ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN VĂN CƯỜNG
Téi tham « tµi s¶n
trong luËt h×nh sù ViÖt Nam
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN VĂN CƯỜNG
Téi tham « tµi s¶n
trong luËt h×nh sù ViÖt Nam
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ LAN CHI
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Văn Cường
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng, biểu đồ
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN .............6
1.1.
Khái niệm, đặc điểm của tội tham ô tài sản, ý nghĩa của việc quy
định tội tham ô tài sản trong luật hình sự .................................................6
1.1.1.
Khái niệm tội tham ô tài sản..........................................................................6
1.1.2.
Đặc điểm pháp lý của tội tham ô tài sản .......................................................9
1.1.3.
Phân biệt tội tham ô tài sản với một số tội phạm khác................................17
1.1.4.
Ý nghĩa của việc quy định tội tham ô tài sản trong luật hình sự .................20
1.2.
Tội tham ô tài sản trong pháp luật quốc tế .............................................22
1.2.1.
Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng ...................................22
1.2.2.
Pháp luật của một số quốc gia trên thế giới quy định về tội tham ô tài sản ......24
1.3.
Tội tham ô tài sản trong lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam ...............27
1.3.1.
Tội tham ô tài sản trong luật pháp Việt Nam thời kỳ phong kiến ...............27
1.3.2.
Tội tham ô tài sản trong luật pháp Việt Nam từ Cách mạng Tháng
tám năm 1945 đến nay ................................................................................30
Kết luận Chương 1 ..................................................................................................36
Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI THAM
Ô TÀI SẢN VÀ THỰC TIỄN XỬ LÝ.....................................................37
2.1.
Tội tham ô tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 ..........37
2.2.
Thực tiễn xử lý tội tham ô tài sản trong những năm gần đây ...............50
2.3.
Những ưu điểm, hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình
sự đối với tội tham ô tài sản và nguyên nhân .........................................61
2.3.1.
Những ưu điểm trong vận dụng quy định của pháp luật hình sự trong
xử lý tội tham ô tài sản ................................................................................61
2.3.2.
Những hạn chế trong thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình
sự về tội tham ô tài sản trong điều tra, truy tố, xét xử.................................63
2.3.3.
Nguyên nhân của những hạn chế ................................................................77
Kết luận Chương 2 ..................................................................................................83
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ TỘI
THAM Ô TÀI SẢN ...................................................................................84
3.1.
Giải pháp về hoàn thiện pháp luật hình sự .............................................84
3.1.1.
Những định hướng chung về chính sách hình sự ........................................84
3.1.2.
Những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định quy phạm pháp luật
về tội tham ô tài sản.....................................................................................87
3.2.
Các giải pháp khác ....................................................................................95
3.2.1.
Nâng cao năng lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong điều tra,
xử lý tội phạm tham ô tài sản ......................................................................95
3.2.2.
Nâng cao vai trò của các cơ quan kiểm toán, thanh tra nội bộ, thanh
tra chuyên ngành trong phối hợp với cơ quan tiến hành tố tụng .................97
3.2.3.
Nâng cao vai trò của hệ thống chính trị, vai trò giám sát của cơ quan
dân cử, của dư luận xã hội và quần chúng nhân dân ....................................98
3.2.4.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý tài sản để hạn chế nguyên
nhân điều kiện phạm tội ............................................................................100
Kết luận Chương 3 ................................................................................................103
KẾT LUẬN ............................................................................................................104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................106
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:
Bộ luật hình sự
CSĐT:
Cảnh sát điều tra
HĐXX:
Hội đồng xét xử
PCTN:
Phòng chống tham nhũng
TAND:
Tòa án nhân dân
TP:
Thành phố
VKS:
Viện kiểm sát
VKSND:
Viện kiểm sát nhân dân
XHCN:
Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Số hiệu
Tên bảng, biểu đồ
Bảng 2.1. Hình phạt áp dụng đối với tội tham ô tài sản 2010 – 2014
Trang
55
Biểu đồ 2.1: Số lượng vụ án và bị cáo của tội tham ô tài sản trong giai
đoạn 2010 – 2014
Biểu đồ 2.2:
51
Số án tham ô tài sản trong nhóm tội danh tham nhũng
giai đoạn 2010 – 2014
52
Biểu đồ 2.3: Số lượng án tham ô tài sản bị tòa án trả lại hồ sơ yêu cầu
điều tra bổ sung
54
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với mục tiêu xây dựng bộ máy nhà nước của dân, do dân, vì dân và thật sự
trong sạch, vững mạnh, lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi tệ tham ô là một
căn bệnh, là hành động xấu xa nhất. Người cho rằng: “Tham ô là lấy của công làm
của tư. Là gian lận tham lam”, “tham ô là trộm cướp”. Hồ Chí Minh cho rằng:
“Đứng về phía cán bộ mà nói, tham ô là lấy của công làm của tư; đục khoét của
Nhân dân; ăn bớt của bộ đội; tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung của chính
phủ làm quỹ riêng cho địa phương, đơn vị mình cũng là tham ô. Đứng về phía nhân
dân mà nói, tham ô là “ăn cắp của công, khai gian lậu thuế” [21, tr.488]. Thấm
nhuần tư tưởng của Người, Đảng ta luôn coi tham nhũng là một trong bốn nguy cơ
lớn của nước ta và luôn khẳng định quyết tâm đấu tranh phòng, chống tệ nạn tham
nhũng. Tiếp nối tư tưởng này của Đảng từ các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VIII, IX, X, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI tiếp tục khẳng
định: “Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
lãng phí để thực sự ngăn chặn, đẩy lùi được tệ nạn này”. Hiến pháp năm 2013, tại
khoản 2 Điều 8 đòi hỏi: “... Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức
phải thực sự tôn trọng nhân dân, liên hệ mật thiết với nhân dân, lắng nghe ý kiến và
chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và
mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền” [26, Điều 8].
