I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
Lấ TRUNG NHN
ĐịNH TộI DANH ĐốI VớI CáC TộI XÂM PHạM Sở HữU
Có TíNH CHấT CHIếM ĐOạT TRONG LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang)
LUN VN THC S LUT HC
H NI - 2016
I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
Lấ TRUNG NHN
ĐịNH TộI DANH ĐốI VớI CáC TộI XÂM PHạM Sở HữU
Có TíNH CHấT CHIếM ĐOạT TRONG LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04
LUN VN THC S LUT HC
Ngi hng dn khoa hc: TS. TRNH TIN VIT
H NI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn bảo đảm tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Lê Trung Nhẫn
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI
VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT
CHIẾM ĐOẠT THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ................... 9
1.1.
KHÁI NIỆM, CĂN CỨ PHÁP LÝ VÀ CĂN CỨ KHOA HỌC
CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ............................................................. 9
1.1.1. Khái niệm định tội danh ....................................................................... 9
1.1.2. Căn cứ pháp lý của việc định tội danh ............................................... 10
1.1.3. Căn cứ khoa học của việc định tội danh............................................. 13
1.2.
KHÁI NIỆM VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI
DANH ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH
CHẤT CHIẾM ĐOẠT ........................................................................ 16
1.2.1. Khái niệm định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt ........................................................................... 16
1.2.2. Các đặc điểm chung của nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt ................................................................................... 17
1.3.
Ý NGHĨA VÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO CHO VIỆC
ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU
CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT ....................................................... 21
1.3.1. Ý nghĩa của việc định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu
có tính chất chiếm đoạt ....................................................................... 21
1.3.2. Những điều kiện bảo đảm cho việc định tội danh đối với các tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt ......................................... 23
Chương 2: THỰC TRẠNG ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI CÁC TỘI
XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG .............................................. 36
2.1.
DẤU HIỆU PHÁP LÝ VÀ HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI CÁC TỘI
XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT ................ 36
2.1.1. Các dấu hiệu pháp lý hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu
có tính chất chiếm đoạt ....................................................................... 36
2.1.2. Hình phạt đối với các tội phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt ........... 40
2.2.
THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM
PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH HÀ GIANG ...................................................................... 43
2.2.1. Khái quát điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa
bàn tỉnh Hà Giang............................................................................... 43
2.2.2. Thực tiễn định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang ......................... 44
Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA
VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM
SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT .................................. 64
3.1.
SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC
ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU
CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT ........................................................ 64
3.1.1. Về phương diện chính trị - xã hội ...................................................... 64
3.1.2. Về phương diện lý luận và thực tiễn .................................................. 65
3.1.3. Về phương diện lập pháp hình sự....................................................... 67
3.2.
GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ĐỊNH
TỘI DANH ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ
TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT.............................................................. 68
3.2.1. Nhận xét.............................................................................................. 68
3.2.2. Nội dung tiếp tục hoàn thiện Bộ luật hình sự năm 2015 .................. 70
3.3.
NHỮNG GIẢI PHÁP KHÁC NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM
SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT ........................................ 71
3.3.1. Giải pháp nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ ......................... 72
3.3.2. Giải pháp về công tác tổ chức, cán bộ ................................................ 75
3.3.3. Các giải pháp khác ............................................................................. 79
KẾT LUẬN .................................................................................................... 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 87
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:
Bộ luật hình sự
TAND:
Tòa án nhân dân
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
TNHS:
Trách nhiệm hình sự
VKSND:
Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Số hiệu
Tên bảng
Bảng 2.1: Tổng sản phẩm GDP của tỉnh theo giá hiện hành qua các năm
Trang
44
Bảng 2.2: Các tội hình sự nói chung trong giai đoạn 06 năm (20102015) trên địa bàn tỉnh Hà Giang
Bảng 2.3: Tổng số vụ án và số bị cáo bị Tòa án nhân dân tỉnh Hà
Giang đưa ra xét xử về các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt trong giai đoạn 06 năm (2010 - 2015)
46
50
Bảng 2.4: Tổng số vụ án và số bị cáo bị Tòa án nhân dân tỉnh Hà
Giang đưa ra xét xử về các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt trong giai đoạn 06 năm (2010-2015)
51
Bảng 2.5: Bảng thống kê số vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt xét theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm - Báo
cáo của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang
52
Bảng 2.6: Tổng số vụ án và tổng số bị cáo phạm các tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt bị thay đổi tội danh của Tòa
án nhân dân tỉnh Hà Giang trong thời từ năm 2010 -2015
53
Bảng 2.7: Nguyên nhân thay đổi danh đối với các vụ án phạm các tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt của Tòa án nhân
dân tỉnh Hà Giang trong giai đoạn 06 năm (2011-2015)
54
MỞ ĐẦU
1. Tình cấp thiết của đề tài
Định tội danh là một vấn đề rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự, là tiền đề cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa
hình phạt một cách công minh, chính xác, đồng thời làm cơ sở cho việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn, xác định thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử
của các cơ quan tiến hành tố tụng... góp phần đấu tranh phòng, chống tội
phạm, bảo vệ trật tự pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mọi công dân. Việc định tội danh sai sẽ dẫn đến hậu quả
rất lớn, đặc biệt là không đảm bảo được tính có căn cứ của hình phạt được
tuyên, xét xử không đúng người đúng tội, không đúng pháp luật. Đây cũng là
một trong các nguyên nhân của tình trạng oan, sai vẫn còn đang tồn tại.
Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự cho thấy, các cơ quan tiến hành tố
tụng còn gặp phải nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc định tội danh, đặc
biệt đối với những vụ án mà hành vi phạm tội của bị can, bị cáo không thể
hiện các yếu tố cấu thành tội phạm một cách đặc trưng, rõ ràng như: tội cướp
tài sản thì có yếu tố dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc...
nhằm chiếm đoạt tài sản; tội cướp giật tài sản thì có yếu tố giật lấy, giằng
lấy...; tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì có yếu tố dùng thủ đoạn gian dối
chiếm đoạt tài sản; tội trộm cắp tài sản thì có yếu tố lén lút chiếm đoạt tài
sản... mà hành vi của người phạm tội lại có nhiều yếu tố khác nhau của các tội
phạm khác nhau, như vừa có yếu tố gian dối nhưng lại có thêm yếu tố nhanh
chóng, công khai hoặc vừa có tính công nhiên nhưng lại có thêm yếu tố nhanh
chóng tẩu thoát... Đối với những vụ án thuộc những trường hợp này, đòi hỏi
những người tiến hành tố tụng phải có trình độ lý luận cơ bản và vững chắc,
trên cơ sở đánh giá, phân tích, tổng hợp từng yếu tố của vụ án, áp dụng các
văn bản pháp luật liên quan một cách chính xác thì mới định tội danh đúng.
1
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, sửa đổi năm 2009 không chỉ thể
hiện một cách toàn diện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong
giai đoạn hiện nay, mà còn là công cụ sắc bén trong đấu tranh phòng,
chống tội phạm, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm hiệu lực
quản lý, góp phần thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Một trong những nhiệm vụ đó là bảo đảm quyền sở
hữu các lợi ích vật chất của công dân cũng luôn được nhà nước chú trọng.
Tất cả mọi cá nhân, tổ chức đều có nghĩa vụ tôn trọng quyền của chủ sở
hữu tài sản, nếu một chủ thể nào xâm phạm đến tài sản của chủ thể khác
mà gây thiệt hại thì phải bồi thường hoặc chịu trách nhiệm hình sự tương
ứng với hành vi gây thiệt hại.
Các tội xâm phạm sở hữu quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999,
sửa đổi năm 2009 trên cơ sở quy định về tội phạm và hình phạt nên việc hiểu
và áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về tội phạm và hình phạt là một
vấn đề rất quan trọng trong bối cảnh đất nước ta chuyển đổi nền kinh tế theo
cơ chế thị trường, diễn biến của tình hình tội phạm nói chung, cũng như các
tội phạm xâm phạm sở hữu nói riêng hết sức phức tạp và ngày càng có chiều
hướng gia tăng, gây thiệt hại lớn về tài sản.
Thông qua thực tiễn xét xử các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang cho thấy, cơ quan tiến hành tố tụng còn gặp
nhiều khó khăn, vướng mắt trong việc giải quyết vụ án đặc biệt là đối với
nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt do trong từng điều luật
quy định còn dẫn đến khó hiểu, các dấu hiệu pháp lý khó xác định trên thực
tế... Mặt khác, còn có nhiều quan điểm khác nhau về cách xác định dấu hiệu
pháp lý đặc trưng đối với nhóm tội này, nhất là với những vụ án mà hành vi
phạm tội của bị can, bị cáo không thể hiện các yếu tố cấu thành tội phạm một
cách đặc trưng, rõ ràng như tội cướp tài sản, tội cưỡng đoạt tài sản.
