Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

bai thao luan thu nhat hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.69 KB, 10 trang )

BUỔI THẢO LUẬN THỨ NHẤT: NGHĨA VỤ DÂN SỰ
Vấn đề 1: THỰC HIỆN CÔNG VIỆC KHÔNG CÓ ỦY QUYỀN
Câu 1: Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền?
Trả lời: Theo BLDS 2015 Điều 594: “Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người
không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó, hoàn toàn vì
lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản
đối”.
Câu 2: Vì sao thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự?
Trả lời: Nghĩa vụ dân sự phát sinh khi có sự kiện pháp lý mà pháp luật dự liệu xảy ra dẫn tới một
hậu quả pháp lý nhất định. Sự kiện pháp lý đó làm hình thành một mối quan hệ pháp luật, được
thừa nhận và bảo đảm thực hiện bởi pháp luật. Căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự được pháp
luật quy định tại khoản 3 Điều 275 BLDS 2015:
“Nghĩa vụ dân sự phát sinh từ các căn cứ sau đây:
Hợp đồng;
Hành vi pháp lý đơn phương;
Thực hiện công việc không có ủy quyền;
Chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật;
Gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật;
Căn cứ khác do pháp luật quy định.”
Một người khi thực hiện công việc vì lợi ích của người khác, làm phát sinh nghĩa vụ của người
đã thực hiện công việc đó thì phải có trách nhiệm thực hiện công việc đến cùng và phải bồi
thường khi có hành vi gây thiệt hại xảy ra. Khác với hành vi pháp lý đơn phương, thực hiện công
việc không có ủy quyền xác định được chủ thể ở cả hai bên và phát sinh quan hệ nghĩa vụ với các
chủ thể được xác định. Căn cứ này làm phát sinh nghĩa vụ giữa người thực hiện công việc với
người được thực hiện công việc. Người thực hiện công việc phải mang lại kết quả cho người
được thực hiện công việc, ngược lại người được thực hiện công việc có nghĩa vụ thanh toán các
khoản chi phí hợp lý mà người thực hiện công việc đã bỏ ra. Ngoài ra, người được thực hiện
công việc phải trả một khoản thù lao cho người thực hiện công việc trừ trường hợp người thực
hiện công việc không có ủy quyền từ chối.



Việc quy định chế định này tạo nên sự ràng buộc pháp lý giữa người thực hiện công việc và
người có công việc được thực hiện, nâng cao tinh thần trách nhiệm, đảm bảo quyền lợi của người
thực hiện công việc cũng như đối với người có công việc được thực hiện.
Câu 3: Các điều kiện để áp dụng quy định về thực hiện công việc không có ủy quyền theo
BLDS 2015? Phân tích từng điều kiện?
Trả lời: Các điều kiện để áp dụng quy định về thực hiện công việc không có ủy quyền:
Thứ nhất phải có chủ thể thực hiện vì thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh
nghĩa vụ dân sự, chính vì vậy phải có người thực hiện công việc của người có công việc cần thực
hiện.
Thứ hai là người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc
đó. Nghĩa vụ ở đây là nghĩa vụ pháp lí do luật định hoặc do các bên thỏa thuận.
Thứ ba vì lợi ích của người có công việc được thực hiện. Nếu người thực hiện công việc vì lợi
ích của mình hoặc của người khác thì không áp dụng chế định này bởi vì người thực hiện công
việc không được có bất kì lợi ích nào từ việc thực hiện công việc cho người khác. Tuy nhiên
không loại trừ khả năng người thực hiện công việc củng có lợi ích từ việc thực hiện.
Câu 4: Cho biết điểm mới của quy định về việc thực hiện công việc không có ủy quyền
BLDS 2015 so với BLDS 2005?
Trả lời: Theo “Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS năm 2015”:
Nhìn chung, số lượng và nội dung các căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ không có sự thay đổi giữa 2
BLDS, trừ nội dung căn cứ phát sinh nghĩa vụ “Thực hiện công việc không có ủy quyền”.
Điều 594 BLDS 2005 quy định về căn cứ phát sinh nghĩa vụ thực hiện công việc không có ủy
quyền có nội dung như sau: “Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người không có
nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó, hoàn toàn vì lợi ích của
người có công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối”. Về
phía mình, Điều 574 BLDS 2015 quy định về căn cứ phát sinh nghĩa vụ về thực hiện công việc
không có ủy quyền có nội dung như sau: “Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một
người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó vì lợi
ích của người có công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản
đối.”
Điều 547 BLDS 2015 đã kế thừa gần như toàn bộ quy định này từ Điều 594 BLDS 2005 chỉ có

