Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM TOAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.42 KB, 5 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ÁP DỤNG DẠY HỌC TÍCH CỰC ĐỂ RÈN LUYỆN KỸ NĂNG THỰC HÀNH PHÉP NHÂN
CHO HỌC SINH LỚP 3
PHẦN I. MỞ ĐẦU
I.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.Xuất phát từ vị trí và tầm quan trọng của dạy phép nhân trong việc dạy môn Toán trong
tiểu học.
Việc dạy học ở các trường tiểu học nước ta có một quá trình phát triển lâu.Chương trình môn
Toán ở bậc Tiểu học gồm có 5 tuyến kiến thức chính là: Số đại số, các yếu tố hình học, đo các
đại lượng, giải toán.Trong đó số lớn nhất trọng tâm đóng vai trò “cái trục chính” mà bốn
mạch chuyển động chung quanh nó, phụ thuộc vào nó.Các biện pháp tính, của phép nhân và
dãy tính.Trong ba mảng kiến thức này thì mảng các biện pháp tính là quan trọng nhất, đặc
biệt là việc rèn luyện kỹ năng thực hành phép nhân , chia đóng vai trò hết sức chủ đạo, nó là
trọng tâm của tuyến kiến thức số học, đại số và là hạt nhân của toàn bộ chương trình tiểu học.
Bắt đầu từ năm 2003-2004, bảng nhân 2, 3, 4, 5 chính thức được đưa vào chương tình Toán
lớp hai ở bậc tiểu học.Nói như vậy thấy tầm quan trọng và vai trò của phép nhân trong môn
Toán.Trong các kỳ thi môn Toán của lớp 2, 3, 4, 5 đặc biệt là thi học sinh giỏi bậc tiểu học
luôn xuất hiện các bài toán có liên quan đến phép tính nhân.Vì vậy tính nhân, chính là “ chìa
khoá “ và “ cầu nối” giữa toán học và thực tiễn đời sống.Nó chiếm vị trí rất quan trọng trong
chương trình môn toán lớp 3 và môn toán tiểu học nói chung nhất là về mặt thực hành tính
toán.
2.Xuất phát từ nhu cầu đặt ra trong công cuộc đổi mới giáo dục nói chung và đổi mới dạy học
môn toán ở tiểu học nói riêng.
Công cuộc đổi mới kinh tế, xã hội đang diễn ra từng ngày từng giờ trên khắp đất nước.Nó đòi
hỏi phải có những lớp người lao động mới có bản lĩnh, có năng lực, chủ động sáng tạo, dám
nghĩ dám làm, thích ứng được với thực tiễn đời sống xã hội luôn luôn phát triển.Nhu cầu này
làm cho mục tiêu đào tạo của nhà trường phải được điều chỉnh một cách hợp lý dẫn đến sự
thay đổi tất yếu về nội dung và phương pháp dạy học.
Đặc điểm của phương pháp dạy học cũ là có sự mất cân đối rõ rệt giữa hoạt động dạy của
giáo dục và hoạt động của học sinh.Trong đó:
- Giáo viên thường chỉ truyền đạt, giảng giải các tài liệu đã có sẵn trong sách giáo khoa, sách


giáo viên (hướng dẫn giảng dạy).Vì vậy giáo viên thường làm việc một cách máy móc và ít
quan tâm đến việc phát huy khả năng sáng tạo của học sinh.
- Học sinh học tập một cách thụ động, chủ yếu chỉ nghe giảng ghi nhớ rồi làm theo bài
mẫu.Do đó học sinh ít có hứng thú học tập, nội dung các hoạt động học tập thường rất nghèo
nàn, đơn điệu, các năng lực vốn có của học sinh ít có cơ hội phát triển.
- Giáo viên là người duy nhất có quyền đánh giá kết quả học tập của học sinh. Học sinh ít khi
được tự đánh giá mình và đánh giá lẫn nhau.Tiêu chuẩn đánh giá học sinh là kết quả ghi nhớ,
tái hiện những điều giáo viên đã giảng.
Cách dạy học như vậy đang cản trở việc đào tạo những người lao động năng động, tự tin, linh
hoạt, sáng tạo, sẵn sàng với những đổi mới đang diễn ra hàng ngày. Do đó chúng ta phải có cố
gắng đổi mới phương pháp dạy học để nâng cao chất lượng giáo dục đáp ứng nhu cầu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước trong thế kỷ XXI.
3.Xuất phát từ thực trạng việc dạy học môn toán cụ thể là kỹ năng thực hành phép nhân cho
học sinh lớp 3 trong nhà trường Tiểu học hiện nay.
Trong chương trình môn học ở bậc tiểu học, môn toán chiếm số giờ rất lớn. Bốn phép tính
cộng, trừ, nhân , chia được sử dụng hầu hết vào các khâu trong quá trình dạy học toán.Tuy
vậy, phép nhân, phép chia là khái niệm trừu tượng.Vì vậy việc nâng cao hiệu quả rèn luyện
kỹ năng thực hành phép nhân, phép chia là một vấn đề cấp bách và thường xuyên.