2
Với lý do nêu trên, để khắc phục tình trạng này, đồng thời phục vụ trực
tiếp cho công tác thực tiễn xét xử, học viên quyết định lựa chọn đề tài: “Định
tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong luật
hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang)”.
2. Tình hình nghiên cứu
Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt được đề cập nhiều
trong các công trình nghiên cứu như: 1) TS. Nguyễn Mai Bộ, Các tội xâm
phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm
2009, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009; 2) ThS. Đinh Văn Quế “Bình
luận Bộ luật hình sự Phần các tội phạm, Tập II, Chương XIV - Các tội xâm
phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự năm 1999, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh,
2002; 3) TS. Phạm Văn Beo, Luật hình sự Việt Nam, Quyển 2, Phần các tội
phạm, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2009; 4) Nguyễn Ngọc Chí, Trách
nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu, Luận án tiến sĩ luật học, Viện
Nhà nước và pháp luật, Hà Nội, 2000; v.v...
Còn về vấn đề định tội danh dưới góc độ giáo trình, sách chuyên khảo,
sách tham khảo, luận văn… liên quan đến vấn đề định tội danh và xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt, có thể kể đến các công trình sau: GS.TSKH.
Lê Cảm, Một số vấn đề lý luận chung về định tội danh, Chương I - Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tái bản 2007; 2)
GS.TSKH. Lê Cảm, Một số vấn đề lý luận chung về định tội danh, Phần 2,
Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung luật hình sự, Nxb. Công an
nhân dân, Hà Nội, 2000; 3) PGS.TS. Trịnh Quốc Toản, Một số vấn đề lý
luận về định tội danh và hướng dẫn giải bài tập về định tội danh, Nxb. Đại
học Quốc gia Hà Nội, 1999; 4) GS.TSKH. Lê Văn Cảm, PGS.TS. Trịnh
Quốc Toản, Định tội danh (Lý luận, Lời giải mẫu và 500 bài tập thực hành),
3
Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011; 5) ThS. Đoàn Tấn Minh, Phương
pháp định tội danh và hướng dẫn định tội danh đối với các tội phạm trong
Bộ luật hình sự hiện hành, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2010; 6) PGS. TS. Lê
Văn Đệ, Định tội danh và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam,
Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2005; 7) Trần Thị Phường, Định tội danh
đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh Bình Định giai đoạn
2006-2010, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội,
2011; 8) Võ Thanh Hà, Định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn
tỉnh Đắk Lắk), Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2015; v.v…
Ngoài ra, hiện nay, trên Tạp chí Tòa án nhân dân và một số tạp chí
khác cũng đăng nhưng chỉ mang tính chất đơn lẻ và phân tích các dấu hiệu
pháp lý giữa các tội phạm, cũng như định tội danh đối với từng vụ án cụ thể.
Như vậy, có thể nói, những bài nghiên cứu hoặc một số công trình
sách báo đã nêu mới chỉ khái quát được một số vấn đề lý luận liên quan
đến hoạt động định tội danh và thực tiễn định tội; phân tích, đánh giá, nhận
định một số nhận định liên quan đến yếu tố định tội danh, đồng thời phân
biệt với một số tội phạm trong Bộ luật hình sự năm 2009 hoặc nghiên cứu
trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu; v.v… Tuy nhiên,
hiện nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề định tội danh
đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong Bộ luật hình
sự năm 1999 và trên một địa bàn cụ thể là địa bàn tỉnh Hà Giang.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc phân tích những vấn đề chung về định tội danh và định
tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tạo điều
4
kiện thuận lợi trong quá trình định tội danh đối với nhóm tội xâm phạm sở
hữu này một cách chính xác phù hợp với pháp luật và thực tế khách quan, làm
tiền đề cho việc quyết định hình phạt đúng đắn, góp phần mang lại hiệu quả
đấu tranh, phòng chống tội phạm. Mặt khác, việc tìm hiểu này góp phần vào
công tác xây dựng và hoàn thiện về các tội phạm sở hữu trong Bộ luật hình
sự. Ngoài ra, phân tích, đánh giá tìm ra các giải pháp định tội danh chính xác
đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng trên địa
bàn tỉnh Hà Giang.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Xây dựng khái niệm và phân tích căn cứ pháp lý của việc định tội
danh; khái niệm và phân tích những đặc điểm của việc định tội danh đối
với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt;
- Làm sáng tỏ ý nghĩa và những điều kiện bảo đảm cho việc việc
định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt;
- Đánh giá, phân tích thực trạng định tội danh đối với các tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang trong giai
đoạn 06 năm (2010-2015), từ đó chỉ ra tồn tại, hạn chế và một số nguyên
nhân cơ bản;
- Luận chứng và đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc
định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên
địa bàn Hà Giang nói riêng, cả nước nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề định tội danh đối với các tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt theo luâ ̣t hiǹ h sự Viê ̣t Nam (trên cơ sở
số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang ).
