Một số kinh nghiệm trong phương pháp giáo dục giới tính tuổi vị thành niên ở chương trình sinh học 8
Phần I
MỞ ĐẦU
A. Lý do chọn đề tài
1. Cơ sở lý luận
Trong những thập kỷ vừa qua, thế giới- kể cả Việt Nam- đã có những thay đổi đáng
kể. Những thay đổi này ảnh hưởng rất lớn đến thanh thiếu niên. Lớp trẻ ngày nay phải
được chuẩn bị cho một tương lai với những thách thức lớn hơn. Nhận thức về tình bạn,
tình yêu, hôn nhân và sinh sản đang dần thay đổi. Điều này đòi hỏi lớp trẻ phải có hiểu
biết và được chuẩn bị kỹ càng trước khi đưa ra những quyết định có ảnh hưởng đến tương
lai của mình.
Học sinh lớp 8 đang ở độ tuổi từ 14 – 15, đây là lứa tưổi mà trong cơ thể các em
diễn ra sự dậy thì rất mạnh mẽ cả ở nam lẫn nữ, là giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ con thành
người lớn – người ta gọi là tuổi vị thành niên. Rất nhiều sự đổi khác về thể chất lẫn tinh
thần, tình cảm và khả năng hòa nhập cộng đồng của các em. Các em cảm thấy rất bỡ ngỡ
trước những thay đổi kỳ lạ của cơ thể mình, thậm chí có em còn hoang mang lo sợ không
biết phải đối mặt như thế nào, nên các em cần được chia sẻ thổ lộ với người lớn, nhất là
thầy cô giáo và cha mẹ mình. Hơn thế nữa, ở tuổi này các em thường hay tò mò, thích thử
những cảm giác lạ, nếu không được giáo dục đúng cách về giới tính thì những hậu quả
khôn lường sẽ xảy đến với các em như yêu sớm, quan hệ tình dục sớm, mang thai sớm
hoặc mắc các bệnh lây qua đường tình dục v.v..
Giáo dục giới tính không nên chỉ tập trung vào việc truyền đạt kiến thức mà còn
phải gây được ảnh hưởng tới hành vi hiện tại cũng như sau này của lớp trẻ. Loại hình giáo
dục này cần chú trọng vào việc phát triển kỹ năng sống cho các em như kỹ năng xác định
điều đúng sai, kỹ năng ra quyết định v.v..Khi những kỹ năng này được phát triển thì sự tự
tin và tự trọng của các em cũng sẽ tăng lên, đây là những yếu tố quan trọng quyết định
hành vi của các em.
Để đạt được mục tiêu trên, một yêu cầu lớn đặt ra là phải sử dụng linh hoạt các
phương pháp dạy học trong quá trình giáo dục giới tính. Đề tài này tôi đưa ra một số
phương pháp lồng ghép trong các tiết học ở chương Sinh sản nhằm nâng cao hiệu quả giáo
dục cho các em.
2. Cơ sở thực tiễn
Sau một thời gian giảng dạy bộ môn Sinh học 8-phần Sinh sản, tôi nhận thấy một
điều nổi lên rõ rệt đó là các em cảm thấy ngượng ngùng, mắc cỡ khi học những bài này,
xấu hổ không dám xem các hình vẽ SGK hoặc khi nghe giáo viên giảng bài các em đã
không dám nhìn về phía giáo viên. Tiếp theo nữa là các em chưa thể mạnh dạn để ngồi
vào thảo luận sôi nổi một vấn đề nào đó hoặc nếu có cố gắng trao đổi thì cũng chỉ là qua
loa lấy lệ vì trong nhóm có cả nam lẫn nữ. Một vấn đề nữa khiến tôi rất lo ngại đó là ở tuổi
này một số em đã bắt đầu xuất hiện những tình cảm vượt xa so với tình bạn mà các em cho
rằng đó là tình yêu. Tình cảm nam nữ đã ảnh hưởng khá nhiều đến việc học tập của các
em, mà cụ thể là các em đã chểnh mảng, lơ là trong việc học, không chú ý bài trong từng
tiết học… Thậm chí còn nguy hiểm hơn là các em đã bắt đầu hẹn hò theo kiểu người lớn
thì những hậu quả xảy ra là rất khó lường cho bản thân các em, gia đình và xã hội. Qua
thực tế đó tôi thấy việc giáo dục cho các em vấn đề giới tính là vô cùng quan trong và cần
thiết để các em hình thành cho mình ý thức đúng đắn về những điều xung quanh tuổi dậy
thì của mình, để từ đó các em làm chủ được hành vi của mình. Xuất phát từ những cơ sở lý
luận và cơ sở thực tiễn nêu trên, tôi đã chọn đề tài: “Một số kinh nghiệm trong phương
pháp giáo dục giới tính tuổi vị thành niên ở chương trình sinh học 8.
