Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

BÀI tập NHÓM nhập môn internet và e learning

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.94 KB, 16 trang )

T

LỜI NÓI ĐẦU
rong thời đại mà khoa học kĩ thuật phát triển nhanh chóng như hiện nay, nhà
trường dù được trang bị nhiều cơ sở vật chất cũng không thể đáp ứng hết
nhu cầu học tập của người học cũng như đòi hỏi ngày càng cao của đời sống

xã hội. Vì vậy, bồi dưỡng năng lực tự học cho sinh viên là một công việc có vị trí cực
kì quan trọng trong các nhà trường đại học. Chỉ có tự học, tự bồi đắp tri thức bằng
nhiều con đường, nhiều cách thức khác nhau mỗi sinh viên mới có thể bù đắp được
những thiếu khuyết về tri thức khoa học về đời sống xã hội. Từ đó có được sự tự tin
trong cuộc sống, công việc bởi năng lực toàn diện của mình[1].
Vấn đề tự học tự đào tạo của người học đã được Đảng, Nhà nước quan tâm
quán triệt sâu sắc từ nhiều năm qua. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII từng nêu rõ:
“Tập trung sức nâng cao chất lượng dạy và học, tạo ra năng lực tự học, tự sáng tạo
của học sinh, Bảo đảm mọi điều kiện và thời gian tự học cho học sinh, phát triển mạnh
mẽ phong trao tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân”[2].
Như vậy, về cơ sở pháp lý cũng như về mặt lý
luận thực tiễn, tự học là hình thức học tập không thể
thiếu được của sinh viên đang học tập tại các trường
đại học. Vậy, tự học là gì? Tự học có vai trò như thế
nào? Các phương pháp tự học căn bản của sinh viên
đại học? Để tự học hiệu quả, chúng ta cần vượt qua
những khó khăn gì và cần những kỹ năng nào?
Chính vì lẽ đó, ở bài báo cáo lần này, chúng tôi sẽ đi sâu nghiên cứu đề tài
hình thức tự học của sinh viên Đại học, từ đó đưa ra được đánh giá, kết luận cũng như
kinh nghiệm của các thành viên trong nhóm đối với hình thức học tập này.
PHẦN 1.
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ PHƯƠNG PHÁP TỰ HỌC
1. Khái niệm tự học


1

Th.S Dương Thị Thanh Huyền, Bộ môn Khoa học Xã hội & Nhân văn, Quá trình tự học và phương
pháp dạy tự học cho sinh viên, trang 1;
2
Văn kiện Đảng, Nghị quyết Trung ương Đảng 5 khóa VIII, lưu trữ Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt
Nam, website: Dangcongsan.vn;

1


T

ự học, tuy đã được nghiên cứu từ lâu[3] và rất nhiều trên thế giới nhưng lại là
một thuật ngữ gây nhiều tranh luận[4]. Tự học, theo số ít quan điểm cho rằng
là bản thân học một mình mà không có sự giúp đỡ từ ai. Tuy nhiên, quan

điểm này cũng bị phản bác rất nhiều vì không thâu tóm được tinh thần và nội dung mà
cụm từ tự học hàm chứa. Theo các nhà ngôn ngữ và các nhà giáo dục, mặc dù không
thể thống nhất với nhau hoàn toàn về định nghĩa tự học là thế nào, nhưng một số nhà
nghiên cứu nổi tiếng thế giới định nghĩa về tự học như: Tự học là khả năng tự lo việc
học của chính mình (Henri Holec); Tự học là vấn đề về mối tương quan tâm lý của
người học với quá trình và nội dung học (David Little); Tự học là tình huống trong đó
người học hoàn toàn chịu trách nhiệm về mọi quyết định liên quan đến việc học và
thực hiện những quyết định đó.(Lélie Dickinson),... Ở Việt Nam, trong tập bài giảng
chuyên đề Dạy tự học cho sinh viện trong các nhà trường trung học chuyên nghiệp và
Cao đẳng, Đại học GS – TSKH Thái Duy Tuyên viết: “Tự học là hoạt động độc lập
chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng
lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp…)cùng các phẩm chất động cơ, tình
cảm để chiếm lĩnh tri thức một lĩnh vực hiểu biết nào đó hay những kinh nghiệm lịch

sử, xã hội của nhân loại, biến nó thành sở hữu của chính bản thân người học”.
Tác giả Nguyễn Kỳ ở Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 7/1998 cũng bàn về
khái niệm tự học: “Tự học là người học tích cực chủ động, tự mình tìm ra tri thức kinh
nghiệm bằng hành động của mình, tự thể hiện mình. Tự học là tự đặt mình vào tình
huống học, vào vị trí nghiên cứu, xử lí các tình huống, giải quyết các vấn đề, thử
nghiệm các giải pháp,… Tự học thuộc quá trình cá nhân hóa việc học”.
Tự học (learner autonomy) đã được nghiên cứu từ lâu và rất nhiều trên thế giới. Từ giữa những năm
1970 đã có sách hay bài viết về vấn đề này (Benn, S. I. viết bài “Freedom, Autonomy and the Concept
of the Person” năm 1976; Holec H. viết quyển “Autonomy in Foreign Language Learning” năm
1981, NXB Oxford).
4
Tự học đã được con người thực hiện từ rất sớm, ngay từ khi giáo dục chưa trở thành một ngành khoa
học thực sự. Ở thời kỳ đó, người ta đã biết quan tâm đến việc làm sao cho người học chăm chỉ, tích
cực ghi nhớ được những giáo huấn của thầy và hành động theo những điều ghi nhớ đó. Montaigne
từng khuyên rằng: “Tốt hơn là ông thầy để cho học trò tự học, tự đi lên phía trước, nhận xét bước đi
của họ, đồng thời giảm bớt tốc độ của thầy cho phù hợp với sức học của trò”.Từ thế kỷ XVII, các nhà
giáo dục như: J.A Comensky (1592-1670); G.Brousseau (1712-1778); J.H. Pestalozzi (1746-1872);
A.Disterweg (1790-1866) trong các công trình nghiên cứu của mình đều rất quan tâm đến sự phát
triển trí tuệ tính tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh và nhấn mạnh phải khuyến khích người đọc
giành lấy trí thức bằng con đường tự khám phá, tìm tòi và suy nghĩ trong quá trình học tập, đó chính
là hình thức tự học.
3