5
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung phân tích làm rõ các vấn đề lý luận, đặc biệt là dấu hiệu
chiếm đoạt trong nhóm tội phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt được quy
định từ Điều 133 đến Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi năm 2009.
Mặt khác, đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội
danh đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt theo luâ ̣t
hình sự Việt Nam, đánh giá thực tiễn trên địa bàn tỉnh Hà Giang trong giai
đoạn 06 năm (2010-2015), trên cơ sở đó, chỉ ra tồn tại, hạn chế và một số
nguyên nhân cơ bản, từ đó luận chứng và đề xuất những giải pháp nâng cao
hiệu quả của việc định tội danh đối với tội phạm này trên địa bàn Hà Giang
nói riêng, cả nước nói chung.
5. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. Một số phương pháp cụ thể như:
phương pháp phân tích, suy luận và phương pháp tổng hợp các nguồn tài liệu
chuyên ngành pháp luật Hình sự kết hợp với phương pháp so sánh, đối chiếu
với các quan điểm khác nhau nhằm tìm ra những điểm mới có tính đúng đắn
trong quá trình nghiên cứu.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
6.1. Ý nghĩa khoa học
Hiện nay, để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân, cũng như phục vụ Hiến pháp
năm 2013 và văn kiện của Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
việc nghiên cứu để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội
danh nói chung và định tội danh đối với tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt nói riêng trên địa bàn tỉnh Hà Giang góp phần bổ sung vào kho
tàng lý luận về định tội danh trong pháp luật hình sự Việt Nam nói chung, lý
6
luận về định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt nói riêng, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm nói chung và bảo vệ quyền con người, cũng như bảo đảm trật
tự, an toàn xã hội nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn là tài liệu tham khảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng đặc
biệt là Tòa án trong việc định tội danh giải quyết vụ án hình sự được khách
quan, có căn cứ và đúng pháp luật. Ngoài ra, luận văn là cơ sở để đưa ra
những kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam liên quan đến định tội
danh nói chung và định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu nói riêng tại
Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Hà Giang, qua đó, nâng cao hiệu quả công tác
đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, việc bảo vệ các quyền và tự do
của con người nói riêng, cũng như phòng, chống oan, sai và vi phạm pháp luật
trong giải quyết vụ án hình sự. Đặc biệt, luận văn còn là tài liệu tham khảo
cho các sinh viên, học viên và nghiên cứu sinh chuyên ngành luật hình sự và
tội phạm học tại các cơ sở đào tạo luật trên cả nước.
7. Những điểm mới về mặt khoa học của luận văn
Đề tài phân tích dựa trên những bản án, quyết định, báo cáo công tác
ngành Tòa án nhân dân tại tỉnh Hà Giang - đó là những số liệu thực tế góp
phần làm rõ hơn thực trạng về định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu
có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang. Do đó, những điểm mới
cơ bản của luận văn như sau:
- Xây dựng khái niệm và phân tích các đặc điểm cơ bản của việc định
tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt theo luật
hình sự Việt Nam;
- Làm sáng tỏ ý nghĩa và những điều kiện bảo đảm cho việc việc định
tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt;
7
- Đánh giá, phân tích thực trạng định tội danh đối với các tội xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang của Tòa án nhân
dân; từ đó, chỉ ra tồn tại, hạn chế và một số nguyên nhân cơ bản trong thực
tiễn định tội danh đối với các tội phạm này trên địa bàn tỉnh Hà Giang;
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc định tội
danh đối với tội các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn
Hà Giang nói riêng, cả nước nói chung.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm ba chương với tên gọi như sau:
Chương 1: Một số vấn đề chung về định tội danh đối với các tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.
Chương 2: Thực trạng định tội danh đối với các tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
Chương 3: Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc định tội danh
đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.
8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH
ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT
CHIẾM ĐOẠT THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM, CĂN CỨ PHÁP LÝ VÀ CĂN CỨ KHOA HỌC CỦA
VIỆC ĐỊNH TỘI DANH
1.1.1. Khái niệm định tội danh
Hiện nay có rất nhiều cách hiểu khác nhau xung quanh khái niệm định
tội danh, cụ thể là:
Theo Từ điển Luật học định nghĩa: “Định tội danh được hiểu là để truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội thì phải định tội được theo tội danh mà luật hình sự quy định. Cơ sở
của việc định tội phải dựa vào các dấu hiệu cấu thành tội phạm” [59, tr.39].
