Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Hình thành quỹ đầu tư mạo hiểm nhằm huy động nguồn vốn ngoài ngân sách đầu tư cho khoa học và công nghệ trên địa bàn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 104 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

PHẠM QUANG ANH

HÌNH THÀNH QUỸ ĐẦU TƢ MẠO HIỂM
NHẰM HUY ĐỘNG NGUỒN VỐN NGOÀI NGÂN SÁCH
ĐẦU TƢ CHO KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

Hà Nội, 2015

1


MỤC LỤC

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 4
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................4
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ..........................................................................4
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................7
3.1. Mục tiêu nghiên cứu .....................................................................................7
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................................7
4. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................................8
5. Mẫu khảo sát........................................................................................................8


6. Câu hỏi nghiên cứu ..............................................................................................8
7. Giả thuyết nghiên cứu .........................................................................................8
8. Phƣơng pháp nghiên cứu .....................................................................................9
9. Kết cấu của luận văn ...........................................................................................9
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƢ MẠO HIỂM CHO KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ.....................................................................................................................11
1.1. Khoa học và công nghệ ..................................................................................11
1.1.1. Khái niệm khoa học .................................................................................11
1.1.2. Khái niệm công nghệ ...............................................................................12
1.1.3. Khái niệm hoạt động khoa học và công nghệ ..........................................15
1.2. Đầu tƣ cho khoa học và công nghệ ................................................................ 16
1.2.1. Nguồn vốn cho khoa học và công nghệ ...................................................16
1.2.2. Nguồn vốn ngoài ngân sách cho khoa học và công nghệ ........................22
1.3. Các thể chế liên quan trực tiếp đến nguồn vốn ngoài ngân sách cho khoa học
và công nghệ...................................................................................................25
1.3.1. Thị trường công nghệ ..............................................................................25
1.3.2. Doanh nghiệp khoa học và công nghệ.....................................................28
1.4. Đầu tƣ mạo hiểm ............................................................................................30
1.4.1. Khái niệm đầu tư mạo hiểm .....................................................................30
1.4.2. Vốn đầu tư mạo hiểm ...............................................................................30
1.4.3. Quỹ đầu tư mạo hiểm ...............................................................................31
1.4.4. Vai trò của quỹ đầu tư mạo hiểm đối với khoa học và công nghệ ..........34
Tiểu kết chƣơng 1 ..................................................................................................36
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG NGUỒN VỐN NGOÀI NGÂN SÁCH37
ĐẦU TƢ CHO KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI .............37
2.1. Chính sách về nguồn vốn cho hoạt động khoa học và công nghệ ..................37
2.1.1. Khái quát về nguồn vốn cho các doanh nghiệp khoa học và công nghệ .37
2.1.2. Phân tích chính sách về nguồn vốn cho các doanh nghiệp khoa học và
công nghệ .................................................................................................40
2.2. Nguồn vốn dành cho hoạt động của các doanh nghiệp khoa học và công nghệ

trên địa bàn Hà Nội ........................................................................................47
2.2.1. Khái quát về doanh nghiệp khoa học và công nghệ trên địa bàn Hà Nội
.................................................................................................................47
2