2


Tuy có nhiều định nghĩa nhưng vấn đề chính là chúng ta xem tự học là phương
tiện hay mục đích cuối cùng, hai cách nhìn này đan xen lẫn nhau và cả hai đều có một
thể là một phần trong quan điểm của chúng ta về việc học[5].
Từ những quan điểm định nghĩa về tự học nêu trên, nhóm chúng tôi đi đến định

nghĩa về tự học như sau: Tự học là quá trình cá nhân người học tự giác, tích cực, độc
lập chiếm lĩnh tri thức ở một lĩnh vực nào đó trong cuộc sống bằng hành động của
chính mình hoặc/và có sự hỗ trợ một phần từ người khác nhằm đạt được mục đích
nhất định.

V

2. Vai trò và ý nghĩa của việc tự học
iệc khuyến khích sinh viên trong các trường Đại học tự học, tự nghiên cứu
hiện nay đang là vấn đề nhiều nhà giáo dục, nhiều trường Đại học quan
tâm, nhất là theo hình thức đào tạo theo tín chỉ, trong đó có hình thức giáo

dục điện tử (E-learning). Tuy nhiên, muốn làm tốt việc này cần giúp sinh viên hiểu rõ
vai trò của việc tự học quan trọng như thế nào đối với bản thân.
Có thể nói, tự học là nhân tố trực tiếp trong việc nâng cao chất lượng đào tạo ở
các trường Đại học. Khi một học sinh trở thành một sinh viên Đại học, sinh viên bắt
đầu phải làm quen với phương thức học tập hoàn toàn mới mẻ. Ở trung học, học sinh
chỉ cần nắm vững những kiến thức được giáo viên truyền giảng ở trên lớp và giáo viên
liên tục kiểm tra, đánh giá học sinh và có giao bài tập cụ thể. Song ở Đại học thì khác
hẳn, tự học là phương pháp, cách thức cơ bản của mỗi sinh viên phải quán triệt. Bởi vì,
phương hướng chủ yếu của trường đại học trong giai đoạn này là nhanh chóng biến
quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo mà thực chất là làm cho sinh viên tự hoàn
thiện và làm phong phú thêm vốn tri thức bằng sự nỗ lực tự học, tự nghiên cứu[6].
Trong quá trình dạy học nói chung, dạy học ở đại học nói riêng, giáo viên luôn
giữ một vai trò quan trọng đặc biệt không thể thiếu được đó là sự tổ chức, điều khiển,
hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động học tập của sinh viên. Nhưng thực tế cho thấy rằng, dù
giáo viên có kiến thức uyên thâm đến đâu, phương pháp giảng dạy hay đến mấy nhưng
học sinh không chịu đầu tư thời gian, không có sự lao động của cá nhân, không có
niềm khao khát với tri thức, không có sự say mê học tập, không có kế hoạch và


Th.S Dương Thị Thúy Uyên, Sinh viên có thể tự học tốt môn Tiếng Anh, trang 2.
Phan Bích Ngọc, Tổ chức tốt việc tự học cho sinh viên nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của các
trường đại học theo hình thức tín chỉ hiện nay, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 25 (2009);
5
6

3


phương pháp học tập hợp lý, không tự giác tích cực trong học tập,... thì việc học tập
không đạt kết quả cao được[7].
Vì vậy, có thể khẳng định vai trò của hoạt động tự học luôn giữ một vị trí rất
quan trọng trong quá trình học tập của người học. Tự học là yếu tố quyết định chất
lượng và hiệu quả của hoạt động học tập. Như vậy, việc tự học của sinh viên có các
vai trò và ý nghĩa sau đây:
Thứ nhất, tự học giúp sinh viên nắm vững tri thức, kỹ năng kỹ xảo và nghề
nghiệp trong tương lai. Hoạt động tự học đã tạo điều kiện cho sinh viên hiểu sâu tri
thức, mở rộng kiến thức, củng cố ghi nhớ vững chắc tri thức, biết vận dụng tri thức
vào giải quyết các nhiệm vụ học tập mới;
Thứ hai, tự học không những giúp sinh viên không ngừng nâng cao chất
lượng và hiệu quả học tập khi còn ngồi trên ghế nhà trường mà còn giúp họ có được
hứng thú thói quen và phương pháp tự thường xuyên để làm phong phú thêm, hoàn
thiện thêm vốn hiểu biết của mình. Giúp họ tránh được sự lạc hậu trước sự biến đổi
không ngừng của khoa học và công nghệ trong thời đại ngày nay, nhất là đối với hình
thức giáo dục từ xa E-learning;
Thứ ba, tự học thường xuyên, tích cực, tự giác, độc lập không chỉ giúp sinh
viên mở rộng đào sâu kiến thức mà còn giúp sinh viên hình thành được những phẩm
chất trí tuệ và rèn luyện nhân cách của mình. Tạo cho họ có nếp sống và làm việc khoa
học, rèn luyện ý chí phấn đấu, đức tính kiên trì, óc phê phán, hứng thú học tập và lòng
say mê nghiên cứu khoa học.