Viện kiểm sát khi quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án xét xử phải
xác định cụ thể tội danh trong bản cáo trạng theo điều luật hình sự quy định.
Sau khi kết thúc thủ tục tố tụng tại phiên tòa và nghị án, Tòa án (Hội
đồng xét xử) quyết định cuối cùng về tội danh (định tội) và hình phạt áp dụng
(lượng hình).
Theo quan điểm của tác giả Dương Tuyết Miên:
Định tội danh được hiểu là hoạt động thực tiễn của các cơ quan
tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) và một số
cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật để xác định
một người có phạm tội hay không, nếu phạm tội thì đó là tội gì, theo
điều luật nào của Bộ luật hình sự hay nói cách khác đây là quá trình
xác định tên tội cho hành vi nguy hiểm đã thực hiện [24, tr.9].
9
Trong khi đó, nhà thực tiễn Đoàn Tấn Minh quan niệm:
Định tội danh là thuật ngữ dùng để chỉ hoạt động của các
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thẩm quyền
trong tố tụng hình sự nhằm đối chiếu sự phù hợp giữa các dấu
hiệu thực tế của cấu thành tội phạm với các dấu hiệu pháp lý của
cấu thành tội phạm được mô tả (quy định) trong luật hình sự để
giải quyết vụ án hình sự bằng việc ra kết luận bằng văn bản áp
dụng pháp luật [26, tr.10]; v.v…
Những quan điểm nêu trên đã đề cập tương đối đầy đủ nội hàm của
định tội danh. Tuy nhiên, ở từng quan điểm thì chưa bao gồm hết các nội
dung và đôi chỗ chưa phản ánh được bản chất và nội hàm của khái niệm
định tội danh.
Tổng hợp và kế thừa các quan điểm đã nêu, dưới góc độ khoa học và
căn cứ từ bản chất của hoạt động định tội danh như trên có thể định nghĩa như
sau: Định tội danh là một khâu quan trọng trong quá trình áp dụng quy phạm
pháp luật hình sự, là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng
pháp luật hình sự, cũng như pháp luật tố tụng hình sự, được tiến hành bằng
cách trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế
của vụ án hình sự để đối chiếu, so sánh và kiểm tra nhằm xác định sự phù hợp
giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các
dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng do luật hình sự quy định.
Khái niệm này cho thấy mục đích của định tội danh là nhằm đạt được
sự thật khách quan từ đó đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp
lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hóa và phân hóa trách nhiệm hình sự
một cách công bằng, minh bạch, rõ ràng và đúng pháp luật.
1.1.2. Căn cứ pháp lý của việc định tội danh
Dưới góc độ khoa học luật hình sự Việt Nam, căn cứ pháp lý của việc
10
định tội danh có thể được hiểu trên hai bình diện hoặc theo hai nghĩa: nghĩa
rộng và nghĩa hẹp:
- Theo nghĩa rộng, thì những căn cứ pháp lý của việc định tội danh là
hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự với tính chất là cơ sở pháp lý duy
nhất (trực tiếp), cũng như hệ thống các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự
với tính chất là cơ sở pháp lý bổ trợ (gián tiếp) cho toàn bộ quá trình xác định
các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã được thực hiện là tội phạm.
- Theo nghĩa hẹp, thì những căn cứ pháp lý của việc định tội danh là chỉ
có hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự với tính chất là cơ sở pháp lý duy
nhất (trực tiếp) cho toàn bộ quá trình xác định các dấu hiệu của hành vi nguy
hiểm cho xã hội được thực hiện là tội phạm [7, tr.21].
Có tác giả lại chỉ coi ở khía cạnh hẹp hơn, căn cứ pháp lý của việc
định tội danh là Bộ luật hình sự mà cụ thể hơn là điều luật quy định về tội
phạm cụ thể [25, tr.12].
Theo Bộ luật hình sự, cơ sở pháp lý trực tiếp của việc định tội danh.