một khác biệt là quy định mới đã bỏ đi yếu tố “hoàn toàn” trong vấn đề thực hiện công việc vì lợi
ích của người có công việc.

2


Câu 5: Trong tình huống nêu trên, ông A có thể yêu cầu gia đình bà B thực hiện những
nghĩa vụ trên cơ sở các quy định về việc thực hiện công việc không có ủy quyền trong BLDS
2015 không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lí khi trả lời?
Trả lời: Trong tình huống trên, ông A có thể yêu cầu gia đình bà B thực hiện những nghĩa vụ trên
cơ sở các quy định về thực hiện công việc không có ủy quyền trong BLDS 2015. Bởi vì:
Ông A thực hiện công việc không có sự ủy quyền cũng như không có nghĩa vụ phải thực hiện
công việc của gia đình bà B. Tuy nhiên, ông A đã tự nguyện thực hiện việc bốc mộ và đưa hài cốt
con trai bà B về quê cho gia đình. Theo Điều 574 BLDS 2015 quy định về căn cứ phát sinh nghĩa
vụ thực hiện công việc không có ủy quyền thì ông A đã đủ điều kiện để áp dụng quy định về thực
hiện công việc không có ủy quyền. Đồng thời, trong quá trình thực hiện công việc không có ủy
quyền ông A đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ về thực hiện công việc không có ủy quyền theo
Điều 575 BLDS 2015 quy định. Vì vậy, bà B có nghĩa vụ thanh toán cho ông A chi phí mà ông A
đã bỏ ra. Ngoài ra, bà B còn có nghĩa vụ trả cho ông A một khoản thù lao trừ trường hợp ông B
từ chối nhận (căn cứ vào khoản 1, 2 Điều 567 BLDS 2015).
Vấn đề 2: Chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật
Câu 1: Vì sao Tòa giám đốc thẩm xác định cặp trâu mẹ con là của ông Hơn? Anh/chị có suy
nghĩ gì về hướng xác định này của Tòa giám đốc thẩm?
Tòa giám đốc thẩm xác định cặp trâu mẹ con là của ông Hơn vì ông Hơn đã nêu ra các đặc điểm
để nhận dạng là trâu mình phù hợp với kết quả giám định.
Câu 2: Thế nào là chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật? Ai trong vụ án trên là
người chiếm hữu trâu và nghé của ông Hơn không có căn cứ pháp luật và vì sao?
Chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu của một người đối với một tài
sản mà không dựa trên những căn cứ của pháp luật quy định hay nói cách khác là chiếm hữu
không phù hợp với quy định của pháp luật (khoản 2 Điều 165 BLDS 2015).

Ông Phong là người chiếm hữu trâu và nghé của ông Hơn không có căn cứ pháp luật. Vì ông
Phong tự ý dắt trâu đang có tranh trấp về nhà mà không có sự đồng ý của cơ quan thẩm quyền
cho phép.