Tự học không chỉ có vai trò và ý nghĩa đối với bản thân người học mà còn góp
phần to lớn nâng cao chất lượng dạy học và đào tạo. Nói như vậy không có nghĩa là hạ
thấp vai trò trách nhiệm của người giáo viên mà dưới sự tổ chức, hướng dẫn, chỉ đạo
của người giáo viên, học sinh đã biết cách tự học, chủ động, sáng tạo chiếm lĩnh kho
tàng tri thức của nhân loại.
3. Phân biệt giữa tự học với hình thức học thụ động
Thứ nhất, về phương pháp giảng dạy
ình thức học thụ động thông thường gắn liền với phương pháp đào tạo

H

theo niên, chủ yếu nhấn mạnh đến vai trò trung tâm của người dạy,
“không thầy đố mày làm nên”. Toàn bộ các kiến thức của môn học được

giảng viên trình bày một cách tuần tự và đầy đủ trên lớp. Vì vậy, thời gian giảng dạy
7

Phương pháp tự học, Khoa y học Trường Đại học Thể dục thể thao Bắc Ninh;

4


trên lớp được bố trí với thời lượng lớn, còn thời gian tự học của sinh viên ít. Giảng
viên sử dụng các phương pháp giảng dạy sao cho sinh viên chủ yếu làm việc tại lớp,
chính vì vậy, sinh viên chưa tích cực tự học, tự nghiên cứu và thường thụ động trong
quá trình tiếp thu kiến thức. Trong khi đó, hình thức tự học lại là đặc trưng cơ bản của
phương pháp đào tạo theo tín chỉ, nhấn mạnh đến vai trò trung tâm của người học.
Người học sẽ tự nghiên cứu tài liệu, làm việc nhóm, thảo luận,... và tự kiểm tra, đánh
giá sinh viên tự nhận thức vấn đề thông qua các bài tự kiểm tra, bài tập nhóm; tuy
nhiên, vẫn có sự hướng dẫn và giám sát của giáo viên.

Thứ hai, về phương pháp học tập
Đối với hình thức học thụ động, kế hoạch học tập được nhà trường xây dựng
sẵn và sinh viên thực hiện theo kế hoạch đó. Chính vì vậy, sinh viên không cần đăng
ký kế hoạch học tập, không cần quan tâm lựa chọn môn học và xây dựng tiến độ học
tập riêng. Trước khi lên lớp, không đặt nặng yêu cầu sinh viên đọc tài liệu. Sinh viên
chủ yếu tiếp thu những kiến thức được giáo viên truyền đạt trên lớp. Khi về nhà, sinh
viên học lại các kiến thức đã được học trên lớp, từ đó làm cho quá trình học của sinh
viên trở nên thụ động, không kích thích khả năng tự học, tự nghiên cứu tài liệu của
sinh viên.
Còn đối với hình thức tự học, sinh viên phải tự lập kế hoạch học tập, phải biết
lựa chọn môn học và tiến độ học tập sao cho phù hợp với sở thích, năng lực và hoàn
cảnh riêng. Sinh viên cần phải tự học, tự nghiên cứu, làm việc nhóm nhiều hơn.
Thứ ba, công cụ hỗ trợ việc học
Trước đây, sinh viên chỉ tập trung chủ yếu vào sách, giáo trình và việc ghi
chép thông qua phương tiện bút, giấy, phấn,... Do bị thụ động trong việc học tập, sinh
viên chỉ làm theo những yêu cầu của giáo viên đưa ra, ít có tính chủ động tìm kiếm
phương tiện học tập thích hợp cho bản thân. Tuy nhiên, với hình thức tự học, ngoài
việc nghiên cứu giáo trình, chăm lên thư viện đọc sách, chủ động hỏi giáo viên, bạn
bè, sinh viên còn phải có kỹ năng tìm kiếm thông tin học liệu qua internet, đặc biệt là
trong hình thức giáo dục từ xa E-learning.
PHẦN 2.
5


HÌNH THỨC - PHƯƠNG PHÁP VÀ KỸ NĂNG TỰ HỌC CĂN BẢN
1. Các hình thức - phương pháp tự học căn bản
ới tinh thần cốt yếu là lấy người học làm trung tâm, tự học đã được nhiều

V


học giả nghiên cứu và cụ thể thành nhiều phương pháp cụ thể như:
Phương pháp hợp tác- cooperative methods (kết hợp các thành viên để tự

học), phương pháp tích cực - active methods (giáo viên gợi ý - sinh viên tự nghiên
cứu), Phương pháp cá thể hóa (sinh viên chủ động nghiên cứu học tập), Phương pháp
nêu vấn đề (học viên tranh luận vấn đề), … trong đó Phương pháp tích cực được
nghiên cứu triển khai rộng hơn cả. Theo phương pháp này, giáo viên đóng vai trò gợi
sự chú ý kích thích, thúc đẩy sinh viên tự hoạt động. Vì thế, người học đóng vai trò
trung tâm của quá trình dạy học, còn người dạy là chuyên gia của việc học. Các
phương pháp tự học căn bản trên đây mang tính học thuật chuyên sâu, thể hiện được
chiến lược học tập trên tầm vĩ mô. Qua quá trình nghiên cứu, phân tích và tổng hợp
các nguồn tài liệu khác nhau, nhóm nhận thấy rằng mỗi hình thức tự học sẽ gắn liền
với phương pháp nhất định. Dưới đây, nhóm sẽ đưa ra 04 hình thức - phương pháp cơ
bản trong việc tự học.
1.1. Tự học hoàn toàn qua đọc tài liệu
Tự học hoàn toàn là việc không có giáo viên hướng dẫn, sinh viên học thông
qua tài liệu. Các tài liệu hướng dẫn thông thường là giáo trình, sách và tài liệu tham
khảo. Sinh viên có thể học tại nhà hoặc lên thư viện tìm đọc những tài liệu phục vụ
trực tiếp tới môn học. Trong tài liệu trình bày cả nội dung, cách xây dựng kiến thức,
cách kiểm tra kết quả sau mỗi phần, nếu chưa đạt thì chỉ dẫn cách tra cứu, bổ sung,
làm lại cho đến khi đạt được.
Ưu điểm của tự học hoàn toàn là sinh viên chủ động và nỗ lực rất nhiều trong
việc học, có ý chí phấn đấu không ngừng mới có thể tự lực cánh sinh được như vậy.
Tuy nhiên, sinh viên sẽ gặp nhiều khó khăn do có nhiều lỗ hổng kiến thức, sự hệ
thống hóa thông tin không được rõ ràng, khó thu xếp tiến độ, kế hoạch tự học, không
tự đánh giá được kết quả tự học của mình. Từ đó sinh viên dễ chán nản và không tiếp
tục tự học.
1.2. Tự học qua sự định hướng của giáo viên, cố vấn học tập
Ở hình thức – phương pháp tự học này, sinh viên vẫn là người tự học song có
sự định hướng trước của giáo viên giảng dạy và cố vấn học tập. Sinh viên sẽ học tập

