc [46] khi đề cập đến
nội dung chính sách dân tộc và vấn đề dân tộc đã đề cập tới các vấn đề: Là nhận thức

16


của Người về đặc điểm tình hình dân tộc thiểu số và miền núi ở nước ta; Coi trọng
việc thực hiện chính sách dân tộc và coi vấn đề dân tộc có tầm quan trọng chiến lược;
Đánh giá cao vai trò vị trí của các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp cách mạng chung
của cả nước: Luôn luôn kêu gọi đoàn két trong toàn thể các dân tộc; Hiểu rất rõ âm
mưu của kẻ thù trong việc tìm mọi cách để thực hiện chính sách chia để trị, chia rẽ các
dân tộc; Là người Việt Nam đầu tiên xem xét và giải quyết vấn đề dân tộc trên cơ sở
học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin. Luôn đấu tranh với những tư tưởng dân tộc hẹp
hòi, tư tưởng dân tộc lớn, coi thường các dân tộc nhỏ, trình độ phát triển thấp; Chính
sách dân tộc của Hồ Chí Minh được thể hiện trong Hiến Pháp, các chỉ thị, Nghị quyết
của Đảng, đặc biệt là các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc; Các dân tộc có quyền
bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau; Coi trọng việc hoạch định và thực
hiện chính sách dân tộc và chỉ ra nội dung cốt yếu của Chính sách dân tộc; ...
1.2.2. về công tác dân tộc


Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân tộc chưa được nhiều học giả chú ý và
không có nhiều bài nghiên cứu về vấn đề này. Công tác dân tộc là một vấn đề có ý
nghĩa thực tiễn quan trọng, thể hiện cụ thể và sinh động quan điểm, tư tưởng của chủ
tịch Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc trong thực tế cuộc sống, trong công tác lãnh đạo
và quản lý đất nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân tộc được thể hiện trước nhu cầu thực
tiễn, cụ thể là nhiệm vụ của công tác dân tộc đối với Chính phủ mới được hình thành
sau cách mạng tháng Tám 1945. Để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác
dân tộc sau cách mạng tháng Tám năm 1945 và chính phủ mới thì công việc đầu tiên
cần làm đó là thành lập cơ quan công tác dân tộc - một trong những cơ quan đầu tiên
của chế độ mới ở nước ta được ra đời sớm nhất, đó là việc thành lập Nha dân tộc thiểu
sổ. Nha dân tộc thiểu số được thành lập trên cơ sở sắc lệnh số 58 ngày 3 - 5 - 1946 do

chủ tịch Hồ Chí Minh ký và theo Nghị định 359 ngày 9 - 9 - 1946 của Bộ Nội vụ.
Tại sao chủ tịch Hồ Chí Minh lại cho thành lập cơ quan công tác dân tộc? và để
làm gì? Thì câu trả lời được thể hiện trong thư Người gửi các đồng bào dân tộc thiểu
số tại Đại hội ở Playcu: “Ngày nay nước Việt Nam là nước chung của chúng ta. Trong

17


Quốc hội có đủ đại biểu các dân tộc. Chính phủ thì có “NHA DÂN Tộc THIÊU SỐ”
để săn sóc cho tất cả các đồng bào”.
Trong đoạn trích bức thư trên có hai vấn đề càn phải quan tâm liên quan tới tư
tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân tộc:
- Thứ nhất, Người viết hoa tên tổ chức làm công tác dân tộc là NHA DÂN TỘC
THIỂU SỐ nhằm khẳng định trước đồng bào các dân tộc một tổ chức quan trọng làm
công tác dân tộc của nhà nước mới, có ý nghĩa hét sức quan trọng trong sự phát triển
của các dân tộc.
- Thứ hai, Người cũng đã giải thích rõ việc thành lập cơ quan làm công tác dân

tộc là “để săn sóc cho tất cả các dân tộc”.
- Công tác dân tộc có liên quan đến nhiều vấn đề tác động đến sự phát triển toàn
diện của đồng bào các dân tộc về kinh tế, chính trị, văn hóa, an ninh quốc phòng,...
Chính vì lẽ đó mà trong quản lý nhà nước thường không được gọi là nghành dân tộc
mà thường gọi là lĩnh vực công tác dân tộc (thực chất là sự liên nghành, đa lĩnh vục
của công tác dân tộc); không thành lập Bộ Dân tộc mà thành lập ủy ban Dân tộc (cơ
quan ngang Bộ; người đứng đầu gọi là Bộ trưởng, Chủ nhiệm ủy ban Dân tộc)
Vậy công tác dân tộc là gì ngoài các chức năng, nhiệm vụ cụ thể được quy định
trong các Nghị định 359, ngày 9 - 9 - 1946 về thành lập Nha dân tộc thiểu số thuộc Bộ
Nội vụ; Kết luận của Hội nghị Trung ương tháng 1 - 1947 về thành lập Phòng Quốc
dân thiểu so thuộc Ban Dân vận Mặt trận Trung ương; Nghị quyết số 03 - NQNS/TƯ

ngày 29 - 1 - 1955 về thành lập Tiểu ban Dân tộc thuộc Trung ương Đảng và Thủ
tướng chính phủ; sắc lệnh số 017/SL ngày 6 - 3 - 1959 về thành lập ủy ban Dân tộc
thuộc Hội đồng Chính phủ và ngang bộ; Quyết định số 38- QĐTƯ ngày 14-5-1979
thành lập Ban dân tộc Trung ương thuộc Ban Bí thu Trung ương Đảng; Nghị định
11/CP ngày 20-3-1993 và Nghị định 59/1998/NĐCP ngày 13-8-1998 thành lập ủy ban
Dân tộc và Miền núi thuộc Chính phủ; Nghị định 51/2003/NĐ-CP ngày 16-5-2003

thành lập ủy ban Dân tộc thuộc Chính phủ. Nhiều người lúng túng trong nhận thức về
công tác dân tộc không phải là không có căn cứ, bởi tính liên nghành, đa lĩnh vực của
công tác dân tộc; bởi như trên vừa nêu, tên cơ quan đã nhiều lần thay đổi và trực thuộc