2.2.2. Khảo sát thực trạng nguồn vốn dành cho các doanh nghiệp khoa học và
công nghệ trên địa bàn Hà Nội ...............................................................52
2.3. Nhận xét về thực trạng nguồn vốn dành cho các doanh nghiệp khoa học và
công nghệ trên địa bàn Hà Nội .......................................................................58
2.3.1. Khái quát thực trạng nguồn vốn ..............................................................58
2.3.2. Kết quả phỏng vấn nhận định về thực trạng nguồn vốn ..........................59
2.4. Nguyên nhân khó huy động vốn để tài trợ cho các doanh nghiệp khoa học và
công nghệ .......................................................................................................63
Tiểu kết chƣơng 2 ..................................................................................................68
CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP HÌNH THÀNH QUỸ ĐẦU TƢ MẠO HIỂM....................69
NHẰM HUY ĐỘNG NGUỒN VỐN NGOÀI NGÂN SÁCH ......................................69
CHO KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ............................................................................69
3.1. Hoạt động của các quỹ đầu tƣ mạo hiểm .......................................................69
3.1.1. Kinh nghiệm về đầu tư mạo hiểm tại một số nước ..................................69
3.1.2. Sự cần thiết hình thành quỹ đầu tư mạo hiểm .........................................72
3.1.3. Việc huy động vốn cho quỹ đầu tư mạo hiểm ..........................................73
3.2. Nhóm giải pháp về chính sách hình thành quỹ đầu tƣ mạo hiểm cho khoa học
và công nghệ...................................................................................................81
3.2.1. “Vốn mồi” (Seed Capital) cho việc hình thành quỹ đầu tư mạo hiểm ....81
3.2.2. Nguồn vốn ngoài ngân sách cho hoạt động và duy trì quỹ đầu tư mạo
hiểm..........................................................................................................83
3.3. Nhóm giải pháp về tổ chức và hoạt động của quỹ đầu tƣ mạo hiểm .............85
3.3.1. Tổ chức của quỹ đầu tư mạo hiểm ...........................................................85
3.3.2. Hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm .......................................................85

3.4. Nhóm giải pháp về điều kiện tiếp cận quỹ đầu tƣ mạo hiểm .........................88
3.4.1. Chu trình hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm .......................................88
3.4.2. Minh bạch trong quản lý tài chính – Điều kiện tiên quyết để tiếp cận
nguồn vốn từ quỹ đầu tư mạo hiểm .........................................................92
3.4.3. Doanh nghiệp có nhu cầu tiếp cận nguồn vốn từ quỹ đầu tư mạo hiểm .95
3.4.4. Doanh nghiệp có hệ thống quản lý hiệu quả ...........................................97
Tiểu kết chƣơng 3 ..................................................................................................99
KẾT LUẬN ......................................................................................................................100
KHUYẾN NGHỊ ..............................................................................................................101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................102

3


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, ở Việt Nam, nguồn vốn đầu tƣ cho khoa học và công nghệ là
2% tổng chi ngân sách, tƣơng đƣơng 0,5% GDP. Các chƣơng trình khoa học
và công nghệ từ cấp nhà nƣớc đến cấp tỉnh/thành phố đều chủ yếu sử dụng
nguồn vốn này. Trong khi đó, thời gian gần đây, Nhà nƣớc nói chung và
Thành phố Hà Nội nói riêng thƣờng sử dụng các biện pháp cắt giảm chi ngân
sách do khó khăn từ việc thu ngân sách, bao gồm cả ngân sách chi cho khoa
học và công nghệ. Các đề tài nghiên cứu khoa học của thành phố Hà Nội ngày
càng gia tăng với nhiều vấn đề nghiên cứu mang tính bức xúc, nhiều vấn đề
mới cấp thiết, công nghệ cao, lĩnh vực nghiên cứu mới với tính rủi ro cao
nhƣng việc không đủ nguồn vốn ngân sách nhà nƣớc dẫn đến sự phụ thuộc,
hạn chế trong quá trình triển khai các đề tài, dự án khoa học và công nghệ của
thành phố Hà Nội.
Để giảm sự phụ thuộc, trông chờ từ nguồn vốn ngân sách nhà nƣớc,
nếu các cơ quan quản lý nhà nƣớc có những chính sách khuyến khích, ƣu đãi