6


có định hướng và theo kết cấu bài giảng, theo đó sinh viên sẽ nắm bắt được hệ thống
kiến thức nhiều hơn so với hình thức – phương pháp tự học hoàn toàn qua tài liệu.Sự
truyền tải thông tin sẽ đi theo hai chiều, giáo viên, cố vấn học tập hướng dẫn và sinh
viên không nắm rõ có thể hỏi lại trực tiếp/gián tiếp về vấn đề này.
1.3. Tự học qua làm việc nhóm, trao đổi, tranh luận giữa các thành viên
Ở hình thức – phương pháp này, sinh viên sẽ thực hiện việc tự học theo nhóm
thay vì học một mình đơn lẻ. Khi kết hợp theo nhóm, các khuyết điểm của người này
sẽ được bù đắp bằng ưu điểm của người khác. Sự nỗ lực của nhóm sẽ kích thích các
thành viên chủ động và hiệu quả. Các thành viên có sự phân công và nhiệm vụ nghiên
cứu, học tập từng mảng, sau đó sẽ truyền nhau kiến thức qua việc tranh luận một vấn
đề trong quá trình tự học. Hình thức – phương pháp này có tính hiệu quả cao song đòi
hỏi người nhóm trưởng phải làm chủ được các hoạt động thảo luận và dẫn dắt vấn đề
một cách khéo léo, linh hoạt nhất.
1.4. Tự học qua phương tiện truyền thông (học từ xa)
Sinh viên được nghe giáo viên giảng giải minh họa, nhưng không được tiếp
xúc với giáo viên, không được hỏi han, không nhận được sự giúp đỡ khi gặp khó khăn.
Với hình thức tự học này, sinh viên sẽ đánh giá được kết quả học tập của mình thông
qua các bài tập trắc nghiệm trực tuyến. Học qua phương tiện thông tin là ứng dụng tiêu
biểu trong quá trình đào tạo từ xa – giáo dục điện tử E-learning.
Hình thức tự học E-learning là đỉnh cao của sự ghi nhận lấy người học làm
trung tâm. Bằng cách ứng dụng công nghệ hiện đại, E-learning có tính hấp dẫn và lôi
cuốn thông qua sự hỗ trợ của công nghệ multimedia, những bài giảng tích hợp text,
hình ảnh minh họa, âm thanh làm tăng thêm tính hấp dẫn của bài học.
Bên cạnh đó E-learning có tính linh hoạt cao, giúp sinh viên có thể tự điều
chỉnh quá trình học, lựa chọn cách học phù hợp nhất với hoàn cảnh của mình. Trong
hình thức – phương pháp tự học này, sinh viên có thể dễ dàng trao đổi thông tin với
nhau, với giảng viên qua các diễn đàn (forum), hội thoại, trực tuyến (chat), thư từ (e –

mail). Tâm lí của sinh viên cũng dễ chịu, mọi rào cản về tâm lí giao tiếp của cả người
dạy và người học dần dần bị xóa bỏ, mọi người tự tin hơn trong việc trao đổi quan
điểm. Các buổi học tập trung sẽ tạo điều kiện cho sinh viên có thể gặp gỡ nhau trao đổi
các ý kiến, tranh luận cũng như học hỏi các kinh nghiệm từ các giảng viên doanh
nghiệp.
7


Ngoài ra, còn có các hình thức - phương pháp tự học khác như tự học thông
qua làm bài tập nhóm, tiểu luận, báo cáo; tự học thông qua chương trình hội thảo; tự
học từ công việc thực tế,... Tuy nhiên, các hình thức – phương pháp trên đây cũng chỉ
là một phần nhỏ trong các hình thức - phương pháp kể trên.
2. Kỹ năng tự học căn bản

T

ự học là vô cùng quan trọng vì nó khai thác triệt để thời gian nhàn rỗi trong
sinh viên và sinh viên có thể xoáy sâu nghiền ngẫm những điều thầy cô
hướng dẫn, giảng giải trên lớp. Điều đáng quan tâm là tự học sẽ rèn luyện

khả năng nghiên cứu, tiếp cận tri thức. Ngày nay, tiếp cận tri thức là phải xử lý thông
tin. Xử lý thông tin một cách đúng đắn, sáng tạo trong môi trường thông tin đa chiều
xen lẫn sự phức tạp và động cơ của người đưa tin là điều chẳng dễ dàng gì. Muốn có
tri thức thì không thể không tiếp cận thông tin[8].
2.1. Kỹ năng đọc và tư duy
Trong quá trình tự học của sinh viên, kỹ năng đọc tài liệu, thông tin được coi
là khâu quan trọng đầu tiên giúp sinh viên tiếp thu tri thức và phát triển phương pháp
tự học hiệu quả. Để đọc tài liệu hiệu quả thì sinh viên phải có phương pháp đọc:
Thứ nhất, đọc có suy nghĩ: Khi đọc cần phải tập trung tư tưởng. Khi đọc chỗ
chưa thông, chưa nắm vững cầm phải ngưng để đọc kỹ, ôn lại. Đọc để hiểu những