Bộ luật hình sự liệt kê, quy định tất cả các hành vi nguy hiểm cho xã hội là
tội phạm vào trong Bộ luật, điều này sẽ thể hiện trực tiếp nhất tại Điều 2 Bộ
luật hình sự khi quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật
hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Do đó, trong quá trình
định tội danh nếu hiểu theo nghĩa chỉ về nội dung thì Bộ luật hình sự có ý
nghĩa quyết định và quan trọng nhất, vì nó đóng vai trò là cơ sở pháp lý duy
nhất (trực tiếp) của việc định tội danh. Bộ luật hình sự hiện hành và các Luật
sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự nếu có được coi là nguồn trực tiếp và duy
nhất ghi nhận toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự được áp
dụng trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, cũng như
quá trình định tội danh và quyết định hình phạt nói riêng. Chỉ có Bộ luật
hình sự mới quy định tội phạm và hình phạt. Điều này cũng loại trừ khả
11
năng cho phép bất kỳ cá nhân hay cơ quan, tổ chức nào được phép quy định,
mở rộng hay thu hẹp hành vi phạm tội là tội phạm trong Bộ luật hình sự mà
chỉ có Quốc hội với tư cách là cơ quan duy nhất có thẩm quyền đã được
Hiến pháp quy định (đoạn 2 Điều 69 Hiến pháp năm 2013). Hơn nữa, suy
cho cùng thì bản chất của việc định tội danh chính là việc đối chiếu, so sánh,
đánh giá và kiểm tra để xác định xem các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm
cho xã hội được thực hiện trong thực tế khách quan có phù hợp với các dấu
hiệu tương ứng của một tội phạm cụ thể nào đó được quy định trong Phần
các tội phạm Bộ luật hình sự hay không.
Bên cạnh đó, kết quả của việc định tội danh là đưa ra văn bản kết luận
rằng một (hay nhiều) hành vi nguy hiểm cho xã hội đang được xử lý bao quát
quy phạm (điều luật) nào của Bộ luật hình sự, cho nên, chắc chắn rằng, việc
định tội danh cần phải được viện dẫn đến quy phạm (điều luật) cụ thể nào đó
của Bộ luật hình sự.
Hiện nay, Bộ luật hình sự Việt Nam bao gồm:
- Phần chung: Bộ luật hình sự ghi nhận nhiệm vụ, nguyên tắc xử lý, các
chế định cơ bản và quan trọng nhất của luật hình sự là tội phạm và hình phạt,
cũng như các vấn đề khác như hình phạt, hệ thống hình phạt và các biện pháp
tư pháp, quyết định hình phạt, xóa án tích…
- Phần các tội phạm: Bộ luật hình sự nêu tên tội, các dấu hiệu pháp lý
hình sự cơ bản, loại và mức hình phạt cụ thể đối với từng hành vi phạm tội
tương ứng. Việc áp dụng các quy định của Phần này phải dựa trên các quy
phạm của Phần chung Bộ luật hình sự. Ngược lại, các quy phạm của Phần
chung cũng trở nên không có ý nghĩa nếu không có các quy phạm của Phần
các tội phạm Bộ luật hình sự.
Như vậy, với tư cách là căn cứ của việc định tội danh, Bộ luật hình sự,
mà cụ thể bao gồm cả Phần chung và Phần các tội phạm tạo thành căn cứ
12
chung và thống nhất không thể thiếu khi định tội danh. Nói một cách khác,
định tội danh là việc so sánh, đối chiếu các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm
cho xã hội với những dấu hiệu được mô tả trong mô hình một loại tội phạm
trong Phần các tội phạm tương ứng. Tuy vậy, các tội phạm cụ thể trong Phần
các tội phạm lại chỉ nêu về tội phạm hoàn thành, trong khi đó, diễn biến tội
phạm trên thực tế rất đa dạng, phong phú, đòi hỏi khi đó cần viện dẫn cả những
quy định của Phần chung để xác định chính xác; cũng như chú ý tới hiệu lực
của điều, khoản được viện dẫn về không gian và thời gian. Có như vậy, việc
định tội danh mới bảo đảm có căn cứ pháp lý vững chắc và đầy đủ để truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với một người đã thực hiện hành vi phạm tội.
1.1.3. Căn cứ khoa học của việc định tội danh
Cấu thành tội phạm là “hình thức phản ánh tội phạm trong luật, mô tả
tội phạm trong luật thông qua các yếu tố của nó” [22, tr.112].