phù hợp thì có thể thúc đẩy sự đầu tƣ một cách hiệu quả vào khoa học và
công nghệ từ các nguồn vốn của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tài trợ.
Do vậy, nghiên cứu hình thành quỹ đầu tƣ mạo hiểm là một giải pháp
khả thi nhằm huy động nguồn vốn ngoài ngân sách đầu tƣ cho khoa học và
công nghệ trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chính vì vậy, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài Hình thành quỹ đầu tư
mạo hiểm nhằm huy động nguồn vốn ngoài ngân sách đầu tư cho khoa học và
công nghệ trên địa bàn thành phố Hà Nội đƣợc chọn làm đề tài Luận văn
Thạc sĩ chuyên ngành Quản lý khoa học và công nghệ.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Quỹ đầu tƣ mạo hiểm đã xuất hiện khá lâu trên thế giới dƣới nhiều hình
thức khác nhau. Loại hình định chế tài chính này đƣợc các nhà khoa học kinh
tế nghiên cứu và ứng dụng trong nhiều lĩnh vực với những nội dung đa dạng
4


và phong phú. Tuy nhiên quỹ đầu tƣ mạo hiểm đầu tƣ cho khoa học và công
nghệ vẫn là một đề tài mới mẻ tại Việt Nam, ở Hà Nội hầu nhƣ chƣa có, nên
các nghiên cứu và đề xuất hình thành quỹ đầu tƣ mạo hiểm đầu tƣ cho khoa
học và công nghệ gần nhƣ chƣa có mà chỉ có những nghiên cứu về quỹ đầu tƣ
mạo hiểm nói chung. Tại Việt Nam, trong vài năm gần đây có thể kể tới một
số công trình sau:
- Sở Khoa học và Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh (2003), “Tìm
hiểu quỹ đầu tư mạo hiểm và tình hình hoạt động của các quỹ đầu tư mạo
hiểm tại Việt Nam”, Đề án cấp thành phố (Sở Khoa học và Công nghệ thành
phố Hồ Chí Minh chủ trì). Nội dung của đề án cho thấy các quỹ đầu tƣ mạo
hiểm đa số tập trung vào lĩnh vực internet, thƣơng mại điện tử, giải trí, truyền
thông…, bản đề án cũng mới chỉ dừng lại ở việc kiến nghị trung ƣơng cần
sớm có chính sách cụ thể quy định về việc khuyến khích thành lập các quỹ
đầu tƣ mạo hiểm, cơ chế cho vay đặc biệt đối với các dự án về công nghệ cao,

công nghệ mới ở giai đoạn khởi nghiệp góp phần quan trọng giúp huy động
nguồn lực xã hội để thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp.
- Nghiên cứu của tác giả Phan Đức Thiện (2004), “Giải pháp nhằm
khuyến khích vốn đầu tư mạo hiểm vào quá trình đổi mới công nghệ tại Việt
Nam”, Luận văn thạc sỹ (Trƣờng Đại học Kinh tế, thành phố Hồ Chí Minh).
Đã nghiên cứu tổng quan về đầu tƣ vốn mạo hiểm vào quá trình đổi mới công
nghệ; mô tả thực trạng và những yếu tố tác động đến đầu tƣ vốn mạo hiểm
vào quá trình đổi mới công nghệ tại Việt Nam; đƣa ra đƣợc một số giải pháp
nhằm khuyến khích đầu tƣ vốn mạo hiểm vào quá trình đổi mới công nghệ tại
Việt Nam: giải pháp khuyến khích về tài chính đối với các nhà đầu tƣ mạo
hiểm, giải pháp về tạo lập môi trƣờng đầu tƣ thuận lợi để phát triển thị trƣờng
tài chính, giải pháp nhằm xúc tiến hoạt động đầu tƣ, giải pháp về xây dựng
nền tảng pháp lý cho hoạt động đầu tƣ vốn mạo hiểm.
- Nghiên cứu của tác giả Lê Thị Phƣơng Vy (2007), “Phát triển thị
trường vốn mạo hiểm Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ (Trƣờng Đại học Kinh tế,
thành phố Hồ Chí Minh). Đã nghiên cứu tổng quan về vốn mạo hiểm, mô tả
5