điều tác giả nói và cả những điều tác giả không nói, mà người đọc tự suy nghĩ, mở
rộng đến những điều liên quan mà sách không đề cập đến;
Thứ hai, đọc có hệ thống: Khi đọc bất kỳ tài liệu nào, sinh viên nên đọc lướt
nhanh toàn bộ phần tổng quát của tài liệu để nắm sơ bộ nội dung thông tin. Sau đó,
tuỳ vào mục đích đọc mà đọc kỹ một lần hay nhiều lần. Cuối cùng là cần rèn luyện
cách đọc nhanh để tập trung được sự chú ý, sự suy nghĩ diễn ra liên tục và dễ dàng
xác lập được mối quan hệ giữa các đoạn với nhau để dễ nắm được nội dung tài liệu;
Thứ ba, đọc có chọn lọc: Đọc có chọn lọc là đọc để tìm những điểm cốt lõi,
chọn ý tưởng hay nhất, đúng nhất và có ích cho việc học sẽ rèn được tư duy phê phán,
làm tiền đề cho năng lực giải quyết vấn đề sau này;

GD&TĐ - Th.S Trần Khải Định, Sinh viên phải làm gì để tự học? - Trường Cao đẳng truyền hình –
Đài truyền hình Việt Nam;
8

8


Thứ tư, đọc có ghi nhớ: Đọc tài liệu là học tập tích cực nên cần kèm theo
việc ghi chép để nhớ lâu. Đọc tài liệu cần ghi các dàn ý và diễn tiến nội dung. Các ý
chính cần ghi chép cẩn thận, gạch chân hoặc tô màu vì đó là ý cơ bản mà từ đó có thể
suy luận ra các ý khác liên quan. Những phần chưa hiểu hoặc chưa nắm vững cũng
cần đánh dấu để tiếp tục suy nghĩ, tìm người giải đáp[9].
2.2. Kỹ năng nghe kết hợp ghi chép
Quy trình nghe giảng gồm các khâu như ôn bài cũ, làm quen với bài sắp học,
hình dung các câu hỏi đối với bài mới. Khi nghe giảng cần tập trung theo dõi sự dẫn
dắt của giảng viên, liên hệ với kiến thức đang nghe, kiến thức đã có với các câu hỏi đã
hình dung trước. Cần lưu ý cách ghi bài khi nghe giảng như ghi một cách chọn lọc, sử
dụng kí hiệu riêng, ghi cả chính đề lẫn phản đề, ghi thắc mắc của chính mình.
2.3. Kỹ năng khai thác kiến thức từ các phương tiện học tập

Hiện nay, sự phát triển của khoa học – kỹ thuật đã đặt những viên đá nền tảng
cho việc vận dụng công nghệ số vào quá trình giảng dạy. Thay vì phải lên thư viện
như trước đây, đọc các thông tin trong tài liệu văn bản, sinh viên có thể học trực tiếp
bằng thiết bị điện tử có nối mạng internet. Một trong những hình thức – phương pháp
đào tạo đề cao sự tự học đó là E-learning. Để tự học bằng phương thức này, sinh viên
cần có kỹ năng sử dụng thành thạo internet nhằm bổ trợ cho quá trình học như kỹ
năng trao đổi thông tin trên diễn đàn, kỹ năng giao tiếp qua e-mail, webcam, kỹ năng
download tài liệu, kỹ năng làm bài trắc nghiệm trực tuyến,... Như vậy, sinh viên cần
phải thực sự thành thạo trong việc sử dụng thiết bị số mới có thể tự học một cách hiệu
quả trong giai đoạn hiện nay.
2.4. Kỹ năng nói, vấn đáp, thuyết trình, hùng biện, tranh luận
Trong quá trình học tập, sinh viên cần rèn luyện kỹ năng nói nhiều nhất, bởi
lẽ phải tiếp xúc với nhiều mối quan hệ xã hội. Bên cạnh đó, phải có thêm kỹ năng vấn
đáp, tức là hỏi hoặc/và trả lời câu hỏi. Ngoài ra, trong các giờ thảo luận, sinh viên còn
phải vận dụng các kỹ năng về thuyết trình, hùng biện và tranh luận trước một vấn đề
học tập.
2.5. Kỹ năng lập kế hoạch tự học
Mai Nghiêm, Tự học của sinh viên – yếu tố quan trọng để đổi mới phương pháp giảng dạy; Hội thảo
đổi mới phương pháp dạy và học; Đại học Tiền Giang;
9

9


Kỹ năng kế hoạch hóa việc tự học cần tuân thủ các nguyên tắt sau: Đảm bảo
thời gian tự học tương xứng với lượng thông tin của môn học; xen kẽ hợp lý giữa các
hình thức tự học, giữa các môn học, giữa giờ tự học, giờ nghỉ ngơi; thực hiện nghiêm
túc kế hoạch tự học như biết cách làm việc độc lập, biết tự kiểm tra.
Trong kế hoạch hóa việc tự học, còn phải lập phương án ôn tập – kiểm tra
hiệu quả. Kỹ năng này được chia làm hai nhóm là kỹ năng ôn, kỹ năng tập luyện. Kỹ

năng ôn bài là hoạt động có ý nghĩa quan trọng trong việc chiếm lĩnh kiến thức bài
giảng của thầy. Đó là hoạt động tái nhận bài giảng như xem lại bài ghi, mối quan hệ
giữa các đoạn rời rạc, bổ sung bài ghi bằng những thông tin nghiên cứu được ở các tài
liệu khác, nhận diện cấu trúc từng phần và toàn bài. Việc tái hiện bài giảng dựa vào
những biểu tượng, khái niệm, phán đoán được ghi nhận từ bài giảng của thầy, từ hoạt
động tái nhận bài giảng, dựng lại bài giảng của thầy bằng ngôn ngữ của chính mình,
đó là những mối liên hệ lô gic có thể có cả kiến thức cũ và mới. Kỹ năng tập luyện có
tác dụng trong việc hình thành kỹ năng tương ứng với những tri thức đã học. Từ việc
giải bài tập của thầy đến việc người học tự thiết kế những loại bài tập cho mình giải;
từ bài tập củng cố đơn vị kiến thức đến bài tập hệ thống hóa bài học, chương học,
cũng như những bài tập vận dụng kiến thức vào cuộc sống.
PHẦN 3.
THỰC TIỄN VIỆC TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC
1. Ví dụ về nghiên cứu vấn đề tự học của sinh viên
rong bài viết này, nhóm sẽ 02 lấy ví dụ điển hình về thực tiễn việc tự học