1
Một số kinh nghiệm trong phương pháp giáo dục giới tính tuổi vị thành niên ở chương trình sinh học 8
B. Đối tượng và điều kiện nghiên cứu đề tài:
1. Đối tượng: Học sinh khối 8 trường THCS Nguyễn Thái Bình.
2. Điều kiện nghiên cứu:
a. Thuận lợi:
- Ở lứa tuổi này các em có ý thức học tập tốt hơn và tinh thần tự giác cao.
- Các em thường có những tìm tòi về sự biến đổi của cơ thể mình, vì vậy các em
thích tìm hiểu các vấn đề về giới tính.
b. Khó khăn:
- Các em đang ở tuổi dậy thì nên đa phần các em rất ngại ngùng khi phải nói ra
hay trao đổi một vấn đề nào đó về giới tính.
- Một số em do cơ thể chậm phát triển so với bạn bè cùng lứa nên trong quá trình
học tập, trao đổi, thảo luận các em có phần mặc cảm, tự ti.
- Do biến đổi về tâm sinh lý, các em có thể hiểu và giải thích được vấn đề nhưng
lại mau quên.
Phần II
NỘI DUNG VÀ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
Dậy thì là giai đoạn phát triển quá độ về sinh lý từ thời kỳ nhi đồng sang thời kỳ
thanh niên. Ở trẻ dưới 8 tuổi, mặc dù cơ quan sinh dục trong và ngoài của nam và nữ đã có
sự phân biệt, chiều cao và thể trọng của cơ thể tăng rất nhanh nhưng không có sự khác biệt
nhiều về giới tính. Và trung bình đến khoảng 11, 12 tuổi, đặc trưng giới tính của các em
bắt đầu biểu hiện, chẳng hạn ở em trai thì lớn nhanh cao vượt, vỡ tiếng, giọng ồm…, còn ở
em gái thì bắt đầu hành kinh, mông đùi phát triển…
Cùng với sự phát triển ấy, tâm lý các em cũng có sự phát triển thêm một bước. Các
em bắt đầu tự cho mình là người lớn, đòi độc lập, đòi sự tôn trọng của người lớn, đòi được
đối xử bình đẳng, được tự do kết bạn, được tự mình suy xét vấn đề và có một khoảng trời
riêng của mình. Các em muốn được kết bạn và nảy sinh tình cảm ái mộ đối với người khác
giới, thậm chí dần dần này sinh tình yêu và những đòi hỏi về tình dục. Tuy nhiên tâm lý
của các em vẫn chưa thực sự chín chắn, tính cách, tư tưởng chưa được định hình, dễ bị ảnh
hưởng bởi các trào lưu xã hội, bạn bè xung quanh hoặc phim ảnh đồi trụy.v.v.. Do vậy,
cần phải triển khai giáo dục tri thức, đạo đức về giới tính, giúp các em đặt nền móng tốt
đẹp cho cuộc sống và sự nghiệp sau này.