Qua nghiên cứu các quy phạm của Bộ luật hình sự hiện hành cho thấy,
khái niệm cấu thành tội phạm chưa được đề cập mà mới chỉ ghi nhận ở một
mức độ hạn chế khi đặt ra điều kiện để không miễn trách nhiệm hình sự cho
chủ thể là “nếu hành vi thực tế đã có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác”
(Điều 19). Trong khi đó, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 xác định: “hành vi
không cấu thành tội phạm” là một trong các căn cứ để các cơ quan tiến hành
tố tụng không khởi tố vụ án hình sự (khoản 2 Điều 107). Do vậy, cấu thành
tội phạm chính là căn cứ khoa học cùng với căn cứ pháp lý là Bộ luật hình sự
để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, vì hành vi nguy hiểm
cho xã hội do chủ thể thực hiện đã có đầy đủ các dấu hiệu đặc trưng của một
cấu thành tội phạm tương ứng nào đó được quy định tại Phần các tội phạm Bộ
luật hình sự. Ngoài ra, cấu thành tội phạm còn là yếu tố bảo đảm các quyền và
tự do của công dân, của con người, làm ranh giới để xử lý giữa trường hợp
hành vi đã cấu thành tội phạm hay không cấu thành tội phạm.
13
Tuy vậy, dưới góc độ khoa học luật hình sự Việt Nam, khái niệm đang
nghiên cứu được hiểu như sau: Cấu thành tội phạm bao gồm tổng hợp các yếu
tố khách quan và chủ quan đặc trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định
trong pháp luật hình sự. Hay nói cách khác, đúng như một tác giả nghiên cứu
chuyên sâu về vấn đề này đã viết: “Cấu thành tội phạm là sự mô tả tội phạm
trong luật thông qua các dấu hiệu thuộc bốn yếu tố có tính đặc trưng, phản
ánh đầy đủ nội dung chính trị-xã hội của tội phạm” [21, tr.8].
Như vậy, từ khái niệm cấu thành tội phạm đã nêu trên có thể đưa đến
một nhận định rằng: để xem xét một hành vi nguy hiểm cho xã hội có phải là
tội phạm hay không, điều quan trọng là phải nắm được bản chất của hành vi
đó. Nói một cách khác, để đánh giá đúng và chính xác bản chất của từng loại
hành vi phạm tội, pháp luật hình sự phải giải thích và làm sáng tỏ một loạt các
câu hỏi sau đây:
- Thứ nhất, quan hệ xã hội nào đã bị tội phạm xâm hại hoặc đe dọa xâm
hại đến và được luật hình sự xác lập và bảo vệ ?
- Thứ hai, hành vi nguy hiểm cho xã hội được biểu hiện ra bên ngoài
thế giới khách quan ra sao? Hậu quả mà nó gây ra như thế nào cho xã hội? Có
các dấu hiệu gì khác nữa không ?
- Thứ ba, Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội ấy đã đến tuổi
phải chịu trách nhiệm hình sự hay chưa và người đó có phải là người bình thường
hay không? Họ có những nhược điểm gì về thể chất hay tinh thần không?
- Thứ tư, thái độ, trạng thái tâm lý của người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội đó như thế nào? Khi thực hiện hành vi này họ có động lực gì
và mong muốn đạt được kết quả gì?
Trả lời các câu hỏi trên, quan điểm được thừa nhận chung là những dấu
hiệu của cấu thành tội phạm thường rất phong phú, đa dạng nhưng các dấu
hiệu đó chỉ có thể thuộc về bốn yếu tố cấu thành tội phạm: Khách thể của tội
14
phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan
của tội phạm. Do đó, muốn xác định được đầy đủ các dấu hiệu thuộc cấu
thành của một loại tội phạm cụ thể phải căn cứ vào các quy phạm pháp luật
Phần chung và các quy phạm thuộc Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự.
Nội dung và nội hàm của bốn yếu tố cấu thành tội phạm đã nêu được khoa
học luật hình sự Việt Nam thống nhất như sau:
- Khách thể của tội phạm: là các quan hệ xã hội được Bộ luật hình sự
xác lập và bảo vệ bị tội phạm xâm hại bằng cách gây thiệt hại hoặc đe dọa gây
thiệt hại. Bất kỳ tội phạm nào cũng xâm phạm đến ít nhất một khách thể được
Bộ luật hình sự xác lập và bảo vệ. Khách thể của tội phạm được liệt kê tại
Điều 8 Bộ luật hình sự và trên cơ sở đó các nhà làm luật phân chia các loại tội
phạm có cùng tính chất trong cùng một chương tương ứng tại Phần các tội
phạm Bộ luật này.
- Mặt khách quan của tội phạm: là biểu hiện bên ngoài của tội phạm
hay là những dấu hiệu của tội phạm biểu hiện ra ngoài thế giới khách quan,
gồm các dấu hiệu: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã
hội, mối quan hệ giữa hành vi nguy hiểm và hậu quả nguy hiểm cho xã hội,
thời gian, địa điểm phạm tội, phương pháp, thủ đoạn phạm tội, công cụ,
phương tiện phạm tội và hoàn cảnh phạm tội.