Một trong những mục tiêu của môn Toán của bậc tiểu học là hình thành các kỹ năng thực
hành tính toán.Bởi vậy, ngay từ lớp 2, học sinh đã được làm quen với bảng nhân với 2, 3, 4, 5
trong phạm vi 100.Sang lớp ba, học sinh học bảng nhân với 6, 7, 8, 9 và nhân chia ngoài bảng
trong phạm vi1.000.000 (với số có một chữ số).Việc rèn luyện các kỹ năng thực hành phép
nhân giúp cho học sinh nắm chắc một số tính chất cơ bản của các phép tính viết, thứ tự thực
hiện các phép tính trong các biểu thức có nhiều phép tính , mối quan hệ giữa các phép tính
(đặc biệt giữa phép cộng và phép nhân, phép nhân và phép chia).Đồng thời dạy học phép
nhân , phép chia tên tập hợp số tự nhiên nhằm củng cố các kiến thức có liên quan đến môn
toán như đại lượng và phép đi đại lượng các yếu tố hình học, giải toán. Ngoài ra rèn kỹ năng
thực hành phép nhân, phép chia con góp phần trọng yếu trong việc phát triển năng lực tư

duy, năng lực thực hành, đặc biệt là khả năng phân tích, suy luận lôgíc và phẩm chất không
thể thiếu được của người lao động mới.
Xuất phát từ những lý do thực tế trên, qua nghiên cứu quá trình dạy học môn toán lớp 3 ở
bậc tiểu học, là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy, kết hợp với những hiểu biết đã có và
những điều mới mẻ lĩnh hội được từ các bại giảng về “phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học”
của các thầy giáo trường Đại học Sư Phạm, trong khuôn khổ cho phép của một đề tài khoa
học, tôi quyết định chọn đề tài:
“áp dụng dạy học tích cực để rèn kỹ năng thực hành phép nhân cho học sinh lớp 3”
II.MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đề tài nhằm:
- Tìm hiểu những vấn đề lí luận về đổi mới dạy học tích cực nói chung và dạy học tích cực
trong môn Toán nói riêng.
- Vận dụng dạy học tích cực để thiết kế bài dạy để rèn luyện kỹ năng thực hành phép nhân
góp phần nâng cao chất lượng dạy và học Toán Tiểu học nói chung và lớp 3 nói riêng.
- Đề tài này biểu hiện kết quả tự học, tự rèn luyện nâng cao tay nghề của bản thân, tôi rất
mong nhận được sự góp ý của các bạn đồng nghiệp, quý thầy cô của trường Đại học Sư phạm
để đổi mới , nâng cao hiệu quả dạy học rèn luyện kỹ năng thực hành phép nhân, phép chia
cho học sinh lớp 3.
III.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Đọc các tài liệu giáo trình có liên quan đến vấn đề nghiên
cứu.Tham khảo sáng kiến, kinh nghiệm của đồng nghiệp.
- Phương pháp quan sát: Thông qua dự giờ.
- Phương pháp điều tra: Tìm hiểu thực trạng việc dạy phép nhân lớp 3(chương trình Toán
2000).
- Phương pháp thực nghiệm: Kiểm nghiệm tính khả thi của đề tài và tác dụng của những ý
kiến đề xuất về rèn kỹ năng thực hành phép nhân, phép chia cho học sinh lớp 3 theo hướng
phát huy tính tích cực của học sinh.
IV.TÓM TẮT NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu, phần thực nghiệm và phần kết luận, đề tài gồm có các nội dung chính
sau đây:

chương: Trong chương trình này chúng tôi xin trình bày những vấn đề chung về dạy học tích
cực.
Chương II: Đây là chương chúng tôi xin trình bày về nội dung và phương pháp dạy học tích
cực để rèn kỹ năng thực hành phép nhân cho học sinh lớp 3.
Chương III: Chúng tôi xin nói về thực trạng dạy học phép nhân trong nhà trường Tiểu học
hiện nay.
Chương IV: Chúng tôi xin phép được đề xuất một số ý kiến của bản thân và các đồng nghiệp
để góp phần nâng cao hiệu quả của giờ dạy Toán nói chung và việc dạy học phép nhân cho
học sinh lớp 3 nói riêng.
V.MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC


Dặt vấn đề
I- Lí do chọn đề tài
Xuất phát từ thực tiễn triển khai thực hiện chương trình và các bộ môn học lớp 1,2 3 theo chương
trình do bộ trưởng bộ Giáo dục và đào tạo ban hành mà ngành giáo dục và đào tạo hiện nay đang
được toàn xã hội quan tâm ở mức cao nhất về nội dung chương trình, chất lượng dạy học.
Chất lượng giáo dục đào tạo trong các nhà trường đã được nâng cao lên song vẫn còn hạn chế : học
sinh chưa khai thác hết khả năng tiềm ẩn trong nội dung bài học để từ đó tìm ra chìa khoá giải quyết
vấn đề .
Đối với giáo viên thời gian gần đây đã được tham gia các lớp học bồi dưỡng thay sách. Nhiều thầy
cô đã được công nhận là giáo viên dạy giỏi các cấp , tuy nhiên còn không ít thầy cô chưa khuyến
khích học sinh học tập một cách chủ động, sáng tạo đặc biệt là vận dụng kiến thức đã học trong đòi
sống.
Về nhận thức mỗi giáo viên phải thấy đổi mới phương pháp dạy học là góp phần nâng cao chất
lượng dạy học.
đáp ứng việc đổi mới nội dung, phương pháp dạy học năm học 200.. tôi đã thực hiện đề tài này cho
thấy kết quả dạy học đã được nâng lên , bước đầu khuyến khích học sinh học tốt hơn. Qua một năm
thử nghiệm bổ sung nhiều thiếu sót, đúc rút kinh nghiệm , năm học 2000.. tôi tiếp tục vận dụng đề
tài “Luyện tính nhẩm cho học sinh lớp 2” trong giảng dạy môn toán 2 phần cộng , trừ có nhớ trong

phạm vi 100, nhằm trang bị cho học sinh một tư duy mới, một phương pháp mới khoa học và ưu
việt.
Đối tượng nghiên cứu học sinh lớp 2
Phạm vi áp dụng lớp 2 của trường
Thời gian thực hiện năm học ...
B Quá trình thực hiện đề tài
1- Tình trạng thực tế khi chưa thực hiện đề tài :
Giáo viên thực hiện đầy đủ các yêu cầu của tiết dạy, tăng cường luyện tập thực hành , hình thành kĩ
năng toán học cho học sinh , song việc khuyến khích học sinh tính bằng nhiều cách, lựa chọn cách
tính còn hạn chế. Học sinh thuộc bảng cộng trừ , năm được thuật tính , chưa thấy được sự đa dạng
phong phú của các bài tập , khả năng vận dụng cộng trừ nhẩm trong đòi sống chậm .
2 số liệu điều tra trước khi thực hiện :

3- Những biện pháp pháp thực hiện :
Đơn vị cơ bản của quá trình dạy học là các tiết dạy vì vậy trong uqá trình dạy học giáo viên phải
nghĩ đến từng tiết học .Bất cứ tiết học nào cũng có một số bài tập để củng cố , thực hành trực tiếp
các kiến thức mới, giáo viên vừa giúp học sinh nắm chắc kiến thức kĩ năng cơ bản nhất vừa hình
thành được phương pháp học tập cho các em .
Cùng với việc đổi mới về cấu trúc, nội dung sách giáo khoa, trong mỗi tiết học giáo viên tổ chức
hướng dẫn học sinh hoạt động học tập giúp các em nắm được kién thức cơ bản về phép cộng trừ có
nhớ trong phạm vi 100, khuến khích học sinh tìm ra kết quả bằng nhiều cách .Đồng thời hình thành
và rèn cho học sinh các kĩ năng thực hành về cộng trừ, đặc biệt Trên cơ sở nghiên cứu tài liệu,
điều tra, quan sát tình hình thực tế và trực tiếp giảng dạy phép nhân cho học sinh lớp 3 chúng
tôi đã nhận được kết quả như sau:
- Tìm hiểu những nội dung và phương pháp giảng dạy học cho học sinh lớp 3.
- Tìm hiểu, phân tích, tổng hợp chương trình sách giáo khoa Toán 3 và phân loại các bài toán
có liên quan đến phép nhân ở lớp 3 thành những dạng cơ bản.
- Tìm hiểu một số vấn đề cơ bản về dạy học tích cực để dạy học các nội dung trên.
- Từ những kết quả ở phần trên, chúng tôi thiết kế thực nghiệm dạy học 2 tiết học và thu được
kết quả đáng khích lệ.