Sau đây tôi xin đơn cử một số nội dung giáo dục giới tính với việc áp dụng một vài
phương pháp cụ thể ở các tiết học trong chương Sinh sản:
1. Những vấn đề về sự biến đổi tâm sinh lý
Đầu tiên sẽ là những bài học giúp các em nhận biết rằng mình đã thực sự bước vào
giai đoạn đáng nhớ nhất của cuộc đời.
Khi tìm hiểu bài 58-Tuyến sinh dục, các em sẽ có cơ hội kiểm chứng sự biến đổi kỳ
diệu trong cơ thể mình. Tuy nhiên trên thực tế đa phần các em lại ngại ngùng xấu hổ khi
nghe thầy cô giảng về điều đó. Vì thế để các em có thể thổ lộ những dấu hiệu dậy thì của
cơ thể mình và biết được dấu hiệu đặc trưng nhất của cả hai giới, tôi đã sử dụng phiếu học
tập sau để phát cho các em hoàn thành theo cá nhân:
Phiếu học tập số 1
Tuổi: …….........
Nam: …………..
Nữ:……………
Hãy đánh dấu (x) vào những thay đổi liệt kê dưới đây mà em thấy xuất hiện trên cơ
thể mình và gạch dưới những dấu hiệu mà em biết đó là những thay đổi đặc trưng nhất ở
cả hai giới.
2
Một số kinh nghiệm trong phương pháp giáo dục giới tính tuổi vị thành niên ở chương trình sinh học 8
Lớn nhanh
Da trở nên mịn màng
Thay đổi giọng nói
Vú phát triển
Mọc lông mu
Mọc lông nách
Hông nở rộng
Mông, đùi phát triển
Bộ phận sinh dục phát triển
Tuyến mồ hôi, tuyến nhờn phát triển
Xuất hiện mụn trứng cá
Bắt đầu hành kinh
Lớn nhanh, cao vượt
Sụn giáp phát triển, lộ hầu
Vỡ tiếng, giọng ồm
Mọc ria mép
Mọc lông nách
Mọc lông mu
Cơ bắp phát triển
Cơ quan sinh dục to ra
Tuyến mồ hôi, tuyến nhờn phát triển
Xuất hiện mụn trứng cá
Xuất tinh lần đầu
Vai rộng, ngực nở
Sau khi học sinh hoàn thành xong, GV mang thùng thư (đã chuẩn bị sẵn cho tiết
học) giao cho lớp trưởng đến chỗ từng bạn để thu phiếu. Sau đó GV chọn một số phiếu
đọc trước lớp, yêu cầu HS nhận xét và bổ sung những dấu hiệu khác thường gặp cho đầy
đủ. Cuối cùng yêu cầu HS nêu lên những biến đổi đặc trưng nhất, đó là: Ở nữ bắt đầu hành
kinh, ở nam xuất tinh lần đầu.
Có rất nhiều em trai và em gái đã rất hốt hoảng và lúng túng không biết phải xử lý
thế nào khi các em thấy xuất tinh lần đầu hoặc bắt đầu hành kinh. GV phải nắm bắt được
điều này và có thể tổ chức trò chuyện ân cần với các em vào cuối tiết học. Đối với HS
nam, GV phải giải thích cho các em rằng: Xuất tinh là tinh dịch từ trong hệ sinh dục của
bạn phóng ra ngoài. Bạn trai lớn lên đến một lúc nào đó bắt đầu có khả năng này. Hoặc
có nhiều bạn trai xuất tinh trong lúc ngủ gọi là mộng tinh, đây là hiện tượng sinh lý rất
bình thường và các em đừng nên lo lắng. GV cần lưu ý với HS nam việc vệ sinh cơ quan
sinh dục là điều đặc biệt chú ý và mặc đồ lót cũng phải cho phù hợp. Còn đối với HS nữ
nên giải thích cho các em rằng bắt đầu hành kinh là dấu hiệu hệ sinh dục bắt đầu hoạt
động, các em không nên e ngại vì đây là dấu hiệu rằng các em đang dần trưởng thành. GV
cần chỉ tỉ mỉ cho các em nữ cách vệ sinh trong thời gian này. Đồng thời GV cũng cần giải
đáp cho các em một số thắc mắc mà các em ngại nói ra như: Các chu kỳ kinh cách nhau
không đều như vậy có bình thường không? Nếu mất kinh một tháng thì nghĩa là sao? Tại
sao lại bị đau bụng trong khi hành kinh? Nam giới có bị hành kinh không?...