thực trạng về thị trƣờng vốn mạo hiểm Việt Nam, đề xuất một số giải pháp
phát triển thị trƣờng vốn mạo hiểm Việt Nam: giải pháp về thành lập quỹ đầu
tƣ vốn mạo hiểm theo cơ cấu nội địa (huy động nguồn vốn từ các tổ chức Việt
Nam); giải pháp từ phía chính phủ nhƣ: khuyến khích các tổ chức đầu tƣ tham
gia sâu hơn vào thị trƣờng tài chính, nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực, đầu
tƣ cho hoạt động nghiên cứu và triển khai, phát triển bền vững thị trƣờng
chứng khoán, tạo môi trƣờng cho vốn mạo hiểm hoạt động; giải pháp từ phía
doanh nghiệp nhƣ: chủ động và chuyên nghiệp trong cách tiếp cận vốn mạo
hiểm, nâng cao năng lực của đội ngũ lãnh đạo, minh bạch tài chính, định
hƣớng chiến lƣợc phát triển doanh nghiệp rõ ràng, xây dựng khuôn khổ quản
trị doanh nghiệp hiện đại…

- Nghiên cứu của Ngô Thị Kim Oanh (2006), Luận văn tốt nghiệp thạc
sĩ khoa học: Những khó khăn trong việc hình thành Quỹ đầu tư mạo hiểm
công nghệ cao tại thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh. Trong
Luận văn này, tác giả đã phân tích, khảo sát những khó khăn trong việc hình
thành Quỹ đầu tƣ mạo hiểm công nghệ cao tại thành phố Hồ Chí Minh, tìm
hiểu những nguyên nhân dẫn đến những khó khăn đó, đồng thời đã đề ra giải
pháp để khắc phục những khó khăn đãn nêu, nhằm đề xuất tổ chức và hoạt
động của Quỹ đầu tƣ mạo hiểm công nghệ cao tại thành phố Hồ Chí Minh.
- Nghiên cứu của tác giả Phạm Đại Dƣơng (2008), “Giải pháp tạo kênh
huy động vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp
khoa học và công nghệ ở Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ (Khoa Khoa học Quản
lý, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội).
Đã nghiên cứu về thực trạng nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp khoa học
và công nghệ, nghiên cứu các giải pháp và cách thức hỗ trợ vốn cho các
doanh nghiệp khoa học và công nghệ, nghiên cứu các hình thức huy động vốn
để hỗ trợ cho các doanh nghiệp khoa học và công nghệ, nghiên cứu các chính
sách hiện hành của nhà nƣớc đối với việc huy động và đầu tƣ vốn cho doanh
nghiệp nhằm thành lập một kênh huy động và đầu tƣ vốn cho các doanh
nghiệp khoa học và công nghệ.
6


- Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Duy Hƣng (2009), “Điều kiện khả thi
của Quỹ đầu tư mạo hiểm đối với hoạt động đổi mới công nghệ của các
doanh nghiệp ở ”, Luận văn thạc sỹ (Khoa Khoa học Quản lý, Trƣờng Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội). Luận văn đã
tập trung nghiên cứu điều kiện về tính minh bạch trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, vì tính minh bạch trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp là một trong những cơ sở quan trọng để giữ
vững, phát triển doanh nghiệp, đồng thời giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận

nguồn vốn đầu tƣ trên thị trƣờng, nhất là nguồn vốn từ quỹ đầu tƣ mạo hiểm.
Đã tiến hành nghiên cứu thực trạng hoạt động đầu tƣ mạo hiểm tại Việt Nam
và hoạt động đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp ở , nghiên cứu điều
kiện để Quỹ đầu tƣ mạo hiểm mang vốn đến cho doanh nghiệp ở đổi mới
công nghệ.
Qua tổng quan các công trình trên cho thấy đã giải quyết đƣợc một số
vấn đề về vốn đầu tƣ mạo hiểm, về huy động vốn đầu tƣ cho phát triển kinh
tế, phát triển doanh nghiệp nhƣng nhìn chung mới chỉ dừng lại ở mặt lý luận
giải pháp khuyến khích vốn đầu tƣ mạo hiểm nói chung, chƣa có sự chuyên
sâu vào một số ngành mũi nhọn, có tính chất đặc thù mạo hiểm và mang lại
lợi nhuận cao, đặc biệt là đối với lĩnh vực khoa học và công nghệ.
Vấn đề hình thành quỹ đầu tƣ mạo hiểm nhằm huy động nguồn vốn
ngoài ngân sách đầu tƣ cho khoa học và công nghệ của Việt Nam nói chung
và của từng địa phƣơng nói riêng chƣa đƣợc nghiên cứu toàn diện, đầy đủ,
đặc biệt là cần phù hợp với điều kiện, đặc thù tại Hà Nội hiện nay.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Đề xuất giải pháp hình thành quỹ đầu tƣ mạo hiểm nhằm huy động
nguồn vốn ngoài ngân sách đầu tƣ cho khoa học và công nghệ.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục tiêu đã nêu, Luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu
nhƣ sau:
7


