Tải bản đầy đủ (.pdf) (142 trang)

Đảng bộ tỉnh bắc ninh lãnh đạo công tác đào tạo lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, phưởng, thị trấn từ năm 1997 đến năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.03 MB, 142 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN VĂN HOÀN

ĐẢNG BỘ TỈNH BẮC NINH LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC ĐÀO
TẠO LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ
CHỐT CẤP XÃ, PHƢỜNG, THỊ TRẦN
TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2014

Chuyên ngành:Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60.22.03.15

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LỊCH SỬ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Ngô Đăng Tri

Hà Nội – 2015


MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

1

1. Lý do chọn đề tài


2

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

4

3. Mục đích, nhiệm vụ của nghiên cứu

6

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

7

5. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp nghiên cứu

7

6.Dƣ̣ kiế n đóng góp khoa học của luận văn

7

7. Kết cấu của luận văn

8

Chương 1 CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠ O CỦA ĐẢNG BỘ
TỈNH BẮC NINH VỀ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO LÝ LUẬN CHÍNH
TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ , PHƢỜNG,


9

THỊ TRẤN TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2005
1.1. Những yếu tố tác động và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Bắc
Ninh đối với công tác đào tạo lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ

9

chủ chốt cấp xã, phường, thị trấn từ năm 1997 đến năm 2005
1.1.1. Những yếu tố tác động

9

1.1.2. Chủ trƣơng của Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh

37

1.2. Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh chỉ đạo thực hiện công tác đào tạo lý
luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, phường, thị

41

trấn từ năm 1997 đến năm 2005
1.2.1. Chỉ đạo xây dựng kế hoạch, đề án, chƣơng trình đào tạo
1.2.2. Chỉ đạo hoạt động của Trƣờng chính trị Nguyễn Văn Cừ và
Trung tâm bồi dƣỡng chính trị ở các huyện, thị xã
Tiểu kế t chương 1
Chương 2 ĐẢNG BỘ TỈNH BẮC NINH LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH
CÔNG TÁC ĐÀO TẠO LÝ LUẬN CHÍNH TRI ̣CHO ĐỘI NGŨ


41
46
51
52


CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ , PHƢỜNG, THỊ TRẤN TỪ NĂM
2006 ĐẾN NĂM 2014
2.1. Yêu cầu mới và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh về
công tác đào tạo lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp

52

xã, phường, thị trấn
2.1.1. Những yêu cầu mới

52

2.1.2. Chủ trƣơng của Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh

56

2.2. Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh chỉ đạo thực hiện công tác đào tạo lý
luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, phường, thị

62

trấn từ năm 2006 đến năm 2014
2.2.1. Chỉ đạo xây dựng chƣơng trình hành động, kế hoạch và đề án về
công tác đào tạo lý luận chính trị

2.2.2. Chỉ đạo hoạt động của Trƣờng Chính trị Nguyễn Văn Cừ và
Trung tâm bồi dƣỡng chính trị ở các huyện, thị xã

62
68

Tiểu kế t chương 2

80

Chương 3 NHẬN XÉ T VÀ KINH NGHIỆM

81

3.1. Nhận xét

81

3.1.1. Về ƣu điể m

81

3.1.2. Về hạn chế

87

3.2. Một số kinh nghiệm

90


3.2.1. Kinh nghiê ̣m trong xác đinh
̣ chủ trƣơng

90

3.2.2. Kinh nghiê ̣m trong chỉ đa ̣o thƣ̣c hiê ̣n

93

Tiểu kế t chương 3

101

KẾT LUẬN

103

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

106

PHỤ LỤC

112


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BCH

:


Ban chấp hành

BCT

:

Bộ chính trị

BTV

:

Ban thƣờng vụ

CBCC

:

Cán bộ công chức

CNH, HĐH

:

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNTB

:


Chủ nghĩa tƣ bản

CNXH

:

Chủ nghĩa xã hội

CSVN

:

Cộng sản Việt Nam

LLCT

:

Lý luận chính trị

KT - XH

:

Kinh tế - xã hội

HĐND

:


Hội đồng nhân dân

UBND

:

Ủy ban nhân dân

MTTQ

:

Mặt trận tổ quốc

TTBDLLCT

:

Trung tâm bồi dƣỡng lý luận chính trị

1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thực tiễn cho thấy, trong sự vận động của mỗi quốc gia, cán bộ luôn
giữ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng về tổ chức, quản lý công việc nhà
nƣớc, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Để có đƣợc đội ngũ cán bộ với
trình độ, năng lực, phẩm chất cao, đòi hỏi công tác đào tạo cán bộ phải

đƣợc đặc biệt quan tâm và chỉ đạo thực hiện một cách căn bản, thiết thực,
hiệu quả. Lênin từng chỉ rõ: “Trong lịch sử chƣa có một giai cấp nào giành
đƣợc quyền thống trị nếu nó không đào tạo đƣợc ra trong hàng ngũ của
mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ
chức và lãnh đạo phong trào” [33, tr.473]
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xƣớng và lãnh đạo đã và đang
thu đƣợc nhiều thành tựu quan trọng, tạo tiền đề vững chắc để đất nƣớc
bƣớc vào một giai đoạn phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Trong tình hình
đó, đòi hỏi Đảng, Nhà nƣớc và mọi cán bộ, đảng viên phải đổi mới tƣ duy,
nâng cao trình độ lý luận chính trị của mình lên một tầm cao mới. Đặc biệt,
ngƣời cán bộ cơ sở phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận
chính trị, năng lực trí tuệ nhất định. Theo V.I. Lênin chỉ có Đảng nào đƣợc
một lý luận tiền phong hƣớng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò
chiến sĩ tiên phong.
Trong thời kỳ phát triển nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN,
nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ từ Trung ƣơng đến
cơ sở là yêu cầu cấp thiết cho mọi cán bộ chứ không phải chỉ riêng ở cán
bộ nghiên cứu hay ngƣời làm công tác lý luận nhƣ trƣớc đây thƣờng quan
niệm.
Mặt khác, những biến động lớn về kinh tế, chính trị, xã hội trên
thế giới và khu vực cùng với sự yếu kém của nền kinh tế nƣớc ta đã và
2


đang làm nảy sinh nhiều vấn đề mới phức tạp. Có những vấn đề đơn giản
nhận thức đƣợc bằng trực giác nhƣng cũng có những vấn đề đòi hỏi phải
có sự khái quát, phân tích bằng tƣ duy lý luận thì mới có thể nhận thức
và giải quyết đƣợc. Điều đó đòi hỏi ngƣời cán bộ cơ sở phải có trình độ
lý luận chính trị đáp ứng nhiệm vụ đƣợc giao.