Cũng trong bài “Tuyến sinh dục”, cùng với việc tìm hiểu sự biến đổi về sinh lý thì
tôi thấy cần cho các em tự bộc bạch những sự thay đổi về đặc điểm tâm lý của mình thông
qua phiếu học tập sau:
Phiếu học tập số 2
Tuổi: …….........
Nam: …………..
Nữ:……………
Hãy đánh dấu () vào những đặc điểm tâm lý mà em thấy có ở bản thân mình:
Tò mò, ham tìm hiểu cái mới.
Thích tự giải quyết vấn đề.
Muốn được đối xử như người lớn.
Quan tâm tới bạn khác giới.
Dành nhiều thời gian cho bạn bè hơn cho gia đình.
Có cảm xúc mạnh mẽ.
Hay ghi nhật ký.
3
Một số kinh nghiệm trong phương pháp giáo dục giới tính tuổi vị thành niên ở chương trình sinh học 8
Hay ngượng ngùng.
Thích tâm sự với bạn bè cùng lứa.
Bắt đầu quan tâm đến bản thân nhiều hơn.
Thích trang điểm, ngắm vuốt.
Cảm thấy như chẳng ai hiểu mình.
Dễ cảm thấy bị xúc phạm.
Hay bồn chồn, lo lắng, bối rối về những thay đổi của bản thân.
Thích ngồi một mình suy nghĩ vẩn vơ.
Em hãy ghi thêm nếu thấy còn thiếu:
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Qua việc sử dụng phiếu học tập số 2 với cách thức làm giống phiếu số 1, các em sẽ
nhận thức được rằng mình đã có những đặc điểm tâm lý điển hình của tuổi dậy thì để từ
đó có lối suy nghĩ, có cái nhìn đúng đắn, chững chạc trong mọi hành động, việc làm của
mình. Đồng thời quan trọng hơn cả là GV có thể nắm bắt rõ sự thay đổi của các em để tìm
ra phương thức giáo dục có hiệu quả nhất cho lứa tuổi này.
2. Tình bạn, tình yêu tuổi vị thành niên
Một vấn đề tiếp theo rất đáng để chúng ta quan tâm đó là tình bạn, tình yêu tuổi vị
thành niên. Ở tuổi này các em thường trải qua sự thay đổi cảm xúc đầu tiên về tình bạn
giữa những người cùng giới hoặc khác giới. Đây có thể là giai đoạn rất khó khăn nhưng đó
là một biểu hiện của người đã lớn lên. Tuy vậy, có những lúc tình bạn giữa hai HS, thường
là hai HS khác giới có thể vượt quá giới hạn của tình bạn để không còn “chỉ là tình bạn
nữa”. Tình bạn đó chuyển thành thứ tình cảm có xúc cảm mãnh liệt và có sự hấp dẫn về
giới tính thành quan hệ lãng mạn và có thể thành tình yêu. Con trai và con gái bỗng thấy
tự ý thức về mình và thấy thẹn thùng trước mặt bạn khác giới. Trong trường hợp đó các
em không biết nên ứng xử như thế nào, nói gì … và thế là nhìn người bạn của mình bằng
ánh mắt khác ngày trước. Đó là những biểu hiện tình cảm thường xuyên xảy ra ở các em,
về mặt tích cực nó có thể làm cho các em cảm thấy mình cần quan tâm, thương yêu giúp
đỡ bạn bè nhiều hơn, nỗ lực học tập hơn để khỏi xấu hổ với bạn bè hoặc đối tượng của
mình. Còn về mặt khác đáng lo ngại là nếu các em để những chuyện về tình bạn, tình yêu
chi phối cuộc sống và việc học tập của mình quá nhiều thì sẽ gây trở ngại cho bước tiến
của các em.