3


Câu 3: Đoạn nào của Quyết định cho thấy Tòa giám đóc thẩm buộc ông Phong trả cho ông
Hơn trâu và nghé có tranh chấp? Anh/chị có suy nghĩ gì về hướng giải quyết này của Tòa
giám đốc thẩm?
Đoạn của Quyết định cho thấy Tòa giám đốc thẩm buộc ông Phong trả cho ông Hơn trâu và nghé
có tranh chấp: “Tòa giám đốc thẩm đã xử công nhận con trâu cái và con nghé đực đang tranh
chấp hiện ông Phong đang quản lí là trâu của ông Hơn [..] là có căn cứ. Song Tòa cấp phúc
thẩm không tuyên buộc ông Phong trả lại hai con trâu nêu trên cho ông Hơn là sai sót nghiêm
trọng [...]. Nếu ông Nguyễn Văn Phong không tìm thấy con trâu nêu trên thì ông Phong phải có
trách nhiệm thanh toán giá trị hai con trâu đó cho ông Đồng Xuân Hơn theo giá thi trường.”
Hướng giải quyết này của Tòa giám đốc thẩm là phù hợp. Vì con trâu và nghé đã được giám định
và xác minh là của ông Hơn. Ông Hơn là chủ sở hữu của con trâu và nghé nên ông Phong (người
chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật) phải trả trâu và nghé lại cho chủ sở hữu của nó
(Điều 579 BLDS 2015).
Câu 4: Có quy định nào buộc ông Phong trả cho ông Trọng tiền công trông coi và chăm sóc
trâu có tranh chấp không? Anh/chị có suy nghĩ gì về hướng giải quyết vừa nêu của Tòa
phúc thẩm và Tòa giám đốc thẩm?
Luật có quy định để buộc ông Phong phải trả cho ông Trọng tiền công trông coi và chăm sóc trâu
có tranh chấp là Điều 582 BLDS 2015.
Hướng giải quyết vừa nêu của Tòa phúc thẩm và Tòa giám đốc thẩm là phù hợp. Vì việc ông
Trọng bỏ công, bỏ tiền ra để trông coi, chăm sóc trâu có tranh chấp (là bên thứ ba trong tranh
chấp quyền sở hữu) thì ông Phong (người giao tài sản cho bên thứ ba) phải có nghĩa vụ hoàn trả,
thanh toán những khoản chi phí mà ông Trọng đã bỏ ra.
Câu 5: Nếu ông Phong cho người khác thuê trâu có tranh chấp từ tháng 02/2008 thì khoản

tiền thuê mà ông Phong nhận được từ việc cho thuê được giải quyết như thế nào? Ai sẽ
được hưởng khoản tiền này? Nêu rõ cơ sở pháp lí khi trả lời.
Ông Phong chiếm hữu trâu csủa ông Hơn trong thời gian bị mất (kể từ ngày 15/01/2008 đến ngày
13/9/2008) và cho người khác thuê trâu có tranh chấp từ tháng 2/2015. Tiền cho thuê trâu có
tranh chấp là hoa lợi, lợi tức xuất hiện trong quá trình ông Phong chiếm hữu tài sản không có căn
cứ pháp luật. Trâu có tranh chấp được Giám đốc thẩm thừa nhận là trâu của ông Hơn nên lời khai
của ông Phong khi nhất quyết khẳng định đó là trâu nhà mình nuôi sai sự thật. Vậy sự chiếm hữu
của ông Phong đối với trâu có tranh chấp là sự chiếm hữu không có pháp luật và không ngay tình
nên tiền cho thêu trâu từ tháng 2/2008 phải hoàn trả lại cho ông Hơn (chủ sở hữu của tài sản)
(căn cứ theo khoản 1 Điều 601 BLDS 2005)