- Hệ thống hóa các khái niệm có liên quan đến đề tài, bao gồm khoa
học, công nghệ, hoạt động khoa học và công nghệ, doanh nghiệp khoa học và
công nghệ, nguồn vốn, nguồn vốn ngoài ngân sách, quỹ đầu tƣ mạo hiểm;
- Khảo sát, đánh giá hiện trạng hoạt động của các quỹ đầu tƣ mạo hiểm
trên địa bàn thành phố Hà Nội.

- Đề xuất hình thành quỹ đầu tƣ mạo hiểm nhằm huy động nguồn vốn
ngoài ngân sách đầu tƣ cho khoa học và công nghệ.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: thành phố Hà Nội.
- Phạm vi thời gian: năm 2008 - 2014.
5. Mẫu khảo sát
Luận văn tiến hành khảo sát trên các mẫu sau:
- Các đơn vị đã và đang triển khai các đề tài khoa học cấp thành phố
Hà Nội;
- 24 doanh nghiệp KH&CN trên địa bàn thành phố Hà Nội;
- Quỹ đầu tƣ mạo hiểm ở Việt Nam nhƣ: Vietnam Fund, Dragon
Capital, Mekong Enterprise, IDG Việt Nam.
6. Câu hỏi nghiên cứu
Cần hình thành và duy trì hoạt động của quỹ đầu tƣ mạo hiểm theo
những tiêu chí nào nhằm huy động vốn cho khoa học và công nghệ?
7. Giả thuyết nghiên cứu
Để hình thành và duy trì hoạt động của quỹ đầu tƣ mạo hiểm nhằm huy
động vốn cho khoa học và công nghệ, cần theo các tiêu chí sau đây:
- Chính sách hình thành quỹ đầu tƣ mạo hiểm: Nhà nƣớc chỉ chi “vốn
mồi’ ban đầu cho việc hình thành quỹ đầu tƣ mạo hiểm; Nguồn vốn cho quá
trình hoạt động và duy trì quỹ đầu tƣ mạo hiểm đƣợc hình thành từ ngoài
ngân sách nhà nƣớc
- Hoạt động của quỹ đầu tƣ mạo hiểm;

8


- Điều kiện tiếp cận quỹ đầu tƣ mạo hiểm: Tính minh bạch trong quản
lý tài chính – Điều kiện tiên quyết để tiếp cận nguồn vốn từ quỹ đầu tƣ mạo
hiểm.

8. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp thu thập số liệu sơ cấp: điều tra trực tiếp trên mẫu khảo
sát nhằm thu thập số liệu, cụ thể tác giả Luận văn đã trực tiếp khảo sát một số
doanh nghiệp KH&CN trên địa bàn Hà Nội để thu thập số liệu sơ cấp và phân
tích chúng nhằm tìm hiểu việc huy động vốn ngoài ngân sách chi cho hoạt
động của các doanh nghiệp KH&CN.
- Phƣơng pháp phỏng vấn sâu trực tiếp các cá nhân là lãnh đạo đang
công tác ở các cơ quan quản lý nhà nƣớc về khoa học và công nghệ trên địa
bàn thành phố Hà Nội và Trung ƣơng, phỏng vấn một số cá nhân đại diện cho
các doanh nghiệp khoa học và công nghệ trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Phƣơng pháp phỏng vấn:
+ Liên hệ với ngƣời đƣợc phỏng vấn, chuyển câu hỏi đến trƣớc;
+ Hẹn thời gian phỏng vấn;
+ Trực tiếp gặp ngƣời đƣợc phỏng vấn để nghe và trao đổi về nội dung
phỏng vấn.
- Phƣơng pháp thống kê, so sánh, phân tích và tổng hợp để làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận và thực tiễn.
- Phƣơng pháp xử lý thông tin: sắp xếp, phân loại, tổng hợp và phân
tích số liệu.
9. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận văn bao gồm 3 chƣơng:
- Chƣơng 1. Cơ sở lý luận về đầu tƣ mạo hiểm cho khoa học và công
nghệ.
- Chƣơng 2. Thực trạng huy động vốn ngoài ngân sách đầu tƣ cho khoa
học và công nghệ trên địa bàn Hà Nội

9



- Chƣơng 3. Giải pháp hình thành quỹ đầu tƣ mạo hiểm nhằm huy động
nguồn vốn ngoài ngân sách cho khoa học và công nghệ

10


CHƢƠNG 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƢ MẠO HIỂM
CHO KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
1.1. Khoa học và công nghệ
1.1.1. Khái niệm khoa học
Hiện nay có rất nhiều cách hiểu về khái niệm khoa học xuất phát từ
nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Luật KH&CN (2013), đƣa ra định nghĩa khoa học: “Khoa học là hệ
thống tri thức về bản chất, quy luật tồn tại và phát triển của sự vật, hiện
tượng tự nhiên, xã hội và tư duy”.
UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp
quốc) cũng sử dụng định nghĩa: “Khoa học là hệ thống tri thức về mọi loại
quy luật của vật chất và sự vận động của vật chất, những quy luật của tự
nhiên, xã hội, tư duy”. [29;17]
Hệ thống tri thức này hình thành trong lịch sử và không ngừng phát
triển trên cơ sở thực tiễn xã hội. Phân biệt ra 2 hệ thống tri thức: tri thức kinh
nghiệm và tri thức khoa học.
Tri thức kinh nghiệm: là những hiểu biết đƣợc tích lũy qua hoạt động
sống hàng ngày trong mối quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời và giữa con
ngƣời với thiên nhiên. Quá trình này giúp con ngƣời hiểu biết về sự vật, về
cách quản lý thiên nhiên và hình thành mối quan hệ giữa những con ngƣời
trong xã hội. Tri thức kinh nghiệm đƣợc con ngƣời không ngừng sử dụng và
phát triển trong hoạt động thực tế. Tuy nhiên, tri thức kinh nghiệm chƣa thật
sự đi sâu vào bản chất, chƣa thấy đƣợc hết các thuộc tính của sự vật và mối

quan hệ bên trong giữa sự vật và con ngƣời. Vì vậy, tri thức kinh nghiệm chỉ
phát triển đến một hiểu biết giới hạn nhất định, nhƣng tri thức kinh nghiệm là
cơ sở cho sự hình thành tri thức khoa học.