VI.TRIỂN VỌNG NGHIÊN CỨU SAU ĐỀ TÀI


Rèn kỹ năng thực hành phép nhân cho học sinh lớp 3 nói riêng, dạy học Toán ở tiểu học nói
chung theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, đáp ứng được mục tiêu của giáo dục
hiện đại.

Biện pháp rèn cho học sinh kỹ năng trình bày
bài làm môn Toán
Học Toán cũng nhưng học các môn khoa học khác, việc rèn cho học sinh có thói quen trình bày bài
làm một cách logic, khoa học và chặt chẽ là cần thiết. Quan trọng hơn, qua việc rèn luyện đó, học
sinh dần dần thói quen suy nghĩ nghiêm túc, cẩn thận và tác phong làm việc khoa học.
Qua thực tế giảng dạy môn Toán, tôi nhận thấy một số biện pháp/yêu cầu đơn giản và hiệu quả
cao. Đặc biệt, các biện pháp này tỏ ra rất hiệu quả với đối tượng học sinh có tư duy tốt nhưng cách
trình bày bài làm và kĩ năng tính toán thì ẩu thả. Thú vị hơn nữa, ngay cả với những học sinh có chữ
viết xấu, rất xấu, sau một thời gian rèn theo các biện pháp này thì chữ viết được cải thiện đáng kể.
Buổi học đầu tiên của khóa học/năm học, bạn hãy dành một lượng thời gian thỏa đáng để bạn và
các học sinh có thể hiểu nhau, bạn hãy "thỏa thuận" với học sinh một cách rõ ràng và nghiêm túc
các yêu cầu dưới đây, hãy yêu cầu các em ghi ngay vào trang đầu của quyển vở. Trong quá trình
giảng dạy của mình, bạn thường xuyên nhắc nhở và kiểm tra việc học sinh thực hiện các yêu cầu đó
như thế nào, đặc biệt là các buổi học đầu tiên.
1. Vở nháp phải dày[1], thước kẻ phải có
2. Ghi chép đầy đủ, chính xác những gì giáo viên yêu cầu ghi chép.
3. Không tẩy, xóa trong bài làm, dù trong vở ghi hay trong bài làm kiểm tra. Mỗi chỗ tẩy,
xóa đều bị trừ điểm.
4. Trình bày hay, được làm mẫu, bài làm có lối trình bày hay được biểu dương và trình bày
trước tập thể.
5. Khuyến khích phong cách riêng, hãy đề cao việc học sinh có lối, phong cách trình bày
riêng của mình.


Giải thích các yêu cầu
Yêu cầu (1) là tiền đề bắt buộc để thực hiện các yêu cầu khác. Hãy nhấn mạnh cho học sinh rằng,
KHÔNG được xé vở nháp. Hãy phân tích cho các em hiểu rằng, vở nháp còn giá trị hơn cả vở ghi,
vì vở nháp thể hiện cả quá trình tư duy, tìm tòi lời giải bài toán còn vở ghi chỉ thể hiện được kết quả
của cả quá trình đó. Ví dụ dễ hiểu là, hãy so sánh 2 bài làm cùng được điểm 10 có cùng cách giải
giống nhau của hai học sinh khác nhau, vậy bạn nào học tốt hơn? Câu trả lời là, chỉ căn cứ vào bài
làm thì không phân biệt được ai hơn ai, nhưng nếu tham khảo thêm vở nháp ta sẽ biết ai giỏi hơn!
Nhưng nếu cả hai đều không ghi nháp thì sao?
Vở nháp phải dày? Hãy nói với học sinh của bạn rằng, nếu mỗi môn học đều cần có một quyển vở
nháp thì vở nháp có dày không?
Yêu cầu (2) là mức độ thấp nhất, mức độ bắt chước chính xác những chuẩn mực về cách trình bày
của giáo viên. Giáo viên nên chuẩn bị sẵn và có thói quen trình bày các bài giải một cách mẫu mực.