Hơn nữa, năng lực và trình độ lý luận chính trị của cán bộ cơ sở có
tác dụng quan trọng trong lãnh đạo phát triển kinh tế, xã hội và an ninh
trật tự ở địa phƣơng, thúc đẩy sự phát triển chung cho tỉnh, vùng và cả nƣớc. Trình độ lý luận chính trị đối với ngƣời cán bộ là yếu tố “then chốt”
cho mọi hoạt động nhận thức và hành động thực tiễn của họ. Cán bộ cấp
xã, phƣờng, thị trấn có nắm vững, hiểu biết sâu sắc lý luận chính trị mới
nắm chắc các quan điểm, đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng và
Nhà nƣớc mới vận dụng một cách sáng tạo vào tình hình cụ thể ở địa
phƣơng, từ đó rút ra những bài học, kinh nghiệm, những kết luận góp
phần vào việc sửa đổi, bổ sung và phát triển lý luận, đƣờng lối, chủ
trƣơng, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc. Để hoàn thành
tốt nhiệm vụ của mình thì cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung, cán bộ cơ
sở nói riêng phải có trình độ, trong đó trình độ lý luận chính trị là không
thể thiếu đƣợc.
Cán bộ cơ sở ở tỉnh Bắc Ninh đƣợc hình thành từ nhiều nguồn,
trƣởng thành chủ yếu thông qua thực tiễn, chƣa đƣợc đào tạo cơ bản,
thiếu vốn kiến thức chuyên môn, kiến thức lý luận chính trị. Bởi thế,
trong nhận thức và chỉ đạo thực tiễn họ thƣờng mắc phải bệnh kinh
nghiệm, giáo điều, điều hành công tác lãnh đạo, quản lý cũng nhƣ xử lý
công việc một cách máy móc, kém hiệu quả. Từ thực tế trên đòi hỏi đội ngũ
cán bộ, đảng viên cơ sở ở tỉnh Bắc Ninh không ngừng nâng cao trình độ về
mọi mặt, trong đó có kiến thức lý luận chính trị.
Tóm lại, nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nƣớc thì ngƣời đảng viên nói chung, cán bộ cấp xã,
3


phƣờng, thị trấn ở tỉnh Bắc Ninh nói riêng phải rèn luyện, nâng cao trình
độ lý luận chính trị. Qua đó mới có thể nắm bắt, phản ảnh đúng đắn quy
luật phát triển của thời đại; vận dụng chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách
của Đảng và Nhà nƣớc một cách có hiệu quả và đề ra những quyết sách

đúng, phù hợp với điều kiện cụ thể ở địa bàn mình phụ trách.
Việc nghiên cứu, tìm hiểu đánh giá thực trạng và đề ra phƣơng
hƣớng, giải pháp cụ thể, thiết thực nhằm nâng cao trình độ lý luận chính
trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở ở Bắc Ninh có ý nghĩa hết sức quan trọng cả
về mặt lý luận cũng nhƣ thực tiễn.
Chính vì thế, tôi chọn đề tài: "Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lãnh đạo
công tác đào tạo lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã,
phường, thị trấn từ năm 1997 đến năm 2014" để viết luận văn thạc sĩ,
chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, mong muốn góp một
phần nhỏ vào sự phát triển kinh tế - xã hội theo mục tiêu dân giàu, nƣớc
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và
lãnh đạo từ khi ra đời cho đến nay luôn coi trọng vấn đề đào tạo, rèn
luyện, nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên. Thực
hiện công cuộc đổi mới từ Đại hội VI (tháng 12 năm 1986) đến nay,
Đảng đã đƣa ra nhiều chủ trƣơng, chính sách và những quy định về trình
độ lý luận chính trị đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp. Đây là
những định hƣớng quan trọng góp phần nâng cao trình độ lý luận chính
trị cho cán bộ, đảng viên. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII (1996) của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: “Mọi cán bộ, đảng
viên, trƣớc hết là cán bộ lãnh đạo chủ chốt, phải có kế hoạch thƣờng
xuyên học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức và năng lực
học tập thực tiễn” [13, tr.140-141]. Ngoài ra, Quy định số 54/QĐ-TW
của Bộ Chính trị khóa VIII cũng khẳng định: "Đảng viên là cán bộ lãnh

4


đạo chủ chốt ở cơ sở phải học xong chƣơng trình trung học chính trị tại

các trƣờng chính trị tỉnh, thành phố" [23, tr.2].
Trong những năm gần đây, đã có những công trình nghiên cứu, bài
viết dƣới nhiều góc độ khác nhau về vấn đề này nhƣ:
- “Một số vấn đề về công tác tư tưởng” của Đào Duy Tùng, Nxb
Sách giáo khoa Mác - Lênin, Hà Nội, 1985.
- “Xây dựng Đảng về tư tưởng chính trị” của GS Nguyễn Đức
Bình, Tạp chí Cộng sản, tháng 5/1999.
- “Tạo bước chuyển biến mới trong việc học tập lý luận chính trị của
cán bộ, đảng viên” của Nguyễn Phú Trọng, Tạp chí Cộng sản, tháng 11/
1999.
- “Nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả công tác đào tạo lý
luận chính trị trong tình hình mới” của Nguyễn Khoa Điềm, Tạp chí
Thông tin công tác tƣ tƣởng lý luận, số 1/2004.
- “Hội thi giảng viên dạy giỏi - hoạt động góp phần đẩy mạnh
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở trường chính trị” của TS Nguyễn
Văn Sáu, Báo Nhân Dân, tháng 11/2005.
- “Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng dạy Mác Lênin ở các Trường Chính trị tỉnh” của Nguyễn Đình Trãi, Luận án tiến sĩ
Triết học năm 2001.
- “Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo
chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay” của
Nguyễn Thị Hồng Lê, Luận văn thạc sĩ Triết học năm 2004.
- “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo lý luận chính trị với việc nâng
cao chất lượng đào tạo trung cấp lý luận chính trị ở Trường Chính trị tỉnh
Sóc Trăng” của Đoàn Thiện Tài, Luận văn thạc sĩ Hồ Chí Minh học năm
2006.
- Ngoài ra, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh cũng đã tổ
chức hội thảo và xuất bản kỷ yếu: Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác tư
tưởng, lý luận, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2002. Hội thảo đã
5