11


Tri thức khoa học: là những hiểu biết đƣợc tích lũy một cách có hệ
thống nhờ hoạt động nghiên cứu khoa học, các hoạt động này có mục tiêu xác
định và sử dụng phƣơng pháp khoa học. Không giống nhƣ tri thức kinh
nghiệm, tri thức khoa học dựa trên kết quả quan sát, thu thập đƣợc qua những
thí nghiệm và qua các sự kiện xảy ra ngẫu nhiên trong hoạt động xã hội, trong
tự nhiên.
Ở các định nghĩa trên, hệ thống tri thức đƣợc nói ở đây là hệ thống tri
thức khoa học.
Theo Vũ Cao Đàm (2005), “Khoa học là một hoạt động xã hội”. Với
tƣ cách là một hoạt động xã hội, khoa học định hƣớng tới những mục tiêu:
Phát hiện bản chất các sự vật, phát triển nhận thức về thế giới khách quan;
Sáng tạo các sự vật mới, phát triển các phƣơng tiện cải tạo thế giới. [10;21]
Hàng loạt khái niệm mới đã xuất hiện đi liền với ý nghĩa này. Chẳng
hạn, hoạt động khoa học, ngành khoa học, tổ chức khoa học, chính sách khoa
học, cơ quan khoa học…
Cũng theo Vũ Cao Đàm, “Khoa học là một thiết chế xã hội”, “Khoa
học là một hình thái ý thức xã hội”. [10;23]
Định nghĩa của tác giả Luận văn:
Từ những phân tích ở trên, tác giả Luận văn cho rằng Khoa học đƣợc
hiểu theo các nghĩa:
- Là hệ thống tri thức;
- Là một thiết chế xã hội;
- Là một hoạt động xã hội.

1.1.2. Khái niệm công nghệ
Thuật ngữ công nghệ đƣợc hình thành từ khá lâu. Công nghệ (có nguồn
gốc từ technologia, trong tiếng Hy Lạp; techne có nghĩa là thủ công và logia
có nghĩa là "châm ngôn") là một thuật ngữ rộng ám chỉ đến các công cụ và
mƣu mẹo của con ngƣời.
Thuật ngữ công nghệ đƣợc sử dụng để chỉ các hoạt động ứng dụng
những kiến thức là kết quả nghiên cứu khoa học ở mọi lĩnh vực nhằm mang
12


lại hiệu quả cao trong hoạt động của con ngƣời. Khái niệm công nghệ này dần
đƣợc chấp nhận và sử dụng rộng rãi trên thế giới nhƣng việc đƣa ra định
nghĩa công nghệ lại chƣa có sự thống nhất.
Theo OECD (1996): “Công nghệ là kiến thức có hệ thống về quy trình
và kỹ thuật dùng để chế biến vật liệu và thông tin. Nó bao gồm kiến thức, thiết
bị, phương pháp và các hệ thống dùng trong việc tạo ra hàng hoá và cung
cấp dịch vụ”. [27;34]
Với định nghĩa trên thì công nghệ là một tập hợp của phần cứng và
phần mềm, bao gồm 4 dạng cơ bản:
- Dạng vật thể (vật liệu, công cụ sản xuất, thiết bị và máy móc, sản
phẩm hoàn chỉnh…).
- Dạng con ngƣời (kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm).
- Dạng ghi chép (bí quyết, quy trình, phƣơng pháp, dữ liệu thích hợp…
đƣợc mô tả trong các ấn phẩm, tài liệu…).
- Dạng thiết kế tổ chức (dịch vụ, phƣơng tiện truyền bá, công ty tƣ vấn,
cơ cấu quản lý, cơ sở luật pháp…).
Định nghĩa về công nghệ của OECD đƣợc coi là bƣớc ngoặt trong quan
niệm về công nghệ. Theo định nghĩa này, không chỉ sản xuất vật chất mới
dùng công nghệ mà khái niệm công nghệ đƣợc mở rộng ra tất cả lĩnh vực hoạt
động xã hội.

Nicita Alessandro, Victor Ognivtsev, Miho Shirotori (2013), đƣa ra
định nghĩa: “Công nghệ là một đầu vào cần thiết cho sản xuất, và như vậy,
nó được mua và bán trên thị trường như một hàng hoá được thể hiện ở những
dạng sau: Tư liệu sản xuất và đôi khi là các sản phẩm trung gian, được mua
và bán trên thị trường, đặc biệt là gắn vớí các quyết định đầu tư; Nhân lực,
thông thường là nhân lực có trình độ và đôi khi là nhân lực có trình độ cao và
chuyên môn sâu, với khả năng sử dụng đúng các thiết bị và kỹ thuật và làm
chủ được bộ máy giải quyết vấn đề và sản xuất thông tin; Thông tin, dù đó là
thông tin kỹ thuật hay thông tin thương mại, được đưa ra trên thị trường hay
được giữ bí mật như một phần của hoạt động độc quyền”. [26;105]
13