18


nhiều cơ quan khác nhau, do vậy chức năng nhiệm vụ cũng không cố định; hơn thế
nữa, việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác dân tộc trong thực tiễn
không mấy dễ dàng... Có lẽ tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh khi đề cập đến sự ra
đời của Nha Dân tộc thiểu số đã gợi ý cho chúng ta về công tác dân tộc: đó là thái độ,

nhận thức và hoạt động làm sao để thể hiện sự săn sóc của Chính phủ đối với đồng
bào các dân tộc thiểu số.
“Săn sóc cho tất cả các đồng bào” là bản chất của công tác dân tộc, là thể hiện
tập trung trách nhiệm của nhà nước đối với các dân tộc thiểu số để tiến kịp sự phát
triển chung của đất nước. Săn sóc phải được hiểu là sự quan tâm toàn diện, là thể hiện
trách nhiệm thường xuyên đối với sự phát triển, chăm lo đời sống vật chất và tinh
thần, mức sống của đồng bào dân tộc. Săn sóc là cơ sở của quan điểm trong hoạch
định chính sách và tổ chức thực hiện chính sách phát triển đối với vùng dân tộc thiểu
số trong mọi giai đoạn cách mạng. Công tác dân tộc phải quán triệt tư tưởng đó của
Người trong mọi hoạt động từ khâu hoạch định đến thực hiện các chính sách, chương
trình, dự án liên quan đến sự phát triển của dân tộc thiểu số ở nước ta.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về vẩn đề dân tộc và Công tác dân tộc là hệ
thống các quan điểm được hình thành trên cơ sở học thuyết Mác - Lênin về vấn đề dân
tộc kết hợp với truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam. Tư tưởng đó được đặt
trong bối cảnh và yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng đặt ra toong sự nghiệp đấu tranh
giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước vì sự phát triển của dân tộc - quốc gia và
sự phát triển của mồi thành phần tộc người. Đó là hệ thống các vấn đề mang tính toàn
diện liên quan đến mục tiêu rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các tộc người toong
sự phát triển của quốc gia dân tộc Việt Nam; được xuất phát từ tình hình đặc điểm của
các tộc người và nhiệm vụ cách mạng cụ thể toong từng giai đoạn. Các cách tiếp cận
tư tưởng Hồ Chí Minh với vấn đề dân tộc trên đây cho ta những lý giải về tính chính
trị và tính nhân văn của Người đối với dân tộc - quốc gia và thành phần tộc người. Tuy
nhiên, ngoài nhiều vấn đề liên quan khác thì các nguyên tắc bình đẳng, đoàn két,
tương trợ giúp nhau cùng phát triển giữa các dân tộc mang tính xuyên suốt. Đó chính
là sự sáng tạo của Hồ Chí Minh khi nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc ở nước ta

19


thế kỉ XX.

1.3. KHÁI QUÁT VỀ CÁC DÂN Tộc Ở VIỆT NAM
a, Việt Nam là một quốc gia có nhiều dân tộc và giữa các dân tộc tỉ lệ dân số rất
không đều nhau.
Quốc gia dân tộc Việt Nam hiện nay có 54 dân tộc anh em. Theo số liệu thống
kê năm 1995, dân tộc Kinh (Việt) là dân tộc đa số chiếm tới 65 triệu người toong tổng
số 73,5 triệu người, chiếm hơn 88% dân số nước ta lúc đó. Còn các dân tộc thiểu số
chỉ chiếm khoảng 12%. Tỉ lệ dân số giữa các dân tộc thiểu số cũng rất không đồng đều
nhau. Có thể chia ra thành các nhóm nhu sau:
- Các dân tộc có số dân trên dưới 1 triệu người như: Tày, Thái, Hoa, Kho me,
Nùng, ...
- Các dân tộc có số dân từ 10 vạn đến dưới 50 vạn là: H’Möng, Dao, Giarai,
Êđê, Bana, Sán Chay, ...
- Các dân tộc có số dân từ 1000 đến 100.000 người như: Chàm, Xơ đăng, Sán
dìu, Hrê, Cơ ho, Mơ nông, Thổ, Khơ Mú, Giáy, Mạ, Chơ ro, Hà Nhì, Kháng, Lô Lô,
- Có một số dân tộc có số dân từ 100 đến 500 người như Sila, ơđu, PuPéo,
Rơmăm, Brâu.
Tuy có số dân không đồng đều nhau nhưng các dân tộc coi nhau như anh em
trong công đồng dân tộc Việt Nam, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau.
Ngày nay, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm tới việc tạo điều kiện để các dân
tộc cùng nhau phát triển, đặc biệt là đối với các dân tộc có dân số quá ít, cuộc sống cơ
cực, khó khăn. Nhờ những chính sách của Đảng và Nhà nước về khắc phục tình trạng
suy giảm dân số đối với một số dân tộc có quá ít dân, những năm gàn đây dân số của
các dân tộc này đã tăng lên.
b, Các dân tộc ở nước ta có truyền thống đoàn két trong đấu tranh chinh phục
thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm, xây dựng một cộng đồng dân tộc thống nhất.
Trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, một số dân tộc có cùng nguồn gốc lịch sử
như:

20



×