Để các em hiểu đúng bản chất “tình bạn” trong học đường và có nên chăng nếu
xuất hiện tình cảm vượt quá tình bạn trong sáng, ngoài việc dùng lời dẫn giải hoặc vấn đáp
trực tiếp với HS, tôi đã vận dụng cách làm sau vừa giúp các em hứng thú, sôi nổi khi giải
quyết vấn đề vừa mang lại hiệu quả giáo dục cao:
Bài tập: Các nhóm hãy kẻ ra giấy bảng dưới đây và làm theo các bước.
Các câu ca dao
Về tình bạn
1.
……………………….
2.
……………………….
3.
……………………….
Nội dung chính
1.
……………………….
2.
……………………….
3.
……………………….
4
Ý nghĩa giáo dục
1.
……………………….
2.
……………………….
3.
……………………….
Một số kinh nghiệm trong phương pháp giáo dục giới tính tuổi vị thành niên ở chương trình sinh học 8
Về tình yêu
1.
……………………….
2.
……………………….
3.
……………………….
1.
……………………….
2.
……………………….
3.
……………………….
1.
……………………….
2.
……………………….
3.
……………………….
Bước 1: Hãy tìm 2-3 câu ca dao về tình bạn, 2-3 câu ca dao về tình yêu rồi viết vào
cột thứ nhất của bảng.
Bước 2: Xác định nội dung trong mỗi câu và điền vào cột thứ hai của bảng.
Bước 3: Hãy đưa ra ý nghĩa giáo dục và tầm quan trọng của mỗi câu ca dao rồi điền
vào cột thứ ba của bảng.
Sau khi HS làm xong bài tập trên, GV yêu cầu một số HS phát biểu quan điểm của
mình về tình bạn, tình yêu trong học đường thông qua những câu ca dao đó, cho đại diện
các nhóm trình bày, so sánh giữa các nhóm, lưa ý sự đối lập về quan điểm để thảo luận
cho sôi nổi. GV nên chỉ cho các em thấy được rằng ở tuổi của các em chỉ nên hướng đến
một tình bạn trong sáng lành mạnh, còn tình yêu đôi lứa thật sự không nên để xảy ra trong
giai đoạn này, nó chỉ phù hợp khi các em đã đủ trưởng thành trong suy nghĩ, trưởng thành
trong mọi hành động, việc làm của mình, các em phải biết tự giới hạn mình trước những
điều nên hoặc không nên.
3. Tình dục tuổi vị thành niên
Một thực tế nữa mà chúng ta không thể phủ nhận, đó là việc các em chưa ý thức rõ
ràng về tình dục ở tuổi vị thành niên. Các em cần phải hiểu rằng tình dục là một mặt của
nhân cách, biểu hiện tất cả những cảm xúc và hành vi giới tính của một người, tình dục có
thể là những hoạt động sinh lý, quan hệ tình dục có thể mang lại rủi ro vì sẽ dẫn tới những
hậu quả không mong muốn như có thai sớm hoặc ngoài ý muốn, mắc bệnh lây truyền qua
quan hệ tình dục kể cả HIV/AIDS, quyết định có quan hệ tình dục là một quyết định hệ
trọng và điều quan trọng là phải hiểu được hậu quả của hành động này. Chính vì thế mà
hình thức giáo dục vấn đề này bắt đầu càng sớm càng tốt để các em có sự hiểu biết đúng
đắn, có thái độ và hành vi đúng.
Tuy nhiên vẫn có một số ý kiến cho rằng khi nói đến vấn đề tình dục tức là đã phần
nào thôi thúc sự tò mò của các em hơn, Việt Nam có câu “ Vẽ đường cho hươu chạy”.