Trong cơ chế thị trường hiện nay, kinh tế là lĩnh vực luôn tiềm ẩn khả năng
tham ô lớn. Bởi ở đó lợi ích vật chất được xác định là động lực thúc đẩy mạnh mẽ
hành vi tham ô tài sản. Thực tiễn cho thấy, tội phạm tham ô, tham ngày càng gia
tăng với quy mô và mức độ phức tạp cao hơn. Động cơ vụ lợi đã khiến không ít cán
bộ, công chức cố tạo cho mình một đặc quyền nào đó để chiếm đoạt tài sản có trách
nhiệm quản lý bằng các thủ đoạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Hiện nay, tình hình
tội phạm tham ô ở nước ta hiện nay đang diễn ra cả ở chiều rộng, lẫn chiều sâu và
sức công phá của nó không phải chỉ dừng lại ở lĩnh vực kinh tế mà cả chính trị, xã
1
hội. Trong khi đó, BLHS năm 1999 đã có hiệu lực pháp luật gần 15 năm, nhiều quy
định của Bộ luật hình sự (BLHS) không còn phù hợp nhưng chưa được giải thích
hướng dẫn cụ thể. Mặt khác, những năm gần đây xuất hiện ngày càng nhiều các vụ
án tham ô tài sản có tính chất nổi cộm, quy mô ngày càng lớn, thủ đoạn tinh vi,
phức tạp và tổ chức chặt chẽ như Tham ô tài sản ở Vinashin, Vinaline, Tham ô tại
Công ty cho thuê tài chính 2 ALC – Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn…; thực tế điều tra những vụ án tham nhũng nói chung và tham ô tài sản nói
riêng hiệu quả còn hạn chế đã và đang đặt ra vấn đề với các nhà lập pháp trong quá
trình hoàn thiện pháp luật cũng như các cơ quan tư pháp trong điều tra xét xử tội
phạm tham ô tài sản. Do vậy học viên lựa chọn vấn đề: “Tội tham ô tài sản trong
luật hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Thời gian qua, đã có không ít công trình nghiên cứu về tội phạm tham ô tài
sản. Tội phạm này được đề cập, phân tích trong một số giáo trình và sách tham khảo
như: Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm (Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2003) của tập thể tác giả do GS.TSKH. Lê Cảm chủ biên; Giáo trình Luật
Hình sự Việt Nam (tập II) của tập thể tác giả do PGS.TS Nguyễn Ngọc Hoà chủ
biên (Nxb Công an nhân dân, 2010)… hoặc được đề cập trong một số bài viết trên
các Tạp chí chuyên ngành như: “Bàn về chủ thể của tội tham ô tài sản” của tác giả
Trương Thị Hằng đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 6/2006; “Việc xác định tội tham ô tài
sản trong cơ chế thị trường” của tác giả Đinh Khắc Tiến đăng trên Tạp chí Kiểm sát
số 6/2006; “Những vấn đề lý luận & thực tiễn về tội tham ô tài sản trong cơ chế thị
trường” của tác giả Đinh Văn Quế đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 22/2006.
Ngoài ra có thể kể đến một số công trình nghiên cứu khác ít nhiều có liên
quan đến loại tội phạm này từ phương diện tội phạm học hoặc phương diện chính trị
- xã hội học như:
- “Phòng chống tham nhũng ở Việt Nam và thế giới” của GS,TS Nguyễn
Xuân Yêm, PGS.TS Nguyễn Hoà Bình, TS Bùi Minh Thanh, NXB Công an
nhân dân, 2007.
2
- Những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực trạng sai phạm, thất thoát, lãng
phí được phát hiện qua công tác thanh tra, kiểm tra nhằm góp phần ngăn ngừa tham
nhũng trong đầu tư xây dựng ở nước ta, Phạm Ngọc Đản, Đề tài nghiên cứu khoa
học, Văn phòng Chính phủ, Hà Nội, 2006.
- Nhận diện tham nhũng và các giải pháp phòng, chống tham nhũng ở Việt
Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia năm 2010 của tác giả Phan Xuân Sơn.
Ngoài ra nghiên cứu về đề tài này còn có Luận văn thạc sĩ “Tội tham ô tài
sản xã hội chủ nghĩa và đấu tranh phòng, chống tội tham ô tài sản xã hội chủ
nghĩa” của Nguyễn Văn Tiến và “Tội tham ô tài sản trong Bộ luật hình sự Việt
Nam, những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Trần Quang Sơn năm 2004. Những
nghiên cứu trên đây của các tác giả hoặc mới chỉ dừng lại dưới dạng các bài viết
đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành, một phần, mục trong các giáo trình,
sách tham khảo mà chưa ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình
sự hoặc mới chỉ tiếp cận ở góc độ tội phạm học, khoa học thanh tra... hoặc đã
nghiên cứu ở thời điểm tương đối lâu so với hiện nay, chưa cập nhật những vấn đề
mới của thực tiễn áp dụng pháp luật. Do vậy, với khoa học luật hình sự và tố tụng
hình sự, đề tài này cần phải tiếp tục được nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn
diện, sâu sắc hơn đối với loại tội phạm này, bổ sung các thông tin mới về lý luận và
thực tiễn, nhất là trong bối cảnh Bộ luật hình sự năm 1999 đã sửa đổi năm 2015
nhưng vẫn chưa khắc phục triệt để những tồn tại trước đây.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tội tham ô tài sản trong luật hình
sự
Việt Nam với pha ̣m vi nghiên cứu thực tiễn áp du ̣ng quy đinh
̣ của BLHS về tô ̣i
phạm này từ năm 2010-2014 (5 năm) ở nước ta.
4. Mục đích và nhiêm
̣ vu ̣ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Từ nghiên cứu các vấ n đề lý luâ ̣n , các vấ n đề về luâ ̣t thực đinh
̣ và thực tiễn
áp dụng quy định của luật thực định để xử lý tội tham ô tài sản
, luâ ̣n văn mong
muốn đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự và nâng cao
hiệu quả đấu tranh chống tội phạm tham ô tài sản.
3
4.2. Nhiê ̣m vụ nghiên cứu của luận văn
- Luâ ̣n văn đưa ra khái niệm , làm rõ các dấu hiệu pháp lý của tội tham ô tài
sản, nghiên cứu so sánh, quá trình lập pháp hình sự đối với tội tham ô tài sản trong
pháp luật của một số quốc gia thế giới và trong các giai đoạn phát triển của pháp
luật hình sự nước ta;
- Luận văn phân tích tình hình áp dụng pháp luật , xác định những khó khăn ,
vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự xử lý tội tham ô tài sản trong
thực tiễn 5 năm gần đây, chỉ ra những ha ̣n chế và nguyên nhân trong quá trình áp
dụng quy định về tội tham ô tài sản.