đề cập nhiều nội dung quan trọng, đáng chú ý có các bài của các tác giả
nhƣ: PGS,TS Nguyễn Khánh Bật với bài Chủ tịch Hồ Chí Minh với công
tác tư tưởng lý luận; PGS,TS Hoàng Trang với bài Mấy suy nghĩ về công
tác tư tưởng, lý luận ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh trong
tình hình mới dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh; PGS,TS Lê Văn
Tích với bài Đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống - khâu trọng yếu
ở công tác tư tưởng, lý luận hiện nay, TS Phạm Ngọc Anh với bài Quan
niệm của Hồ Chí Minh về đào tạo lý luận…
Mặc dù đã có nhiều đề tài nghiên cứu ở những góc độ khác nhau, nhƣng cho đến nay chƣa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống sự lãnh
đạo của Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh đối với công tác đào tạo lý luận chính trị cho
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, phƣờng, thị trấn. Vì vậy, việc thực hiện đề tài
"Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lãnh đạo công tác đào tạo lý luận chính trị cho
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, phường, thị trấn giai đoạn 1997 - 2014"
là cấp thiết nhằm làm rõ quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh đối
với công tác đào tạo lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã,
phƣờng, thị trấn, qua đó rút ra những kinh nghiệm nhằm nâng cao chất
lƣợng, hiệu quả lãnh đạo công tác đào tạo lý luận chính trị cho đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp xã, phƣờng, thị trấn của Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh.
3. Mục đích, nhiệm vụ của nghiên cứu
3.1. Mục đích
Nghiên cƣ́u sƣ̣ lañ h đa ̣o của

Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh về công tác

đào tạo lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, phƣờng, thị
trấn tƣ̀ năm 1997 đến năm 2014 qua đó đúc kết một số kinh nghiệm
nhằ m làm tố t hơn công tác đào tạo lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã , phƣờng, thị trấn của tin̉ h Bắ c Ninh hiê ̣n nay .
3.2. Nhiệm vụ

- Làm rõ quá trình Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh đã vận dụng đúng đắn,
sáng tạo chủ trƣơng của Đảng về công tác đào tạo lý luận chính trị để
6


lãnh đạo công tác đào tạo lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp xã, phƣờng, thị trấn từ năm 1997 đến năm 2014.
- Đánh giá những ƣu điểm cũng nhƣ những hạn chế trong công tác
đào tạo lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cán bộ chủ chốt cấp xã,
phƣờng, thị trấn ở Bắc Ninh.
- Đúc kết những kinh nghiệm trong quá trình Đảng bộ tỉnh Bắc
Ninh lãnh đạo công tác đào tạo lý luận chính trị từ năm 1997 đến 2014.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Luận văn tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bắc
Ninh đối với công tác đào tạo lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cán bộ
chủ chốt cấp xã, phƣờng, thị trấn từ năm 1997 đến 2014.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Đề tài nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bắc
Ninh đối với công tác đào tạo lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cán bộ
chủ chốt cấp xã, phƣờng, thị trấn từ năm 1997 đến 2014.
Về không gian: Luận văn chủ yếu nghiên cứu ở địa bàn tỉnh Bắc
Ninh.
5. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng phƣơng pháp lịch sử và lôgíc. Ngoài ra,
luận văn còn sử dụng phƣơng pháp khảo sát thực tế, phƣơng pháp so

sánh, thống kê, phân tích, tổng hợp…
6. Dƣ̣ kiế n đ óng góp của luận văn
- Luận văn hệ thống hóa tƣ liệu và thông tin về quá trình Đảng bộ
tỉnh Bắc Ninh lãnh đạo công tác đào tạo lý luận chính trị cho đội ngũ cán
7


bộ cán bộ chủ chốt cấp xã, phƣờng, thị trấn. Làm rõ vai trò lãnh đạo của
Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh đối với công tác đào tạo lý luận chính trị cho đội
ngũ cán bộ cán bộ chủ chốt cấp xã, phƣờng, thị trấn .
- Thông qua phân tích, đánh giá và các bài học kinh nghiệm đƣợc
đúc kết, Luận văn giúp nhận thức sâu sắc hơn về đối tƣợng nghiên cứu,
đồng thời gợi mở những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu về sự lãnh đạo
của Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh đối với công tác đào tạo lý luận chính trị cho
đội ngũ cán bộ cán bộ chủ chốt cấp xã, phƣờng, thị trấn từ năm 1997 đến
2014.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu và
giảng dạy, tuyên truyền về lịch sử lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh
đối với công tác đào tạo lý luận chính trị trong thời kỳ đổi mới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung luận văn gồm 3 chƣơng, 6 tiết:
Chƣơng 1: Chủ trƣơng và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh
về công tác đào tạo lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã,
phƣờng, thị trấn từ năm 1997 đến năm 2005
Chƣơng 2: 2 Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lãnh đạo đẩ y ma ̣nh công tác
đào tạo lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, phƣờng, thị
trấn từ năm 2006 đến năm 2014
Chƣơng 3: Nhâ ̣n xét và kinh nghiê ̣m


8


Chương 1
CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH BẮC NINH ĐỐI
VỚI CÔNG TÁC ĐÀO TẠO LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN
BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ, PHƢỜNG, THỊ TRẤN TỪ NĂM 1997 ĐẾN 2005

1.1. Những yếu tố tác động và chủ trƣơng của Đảng bộ tỉnh Bắc
Ninh đối với công tác đào tạo lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã, phƣờng, thị trấn từ năm 1997 đến năm 2005
1.1.1. Những yếu tố tác động
1.1.1.1. Vị trí, vai trò của công tác đào tạo lý luận chính trị cho đội
ngũ cán bộ cán bộ chủ chốt cấp xã, phường, thị trấn
* Một số khái niệm cơ sở:
- Khái niệm lý luận chính trị:
Lịch sử xã hội loài ngƣời đã chứng minh rằng, từ khi xã hội có sự
phân chia giai cấp thì bất kỳ một giai cấp, một chính đảng nào muốn
nắm vững vai trò thống trị của mình đối với xã hội thì trƣớc tiên phải có
trình độ lý luận để nhằm tuyên truyền những quan điểm, đƣờng lối, chủ
trƣơng, chính sách… nhằm bảo vệ sự thống trị của giai cấp mình.
V.I.Lênin đã khẳng định: “Chỉ Đảng nào đƣợc một lý luận tiền phong
hƣớng dẫn, thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong” [33,
tr.32].
Để hiểu bản chất của lý luận chính trị, trƣớc hết cần tìm hiểu một
số khái niệm có liên quan.
“Lý luận” theo tiếng Hy Lạp “Theo rie” với nghĩa sơ khai của nó
là quan sát, nghiên cứu. Ngày nay, lý luận đƣợc hiểu là tập hợp các khái
niệm, phạm trù quy luật đƣợc khái quát từ việc đúc rút những kinh
nghiệm, hoạt động hằng ngày của con ngƣời. Hay nói khác đi, lý luận là

hệ thống các quan điểm, tƣ tƣởng đƣợc khái quát từ thực tiễn khách
quan.