Cho nên trước khi cho các em tìm hiểu vấn đề tôi đã đề nghị cả lớp thảo luận theo nhóm
về câu hỏi: “Có nên giáo dục vị thành niên về tình dục không ?”. GV cần lưu ý là không
nên áp đặt quan điểm của mình cho HS mà để các em tự do bày tỏ quan điểm cá nhân,
hoặc là đồng ý hoặc là phản đối. Rồi sau đó GV khéo léo thuyết phục HS về lợi ích của
việc giáo dục tình dục, giải thích cho HS rằng thông tin về quá trình sinh sản rất quan
trọng đối với tất cả mọi người và GV không hề có ý định khuyến khích các em bắt đầu
tình dục. Điều quan trọng là giúp cho các em biết để chuẩn bị cho tương lai đồng thời
nhận thức về những nguy cơ và hậu quả liên quan. Muốn thuyết phục hơn GV có thể trích
câu nói: “Nhắm mắt làm liều”.
Để dạy chủ đề rất tế nhị và nhạy cảm này tôi đã chuẩn bị Hộp thư thắc mắc đặt ở
một chỗ thích hợp trong lớp học để HS có thể bỏ phiếu hỏi khi muốn. Yêu cầu mỗi HS
viết vào một tờ giấy bất cứ câu hỏi gì về tình dục và không cần phải đề tên, khích lệ tất cả
HS tham gia vào hoạt động này. Sau khi học sinh đã bỏ phiếu vào hộp thư, GV phân loại
5
Một số kinh nghiệm trong phương pháp giáo dục giới tính tuổi vị thành niên ở chương trình sinh học 8
các câu hỏi và tìm ra một số câu chung nhất, sau đó tổ chức nói chuyện, thảo luận hay tổ
chức các trò chơi tùy vào số lượng và nội dung câu hỏi.
Như vậy với cách làm này HS sẽ cảm thấy rất thoải mái, tự tin để thổ lộ hết những
thắc mắc của mình mà không thấy ái ngại, bởi các em rất khó nói ra trước đám đông. Và
khi cho các em thảo luận trong nhóm hoặc chơi trò sẽ giúp các em mạnh dạn hơn và sẽ
làm chủ tốt hơn trong cách lý luận của mình về vấn đề đặt ra.
4. Vấn đề mang thai sớm
“Điều gì sẽ xảy ra khi quan hệ tình dục sớm?” Quan hệ tình dục sớm trong giới
trẻ ở cả nam lẫn nữ đều là điều đáng lo ngại. Nhiều khi điều này xảy ra ngay từ tuổi 13 –
14. Lúc đầu có thể do tác động của những kích thích cộng với sự tò mò “muốn làm người
lớn”, các em đã tiến hành “thử” khi có điều kiện. Và do tuổi còn nhỏ, chưa có kinh nghiệm
sống, chưa hoàn toàn trưởng thành về thể chất và xương chậu có thể chưa đủ rộng để đầu
trẻ sơ sinh thoát ra. Trong những tình huống như vậy, đẻ khó và chuyển dạ kéo dài sẽ là
điều khó tránh khỏi, có thể gây rách dạ con và chết cả mẹ lẫn con. Nếu có sinh ra được thì
con của các bà mẹ “trẻ con” cũng phải đối mặt với những rủi ro về sức khỏe.
Mang thai sớm còn là điều kinh hoàng cho các em gái khi các em chọn cách loại bỏ
cái thai không mong muốn bằng việc nạo thai. Nếu nạo thai không an toàn là rủi ro sức
khỏe rất lớn cho phụ nữ trẻ, nạo thai có thể để lại những biến chứng nghiêm trọng và có
thể dẫn đến vô sinh, thậm chí là cái chết. Bên cạnh, các em gái còn phải đối mặt với sự
phản đối của cộng đồng hoặc nếu vẫn đang đến trường thì bị buộc phải thôi học.