- Luâ ̣n văn đưa ra đươ ̣c một số biện pháp nhằm hoàn thiện quy phạm pháp
luật về tội tham ô tài sản và nâng cao hiệu quả xử lý tội phạm trong thực tiễn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được những mục đích đã đặt ra, trên cơ sở phép duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử, luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: phương
pháp so sánh, phân tích tài liệu, nghiên cứu lịch sử và phương pháp tổng hợp, đánh
giá những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội tham ô tài sản trong các công trình của
một số nhà nghiên cứu khoa học.
6. Những điểm mới của luận văn
- Luận văn góp phần làm sâu sắc thêm các tri thức lý luâ ̣n về tô ̣i tham ô tài
sản: Luận văn đưa ra khái niệm tội tham ô tài sản, phân biệt với các tội danh khác,
luận giải các dấu hiệu pháp lý về chủ thể, khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan
của tội phạm này theo quy định của BLHS năm 1999, nhận định, đánh giá những
bước phát triển nổi bật của pháp luật Việt Nam quy định về tội tham ô tài sản từ
năm 1945 cho đến nay.
- Luận văn đưa ra bức tranh tổng quan về thực tiễn vận dụng pháp luật trong
điều tra, truy tố, xét xử tội tham ô tài sản từ năm 2010 đến năm 2014.
- Luận văn đưa ra những đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện quy phạm pháp
luật hình sự về tội tham ô tài sản và các giải pháp hữu quan khác.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng để kiến nghị các cơ quan
4
chức năng hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách hình sự
đối với tội phạm tham ô tài sản nói riêng và tội phạm tham nhũng nói chung
trong thời gian tới.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm 3 chương 8 mục.
5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN
1.1. Khái niệm, đặc điểm của tội tham ô tài sản, ý nghĩa của việc quy
định tội tham ô tài sản trong luật hình sự
1.1.1. Khái niệm tội tham ô tài sản
Tham nhũng, tham ô là vấn nạn chung của tất cả các quốc gia, ở tất cả các
Nhà nước và thời kỳ lịch sử - khi chế độ tư hữu xuất hiện và Nhà nước ra đời. Theo
Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International Organisation- TIO), tham
nhũng là lợi dụng quyền hành để gây phiền hà, khó khăn và lấy của dân; tham
ô là hành vi lợi dụng quyền hành để lấy cắp của công. Tham nhũng và tham ô là
một hệ quả tất yếu của sự vị kỷ, vụ lợi của mỗi cá nhân, đặc biệt trong điều kiện nền
kinh tế kém phát triển, quản lý kinh tế - xã hội lỏng lẻo, yếu kém tạo ra nhiều sơ hở
cho các hành vi tiêu cực, tham nhũng, tham ô có điều kiện phát triển và một phần
quyền lực chính trị được biến thành quyền lực kinh tế. Tham nhũng, tham ô làm
thâm hụt công quỹ, rút ruột công trình xây dựng, giảm mức phúc lợi. Ở tầm khái
quát cao hơn, có thể nói tham nhũng, tham ô làm chậm sự phát triển kinh tế-xã hội,
làm giảm lòng tin của công dân vào nhà nước, đến chừng mực nào đó nó gây mất
ổn định chính trị, kinh tế - xã hội, thậm chí sụp đổ cả một cơ quan, tổ chức, sụp đổ
một thể chế chính trị.
Theo các tài liệu truyền thông của Liên hợp quốc về đấu tranh quốc tế chống
tham nhũng thì tham nhũng là sự lợi dụng quyền lực nhà nước để trục lợi riêng bao
gồm những hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tham ô, trộm cắp tài sản của
Nhà nước; lợi dụng địa vị công tác để trục lợi riêng hoặc thông qua việc sử dụng
không chính thức địa vị chính thức của mình; hay tạo ra xung đột về thứ tự quan
tâm giữa trách nhiệm đối với xã hội và lợi ích cá nhân để mưu cầu trục lợi.
Khoa học luật hình sự và pháp luật hình sự của nhiều quốc gia trên thế giới
mô tả tham ô trước hết là hành vi của người có thẩm quyền quản lý tài sản của cơ
quan tổ chức, chiếm đoạt tài sản của cơ quan tổ chức đó bằng chính vị trí, chức vụ
6
của mình sau đó mới phân tách hành vi tham ô diễn ra trong cơ quan tổ chức nhà
nước, doanh nghiệp nhà nước và thuộc khu vực tư nhân để phân hóa trong các cấu
thành của tội tham ô tài sản. Theo Điều 17 Công ước của Liên hợp quốc về chống
tham nhũng thì tham ô được hiểu là “… hành vi của công chức tham ô, biển thủ
hoặc chiếm đoạt dưới các hình thức khác cho bản thân hoặc cho người hay tổ chức
khác công quỹ hoặc tư quỹ hoặc chứng khoán hay bất cứ thứ gì có giá trị mà công
chức này được giao quản lý do địa vị của mình”. Quan điểm này nêu rất khái quát
về tham ô nhưng chỉ nói tới hành vi chiếm đoạt tài sản của công chức. Ở nước ta
hiện nay thuật ngữ tham ô được sử dụng phổ biến trong đời sống hàng ngày, nhưng
vẫn chưa đạt tới sự thống nhất về quan niệm. Theo Từ điển Tiếng Việt, "tham ô là
lợi dụng quyền hành để ăn cắp của công" [45, tr.910].
Như vậy, có nhiều cách hiểu khác nhau về tội tham ô tài sản nhưng nhìn
chung, có hai quan niệm khá phổ biến:
Một, coi tham ô bao gồm mọi hành vi chiếm đoạt tài sản công của bất kỳ
người nào có chức vụ, quyền hạn hoặc được giao nhiệm vụ, quyền hạn để chiếm
dụng tài sản. Chủ thể của hành vi tham ô có thể là cán bộ, công chức nhà nước, viên
chức hoặc những người làm việc trong các tổ chức chính trị, tổ chức xã hội và tài
sản bị chiếm đoạt của hành vi tham ô là tài sản của nhà nước.
Hai, hiểu tham ô là hành vi lợi dụng quyền để chiếm đoạt tài sản mà mình có
trách nhiệm quản lý chuyển thành của riêng, với động cơ xuất phát từ lợi ích cá
nhân hoặc nhóm cá nhân có quan hệ lợi ích với nhau. Hành vi tham ô không chỉ ở
việc chiếm đoạt tài sản của nhà nước mà của các tổ chức chính trị - xã hội và doanh
nghiệp bao hàm cả lĩnh vực tư. Và như đã đề cập ở trên, đây là quan điểm về tội
tham ô tài sản ở nhiều nước trên thế giới.