4


“Việc chiếm hữu không có căn cứ pháp luật là tiền đề cho nghĩa vụ hoàn trả tài sản đã nhận
nhưng hoàn trả tài sản đã nhận không luôn kéo theo việc phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức phát sinh
từ tài sản và tất cả phụ thuộc vào sự ngay tình của người nhận tài sản. người này phải trả
(không phải hoàn trả) cho chủ sở hữu tài sản khi họ không ngay tình và chỉ đúng với hoa lợi, lợi
tức phát sinh từ thời điểm người này không còn ngay tình nữa. Do đó xác định người nhận tài
sản có ngay tình hay không và từ thời điểm nào người nhận tài sản không ngay tình là rất cần
thiết.”1
Vấn đề 3: Thực hiện nghĩa vụ Dân sự (thanh toán một khoản tiền)
Câu 1: Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như thế nào?
Thông tư trên cho phép tính lại khoản tiền phải thanh toán khi có nghĩa vụ phát sinh hoặc gây
thiệt hại như sau:
- Nếu xảy ra trước ngày 1/7/1996 và giá gạo tăng từ 20% trở lên thì quy đổi các khoản tiền đó ra
gạo theo giá gạo tại thời điểm phát sinh nghĩa vụ hoặc gây thiệt hại, rồi tính số lượng gạo đó
thành tiền theo giá gạo tại thời điểm xét xử sơ thẩm.
- Nếu xảy ra sau ngày 1/7/1996 hoặc trước 1/7/1996 nhưng giá gạo không tăng hoặc tăng nhưng
dưới 20% thì xác định khoản tiền và thanh toán bằng tiền (không cần quy đổi ra gạo).

- Qua trung gian là gạo.
Câu 2: Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản tiền cụ
thể là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Thực tế ông Quới phải trả cho bà Cô khoản tiền cụ thể là 3.285.000 đồng. Vì thời điểm phát
sinh nghĩa vụ là 15/11/1973 tức là trước 1/7/1996 nên số tiền thanh toán được tính như sau:
Tổng số tiền là 50.000đ
Năm 1973, Giá gạo 137đ mà quy đổi ra gạo là xấp xỉ 365 kg (364,96 kg).
Nay, Giá gạo 9.000đ thì số tiền phải trả là 3.285.000đ.
- Căn cứ pháp lý điểm a, khoản 1, mục I 01/TTLT ngày 19/6/1996.

1 Đỗ Văn Đại, Luật Hợp đồng Việt Nam – Bản án và Bình Luật án, Nxb. CTQG 2014, tr. 21

5


Câu 3: Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển nhượng bất
động sản như trong tình huống thứ hai không? Vì sao?
Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển nhượng bất động sản
như trong tình huống thứ hai. Vì mục II của thông tư này sẽ có áp dụng đối với trường hợp đối
tượng của nghĩa vụ về tài sản là hiện vật, mà hiện vật cụ thể trong tình huống thứ hai là bất động
sản hai mảnh đất được chuyển nhượng theo hợp đồng.
Câu 4: Đối với tình huống thứ hai, thực tế ông Tấn sẽ phải trả cho ông Minh, bà Oanh
khoản tiền cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?
Thực tế ông Tấn sẽ phải trả cho ông Minh, bà Oanh khoản tiền cụ thể là 1.200.000.000đ và phải
trừ đi khoản đã trả là 100 triệu đồng. Vì:
- Theo mục II quy định việc thực hiện nghĩa vụ về tài sản là hiện vật thì nếu buộc tiếp tục thực
hiện hợp đồng thì cần xem xét giá trị của hiện vật đó theo giá thị trường tại thời điểm xét xử để
thanh toán. Và để bảo đảm lợi ích của chủ sở hữu hai miếng đất với định giá thực tế là
1.200.000.000đ nên hai bên trong hợp đồng cần thoả thuận để thanh toán khoản chênh lệch trên
thực tế.