Để các em hiểu rõ tác hại của quan hệ tình dục sớm dẫn đến mang thai sớm như đã
nêu ở trên, tôi đã tổ chức hướng dẫn cho các em một hình thức “Đóng vai” trong vài phút
của tiết học như sau:
Chia lớp thành hai nhóm đối nghịch: Một nhóm đóng vai những người “ủng hộ” vị
thành niên sớm có quan hệ tình dục, một nhóm đóng vai người “phản đối”. Mỗi nhóm bầu
chọn một “phát ngôn viên” chính, nhưng mọi thành viên trong nhóm đều phải tham gia
vào cuộc tranh luận này.
- Phát ngôn viên của nhóm ủng hộ nói trước, đưa ra những lý lẽ giải thích tại sao
các hoạt động tình dục ở tuổi vị thành niên là điều “bình thường”, “được phép”. Nhóm
ủng hộ hỗ trợ tích cực cho phát ngôn viên của mình.
- Phát ngôn viên của nhóm phản đối có thể phản kháng lại từng lý lẽ của đối
phương với đóng góp của các thành viên trong nhóm.
Chia bảng thành hai phần: Một phần viết các ý kiến ủng hộ, một phần viết ý kiến
phản đối. Các nhóm không nhất thiết phải có lời kết luận mà nên bày tỏ quan điểm về
cuộc tranh luận và những lý lẽ đã đưa ra. Về phần GV thì phải thật khách quan trong hoạt
động này và cuối cùng GV đưa ra những kết luận chính xác nhất về việc ủng hộ hoặc phản
đối quan hệ tình dục ở tuổi vị thành niên.
Tiếp theo tôi tổ chức cho các em chơi trò chơi “Đúng / Sai” như sau: GV đọc to
từng câu sau và yêu cầu HS chỉ ra câu nào đúng, câu nào sai:
Đúng Sai
1. Tuổi tác của người mẹ không quan trọng đối với con cái.
2. Con của các bà mẹ “trẻ con” cân nặng hơn con của những
người mẹ trưởng thành.
3. Làm mẹ ở tuổi vị thành niên có nhiều nguy cơ biến chứng
thai sản trầm trọng, thậm chí có thể tử vong.
4. Có con khi còn ít tuổi thường gây những khó khăn về kinh tế,
xã hội và tình cảm cho người mẹ.
GV sửa cho đúng những câu trả lời sai của HS và giải thích tại sao.
6
Một số kinh nghiệm trong phương pháp giáo dục giới tính tuổi vị thành niên ở chương trình sinh học 8
Hoặc GV đưa ra một số tình huống và yêu cầu các em giải quyết, chẳng hạn GV sẽ
kể một câu chuyện như : Một bạn nữ tên H 14 tuổi đã quen một bạn nam tên M 16 tuổi.
Có một lần M yêu cầu H quan hệ tình dục. H không muốn điều đó vì H nghĩ mình còn quá
trẻ. Nhưng M cứ khăng khăng bảo rằng điều này là rất bình thường và muốn H thể hiện
tình yêu của mình với cậu ta. H thật sự không đồng ý và hai bạn đã tranh luận về vấn đề
này. Nhưng một mặt H lại lo rằng nếu không đồng ý sẽ mất bạn trai.
HS thảo luận nhóm nhỏ về tình huống này bằng cách trả lời các câu hỏi sau:
• Điều gì có thể xảy ra nếu bạn gái đồng ý quan hệ tình dục?
• Điều gì có thể xảy ra nếu bạn gái từ chối quan hệ tình dục với bạn trai của mình?
• Các em khuyên bạn gái đó nên làm gì?
• Lời khuyên đối với bạn trai là gì ?
Sau khi thảo luận, đề nghị đại diện nhóm trình bày kết quả thảo luận. Cuối cùng
GV đưa ra kết luận đúng.
Tóm lại, khi giảng dạy những bài về giới tính, sinh sản, ngoài phương pháp thuyết
trình giảng giải suông, hoặc ngoài những phần lệnh mà SGK yêu cầu, GV cần vận dụng
linh hoạt các phương pháp khác nhau nhằm làm cho HS tích cực và hứng thú với chủ đề
học. Điều quan trọng là GV phải biết cách tổ chức các phương pháp trong tiết học sao cho
hợp lý tùy theo từng nội dung và trình độ của HS.