9


Chủ tịch Hồ Chí Minh định nghĩa lý luận là sự tổng kết những kinh
nghiệm của loài ngƣời, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích
trữ lại trong quá trình lịch sử. Lý luận chân chính là “đem thực tế trong lịch
sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh kỹ lƣỡng,
rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh trong thực tế” [46,
tr.233].
Có thể nói, định nghĩa về lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh hoàn
toàn chính xác và đầy đủ. Qua đó, Ngƣời đã góp phần làm sáng tỏ quan
niệm về lý luận cũng nhƣ nguồn gốc, cách thức hình thành lý luận.
Tóm lại, tuy có rất nhiều góc độ tiếp cận khác nhau về vấn đề lý
luận, nhƣng nhìn chung đều có sự thống nhất: lý luận là sự khái quát
những kinh nghiệm thực tiễn, là sự tổng hợp những tri thức về tự nhiên,
xã hội đƣợc tích luỹ trong quá trình hoạt động sống của con ngƣời; là sự
phản ánh bản chất, tính quy luật, tất cả mọi hiện tƣợng trong đời sống xã
hội và sau đó nó quay trở lại định hƣớng cho hoạt động thực tiễn của con
ngƣời.
Cho đến nay, trên thế giới có rất nhiều loại lý luận, ở mỗi ngành,
lĩnh vực có một hệ thống lý luận đặc thù riêng, nhƣng chúng ta chỉ bàn
lý luận chính trị. Vậy chính trị là gì? Lý luận chính trị là gì?
Khi đề cập đến chính trị có rất nhiều quan điểm khác nhau. Tuỳ
theo cách tiếp cận cũng nhƣ việc bảo vệ lợi ích cho giai cấp mình mà
ngƣời ta đƣa ra các quan điểm cho phù hợp. Theo quan niệm của các nhà
kinh điển Mácxít thì chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, dân tộc,
quốc gia đối với quyền lực nhà nƣớc.

Chính trị là một hiện tƣợng xã hội đặc biệt, nó xuất hiện cùng với
sự xuất hiện giai cấp, phân chia giai cấp và nhà nƣớc. Theo tiếng Hy Lạp
cổ “chính trị” là “politica” có nghĩa là những công việc có liên quan tới
nhà nƣớc, là nghệ thuật cai trị đất nƣớc, đó còn là một tổ chức xã hội

10


nằm dƣới một quyền lực nhất định, quyền lực nhà nƣớc. “Chính trị theo
nguyên nghĩa của nó là những công việc của nhà nƣớc, là phạm vi hoạt
động gắn với những quan hệ giai cấp, dân tộc và các nhóm xã hội khác
nhau mà hạt nhân của nó là vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà
nƣớc” [55, tr.507].
Vì lẽ đó V.I.Lênin khẳng định chính trị là sự biểu hiện tập trung
của kinh tế; chính trị do kinh tế quyết định. Nhƣng mặt khác, chủ nghĩa
Mác - Lênin cũng khẳng định vai trò tích cực tác động trở lại của chính
trị đối với đời sống kinh tế - xã hội. Sự tác động của chính trị đối với cơ
sở kinh tế thƣờng diễn ra theo hai hƣớng: nếu tƣ tƣởng, quan điểm chính
trị nào phản ánh đúng đắn sự vận động, phát triển khách quan thì nó thúc
đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Ngƣợc lại, nó làm kìm hãm sự phát triển
kinh tế - xã hội. V.I.Lênin khẳng định: “Chính trị không thể không
chiếm vị trí ƣu tiên so với kinh tế”. Ƣu tiên cho chính trị, là ƣu tiên cho
việc giành lấy quyền lực chính trị và cho xây dựng các quyết sách chính
trị đúng. Để đảm bảo cho sự phát triển kinh tế thì phải thông qua một hệ
thống chính trị nhƣ chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách, pháp luật nhà nƣớc
một cách đúng đắn khoa học, không đƣợc sai lầm, mơ hồ về chính trị.
Chính trị là một lĩnh vực rất tinh tế, nhạy cảm, nó biểu hiện trên cơ sở các
tri thức đƣợc tích luỹ trong quá trình lịch sử và những quan hệ gắn với
con ngƣời, với giai cấp, dân tộc và thời đại. Do tính phức tạp, nhạy bén,
năng động nên chính trị không có một công thức chung, cách thức chung

duy nhất nào cả và nó cũng không phải là con đƣờng thẳng tắp, thuận lợi,
dễ đi mà nó là con đƣờng quanh co phức tạp. V.I.Lênin cho rằng chính trị
giống đại số hơn là số học, càng giống toán học cao cấp hơn toán học sơ
cấp, chính trị là vận mệnh thực tế của hàng triệu con ngƣời.
Với góc độ tiếp cận khái niệm lý luận và khái niệm chính trị ở trên
đây, có thể đƣa ra một khái niệm lý luận chính trị nhƣ sau: Lý luận chính
trị là lý luận trong lĩnh vực chính trị. Lý luận chính trị ra đời khi xã hội
có giai cấp và đấu tranh giai cấp để đại diện cho một lợi ích của một
11


Đảng, một giai cấp nhất định trong xã hội. Lý luận chính trị là hệ thống
các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của một Đảng, một
giai cấp để giành, giữ và thực thi quyền lực Nhà nước.
Nhƣ vậy, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là lý luận chính trị
của giai cấp vô sản, là hệ tƣ tƣởng chân chính nhất của giai cấp vô sản
và chính đảng của mình - Đảng Cộng sản. Đó là kim chỉ nam của giai
cấp vô sản trong cuộc đấu tranh giải phóng mình, giải phóng nhân dân
lao động khỏi áp bức bóc lột của giai cấp tƣ sản và trả con ngƣời về
đúng vị trí của nó.
- Khái niệm công tác đào tạo lý luận chính trị:
Về mặt cấu trúc của thuật ngữ công tác đào tạo lý luận chính trị là
từ sự ghép nối giữa lý luận chính trị đƣợc nói ở đây nhƣ một bổ ngữ của
công tác đào tạo nhằm phân biệt rõ nội dung của sự đào tạo. Đào tạo, theo
nghĩa chung nhất là quá trình tác động đến con ngƣời, làm cho ngƣời đó
lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng... một cách có hệ thống để họ
có thể thích nghi với cuộc sống và có khả năng nhận một sự phân công lao
động nhất định, đóng góp phần công sức của mình vào sự phát triển xã hội
nói chung. Nhƣ vậy, đào tạo đƣợc xem nhƣ là một quá trình làm cho ngƣời
đƣơ ̣c đào ta ̣o “trở thành ngƣời có năng lực và phẩm chất theo những tiêu