Qua nghiên cứu các quan điểm trên cho thấy, chưa có quan niệm thống nhất
về tham ô với 2 dấu hiệu cơ bản của hành vi này còn đang gây tranh cãi: thứ nhất,
tài sản tham ô là của Nhà nước hay của cơ quan tổ chức (bao gồm cả lĩnh vực công
và lĩnh vực tư), và từ đặc điểm này phái sinh đặc điểm thứ hai - chủ thể tham ô tài
sản là người có chức vụ quyền hạn để thi hành công vụ - là cán bộ, công chức, viên
chức hay chỉ là người có trách nhiệm quản lý trong cơ quan tổ chức.
7
Tôi cho rằng: Tham ô tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ
chức thành của riêng cho bản thân hay người khác mà bản thân chủ thể có trách
nhiệm quản lý xâm hại vào hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức đồng thời xâm
hại vào quyền sở hữu tài sản của cơ quan, tổ chức.
Sở dĩ Tôi quan niệm như vậy vì những lý do sau: mặc dù theo cách hiểu
truyền thống thì hành vi tham ô là chiếm đoạt tài sản của nhà nước, nói cách khác là
chiếm đoạt tài sản của cả xã hội thông qua tổ chức đại diện cho xã hội là nhà nước;
khác với hành vi chiếm đoạt tài sản của một nhóm người hay của tổ chức tư nhân
không đại diện cho xã hội. Tuy nhiên, xét ở góc độ tội phạm học, tình hình tội phạm
là hiện tượng mang tính lịch sử và tính pháp lý hình sự, thực tiễn cho thấy cùng với
sự thay đổi của các thành phần kinh tế đã có nhiều trường hợp người có trách nhiệm
quản lý tài sản lợi dụng điều này để chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức thuộc các
thành phần kinh tế quốc doanh (công), doanh nghiệp cổ phần hóa (công – tư kết hợp)
và doanh nghiệp dân doanh, tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp, tổ chức phi chính
phủ. Trong một xã hội mà nhà nước chỉ nắm giữ những lĩnh vực kinh tế chủ chốt mà
không thể không tư nhân hóa, trong xu thế cổ phần hóa đang được thực hiện với tinh
thần chỉ đạo không thể trì hoãn của Chính phủ hiện nay thì rõ ràng tài sản của các cơ
quan, tổ chức khác trong xã hội cũng cần được bảo vệ trước hành vi của những người
có thẩm quyền quản lý trong các cơ quan này lợi dụng vị trí, chức vụ của mình để
chiếm đoạt trái phép… Dù chủ sở hữu tài sản thuộc thành phần kinh tế nào, thuộc
thẩm quyền quản lý của Nhà nước hay không thì các chủ sở hữu đều phải được bình
đẳng trước pháp luật mà cụ thể ở đây là pháp luật hình sự. Bản chất của tham ô vẫn là
dùng chức vụ quyền hạn tổ chức để chuyển tài sản đó thành của riêng.
Xuất phát từ thực tiễn xử lý tội phạm ở nước ta có nhiều vướng mắc do
những quy định trong luật hình sự về tội tham ô tài sản nói riêng và tội phạm về
chức vụ nói chung chưa giải quyết được các yêu cầu thực tiễn đặt ra; vì vậy Bộ luật
Hình sự sửa đổi năm 2015 có sự thay đổi đáng kể trong tư duy lập pháp khi tội tham
ô tài sản vẫn nhằm trong nhóm tội phạm về chức vụ nhưng khái niệm các tội phạm
về chức vụ đã có sự mở rộng:
8
Là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức do
người có chức vụ thực hiện trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ” và “người có
chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác,
có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất
định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ [31, tr.413].
Tiếp cận từ góc độ khoa học luật hình sự, có thể đưa ra khái niệm tội tham ô
tài sản như sau: Tội tham ô tài sản là hành vi trái pháp luật hình sự do người đủ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự, có năng lực trách nhiệm hình sự, có trách nhiệm quản lý
tài sản thực hiện bằng việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình chiếm đoạt tài sản
mà mình có trách nhiệm quản lý thành của riêng cho mình hay người khác.
1.1.2. Đặc điểm pháp lý của tội tham ô tài sản
* Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm trong mối tương quan với tội phạm nói chung, nhóm
tội phạm và tội phạm cụ thể, khoa học luật hình sự phân loại thành khách thể chung,
khách thể loại và khách thể trực tiếp. Trong đó, khách thể chung của tội phạm được
hiểu là tổng hợp những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và có thể bị tội phạm
xâm hại. Khách thể loại của tội phạm được hiểu là nhóm các quan hệ xã hội cùng
hoặc gần tính chất được nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ và bị nhóm các
tội phạm xâm hại. Theo luật hình sự Việt Nam năm 1999 có 14 nhóm quan hệ xã hội
như vậy như: nhóm an ninh quốc gia; nhóm quan hệ sở hữu; nhóm quan hệ hôn nhân,
gia đình... Khách thể trực tiếp của tội phạm được hiểu là quan hệ xã hội cụ thể được
quy phạm pháp luật hình sự cụ thể bảo vệ và bị tội phạm cụ thể xâm hại. Một tội
phạm có thể xâm hại nhiều quan hệ xã hội khác nhau nhưng trong đó chỉ có một hoặc
một số quan hệ xã hội bị xâm hại có tính chất của khách thể trực tiếp.
Tội tham ô tài sản có khách thể của là quan hệ sở hữu về tài sản, đây là
khách thể trực tiếp của hành vi này. Khách thể trực tiếp này bao hàm đối tượng
chính cụ thể bị chủ thể phạm pháp xâm hại, bởi quan hệ sở hữu luôn tồn tại ở nhiều
kiểu quan hệ khác nhau: quan hệ sở hữu tập thể, quan hệ sở hữu cá nhân; quan hệ sở
hữu công và sở hữu tư...