- Theo BLDS 2005 Điều 431, BLDS 2015 Điều 433 cũng quy định điều khoản về giá và phương
thức thanh toán như sau tại khoản 2:
"Trường hợp không có thoả thuận hoặc có thoả thuận không rõ ràng về giá, phương thức thanh
toán thì giá được xác định theo giá thị trường, phương thức thanh toán được xác định theo tập
quán tại địa điểm và thời điểm giao kết hợp đồng."
- Thực tiễn xét xử có vụ việc như sau: vợ chồng A bán nhà cho B, C. Trong cùng một ngày nhưng
vợ chồng A và B,C cùng xác lập 3 hợp đồng mua bán 1 căn nhà.
+ Hợp đồng 1 giữa vợ chồng A với cả B, C là 200 triệu.
+ Hợp đồng 2 giữa vợ chồng A với B là 775 triệu .
+ Hợp đồng 3 giữa vợ chồng A với C (B không ký tên vào hợp đồng này) là 950 triệu.
Như vậy, ta không thể xác định đâu mới là giá thực của hợp đồng. Hội đồng thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao xác định việc vợ chồng A, B, C đều tỏ ý thuận mua vừa bán nhưng lại lập 3 hợp
đồng trong cùng một ngày. Toà theo hướng xác định giá trị thực tế của căn nhà vợ chồng A bán
nếu phù hợp với giá của hợp đồng nào thì công nhận hợp đồng đó.
- Theo tác giả Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam bản án và bình luận bản án cho rằng:
“Với sự biến động của thị trường, hoàn toàn có thể xảy ra hoàn cảnh theo đó giá tại thời điểm
giao kết hợp đồng là thấp nhưng giá hiện nay (vẫn trên cùng một thị trường và cùng địa điểm)

6


lại cao hơn rất nhiều. Đối với hoàn cảnh như vậy mà buộc bên bán phải chấp nhận khoản tiền
thể hiện giá của thời điểm giao kết là không thuyết phục. Trong trường hợp này, chúng ta vẫn
cần xác định giá trị hiện tại và buộc bên có nghĩa vụ phải trả khoản tiền theo thời giá (nếu đã trả
một phần thì theo thời giá phần còn thiếu và nếu chưa trả phần nào thì trả toàn bộ theo thời
giá)”.
Vụ việc và lý luận của tác giả cho thấy rằng việc xác định giá trị thị trường của tài sản khi có
phát sinh tranh chấp, nghĩa vụ trong hợp đồng đồng không có giá hoặc có giá nhưng không rõ
ràng là công bằng đối với hai bên. Điều này cũng phù hợp với quy định của BLDS và cũng nằm
trong phạm vi điều chỉnh của thông tư 01/1996.

Tóm lại, ông Tấn cần trả đúng với giá thị trường khi định giá hai mảnh đất của ông Minh, bà
Oanh là 1.200.000.000 đ và trừ đi khoản tiền đã thanh toán là 100.000.000đ trước đó. Thực tế
ông Tấn đã trả 1/3 số tiền trong hợp đồng trên, bởi vậy, ông Tấn sẽ trả nốt phần còn lại là 2/3 số
tiền. Và 2/3 số tiền còn lại theo giá thị trường hiện nay là 800.000.000đ. Cho nên, số tiền mà ông
Tấn phải trả là 800.000.000đ.
Vấn đề 4: Chuyển giao nghĩa vụ dân sự theo thỏa thuận

Câu 1: Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao
nghĩa vụ theo thỏa thuận?
Giống: Đều là bên có quyền thỏa thuận với người thứ ba để chuyển giao quyền cho người thứ ba
thực hiện.
Khác:
Thứ nhất, về đối tượng có quyền chuyển giao:
Trong chuyển giao quyền yêu cầu, bên có quyền là người có quyền chuyển giao. Đối với chuyển
giao nghĩa vụ dân sự thì bên có nghĩa vụ là người có quyền chuyển giao.
Thứ hai: về nguyên tắc việc chuyển giao:
Chuyển giao quyền yêu cầu không cần có sự đồng ý của người có nghĩa vụ vì trong mọi trường
hợp người có nghĩa vụ dều phải thực hiện đúng nội dung của nghĩa vụ đã được xác định. Tuy
nhiên người chuyển quyền phải thông báo cho người có nghĩa vụ biết về việc chuyển giao quyền
yêu cầu. Theo quy định của pháp luật, việc thông báo này phải được lập thành văn bản (Khoản 2,
Điều 309 Bộ luật dân sự 2005). Vì vậy, nếu bên có nghĩa vụ không được thông báo thì có quyền
từ chối thực hiện nghĩa vụ đối với bên thế quyền.
Trong khi đó, chuyển giao nghĩa vụ buộc phải có sự đồng ý của bên có quyền. Quy định này rất