chuẩn nhất định”. Công tác đào tạo , là quá trình tổ chức những cơ hội học
tập nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng, thái độ làm việc cho ngƣời học để họ
đảm trách công việc đƣợc giao tốt hơn, hiệu quả hơn.
Nhƣ vậy chúng ta có thể định nghĩa công tác đào tạo lý luận chính
trị là quá trình tổ chức học tập nhằm trang bị cho ngƣời học những kiến
thức về các quan điểm, chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách của Đảng, Nhà
nƣớc và hình thành cho họ các kỹ năng nhằm thực thi quyền lực Nhà
nƣớc.
Bản chất của công tác đào tạo lý luận chính trị là quá trình tác động
có mục đích, có hệ thống của một đảng chính trị, một giai cấp, một tổ chức
12


chính trị - xã hội, nhằm giác ngộ nâng cao nhận thức tƣ tƣởng của quần
chúng về quan điểm, đƣờng lối chính trị; động viên, tập hợp quần chúng
tham gia vào quá trình đấu tranh cách mạng để giành, giữ, thực thi và bảo
vệ quyền lực chính trị; đáp ứng, thoả mãn các nhu cầu về lợi ích chính trị,
tinh thần và lợi ích kinh tế...
Ngày nay, công tác đào tạo lý luận chính trị có thể hiểu theo
nghĩa là công tác truyền bá những tri thức lý luận chính trị, những thông tin
cần thiết về công tác xây dựng chính đảng của giai cấp; cụ thể hiện nay là:
chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, đƣờng lối,
chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nƣớc Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam; định hƣớng các lĩnh vực khoa học và công nghệ, kinh tế,
các thành tựu khoa học xã hội và nhân văn, các thông tin chính trị, xã hội
và văn hoá.
Là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tƣ tƣởng, công tác
đào tạo lý luận chính trị của Đảng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên là quá
trình hoạt động có ý thức, mục đích, thƣờng xuyên với những phƣơng
pháp, biện pháp cách mạng, khoa học tác động đến tƣ tƣởng, hành động

của toàn bộ đội ngũ và từng cán bộ, đảng viên của Đảng, làm cho đội ngũ
đó thống nhất ý chí, hành động nhƣ một ngƣời; tiên phong, gƣơng mẫu
trong hoạt động cách mạng.
Chủ thể của công tác đào tạo lý luận chính trị của Đảng là Đảng
Cộng sản Việt Nam mà trực tiếp là cấp uỷ Đảng từ Trung ƣơng đến cơ sở
và các cơ quan chức năng nhƣ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Trƣờng chính trị cấp tỉnh, thành phố và các cơ sở đào tạo chính trị trong
lực lƣợng vũ trang.
Đối tƣợng khách thể của công tác đào tạo lý luận chính trị của Đảng
là cán bộ, đảng viên làm việc trong hệ thống chính trị.
- Khái niệm cán bộ, cán bộ chủ chốt cấp xã, phường, thị trấn:

13


Cán bộ là một danh từ xuất hiện trong đời sống xã hội nƣớc ta
khoảng những năm 30 của thế kỷ XIX, để chỉ một lớp ngƣời là những
chiến sĩ cách mạng sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh, gắn bó với nhân
dân, phục vụ cho sự nghiệp cao cả giành độc lập, tự do cho dân tộc.
Cho đến nay, từ cán bộ đã đƣợc dùng với rất nhiều nghĩa khác nhau:
Trong tổ chức đảng và đoàn thể, từ cán bộ đƣợc dùng với hai nghĩa:
một là, để chỉ những ngƣời đƣợc bầu vào các cấp lãnh đạo, chỉ huy từ cơ sở
đến Trung ƣơng (cán bộ lãnh đạo) để phân biệt với đảng viên thƣờng, đoàn
viên, hội viên; hai là, những ngƣời làm công tác chuyên trách có hƣởng
lƣơng trong các tổ chức đảng và đoàn thể.
Trong hệ thống nhà nƣớc, từ cán bộ đƣợc hiểu cơ bản là trùng với từ
công chức, chỉ những ngƣời làm việc trong cơ quan nhà nƣớc thuộc ngành
hành chính, tƣ pháp, kinh tế, văn hoá và xã hội. Đồng thời, từ cán bộ cũng
đƣợc hiểu là những ngƣời có chức vụ chỉ huy, phụ trách, lãnh đạo (trƣởng,
phó phòng v.v…)

Ở tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, viết năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đƣa ra khái niệm một cách ngắn gọn, dễ hiểu về cán bộ “Cán bộ là
những ngƣời đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân
chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo
cho Đảng, cho Chính phủ rõ, để đặt chính sách cho đúng” [49, tr.269].
Ngày 13/11/2008, tại kỳ họp thứ tƣ Quốc hội khoá XII đã thông qua
Luật cán bộ, công chức có hiệu lực từ ngày 01/01/2010. Tại khoản 1 Điều 4
đã quy định: “Cán bộ là công dân Việt Nam, đƣợc bầu cử, phê chuẩn, bổ
nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng
sản Việt Nam, Nhà nƣớc, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ƣơng, ở tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ƣơng (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện,
quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (sau đây gọi là cấp huyện), trong
biên chế và hƣởng lƣơng từ ngân sách nhà nƣớc” [39, tr.1]. Đây là căn cứ
pháp lý quan trọng để hiểu đúng bản chất, ý nghĩa của khái niệm cán bộ, để
phân biệt vói khái niệm công chức.