9
Trước đây nhiều ý kiến cho rằng khách thể của tội tham ô tài sản là chế độ sở
hữu xã hội chủ nghĩa. Quan hệ sở hữu tài sản công (nhà nước) là quan hệ sở hữu tài
sản công của các tổ chức cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội; tổ chức
kinh tế - xã hội mà nhà nước góp vốn... Đồng thời, tội tham ô tài sản còn xâm phạm
hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức, làm trái các nguyên tắc, chính sách, chế
độ quản lý tài sản thuộc lĩnh vực công tác ảnh hưởng hiệu quả hoạt động, tính minh
bạch trong cơ quan nhà nước. Trong mối quan hệ sở hữu này, đối tượng cụ thể là tài
sản chung của toàn xã hội mà cơ quan nhà nước đại diện quản lý, do vậy mức độ tác
động đến khách thể rộng và ảnh hưởng rộng hơn, tức là mức độ nghiêm trọng của
hành vi tham ô cao hơn và mức độ thiệt hại của khách thể cũng lớn hơn. Tuy nhiên,
trong thực tiễn hiện nay, sở hữu nhà nước có nhiều hình thức đa dạng và phong phú
hơn ở trong cơ quan hành chính, các tổ chức tài chính, kinh doanh cổ phần khác.
Trong nền kinh tế, doanh nghiệp nhà nước chỉ là một loại hình doanh nghiệp, hoạt
động bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác. Doanh nghiệp Nhà nước là
doanh nghiệp mà nhà nước cũng chỉ sở hữu trên 50% vốn điều lệ. Như vậy, doanh
nghiệp nhà nước cũng không còn là một tổ chức kinh tế riêng biệt của nhà nước mà
hoạt động trong khuôn khổ pháp luật chung về doanh nghiệp. Các doanh nghiệp
khác với tư cách là các tổ chức kinh tế độc lập, hoạt động kinh doanh vì mục tiêu
lợi nhuận nhưng cũng đóng thuế một cách bình đẳng và cũng bình đẳng trong việc
tạo nên sức mạnh cho nền kinh tế. Do đó, họ cũng cần được pháp luật nói chung và
pháp luật hình sự nói riêng bảo vệ trước các hành vi xâm hại quyền sở hữu và hoạt
động bình thường của họ.
Hiện nay có nhiều hình thức sở hữu cùng tồn tại, với nhiều tổ chức, đơn vị
kinh tế, xã hội, văn hóa... Các tập đoàn kinh tế có sự tham gia của hàng nghìn cổ
đông góp vốn. Sở hữu tư nhân không có nghĩa là hình thức sở hữu của một cá nhân
mà của nhiều người, trong nhiều trường hợp thiệt hại của khách thể có quan hệ sở
hữu tư cũng đặc biệt nghiêm trọng bởi tài sản bị chiếm đoạt về bản chất thuộc sở
hữu của nhiều người, có liên quan tới quyền lợi của cộng đồng; mặt khác hành vi
tham ô đối với sở hữu tư nhân cũng đồng thời xâm phạm vào hoạt động của tổ chức
10
tư nhân này, ví dụ: hoạt động của công ty, doanh nghiệp... Trong xu thế phát triển
kinh tế toàn cầu, vai trò của các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức ngoài Nhà nước
ngày càng tác động mạnh mẽ tới đời sống, đặc biệt các quan hệ này đại diện cho lực
lượng đông đảo người lao động trong cộng đồng.
Tóm lại, khi nghiên cứu về khách thể của tội tham ô tài sản, có thể thấy có
nhiều quan niệm khác nhau và sự thừa nhận khách thể của loại tội phạm này, có
quan niệm chỉ thừa nhận khách thể là quan hệ sở hữu tài sản công do các cơ quan
nhà nước quản lý mà không thừa nhận khách thể của hành vi tham ô là quan hệ sở
hữu tư, những người theo quan niệm này cho rằng: xác định khách thể là dấu hiệu
cơ bản quy định hành vi phạm tội, vì thế cần căn cứ vào tầm quan trọng của khách
thể của tội phạm mà luật hình sự cần bảo vệ. Tội tham ô tài sản cùng một lúc xâm
phạm đến hai khách thể rất quan trọng là sở hữu (chế độ công hữu) và hoạt động
đúng đắn của cơ quan, tổ chức, là khách thể đặc biệt quan trọng mà luật hình sự cần
ưu tiên bảo vệ. Bản chất của cách hiểu này là không thừa nhận hành vi tham ô trong
lĩnh vực tư. Ở khía cạnh khác, tội tham ô tài sản là một trong những tội phạm về
tham nhũng, do đó chủ thể của tội phạm này chủ thể đặc biệt, chứ không phải là bất
kỳ ai, chủ thể của tội tham ô tài sản phải là người có chức vụ, quyền hạn nhất định
và có trách nhiệm quản lý tài sản; dẫn tới khách thể của tội tham ô chính là sở hữu
của nhà nước, các tài sản sở hữu cá nhân không thuộc vào tội tham ô bởi họ không
phải công chức trong cơ quan nhà nước.
Ngược lại, quan điểm thừa nhận tội tham ô tài sản trong lĩnh vực tư cho rằng,
xét về bản chất là chiếm đoạt tài sản xâm phạm quan hệ sở hữu tài sản thì đồng thời
tác động tới hoạt động của cơ quan tổ chức, bởi tài sản tư nhân không tồn tại độc
lập mà gắn liền với tài sản của tổ chức tư nhân và tác động tới hoạt động của các tổ
chức này. Vì thế, về tác động và tổn thương của khách thể do hành vi tham ô gây ra
đối với lĩnh vực tư tương đương với lĩnh vực công, mức độ nghiêm trọng của hành
vi này cũng không thấp nên cần thừa nhận tham ô trong lĩnh vực tư để có căn cứ xử
lý các hành vi này. Hơn nữa, người thực hiện hành vi tham ô tại lĩnh vực tư tuy
không phải công chức nhưng là người được giao trách nhiệm quản lý tài sản và có
11
chức vụ trong đơn vị tư nhân đó; họ sử dụng vị trí và trách nhiệm của mình để
chiếm đoạt tài sản.
* Mặt khách quan của tội phạm
- Về hành vi khách quan. Tham ô tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản mà
chủ thể phạm tội có trách nhiệm quản lý được thực hiện bằng thủ đoạn lợi dụng
chức vụ quyền hạn. Hành vi chiếm đoạt là hành vi chuyển dịch bất hợp pháp tài sản
từ chủ sở hữu thành tài sản của mình. Đối tượng bị chiếm đoạt là những tài sản mà
người phạm tội được giao quản lý. Người phạm tội đã lợi dụng trách nhiệm quản lý
tài sản được giao, chiếm đoạt tài sản mà mình đang quản lý. Thủ đoạn lợi dụng
trách nhiệm quản lý tài sản này có thể khác nhau nhưng thực chất đều là sử dụng
chức vụ quyền hạn được giao như điều kiện, phương tiện để có thể thực hiện hành
vi tham ô tài sản, biến tài sản được giao quản lý thành tài sản của mình.