7


phù hợp vì trong quan hệ nghĩa vụ, quyền của một bên có được đảm bảo hay không hoàn toàn
phụ thuộc vào việc thực hiện nghĩa vụ của bên kia. Người thực hiện nghĩa vụ khi chuyển giao
nghĩa vụ phải đảm bảo cho người kế thừa nghĩa vụ đó có khả năng thực hiện nghĩa vụ. Khi người

có quyền đồng ý, việc chuyển giao mới có thể được thực hiện.
Thứ ba, về hiệu lực của biện pháp bảo đảm:
Nếu chuyển giao quyền yêu cầu mà quyền yêu cầu có biện pháo bảo đảm thực hiện nghĩa vụ kèm
theo thì biện pháp bảo đảm được chuyển giao sang người thế quyền. Tuy nhiên, đối với chuyển
giao nghĩa vụ theo thỏa thuận, nếu nghĩa vụ thực hiện có biện pháp bảo đảm được chuyển giao
thì biện pháp bảo đảm đó đương nhiên chấm dứt (trừ trường hợp các bên không có thỏa thuận
khác).

Câu 2: Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho bà Tú?
Theo biên nhập tiền do phía bà Tú cung cấp thì chính bà Phượng là người trực tiếp nhận tiền của
bà Tú vào năm 2003 với tổng số tiền 555.000.000đ và theo biên nhận ngày 27/4/2004 thì thể hiện
bà Phượng nhận của bà Lê Thị Nhan số tiền 615.000.000đ. Phía bà Phượng không cung cấp
chứng cứ xác định bà Ngọc thỏa thuận vay tiền với bà Tú. Ngoài ra, cũng theo lời khai của bà
Phượng thì vào tháng 4 năm 2004, do phía bà Loan, ông Thạnh, bà Ngọc không có tiền trả cho bà
Tú để trả vốn vay Ngân hàng nên bà Phượng đã cũng bà Tú vay nóng bên ngoài để có tiền trả cho
Ngân hàng. Xác định bà Phượng là người xác lập quan hệ vay tiên với bà Tú
Xét hợp đồng vay tiền giữa bà Phượng với bà Tú thì bà Phượng phải có nghĩa vụ thanh toán cả
vốn lẫn lãi cho bà Tú.

Câu 3: Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển sang
cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?
Phía bà Tú chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông
Thạnh thể hiện qua việc bà Tú đã lập hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền 465.000.000đ và hợp
đồng cho bà Loan, ông Thạnh vay số tiền 150.000.000đ vào ngày 12/5/2005. Như vậy, kể từ thời
điểm bà Tú xác lập hợp đồng với bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ của bà
Phượng với bà Tú đã chấm dứt.

8



Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về đánh giá trên của Tòa án?
- Tòa xử như vậy là hợp lý (theo Điều 315 BLDS 2005) vì khi bà Phượng chuyển nghĩa vụ
dân sự cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh đã làm chấm dứt quan hệ giữa bên có nghĩa vụ ban
đầu (bà Phượng), làm phát sinh nghĩa vụ của người nhận chuyển giao (bà Ngọc, bà Loan và ông
Thạnh) với bên có quyền (bà Tú).