14


Đối với cán bộ cấp xã đƣợc quy định tại Khoản 3 Điều 4 Luật cán
bộ, công chức: “Cán bộ xã, phƣờng, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã)
là công dân Việt Nam, đƣợc bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong
Thƣờng trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thƣ, Phó Bí thƣ
Đảng ủy, ngƣời đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội” [39, tr.1].
Trong đội ngũ cán bộ, có một nhóm đƣợc gọi là cán bộ chủ chốt. Từ
trƣớc đến nay, trong công tác cán bộ cũng nhƣ

trong các văn bản , nghị

quyết của Đảng đề cập rất nhiều đến khái niệm cán bộ chủ chốt, tuy nhiên

đến nay vẫn chƣa có quan niệm thống nhất và tiêu chí cụ thể để xác định
trong hệ thống tổ chức ở một cấp những ai là cán bộ chủ chốt và những ai
không phải là cán bộ chủ chốt . Có quan niệm cho rằng, cán bộ chủ chốt
bao gồm toàn bộ cán bộ là ủy viên ban thƣờng vụ của tổ chức đảng, thƣờng
trực của bộ máy chính quyền và ủy viên ban chấp hành các tổ chức đoàn
thể. Có quan niệm cho rằng, đó là ngƣời đứng đầu quan trọng nhất. Tiếng
Anh cũng gọi nhóm này là “leader” nghĩa là ngƣời cầm đầu.
Từ điển tiếng Việt (2003), Nxb Đà Nẵng định nghĩa:"Chủ chốt là
quan trọng nhất, có tác dụng làm nòng cốt. Cán bộ chủ chốt của phong
trào".
Ở mỗi tổ chức có những ngƣời lãnh đạo, nhiều tổ chức có tập thể
lãnh đạo. Những ngƣời đó là cán bộ chủ chốt. Khi nghiên cứu cán bộ
chủ chốt cần phân biệt cán bộ chủ chốt với cán bộ lãnh đạo chủ chốt.
Cán bộ lãnh đạo chủ chốt là những ngƣời lãnh đạo nhƣng là lãnh đạo
toàn diện, có thẩm quyền cao nhất, trọng trách nặng nề nhất trƣớc tập
thể lãnh đạo là ngƣời đứng đầu trong một tổ chức. Cán bộ chủ chốt là
những ngƣời lãnh đạo của một tổ chức nhất định.
Nhƣ vậy, khái niệm cán bộ chủ chốt rộng hơn, có thể đồng nhất với
cán bộ cấp trƣởng, cấp phó ở mỗi cơ quan, tổ chức, có tác dụng chi phối
mọi hoạt động của cơ quan, tổ chức. Khi xác định cán bộ chủ chốt cần đặt
cán bộ trong một tổ chức nhất định, dựa vào các chức danh cụ thể của mỗi
cán bộ và đặt trong mối quan hệ với toàn bộ hệ thống tổ chức: Nhiều cán
bộ ở cƣơng vị này, trong tổ chức này là cán bộ chủ chốt nhƣng trong mối
15


quan hệ khác, vị trí khác lại không phải là cán bộ chủ chốt. Chẳng hạn, Bí
thƣ Đảng uỷ xã là cán bộ chủ chốt của xã nhƣng không là cán bộ chủ chốt
của huyện, mặc dù cán bộ đó có thể là Huyện uỷ viên.
Từ những vấn đề trình bày ở trên, có thể quan niệm đội ngũ cán bộ

chủ chốt cấp xã, phường, thị trấn nhƣ sau: “Đó là những ngƣời đứng đầu,
quan trọng nhất trong hệ thống bộ máy đảng, chính quyền, mặt trận và các
đoàn thể chính trị - xã hội ở xã, có tác dụng chính, chi phối việc chấp hành
chủ trƣơng, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc
thông qua việc lãnh đạo và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội
trên địa bàn nông thôn mà họ phụ trách”.
Với quan niệm đó, đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phƣờng, thị trấn mà
luận văn đề cập đến bao gồm các chức danh: Bí thƣ, phó Bí thƣ Đảng uỷ;
Chủ tịch, phó Chủ tịch HĐND; Chủ tịch, phó Chủ tịch UBND; Chủ tịch
Mặt trận Tổ quốc; Bí thƣ Đoàn Thanh niên; Chủ tịch Hội nông dân; Chủ
tịch Hội liên hiệp phụ nữ; Chủ tịch Hội cựu chiến binh của xã, phƣờng, thị
trấn.
* Vị trí, vai trò của công tác đào tạo lý luận chính trị cho đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã, phường, thị trấn:
- Công tác đào tạo lý luận chính trị do Đảng Cộng sản lãnh đạo tiến
hành góp phần nâng cao tính tự giác cách mạng của giai cấp công nhân:
Sự phát triển của những quan hệ vật chất trong những giai đoạn lịch
sử nhất định đƣa đến sự ra đời giai cấp và phân chia giai cấp: giai cấp bóc
lột và giai cấp bị bóc lột, cùng với nó là cuộc đấu tranh trên tất cả các địa
hạt kinh tế, chính trị, tƣ tƣởng... nhằm xoá bỏ sự áp bức bóc lột, giải phóng
xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con ngƣời. Ngay từ khi ra đời, giai
cấp vô sản đã đấu tranh với giai cấp tƣ sản: "giai cấp vô sản trải qua nhiều
giai đoạn phát triển khác nhau. Cuộc đấu tranh của họ chống lại giai cấp tƣ
sản bắt đầu ngay từ lúc họ mới ra đời" [41, tr.607]. Tiến trình đấu tranh của
giai cấp vô sản chung quy qua hai bƣớc phát triển: tự phát và tự giác. Trong

16


đó giai đoạn đấu tranh tự giác vì mình, vì quyền lợi toàn bộ giai cấp là

bƣớc đấu tranh cao nhất.
Cuộc cách mạng do giai cấp công nhân tiến hành nhằm lật đổ chủ
nghĩa tƣ bản, thủ tiêu mọi nguồn gốc của sự áp bức, bóc lột, bất công, xây
dựng chủ nghĩa xã hội - một xã hội vì con ngƣời, giải phóng con ngƣời. Đó
là cuộc cách mạng triệt để nhất, vĩ đại nhất nên cần có sự tự giác và là hoạt
động tự giác của giai cấp công nhân và quần chúng. Để có đƣợc yếu tố tự
giác của phong trào cách mạng, giai cấp công nhân và nhân dân lao động
phải cần đƣợc giáo dục chính trị tƣ tƣởng để họ nhận thức sâu sắc hơn ý
nghĩa của cuộc cách mạng. Đúng nhƣ Lênin đã viết: Công nhân trƣớc đây
không thể có ý thức dân chủ - xã hội chủ nghĩa. Ý thức này chỉ có thể từ
bên ngoài vào. Lịch sử tất cả các nƣớc chứng thực rằng chỉ do lực lƣợng
của bản thân mình thôi thì giai cấp công nhân chỉ có thể đi đến ý thức công
liên chủ nghĩa tức là đi đến chỗ tin rằng phải đoàn kết lại thành hội liên
hiệp phải đấu tranh chống bọn chủ, phản đối chính phủ ban hành những
luật này hay những luật khác cần thiết cho công nhân” [36, tr.38].
Lênin đã nói rằng, những ngƣời cộng sản phải tích cực giáo dục
chính trị cho giai cấp công nhân, cố gắng phát triển ý thức chính trị của giai
cấp công nhân... Không tiến hành công tác đào tạo lý luận chính trị, thì hoạt
động chính trị sẽ biến thành trò chơi, bởi vì hoạt động đó chỉ khi nào và
trong chừng mực nào nó phát động đƣợc quần chúng của một giai cấp nhất
định, làm cho họ quan tâm và thúc đẩy họ tích cực xung phong tham gia
vào các sự biến - thì nó mới có ý nghĩa trọng đại đối với giai cấp vô sản [36,
tr. 396].
Công tác đào tạo lý luận chính trị theo chủ nghĩa Mác - Lênin, giữ vị
trí rất quan trọng trong tiến trình phát triển của cuộc đấu tranh cách mạng
của giai cấp công nhân thế giới nói chung cũng nhƣ sự nghiệp cách mạng
của giai cấp công nhân Việt Nam. Theo Lênin, đây là một nhiệm vụ, công
tác quan trọng hàng đầu mà Đảng Cộng sản phải tiến hành, "nhiệm vụ thứ
17