Có thể thấy, chức vụ, quyền hạn là yếu tố tạo điều kiện để chủ thể của tội
phạm này thực hiện hành vi phạm tội, bởi khi có quyền quản lý tài sản người ta có
thể tự quyết định điều khiển, sử dụng tài sản đó theo mục đích của họ làm nảy sinh
nhu cầu chiếm hữu để sử dụng cá nhân. Hơn nữa, mặt trái quyền lực làm cho con
người nảy sinh ham muốn biến quyền lực thành lợi ích cho cá nhân. Thực tiễn
nghiên cứu qua nhiều vụ án tham ô đã chứng minh điều đó, dù trong lĩnh vực công
hay lĩnh vực tư thì hành vi tham ô được thực hiện bởi người có chức vụ; nếu không
có chức vụ hoặc có quyền quản lý tài sản thì cá nhân không có điều kiện thực hiện
hành vi phạm tội của mình; đây chính là điều kiện khách quan của hành vi này.
Từ những phân tích trên có thể thấy, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tham ô
tài sản phải do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản do
tài sản đó đó có liên quan trực tiếp đến chức vụ, quyền hạn của họ; có nghĩa người
phạm tội phải lợi dụng chức vụ để chiếm đoạt tài sản do mình có trách nhiệm quản
lý thì mới bị coi là tham ô tài sản. Nếu hành vi chiếm đoạt tài sản do người có chức
vụ, quyền hạn thực hiện nhưng hành vi đó không liên quan gì đến chức vụ, quyền
hạn của họ; tức là họ không dựa vào điều kiện khách quan của mình để chiếm đoạt
tài sản thì dù họ có chức vụ, quyền hạn cũng không bị quy vào tội tham ô tài sản.
12
Về bản chất, tội phạm sử dụng chính quyền hạn và trách nhiệm của mình để chiếm
đoạt tài sản nên tham ô tài sản thực chất là chiếm đoạt tài sản của người khác. Dấu
hiệu này là đặc trưng cơ bản của tội tham ô tài sản để phân biệt với các tội chiếm
đoạt tài sản khác.
- Về đối tượng tài sản bị chiếm đoạt
Đối tượng của hành vi tham ô tài sản chính là tài sản mà chủ thể được giao
quản lý. Trong trường hợp này, đối tượng tác động của tội phạm chính là tài sản mà
người có chức vụ, quyền hạn đang trực tiếp quản lý và thông qua việc tác động đến
tài sản này, họ mới có thể xâm hại đến khách thể của tội phạm.
Đối tượng của hành vi tham ô có những điểm khác nhất định so với đối
tượng của các hành vi phạm tội khác trong nhóm tội tham nhũng, bởi các tội tham
nhũng khác tác động vào đối tượng không phải chỉ là tài sản mà còn có các yếu tố
phi vật chất khác, hay các quyền lợi khác. Ví dụ: Tội nhận hối lộ thì có thể là tài sản
nhưng cũng có nhiều ý kiến cho rằng nhận hối lộ còn có thể là nhận các lợi ích tình
dục, giải trí... và đối tượng của hành vi hối lộ không phải tài sản của khách thể là cơ
quan nhà nước.
Tài sản bị chiếm đoạt này bao gồm cả hai dạng tài sản công và tư; trong lĩnh
vực tư tài sản của các đơn vị và tổ chức tư nhân được các thành viên đóng góp
chung hoặc sở hữu của cá nhân đã tin tưởng giao cho chủ thể phạm tội quản lý,
nhưng chủ thể đã chuyển dịch đối tượng để chiếm đoạt. Việc chuyển dịch đối tượng
trái phép, trái với qui định của pháp luật dân sự về cơ sở thiết lập quyền sở hữu tài
sản nên mặc dù dịch chuyển được tài sản nhưng người phạm tội không thiết lập
được quyền sở hữu đối với tài sản. Chính dựa trên cơ sở này mà luật hình sự quy
định các biện pháp tư pháp như: Tịch thu tiền, bạc, tài sản do phạm tội mà có để thu
lại tài sản mà người phạm tội chiếm giữ bất hợp pháp. Đồng thời với việc dịch
chuyển trái phép tài sản của người phạm tội thì chủ sở hữu tài sản bị mất quyền
kiểm soát đối với tài sản trên cả ba phương diện: quyền chiếm giữ, quyền sử dụng
và quyền định đoạt tài sản. Quyền sở hữu tài sản của chủ sở hữu hợp pháp chỉ được
khôi phục khi tội phạm bị phát hiện, xử lý và tài sản được thu hồi. Mặt khác, đối
13
tượng bị tác động của hành vi tham ô thường diễn ra trong thời gian dài và chỉ dừng
lại khi bị phát hiện, cho nên tài sản bị chiếm đoạt rất lớn; có thể nói là lớn nhất
trong nhóm tội xâm phạm về quan hệ sở hữu, bởi điều kiện khách quan giúp chủ thể
chiếm đoạt tài sản khó bị phát hiện.
Đối tượng tác động của tội tham ô tài sản là tài sản nhưng cũng có nhiều điểm
khác với các tội chiếm đoạt tài sản khác, bởi tài sản ở đây là của nhiều người được
đại diện bằng sở hữu chung mà chủ thể có trách nhiệm quản lý, các tội chiếm đoạt tài
sản như: lừa đảo, trộm cắp... thì tài sản bị chiếm đoạt tồn tại ở nhiều dạng sở hữu
khác nhau.
Như vậy, có thể thấy đặc trưng cơ bản ở đối tượng bị chiếm đoạt trong tội
tham ô tài sản là tài sản của tập thể bị chủ thể tác động để chuyển sở hữu tài sản.
Việc nhận diện đúng hành vi phạm tội tham ô nhằm phân biệt với các tội tham
nhũng và các tội chiếm đoạt tài sản khác.
- Về thủ đoạn của hành vi tham ô tài sản
Thủ đoạn thực chất là phương thức mà chủ thể phạm tội sử dụng để tham ô tài
sản, trong phương thức bao gồm phương pháp, công cụ và phương tiện thực hiện
hành vi; các yếu tố này được kết hợp và vận dụng bằng nhiều hình thức khác nhau.