Yêu cầu (3), nghe có vẻ lạ. Một yêu cầu không có trong bất cứ quy chế nào[2], vì thế chúng ta mới
"thỏa thuận" với học sinh về điều này, hãy làm cho các em hiểu giá trị của nó và chấp nhận nó một
cách tự nhiên. Đây là yêu cầu "cốt lõi" trong tất cả các yêu cầu, học sinh sẽ phải nháp, nháp và nháp
trước khi nhấc bút ghi vào bài làm. Nếu coi quá trình nháp chính là quá trình phân tích, mày mò,
tìm tòi lời giải thì việc trình bày bài làm vào vở là tổng hợp, nhìn lại tư duy. Nó không chỉ giúp bài
làm của học sinh mạch lạc, sạch sẽ mà còn giúp học sinh kiểm tra lại, chính xác hóa lời giải và đôi
khi là phát hiện hướng đi, lời giải khác.
Thêm nữa, với học sinh "ẩu thả", nếu có điều kiện thời gian, bạn hãy thường xuyên yêu cầu các em
trình bày ra nháp và bạn kiểm tra, đến khi nào các em trình bày trong vở nháp mà cũng không hề có
tẩy xóa và hợp lý thì mới cho trình bày vào vở ghi. Hãy lặp lại yêu cầu này, càng nhiều lần càng tốt
ngay từ những buổi học đầu tiên.
Yêu cầu (4), ồ thật hiển nhiên. Hãy dạy cho các em biết trân trọng cái hay cái đẹp và ghi nhận
những nỗ lực, cố gắng tạo ra cái hay, cái đẹp và có thái độ, việc làm tích cực tạo cái hay, cái đẹp.
Yêu cầu (5), đây là yêu cầu cao nhất là kết quả cần đạt tới của cả quá trình học tập, yêu cầu thể hiện
tính sáng tạo, thể hiện cái tôi. Nếu như các yêu cầu (2), (3), (4) ít nhiều vẫn mang tính "bắt chước",
thì yêu cầu này là "thói quen". Tư duy là tư duy của cái tôi, mỗi người đều có lối tư duy khác nhau,

học sinh cũng vậy. Nhiệm vụ của các nhà giáo chúng ta là phát hiện ra đặc thù tư duy[3] của các em,
giúp các em hoàn thiện và phát triển nó một cách phù hợp nhất.

PHẦN I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Môn toán là một trong những môn học có vị trí quan trọng ở bậc Tiểu học. Trong những năm
gần đây, xu thế chung của thế giới là đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh trong quá trình dạy học. Một trong những bộ
phận cấu thành chương trình toán Tiểu học mang ý nghĩa chuẩn bị cho việc học các yếu tố đại
lượng và đo đại lượng ở các lớp học, cấp học trên, đồng thời giúp học sinh những hiểu biết
cần thiết khi tiếp xúc với những “tình huống toán học” trong cuộc sống hàng ngày.
Trong những năm gần đây, phong trào đổi mới phương pháp dạy học trong trường Tiểu học
được quan tâm và đẩy mạnh không ngừng để ngay từ cấp Tiểu học, mỗi học sinh đều cần và
có thể đạt được trình độ học vấn toàn diện, đồng thời phát triển được khả năng của mình về
một môn nào đó nhằm chuẩn bị ngay từ bậc Tiểu học những con người chủ động, sáng tạo
đáp ứng được mục tiêu chung của cấp học và phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước.
Dạy toán ở tiểu học vừa phải đảm bảo tính hệ thống chính xác của toán học vừa phải đảm bảo
tính vừa sức của học sinh. Kết hợp yêu cầu đó là một việc làm khó, đòi hỏi tính khoa học và
nhận thức, tốt về cả nội dung lẫn phương pháp. Trong chương trình dạy toán 2 việc dạy đổi
đơn vị đo độ dài là một trong những nội dung được đề cập.
Một trong những nhiệm vụ cơ bản dạy đổi đơn vị đo độ dài là học sinh phải nắm được mối
quan hệ giữa các đơn vị đo từ đó mới đổi được các số đo độ dài.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×