T

của nhóm sinh viên trong trường Đại học, đó là nhóm sinh viên của Khoa
Công nghệ may - thiết kế thời trang & da giày trường Đại học Công Nghiệp

Thực Phẩm TP.HCM và khoa Quốc tế của Trường Đại học Ngoại Ngữ - Đại học Đà
Nẵng.
Đối với Đại học Công Nghiệp Thực Phẩm TP.HCM, để tìm hiểu thực trạng
hoạt động tự học của sinh viên khoa May, nhà trường đã tiến hành khảo sát 167 sinh
viên. Kết quả cho thấy: Phần lớn sinh viên đã thấy được tầm quan trọng của việc tự
học (98,8% sinh viên), nhưng chỉ có khoảng 12% sinh viên hứng thú trong học tập.
Trong khi đó có 64,1% sinh viên cho rằng động cơ tự học của mình là muốn tiếp thu
kiến thức để phục vụ cho công việc sau này chứ không phải tự học nhằm mục đích đạt
kết quả cao trong các kỳ thi (38,3%) đây chính là điều đáng mừng trong nhận thức của

sinh viên. Thời gian dành cho việc tự học của sinh viên còn khá khiêm tốn với từ 1 –
10


3giờ/ngày: có 116 sinh viên chọn chiếm 69,5%, 15 sinh viên học từ 3 giờ trở lên/ngày
chiếm 9%, số còn lại học dưới 1giờ/ngày. Trong quá trình tự học sinh viên cũng gặp
phải rất nhiều khó khăn nhưng phần lớn xác định khó khăn lớn nhất là chưa có phương
pháp và kỹ năng tự học đúng đắn (chiếm 79,6%). Môi trường xung quanh cũng gây
khó khăn cho sinh viên như chật chội, nóng bức, ồn ào với 89 sinh viên đồng tình
(chiếm 53,5%). Yếu tố gây khó khăn không ít cho sinh viên là thiếu tài liệu và phương
tiện phục vụ cho việc tự học – chiếm 70,7% ý kiến đồng tình của sinh viên. Có 77,2%
(129 sinh viên) cho rằng trình độ ngoại ngữ hạn chế là yếu tố khó khăn ảnh hưởng đến
việc tự học, tự nghiên cứu của bản thân. Trong các hình thức tự học thì phần lớn sinh
viên cho rằng hình thức tự học tốt nhất để nâng cao hiệu quả đó là hình thức học nhóm
với 106 sinh viên chọn (chiếm 63,5%), sau đó là hình thức trao đổi với giáo viên có 93
sinh viên chọn (55,7%). Còn hình thức tự học một mình thì được cho là kém hiệu quả
với 140 sinh viên (chiếm 83,8%) không chọn hình thức tự học này. Theo khảo sát thì
để việc tự học đạt kết quả, 81 sinh viên (chiếm 62,3%) cho rằng việc lập kế hoạch học
tập cho bản thân là rất cần thiết, 48 em (36,9%) – cần thiết, chỉ có 1 sinh viên (0,8%)
cho rằng không cần thiết. Việc rèn luyện kỹ năng nghe giảng và chép bài giảng một
cách khoa học: Rất cần thiết 62SV - 46,9%; cần thiết 66SV - 50,8%, không cần thiết 3
SV -2.4%. Kỹ năng tóm tắt bài học Rất cần thiết: 61SV -46,9%, cần thiết 64SV-49,2,
không cần thiết 5 SV– 3,8. Kỹ năng đọc tài liệu: rất cần thiết: 50 SV – 38,5%, cần
thiết: 75 SV-57,7, không cần thiết: 5 -3,8%[10].
Đối với Trường Đại học Ngoại Ngữ - Đại học Đà Nẵng, kết quả khảo sát
nguyên nhân ảnh hưởng đến vấn đề tự học của sinh viên khoa Quốc tế học trong hai
trường này được thể hiện dưới bảng sau:

Thực trạng hoạt động tự học của sinh viên khoa Công nghệ may - thiết kế thời trang & da giày,
Ths.Đỗ Thị Thu Hồng, Đại học Công Nghiệp Thực Phẩm TP.HCM