Phần III
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Trên đây là một số phương pháp mà tôi đã áp dụng để lồng ghép vào một vài tiết
học ở chương Sinh sản trong chương trình sinh học 8, đó là những cách làm cụ thể mà tôi
sử dụng nhằm góp phần giáo dục các em nhận thức đúng đắn những điều xoay quanh vấn
đề giới tính. Qua thực tế áp dụng đề tài này ở khối lớp 8, tôi đã thu được kết quả sau:
- HS nam và nữ đã không còn ngượng ngùng hay mắc cỡ khi học những bài về giới
tính, sinh sản, mà ngược lại các em đã rất mạnh dạn và tự tin khi bộc bạch, thổ lộ hay trao
đổi những vấn đề có liên quan.
- HS rất có hứng thú trong các tiết học và tiếp thu bài rất nhanh, các tiết học trở nên
sôi nổi, sinh động, thu hút được tất cả các đối tượng HS hoạt động tích cực, kể cả những
em bấy lâu rất mặc cảm, tự ti vì cơ thể mình không phát triển bằng các bạn.
- Kết quả lớn nhất mà tôi thu được là sự thay đổi tích cực trong suy nghĩ, trong tư
tưởng và trong hành vi của các em khi nhìn nhận các vấn đề về giới tính:
+ Các em đã tự mình xử lý rất vững vàng những thay đổi của cơ thể trong giai đoạn
dậy thì.
+ Các em sống hòa đồng với nhau hơn, tình bạn được gắn kết chặt hơn.
+ Tình trạng “các cặp tình nhân nhỏ tuổi” trong lớp học giảm đi đáng kể.
+ Việc các em có tình yêu với những bạn khác lớp hoặc những thanh niên bên
ngoài cũng giảm đi rất nhiều.
+ Không có trường hợp đáng tiếc nào về quan hệ tình dục hay mang thai sớm xảy
ra ở các em.
+ Các em đã có được một sự nhìn nhận rất rõ ràng, thấu đáo về vấn đề được giáo
dục, thể hiện ở việc các em đã truyền đạt lại những kiến thức mình được học cho những
bạn không được giáo dục bài bản.
7
Một số kinh nghiệm trong phương pháp giáo dục giới tính tuổi vị thành niên ở chương trình sinh học 8
Phần IV
KẾT LUẬN
Việc áp dụng một cách linh hoạt các phương pháp như sử dụng phiếu học tập, thảo
luận nhóm, sử dụng hộp thư thắc mắc, phương pháp đóng vai hay trò chuyện v.v..trong
việc giáo dục giới tính cho các em là rất cần thiết vì nó sẽ giúp các em lĩnh hội nghiêm túc
các vấn đề nóng bỏng mà GV đưa ra để giáo dục. Điều quan trọng là GV cần chủ động tìm
các phương pháp hay thiết kế các tình huống phù hợp với HS để các tiết học đạt hiệu quả
giáo dục cao.
Trên đây là một số kinh nghiệm trong phương pháp giáo dục giới tính tuổi vị thành
niên ở chương trình sinh học 8, tôi mong rằng nó sẽ góp một phần vào việc nâng cao chất
lượng dạy và học các vấn đề về giới tính. Tuy nhiên tôi nhận thấy những kinh nghiệm này
vẫn chưa thật sự đầy đủ nên rất cần sự đóng góp ý kiến giúp đỡ thêm của các đồng nghiệp
để đề tài hoàn thiện hơn, đem lại hiệu quả cao khi áp dụng.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Xuân Bắc, ngày 24 tháng 12 năm 2015
Người thực hiện
Nguyễn Thị Kim Vương
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
SGK Sinh học 8 – NXB giáo dục
SGV Sinh học 8 – NXB giáo dục
Tuổi dậy thì – NXB trẻ
Sức khỏe sinh sản vị thành niên – Bộ giáo dục và đào tạo, Quỹ dân số liên hợp quốc
8