Tội tham ô tài sản có dấu hiệu cấu thành là vật chất, người phạm tội phải chiếm đoạt
được tài sản thì tội phạm mới ở giai đoạn hoàn thành; nhưng hậu quả của tội phạm
không phải là dấu hiệu bắt buộc (dấu hiệu định tội) của tội tham ô mà chỉ có ý nghĩa
xác định thời điểm hoàn thành của tội phạm và xác định khung, mức hình phạt.
Xuất phát từ điều kiện khách quan, hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn
chiếm đoạt tài sản do mình quản lý được thực hiện bằng nhiều thủ đoạn như: lén lút,
gian dối, công nhiên.... Các thủ đoạn được tội phạm tham ô hay sử dụng là lợi dụng
quyền quản lý tài sản lén lút chiếm đoạt tài sản đó. Ví dụ: thủ quỹ A của một cơ
quan được giao quản lý tài sản của đơn vị, nhưng trong thời gian dài thủ quỹ này đã
lén lút lấy tiền của cơ quan để chi tiêu cá nhân, sau khi bị phát hiện thì không có
khả năng hoàn trả. Hành vi này được thực hiện dựa trên điều kiện khách quan được
giao trách nhiệm giữ tài chính cho đơn vị, hành vi lén lút này là phương thức khá
14
phổ biến mà tội phạm thường xuyên sử dụng. Ngoài thủ đoạn lén lút, thủ đoạn “gian
dối” cũng là hình thức mà tội phạm tham ô thường sử dụng, ví dụ: Nhân viên của
ngân hàng nhà nước đã thực hiện hành vi gian dối là lập chứng từ khống để rút tiền
của người gửi, thủ đoạn này đã giúp chủ thể chiếm đoạt hàng chục tỉ đồng, gây thiệt
hại lớn cho ngân hàng. Xét ở khía cạnh thủ đoạn thì hành vi gian dối là phương thức
được thực hiện với tính xảo quyệt hơn các thủ đoạn khác và khó bị phát hiện hơn
nên thường gây hậu quả nghiêm trọng.
Đối với những tội chiếm đoạt tài sản khác do người có chức vụ quyền hạn thì
cách thức chiếm đoạt tài sản không phải là “lợi dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt
tài sản do mình quản lý” mà bằng cách thức “gian dối”, “lạm dụng tín nhiệm”...
Dấu hiệu “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” chỉ là tình tiết tăng nặng định khung hoặc
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Khi thực hiện hành vi tham ô, người phạm
tội có thể có những thủ đoạn gian dối; đương nhiên những thủ đoạn này không phải
là dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của tội tham ô tài sản.
Tuy nhiên, các thủ đoạn gian dối có ý nghĩa trong việc xác định tính chất
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi tham ô, ý nghĩa trong việc quyết định
hình phạt, bởi lẽ thủ đoạn càng tinh vi, xảo quyệt thì càng phản ảnh rõ hơn mức độ
lỗi (mặt chủ quan), và cũng tạo điều kiện cho người phạm tội chiếm đoạt tài sản với
số lượng nhiều hoặc có giá trị lớn hơn (mặt khách quan).
* Mặt chủ quan của tội phạm
Mặt chủ quan là nhân tố bên trong điều khiển hoạt động của con người, mặt
chủ quan của tội tham ô tài sản chính là các yếu tố bên trong thuộc về chủ thể chỉ
đạo chủ thể thực hiện hành vi phạm tội của họ.
Do chủ thể thực hiện hành vi tham ô là chủ thể đặc biệt, họ có quyền và trách
nhiệm quản lý tài sản, để có được quyền đó họ phải có khả năng sử dụng, tự quyết
về tài sản đó; tức là họ có đầy đủ năng lực nhận thức bình thường; ý thức được vai
trò trách nhiệm của bản thân trong sử dụng tài sản đó; ý thức được tính chất, rủi ro
khi bị thất thoát tài sản và hậu quả mà bản thân phải gánh chịu khi vi phạm các quy
định trong quản lý tài sản.
15
Ở khía cạnh cá nhân, chủ thể thực hiện các hành vi tham ô là những người
được giao quyền tức là họ có năng lực nhận thức pháp luật đầy đủ, có đủ khả năng
đánh giá được hành vi và những quy định của luật pháp về tội danh này. Tuy nhiên,
do tư lợi cá nhân hay những ham muốn trước mắt mà bản thân chủ thể vẫn thực hiện
hành vi tham ô tài sản nhằm chiếm đoạt cho bản thân hoặc cho những người có mối
quan hệ thân thích như: vợ, con.. Vì vậy, đây là hành vi cố ý mà cá nhân chủ định từ
trước và nhận thức đầy đủ về hậu quả phải chịu trước pháp luật; chính đặc điểm này
nói lên tính chất nghiêm trọng của tội danh tham ô vì đó không phải là hành vi sơ ý
không chủ định của người thực hiện hành vi phạm tội. Việc đánh giá đúng nhân tố
chủ quan tham gia trong hành vi phạm tội của tội phạm tham ô có ý nghĩa tích cực
trong việc xây dựng cơ chế pháp lý để đấu tranh với loại tội phạm này.
* Chủ thể của tội phạm
Chủ thể là cá nhân hoặc nhóm người thực hiện một hoạt động nhất định, bất
kỳ hoạt động nào cũng được thực hiện bằng chủ thể nhất định. Do tội tham ô tài sản
thuộc nhóm tội liên quan tới chức vụ nên chủ thể của tội danh này phải là chủ thể
đặc biệt đó là người được giao trách nhiệm về quản lý tài sản, tức là họ là người có
chức vụ và quyền hạn trong cơ quan, tổ chức. Chủ thể của tội tham ô tài sản được
chia thành hai dạng chủ thể trực tiếp và đồng phạm
Chủ thể trực tiếp thực hiện hành vi tham ô tài sản phải là người có trách
nhiệm quản lý tài sản, nếu họ không có trách nhiệm quản lý tài sản thì cũng không
được xem là chủ thể của tội tham ô tài sản; vì họ có thể là chủ mưu của hành vi
tham ô khi phạm tội có tổ chức hoặc là người thực hiện hành vi khi phạm tội không
có tổ chức. Đây là điều kiện quan trọng để phân biệt một người có thể trở thành chủ
thể của tội tham ô tài sản hay là chủ thể của số tội phạm khác có tính chất chiếm
đoạt. Người có trách nhiệm đối với tài sản là người được giao nhiệm vụ trực tiếp
quản lý tài sản như: kế toán, thủ quỹ, thủ kho, người được giao vận chuyển tài sản
cơ quan, tổ chức hoặc đơn vị mình… Ngoài ra, còn những người tuy không được
giao trực tiếp quản lý tài sản nhưng lại có trách nhiệm trong việc quyết định việc
thu, chi, xuất, nhập, mua bán, trao đổi tài sản như: người đứng đầu trong các cơ
16
quan, tổ chức, giám đốc công ty là chủ tài khoản hoặc là người có quyền quyết định
về tài sản của cơ quan, tổ chức.