Câu 5: Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm đối với
người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời?
- Chuyển giao nghĩa vụ dân sự làm chấm dứt quan hệ giữa bên có nghĩa vụ ban đầu, phát sinh
nghĩa vụ của người nhận chuyển giao với bên có quyền nên việc chuyển giao nghĩa vụ dân sự
phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
+ Thứ nhất, việc chuyển giao nghĩa vụ dân sự buộc phải được sự đồng ý của bên có quyền. Bởi
lẽ, khi bên có nghĩa vụ thay đổi thì bản thân bên có quyền sẽ phải quan tâm đến quyền lợi của
mình thông qua việc đánh giá khả năng thực hiện nghĩa vụ của bên thể nghĩa vụ.
+ Thứ hai, nghĩa vụ được chuyển giao phải là những nghĩa vụ có hiệu lực pháp lý và phải không
thuộc những trường hợp pháp luật không cho phép chuyển giao nghĩa vụ (những nghĩa vụ gắn
liền với nhân thân, nghĩa vụ đang có tranh chấp, nghĩa vụ mà pháp luật quy định hoặc các bên
thỏa thuận không được chuyển giao…).
Việc chuyển giao nghĩa vụ dân sự có hiệu lực sẽ làm chấm dứt mối quan hệ pháp lý giữa bên có
nghĩa vụ với bên có quyền và làm phát sinh mối quan hệ pháp lý giữa người thế nghĩa vụ với bên
có quyền. Theo đó, người thế nghĩa vụ sẽ trở thành người có nghĩa vụ, phải thực hiện đúng và
đầy đủ nghĩa vụ trước bên mang quyền.
Khi chuyển giao nghĩa vụ, bên đã chuyển giao không phải chịu trách nhiệm về hành vi không
thực hiện, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của bên thế nghĩa vụ trước bên có quyền, trừ trường
hợp các bên thỏa thuận khác.
Cơ sở pháp lý: Điều 315 Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 370 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Câu 6: Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm
với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được chuyển
giao? Nêu rõ quan điểm của tác giả mà anh, chị biết?

Theo tác giả Chế Mỹ Phương Đài, người có nghĩa vụ ban đầu không phải chịu trách nhiệm với
người có quyền khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao. Vì việc

9


chuyển giao nghĩa vụ là sự thỏa thuận giữa ba bên: bên có quyền, bên có nghĩa vụ ban đầu và
người thứ ba thay thế nghĩa vụ trước đó. Trên cơ sở sự thỏa thuận và sự đồng ý của bên có quyền
thì người thứ ba thay thế người có nghĩa vụ trước đó trở thành người có nghĩa vụ mới. Sau khi
việc chuyển giao nghĩa vụ có hiệu lực, người có quyền chỉ có thể yêu cầu người thế nghĩa vụ
thực hiện nghĩa vụ nên người có nghĩa vụ ban đầu không có trách nhiệm khi nghĩa vụ không
được thực hiện.
Câu 7: Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án có theo hướng người có nghĩa vụ ban đầu
không còn trách nhiệm đối với người có quyền?
Đoạn trong bản án:
"Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc....bà Phượng có trách nhiệm
thanh toán khoản nợ cho bà là không có căn cứ chấp nhận"
Câu 8: Suy nghĩ của anh, chị về hướng giải quyết trên của Tòa án?
Hướng giải quyết của Tòa án là hợp lý. Vì trong hợp đồng vay tiền của bà Phượng với bà Tú, bà
Phượng đã vi phạm hợp đồng là không trả vốn và lãi. Nên bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng
chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh, làm phát sinh nghĩa vụ của ba
người này (Khoản 2 Điều 370 BLDS).
Câu 9: Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo lãnh của
người thứ ba thì, khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh có chấm dứt không?
Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời?
Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo lãnh của người
thứ ba thì khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh sẽ chấm dứt trừ trường hợp
hai bên có thỏa thuận khác. Căn cứ pháp lý Điều 371 BLDS 2015.

10




×