10

11


Kết quả khảo sát thể hiện những nguyên nhân ảnh hưởng đến hoạt động tự học
của sinh viên: Thiếu phương tiện, nguồn tư liệu học tập; Chưa có phương pháp, kỹ
năng tự học; giảng viên không giao bài tập tự học, tự nghiên cứu. Những nguyên nhân
vừa nêu xuất phát từ bản thân sinh viên thiếu kĩ năng tự học, thiếu nguồn tư liệu học
tập và giảng viên chưa chú trọng thúc đẩy hoạt động tự học của sinh viên[11].
2. Các khó khăn trong quá trình tự học của sinh viên
Thứ nhất, môi trường học tập, thường tự học thì sẽ chỉ có một mình học nên
không tạo được môi trường học tập cạnh tranh như trong các lớp học;
Thứ hai, sinh viên tự học thì sẽ mất tập trung hơn vì những yếu tố ngoại cảnh
như game, phim ảnh, âm nhạc, không gian ồn ã...;
Thứ ba, lượng kiến thức phải tự học thường rất lớn, không được giảng viên,
cố vấn học tập định hướng rõ ràng, trong khi thời gian có hạn. Chưa xây dựng cho
mình một phương pháp học tập hợp lý;
Thư tư, nhu cầu mượn sách từ thư viện bị hạn chế về số lượng và thời gian;
Thứ năm, khả năng sử dụng internet và các công cụ hỗ trợ của internet để học
tập kém, nhất là khi học trực tuyến E-learning;
Thứ sáu, một bộ phận không hề nhỏ sinh viên ỷ lại, không có ý chí nỗ lực tự
học cho bản thân, không nêu cao tinh thần quyết tâm khi học.
2. Hướng giải quyết những khó khăn trong quá trình tự học của sinh viên
Thứ nhất, hình thành nhóm học tập để tích cực trao đổi, thảo luận vấn đề.
Học tập theo nhóm sẽ giảm được áp lực học tập một mình đồng thời những ưu điểm và
khuyết điểm của mỗi người sẽ được bù trừ cho nhau;
Thứ hai, cần tạo cho mình không gian học tập tốt và hiệu quả, tranh thủ và tận
dụng được những thời gian yên tĩnh để tiếp thu kiến thức tốt nhất;
Thứ ba, xây dựng hệ thống trao đổi thông tin môn học như hình thức đạo tạo

E-learning sẽ hỗ trợ những đáp, thắc mắc kịp thời của sinh viên. Giảng viên, cố vấn
học tập cần hỗ trợ nhanh chóng và kịp thời, định hướng khung chương trình tự học cho
sinh viên sao cho hợp lý nhất. Trước hết giảng viên, cố vấn học tập phải dạy cách xác
định đề tài, chủ đề nghiên cứu sao cho phù hợp với sở trường năng lực của sinh viên.
Tiếp đến là dạy cách lựa chọn và tập hợp, phân loại thông tin và cách xử lí thông tin
trong khuôn khổ thời gian cho phép[12].
Hoạt động tự học của sinh viên khoa quốc tế trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Đà Nẵng trong
phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ, Đoàn Thị Ngọc Trang;
12
Th.S Dương Thị Thanh Huyền, Bộ môn Khoa học Xã hội & Nhân văn, Quá trình tự học và phương
pháp dạy tự học cho sinh viên, trang 7;
11

12


Thứ tư, các thư viện cần liên tục cập nhập và cung cấp thêm nhiều sách tham
khảo cho sinh viên, tránh tình trạng thiếu sách, thậm chí không đủ giáo trình cho sinh
viên mượn;
Thứ năm, học tập và nghiên cứu cách thức sử dụng internet hiệu quả, nhất là
đối với hình thức – phương pháp tự học E-learning. Theo đó, sinh viên cần trau dồi
cho mình kỹ năng tìm kiếm và khai thác thông tin, kỹ năng làm những bài tập trắc
nghiệm, sử dụng công cụ hỗ trợ trong khi học như: diễn đàn; chat, thư điện tử, tải tệp
tin học tập,...
Thứ sáu, Sinh viên cần rèn luyện ý chị tự học. Đây là nhân tố quyết định tự
học có thành công hay không chiếm tới 80%. Việc rèn luyện cho bản thân một tinh
thần quyết tâm cao độ, sẵn sàng giải quyết và đương đầu với khó khăn, độc lập trong
suy nghĩ là những yếu tố quan trọng nhất giúp sinh viên có được kết quả cao nhất[13].

KẾT LUẬN


A

i đó đã từng nói rằng, ta là sản phẩm của chính mình. Vì vậy, sản phẩm có
lỗi hay không là do bản thân bạn. mỗi người nên ý thức được chữ tự của
bản thân. Tư học cũng vậy, là ý thức tự nâng cao trách nhiệm của bản thân

và trau dồi một cách liên tục bằng mọi cách. Tự học là một nhận thức không dễ để
nắm bắt và là vấn đề khá phức tạp; và nếu hiểu không đúng sẽ có thể dẫn đến việc
quản lý không phù hợp và kết quả không như mong đợi.
Để đảm bảo chất lượng dạy học phải đảm bảo ba khâu thống nhất với nhau đó
là: nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy của giáo viên và tự học của sinh
viên. Vì vậy, một trong những thiếu xót của giáo viên dạy đại học là khi tìm cách nâng
13

Một số biện pháp phát huy tích cực trong hoạt động tự học của sinh viên theo phương pháp đào tạo
tín chỉ, Hoàng Thị Ngọc Mai;

13


cao chất lượng giảng dạy lại không chú ý nghiên cứu xem sinh viên học như thế nào.
Người giáo viên có hai nhiệm vụ chủ yếu gắn chặt với nhau: Một là bồi dưỡng cho
sinh viên các phương pháp nắm tri thức phù hợp với mục đích và đặc điểm của môn
học, hai là giúp sinh viên nắm được nội dung tri thức phù hợp với yêu cầu của chương
trình. Còn sự thành công trong quá trình giảng dạy là sinh viên biết cách tự học[14].
Như vậy, với báo cáo trên đây, nhóm nhận thấy rằng tự học có vai trò và ý
nghĩa quan trọng đối với sinh viên Đại học. Tự học diễn ra dưới nhiều hình thức khác
nhau với các phương pháp đặc thù. Trong quá trình tự học, tất yếu sinh viên sẽ gặp
nhiều khó khăn và vướng mắc. Cần có những kỹ năng cũng như giải pháp cụ thể để có