nhất của bất cứ chính đảng nào có trọng trách đối với tƣơng lai là thuyết
phục cho đa số nhân dân thấy đƣợc sự đúng đắn của cƣơng lĩnh và sách
lƣợc của mình" [43, tr.208-209]. Điều đó chỉ có thể đƣợc thực hiện bằng
công tác đào tạo lý luận chính trị của Đảng Cộng sản.
Hoạt động của công tác đào tạo lý luận chính trị dƣới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản là hoạt động tự giác, phù hợp với quy luật vận động và phát
triển khách quan của xã hội. Lực lƣợng cách mạng chỉ có thể hoạt động tự
giác khi nắm vững đƣờng lối cách mạng đúng đắn do Đảng đề ra, cũng nhƣ
mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải biết vận dụng đƣờng lối, chủ trƣơng
của Đảng vào thực tiễn, một khi nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin. Năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một đảng cách mạng phụ thuộc vào trình
độ thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, trình độ vận dụng lý luận đó vào
thực tiễn trong những điều kiện lịch sử cụ thể, đó là thƣớc đo sự trƣởng
thành của một Đảng Cộng sản.
Việc nâng cao trình độ nhận thức lý luận cách mạng cho cán bộ,
đảng viên có thể thực hiện bằng nhiều con đƣờng, với nhiều hình thức và
phƣơng pháp khác nhau. Song dù ở thời kỳ nào, giai đoạn nào của cách
mạng, công tác đào tạo lý luận chính trị vẫn luôn có tầm quan trọng đặc
biệt. Đó là một yếu tố tạo nên bản lĩnh chính trị vững vàng của mỗi một
Đảng cũng nhƣ của mỗi cán bộ, đảng viên trong tiến trình của cuộc đấu
tranh cách mạng, nhất là ở những giai đoạn khó khăn, phức tạp, những
bƣớc ngoặt, chuyển từ giai đoạn này sang giai đoạn khác của cách mạng.
Đối với mỗi cán bộ, đảng viên cộng sản, phải thông qua công tác đào
tạo lý luận chính trị của Đảng mới có điều kiện hiểu biết sâu sắc về chủ
nghĩa Mác - Lênin, về đƣờng lối chính trị của Đảng, mới có tầm nhìn chính
trị rộng lớn, có khả năng đánh giá đúng đắn các hiện tƣợng xã hội, các sự
kiện lịch sử, đánh giá đúng tình hình và xu hƣớng phát triển của phong trào
cách mạng, từ đó mới có khả năng lãnh đạo đƣợc quần chúng.


18


Vì vậy, Đảng Cộng sản, cần phải coi trọng công tác đào tạo lý luận
chính trị cho cán bộ, đảng viên. Cán bộ, đảng viên của Đảng phải thƣờng
xuyên học tập lý luận chính trị của chủ nghĩa Mác-Lênin. Lênin đã nói:
"không, không một phút nào công nhân lại quên rằng họ cần phải có sức
mạnh của sự hiểu biết" [37, tr. 238].
- Vai trò của công tác đào tạo lý luận chính trị của Đảng Cộng sản
Việt Nam đối với thắng lợi của cách mạng Việt Nam:
Dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc ta trong hơn
8 thập kỷ qua đã giành nhiều thắng lợi vẻ vang. Thắng lợi rực rỡ nhất trong
lịch sử của dân tộc là xác lập một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên ĐLDT đi lên
CNXH. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã khẳng định: "Sự lãnh đạo
đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm cho mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam [24, tr. 25]. Đảng ta đã nắm vững và
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh vào điều
kiện cụ thể ở Việt Nam, đề ra đƣờng lối đúng đắn, đáp ứng yêu cầu phát
triển của cách mạng nƣớc ta. Đó là đƣờng lối cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, đƣờng lối tiến hành đồng thời hai chiến lƣợc: cách mạng dân tộc
dân chủ ở miền Nam, cách mạng XHCN ở miền Bắc và hiện nay là đƣờng
lối đổi mới toàn diện theo định hƣớng XHCN.
Đƣờng lối chính trị của Đảng qua từng thời kỳ cách mạng đã thấm
sâu vào quần chúng nhân dân bằng công tác giáo dục, đào tạo lý luận chính
trị do Đảng tiến hành. Đó là quá trình giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin,
quan điểm chủ trƣơng của Đảng để nâng cao ý thức chính trị, giác ngộ cách
mạng trƣớc hết cho cán bộ, đảng viên. Nhờ đó, Đảng ta đã huy động mọi
nguồn lực, tạo nên sức mạnh tổng hợp của dân tộc để chiến thắng mọi kẻ
thù.
- Công tác đào tạo lý luận chính trị góp phần vào việc thành lập

Đảng và xây dựng Đảng vững mạnh:

19


Trong lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc, bằng lao động
sáng tạo, nhân dân ta đã hun đúc, xây dựng nên nhiều truyền thống tốt đẹp,
trong đó yêu nƣớc là sản phẩm tinh thần sâu sắc nhất của dân tộc ta, là tƣ
tƣởng, tình cảm thiêng liêng, thấm đƣợm trong mỗi ngƣời Việt Nam. Chủ
nghĩa yêu nƣớc là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài của lịch sử Việt Nam, là
động lực nội sinh to lớn và mạnh mẽ giúp cho dân tộc ta vƣợt qua bao khó
khăn, thách thức trên con đƣờng phát triển.
Vì vậy, ngay từ khi thực dân Pháp xâm lƣợc và đặt ách đô hộ lên đất
nƣớc ta, nhân dân ta đã liên tiếp đứng lên kháng chiến giành lại độc lập dân
tộc, nhƣng tất cả các phong trào đó đều thất bại. Yêu cầu khách quan của
cách mạng Việt Nam, đòi hỏi có một đảng cách mạng với đƣờng lối chính
trị đúng đắn. Đảng chính trị đó phải là sự kết hợp giữa lý luận cách mạng
với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và phong trào yêu nƣớc
của toàn dân tộc, nên cần có sự chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tƣ tƣởng để
giác ngộ giai cấp, giác ngộ quần chúng cách mạng. Điều đó, chỉ có thể thực
hiện đƣợc bằng công tác đào tạo lý luận chính trị, công tác vận động, giáo
dục, thuyết phục quần chúng do những ngƣời ƣu tú của giai cấp cách mạng
tiến hành.
Thông qua những nguồn tài liệu, sách báo cách mạng, bằng công tác
đào tạo lý luận chính trị do Nguyễn Ái Quốc và các chiến sĩ cách mạng lão
thành tiến hành, chủ nghĩa Mác - Lênin đã đến với nhân dân Việt Nam nhƣ
ngƣời đi đƣờng đang khát mà có nƣớc uống, đang đói mà có cơm ăn. Nó
lôi cuốn không chỉ có GCCN mà còn nhiều ngƣời Việt Nam yêu nƣớc đi
vào con đƣờng cách mạng vô sản, làm dấy lên phong trào đấu tranh sôi nổi
rộng khắp trong cả nƣớc của nhân dân ta, trong đó phong trào đấu tranh của

giai cấp công nhân đã trở thành lực lƣợng chính trị độc lập - một điều kiện
ra đời của Đảng.
Sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin, với phong trào đấu tranh
quyết liệt của GCCN và phong trào yêu nƣớc Việt Nam đã đƣa đến việc
20


thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3-2-1930. Đó là kết quả của
quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tƣ tƣởng và tổ chức, đồng thời cũng
là kết quả của công tác đào tạo lý luận chính trị, công tác vận động cách
mạng để đƣa yếu tố tự giác vào phong trào đấu tranh giai cấp công nhân và
phong trào yêu nƣớc do các chiến sĩ cộng sản tiền bối, mà ngƣời đầu tiên là
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.
Ngày nay, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các
nƣớc Đông Âu vừa qua để lại cho chúng ta nhiều bài học Trong đó bài học
xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tƣ tƣởng là vấn đề cốt lõi, là nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu. Nó bao gồm từ việc xây dựng cƣơng lĩnh, đƣờng
lối chính trị... xác định mục tiêu và nhiệm vụ, đến việc xác định chủ
trƣơng, chính sách cụ thể của Đảng trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách
mạng.
Sự vững vàng về chính trị là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho Đảng
đủ bản lĩnh ứng phó trƣớc mọi diễn biến phức tạp của tình hình, đề ra đƣợc
đƣờng lối chiến lƣợc đúng, đƣa con thuyền cách mạng vƣợt sóng vƣơn lên,
vƣợt qua thử thách đi đúng hƣớng. Vì vậy "suốt quá trình từ khi thành lập
Đảng đến nay bên cạnh những mặt mạnh cơ bản nhƣ đƣờng lối chung là
đúng, nhƣng tất nhiên trong cụ thể hoá đƣờng lối, cơ chế, chính sách cũng
có lúc sai, hoặc chƣa phù hợp" [24, tr. 11]. Đảng đã kịp thời phát hiện và
quyết tâm sửa chữa, nên vai trò lãnh đạo của Đảng vẫn đƣợc giữ vững. Sức
mạnh của Đảng còn phụ thuộc vào chất lƣợng của đội ngũ đảng viên mà
phẩm chất chính trị hàng đầu là sự giác ngộ cách mạng, tuyệt đối trung

thành với mục tiêu lý tƣởng của Đảng, có kiến thức và năng lực để hoàn
thành nhiệm vụ, phấn đấu xây dựng đất nƣớc theo con đƣờng XHCN. Đây
là vấn đề cốt lõi của tƣ cách đảng viên: Tính tự giác này phụ thuộc một
phần quan trọng ở trình độ thấm nhuần lý luận Mác - Lênin, thấm nhuần
đƣờng lối chính sách của Đảng, của ngƣời đảng viên [88, tr.132].

21


Nhƣ vậy, sự giác ngộ, lòng trung thành của đảng viên đòi hỏi đảng
viên phải đứng vững trên lập trƣờng, quan điểm của GCCN, phải có hiểu
biết, nắm vững những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm vững
đƣờng lối chính sách của Đảng và có khả năng vận dụng vào thực tiễn...
Điều này chỉ có thể thực hiện đƣợc thông qua công tác đào tạo lý luận
chính trị.
Tóm lại, công tác đào tạo lý luận chính trị có vị trí và tầm quan trọng
đặc biệt trong công tác xây dựng Đảng và trong sự lãnh đạo của Đảng.
Công tác đào tạo lý luận chính trị không chỉ góp phần xây dựng nền tảng tƣ
tƣởng khối đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân, xây dựng hệ
thống lý luận làm cơ sở cho hoạt động lãnh đạo của Đảng, nâng cao trình
độ trí tuệ cho cán bộ đảng viên, xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ
đảng viên; mà còn tham gia xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị và
tổ chức. Công tác đào tạo lý luận chính trị không chỉ tham gia vào quá trình
hoạch định chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc, mà
còn cổ vũ, động viên, tuyên truyền, giáo dục cả dân tộc hăng say lao động
tự giác, quên mình vì mục tiêu lý tƣởng của CNXH, đấu tranh với các tƣ
tƣởng sai trái. Do đó công tác đào tạo lý luận chính trị liên quan trực tiếp
đến vận mệnh của Đảng, đến tƣơng lai tiền đồ của dân tộc. Sự vững mạnh
của Đảng về tƣ tƣởng chính trị là tiền đề và điều kiện tiên quyết để Đảng
thực hiện tốt sứ mệnh lịch sử là lãnh đạo đất nƣớc trong thời kỳ từng bƣớc

tiến lên CNXH.
1.1.1.2. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và đặc điểm đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã, phường, thị trấn của tỉnh Bắc Ninh
* Đặc điểm tỉnh hình kinh tế, văn hóa – xã hội tỉnh Bắc Ninh
Là một trong 8 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Bắc Ninh
nằm trong tam giác tăng trƣởng kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh
(khu vực có tốc độ tăng trƣởng kinh tế cao trong cả nƣớc). Với vị trí nhƣ
vậy, Bắc Ninh có nhiều thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
22


×