Dạng chủ thể thứ hai là đồng phạm, những người này không có chức vụ,
không được giao trách nhiệm quản lý, bảo quản tài sản, không phải người thuộc tổ
chức của khách thể bị xâm phạm nhưng họ giữ vai trò giúp sức, tiếp tay cho chủ thể
trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội thì họ vẫn là chủ thể nhưng ở dạng đồng phạm.
Trong thực tiễn xử lý tội tham ô tài sản việc xác định chủ thể chủ mưu và chủ thể ở
dạng đồng phạm; việc làm rõ tính chất của từng chủ thể giúp đưa ra các biện pháp
xử lý phù hợp, tránh sai sót trong hoạt động xét xử.
1.1.3. Phân biệt tội tham ô tài sản với một số tội phạm khác
Trong nhóm tội phạm liên quan đến chức vụ, tham ô là loại tội phạm có tỉ
lệ phạm tội cao, do đặc trưng về mục tiêu phạm tội cũng như khách thể bị tác
động tới. Do vậy, tham ô tài sản và các tội danh khác cũng có nhiều điểm tương
đồng nhưng cũng tồn tại những đặc trưng riêng nên cần làm rõ các điểm này để
xác định rõ hơn các dấu hiệu pháp lý của tội tham ô tài sản, qua đó đánh giá
đúng thực tiễn vận dụng pháp luật và làm cơ sở xây dựng chế tài pháp lý trong
giải quyết các vụ án tham nhũng.
* Phân biệt tội tham ô tài sản với một số tội trong nhóm tội liên quan tới
chức vụ
Tội “cố ý làm trái quy định nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm
trọng” là tội phạm khá đặc trưng trong nhóm tội liên quan đến chức vụ, bởi chủ thể
trong tội này cũng giống như tội tham ô tài sản là người có chức vụ, quyền hạn và
sử dụng yếu tố khách quan này để phạm tội và gây thiệt hại về kinh tế cho cơ quan,
tổ chức. Tuy nhiên, khác biệt giữa hai tội danh này là tính chiếm đoạt về mặt tài sản
ở tội “cố ý làm trái quy định nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm
trọng” không xảy ra như trong tội tham ô; ví dụ: Giám đốc của công ty X vi phạm
quy định về sử dụng vốn của đơn vị trong đầu tư kinh doanh dẫn tới làm ăn thua lỗ
gây thiệt hại cho đơn vị, nhưng bản thân vị giám đốc này không chiếm đoạt số tài
sản đó; nhờ căn cứ này mà giám đốc không phạm tội tham ô tài sản
17
Đối với tội nhận hối lộ, chủ thể thực hiện cũng là người có chức vụ, quyền
hạn và lợi dụng chức vụ để thực hiện hành vi phạm tội; nhưng khách thể phạm tội
không hẳn là tài sản mà là những sản phẩm vật chất hoặc thậm chí là theo pháp luật
của nhiều nước, bao gồm cả các sản phẩm phi vật chất khác nên đối tượng bị tác
động trong hành vi hối lộ có phạm vi rộng hơn so với tội tham ô tài sản. Mặt khác,
chủ thể nhận hối lộ không phải quản lý trực tiếp tài sản, tức tài sản đó không thuộc
quan hệ công việc mà chủ thể đang thực hiện. Cho nên khách thể chịu sự tác động
của hối lộ rất đa dạng trong quan hệ sở hữu về tài sản hay nguyên tắc hoạt động của
cơ quan, tổ chức. Ví dụ: Giám đốc một cơ quan đã nhận “quà” hối lộ là “tình” và
“tiền” của nhân viên sau đó sắp xếp vị trí làm việc thuận lợi hơn cho nhân viên này.
Ngoài ra có thể phân biệt tội tham ô tài sản với một tội danh khác trong nhóm
tội phạm liên quan tới chức vụ là “tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài
sản”. Do đặc trưng nhóm tội liên quan tới chức vụ nên cả hai tội danh này đều có
điểm chung là có dấu hiệu lợi dụng chức vụ quyền hạn nhưng tội tham ô tài sản tác
động tới đối tượng mà chủ thể quản lý trực tiếp và có thể có những thủ đoạn gian dối
trước, trong hoặc sau khi thực hiện hành vi chiếm đoạt như lập chứng từ giả, sửa
chữa sổ sách… để hợp thức hóa che dấu hành vi chiếm đoạt. Nhưng thủ đoạn gian
dối không phải là dấu hiệu bắt buộc mà trong những trường hợp nhất định có thể có ý
nghĩa trong việc quyết định hình phạt như là tình tiết tăng nặng: dùng thủ đoạn xảo
quyệt, nguy hiểm. Nhưng “tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”, chủ
thể thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản mà họ không có trách nhiệm quản lý và bằng
thủ đoạn gian dối và thủ đoạn này là dấu hiệu bắt buộc, được tiến hành trước hoặc
liền ngay với hành vi chiếm đoạt; là cơ sở, nguyên nhân trực tiếp của việc chiếm
đoạt. Ví dụ: Một trưởng phòng T trong đơn vị nhà nước đã lợi dụng chức vụ của
mình lập phiếu chi có chữ ký giả của thủ trưởng cơ quan đưa cho thủ quỹ để rút tiền,
thủ quỹ vì tin tưởng là người cùng cơ quan có chức vụ nên không kiểm tra mà chi
tiền dẫn tới thiệt hại về tài sản. Trong trường hợp này, vị trưởng phòng không có
trách nhiệm quản lý tài sản trực tiếp nhưng lợi dụng vị trí của mình, thực hiện hành vi
gian dối để chiếm đoạt tài sản. Đây chính là biểu hiện lạm dụng chức vụ, quyền hạn,
đồng thời là dấu hiệu cơ bản để phân biệt với tội tham ô.
18