thể vượt qua những khó khăn đó trong quá trình tự học.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vị trí của tự học tự đào tạo trong quá trình dạy học giáo dục và đào tạo, Trần
Bá Hoành, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, Tháng 7/1998;
2. Quá trình tự học và phương pháp dạy tự học cho sinh viên, Th.S Dương Thị
Thanh Huyền, Bộ môn Khoa học Xã hội & Nhân văn;
3. Văn kiện Đảng, Nghị quyết Trung ương Đảng 5 khóa VIII, lưu trữ Báo điện tử
Đảng Cộng sản Việt Nam, website: Dangcongsan.vn;
4. Sinh viên phải làm gì để tự học? - Th.S Trần Khải Định, Trường Cao đẳng
truyền hình – Đài truyền hình Việt Nam;
5. Tự học của sinh viên – yếu tố quan trọng để đổi mới phương pháp giảng dạy;
Hội thảo đổi mới phương pháp dạy và học; Mai Nghiêm, Đại học Tiền Giang;
6. Phương pháp dạy học đại học, Lưu Xuân Mới, Nxb Giáo dục, 2001;
7. Dạy cách học một trong những giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo đại học,
Lê Đức Ngọc, Tạp chí Dạy và học ngày nay, Tháng 8/2004;
8. Học và dạy cách học, Vũ văn Tảo, Tạp chí Tự học, Tháng 4/2001;
Tự học – một phương pháp học tập cơ bản của sinh viên, Th.s Phạm Việt Hà - Khoa Lý luận Chính
trị & Khoa học cơ bản, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
14

14


9. Dạy tự học cho sinh viên trong các nhà trường Cao đẳng Đại học chuyên
nghiệp, Thái Duy Tuyên, Chuyên đề Phương pháp dạy học cho học viên Cao
học, ĐH Huế, 2003;
10. Vì năng lực tự học sáng tạo của học sinh, Nguyễn Nghĩa Dán, Tạp chí Nghiên
cứu Giáo dục, số 2/1998;
11. Phương pháp Tự học – Cầu nối giữa học tập và Nghiên cứu Khoa học, Diệp Thị

Thanh, trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng;
12. Thực trạng hoạt động tự học của sinh viên khoa Công nghệ may - thiết kế thời
trang & da giày, Ths.Đỗ Thị Thu Hồng, Đại học Công Nghiệp Thực Phẩm
TP.HCM
13. Rèn luyện kỹ năng tự học tập cho sinh viên đạp ứng yêu cầu đào tạo theo học
chế tin chỉ, ThS. Nguyễn Thị Xuân Thuỷ, Tạp chí Giáo dục,Số đặc biệt 3/2012;
14. Giáo dục học hiện đại - Những vấn đề cơ bản, Thái Duy Tuyên, Nhà xuất bản
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001;
15. Nghiên cứu các kỹ năng và biện pháp tự học của sinh viên ĐH Sư phạm Thái
Nguyên, Đinh Trung Quỳnh, Đề tài NCKH cấp Bộ quản lý, 2001;
16. Phương pháp tự học, Khoa y học Trường Đại học Thể dục thể thao Bắc Ninh;
17. Học sinh nên đọc sách như thế nào?, Tạp chí khoa học số 19;
18. Một số vấn đề trong việc hướng dẫn sinh viên tự học tự nghiên cứu trong giai
đoạn hiện nay, Phan Thúy Vân, Trường CĐSP Quảng Trị;
19. Sinh viên tự học và đổi mới phương pháp dạy học, Đỗ Tiến Sĩ, Báo GD&TĐ)
20. Phương pháp học tập đại học, Phan Thị Lan Anh;
21. Tìm hiểu về phương thức đào tạo đại học theo hình thức tín chỉ, Nguyễn Thị
Hương Giang, Đại học Hà Tĩnh;
22. Phương thức đào tạo theo tín chỉ, bản chất, hàm ý cho việc dạy – học cho
phương pháp đào tạo ở bậc đại học, Hoàng Văn Vân, Đại học Quốc gia Hà Nội;
23. Hoạt động tự học của sinh viên khoa quốc tế trường Đại học Ngoại ngữ - Đại
học Đà Nẵng trong phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ, Đoàn Thị Ngọc
Trang;
24. Bàn về chuyện tự học – Cao Xuân Hạo, Kiến thức ngày nay, số 396, năm 2001;
25. Tuyển tập tác phẩm Tự giáo dục, tự học, tự nghiên cứu (tập 2), Nguyễn Cảnh
Toàn, Đại học Sư phạm Hà Nội;
15


26. Sinh viên có thể tự học tốt môn Tiếng Anh, Th.S Dương Thị Thúy Uyên;

27. Tổ chức tốt việc tự học cho sinh viên nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của các
trường đại học theo hình thức tín chỉ hiện nay, Phan Bích Ngọc, Tạp chí Khoa
học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 25 (2009);
28. Một số biện pháp phát huy tích cực trong hoạt động tự học của sinh viên theo
phương pháp đào tạo tín chỉ, Hoàng Thị Ngọc Mai;
29. Tự học – một phương pháp học tập cơ bản của sinh viên, Th.s Phạm Việt Hà Khoa Lý luận Chính trị & Khoa học cơ bản, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội;
30. Tự học ở bậc Đại học, Quang Huy, Dạy và Học Ngày Nay, số 10, 2008;
31. Vũ Khánh, Cùng trao đổi kinh nghiệm về tự học;
32. Are We Ready for Learner Autonomy?, Sergio Valdivia Navarro, (bản dịch);
33. Learner Autonomy, Anne-Brit Ferner, from Ferner & Newby (2000),
Approaches to Materials Design in European Textbooks (bản dịch);
34. Learner Autonomy: Drawing together the Threads of Self –Assessment,
GoalSetting and Reflection, David Little, (bản dịch);
35. What Is Learner Autonomy and How Can It be Fostered?, Dimitrios
Thanasasoulas, The Internet TESL Journal, Vol.VI, No.11 (bản dịch).

16



×