- Mặt chủ quan của tội phạm: là biểu hiện bên trong của tội phạm, là
trạng thái tâm lý của chủ thể khi thực hiện hành vi phạm tội, bao gồm các dấu
hiệu lỗi, động cơ phạm tội và mục đích phạm tội.
- Chủ thể của tội phạm: là con người cụ thể đang sống đã thực hiện tội
phạm đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình
sự. Tuy nhiên, đối với một số tội phạm yêu cầu người thực hiện tội phạm phải
có thêm một số dấu hiệu bổ sung như: giới tính, nghề nghiệp, độ tuổi, chức
vụ, quyền hạn... gọi là chủ thể đặc biệt của tội phạm.
15
Với bốn yếu tố cấu thành tội phạm trên đây, chúng có mối quan hệ hữu
cơ và chặt chẽ với nhau, mỗi yếu tố cấu thành tội phạm đều biểu hiện một nội
dung cụ thể và tổng hợp bốn yếu tố cấu thành tội phạm phản ánh mối liên hệ
quan hệ tâm lý, thái độ bên trong của một người với hành vi do chính họ thực
hiện ra bên ngoài thế giới khách quan gây ra những hậu quả nguy hiểm cho xã
hội. Do đó, bất kỳ hành vi phạm tội nào, dù ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất
nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng, dù xâm phạm đến quan hệ xã hội
nào, dù mức hình phạt và loại hình phạt ít nghiêm khắc hay có nghiêm khắc
đến như thế nào đi chăng nữa, thì tội phạm bao giờ cũng đều thể hiện mối
quan hệ hữu cơ, logic và thống nhất giữa những biểu hiện khách quan và chủ
quan của nó.
1.2. KHÁI NIỆM VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH
ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT
1.2.1. Khái niệm định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt
Khái niệm định tội danh nêu trên là chỉ việc định tội danh trong hoạt
động tố tụng nói chung, mang ý nghĩa khoa học áp dụng cho toàn bộ các loại
tội phạm. Còn đối với việc định tội danh các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt là một hoạt động tố tụng cụ thể của các cơ quan tiến hành tố
tụng và những người tiến hành tố tụng thực hiện, mang ý nghĩa thực tiễn rất
quan trọng. Trong đó, trên cơ sở các dấu hiệu cơ bản của cấu thành các tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, các cơ quan tiến hành tố tụng
(hoặc cơ quan có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự) phân
tích, đánh giá nhằm xác định hành vi phạm tội đó thuộc nhóm tội gì, thuộc
khoản (khung) cụ thể nào đó từ đó ban hành các quyết định tố tụng tương ứng
theo quy định của pháp luật.
16
1.2.2. Các đặc điểm chung của nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt
Cũng giống như tất cả các tội phạm khác quy định trong Luật hình sự,
nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt có những đặc điểm chung
thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm. Tuy nhiên sự thể hiện các đặc điểm
này có sự khác nhau vì nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt có
tính đặc trưng của loại tội phạm mà nó thể hiện.
Các đặc trưng của nhóm tội xâm phạm này như sau:
* Thứ nhất, các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt bắt buộc
phải có mục đích chiếm đoạt tài sản trong cấu thành tội phạm vì không phải
tội phạm nào có mục đích tư lợi đều là tội phạm xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt.
Chiếm đoạt là việc cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang được sự
quản lí của chủ sở hữu thành tài sản của mình. Chúng được biểu hiện dưới
dạng hành vi hoặc mục đích phạm tội
Bằng hành vi chiếm đoạt với các thủ đoạn khác nhau, các tội này có
cùng đặc điểm là xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác và cùng
được thực hiện bằng hành động
Hành vi chiếm đoạt tài sản được hiểu là người phạm tội cố ý chuyển
dịch một cách trái pháp luật tài sản đang thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác
thành tài sản của mình. Hành vi chiếm đoạt bao giờ cũng được thực hiện bằng
hành động cụ thể và luôn là cố ý trực tiếp với mong muốn biến tài sản của
người khác thành của mình.
Theo đó, đặc điểm của hành vi chiếm đoạt là bằng hành vi dùng vũ lực,
đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc những hành vi khác làm cho chủ sở
hữu bị tê liệt về ý chí (không nhận biết được sự việc xảy ra) hoặc làm tê liệt
khả năng chống cự (biết sự việc xảy ra nhưng không có khả năng phản kháng)
17