Định nghĩa này cho thấy về bản chất công nghệ là tƣ liệu sản xuất,
nhân lực có trình độ và thông tin, đồng thời có mục tiêu đầu vào cần thiết cho
sản xuất.
Tổ chức OECD, gồm các nƣớc phát triển châu Âu, Nhật Bản, Mỹ và
Canađa lại có một định nghĩa chung: “Công nghệ được hiểu là tập hợp các kỹ
thuật, mà bản thân chúng được định nghĩa là một tập hợp các hành động và
quy tắc lựa chọn chỉ dẫn việc ứng dụng có trình tự các kỹ thuật đó mà theo
hiểu biết của con người thì sẽ đạt được một kết quả định trước (và đôi khi
được kỳ vọng) trong một hoàn cảnh nhất định”.
Theo các tài liệu nghiên cứu của tác giả Vũ Cao Đàm (2008) thì có 3
khái niệm về công nghệ:
Khái niệm 1: “Công nghê ̣ là một trật tự nghiêm ngặt các thao tác của
quá trình chế biến vật chấ t/thông tin”. [11;207]
Khái niệm 2: “Công nghê ̣ là một phương tiê ̣n

(device) chế biế n vật


chấ t/thông tin, gồ m: Phầ n cứng và Phầ n mề m”.
Khái niệm 3 (Mô hình Sharif ) Sharif Nawaz (1983): “Công nghê ̣ là
một cơ thể (hê ̣ thố ng) tri thức về quá trình chế biến vật chất hoặc thông tin về
phương tiê ̣n và phương pháp chế biế n vật chấ t và /hoặc thông tin. Công nghệ
gồm 4 yếu tố: Kỹ thuật (Technoware); Thông tin (Inforware); Con người
(Humanware); Tổ chức (Orgaware)”. [28;17]
Ở Việt Nam, cách phổ biến nhất hiện nay, phù hợp với các quan điểm,
chính sách phát triển và quản lý công nghệ, đớ là khái niệm về công nghệ đã
đƣợc quy định tại Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Chuyển giao công nghệ.
Luật Khoa học và Công nghệ (2013), đƣa ra định nghĩa công nghệ:
“Công là giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm theo hoặc không kèm
theo công cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm”.
Trong Luật Chuyển giao công nghệ (2006), công nghệ đƣợc hiểu là:
“Công nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm hoặc không kèm
công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm”.
Định nghĩa của tác giả Luận văn:
14


Từ những phân tích ở trên, tác giả Luận văn sử dụng định nghĩa: Công
nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm theo hoặc không kèm
theo công cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm.
1.1.3. Khái niệm hoạt động khoa học và công nghệ
Hoạt động khoa học và công nghệ là thuật ngữ đƣợc sử dụng trong các
văn kiện chính sách khoa học và công nghệ của UNESCO từ thập niên 1970.
Theo UNESCO, hoạt động khoa học và công nghệ bao gồm:
- Hoạt động nghiên cứu và triển khai.
- Chuyển giao tri thức, bao gồm chuyển giao công nghệ.
- Hoạt động phát triển công nghệ, bao gồm mở rộng công nghệ, nâng
cấp công nghệ và đổi mới công nghệ.

- Hoạt động dịch vụ khoa học và công nghệ. [29;36]
Luật Khoa học và Công nghệ (2013), đƣa ra định nghĩa hoạt động khoa
học và công nghệ: “Hoạt động khoa học và công nghệ là hoạt động nghiên
cứu khoa học, nghiên cứu và triển khai thực nghiệm, phát triển công nghệ,
ứng dụng công nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ, phát huy sáng kiến và
hoạt động sáng tạo khác nhằm phát triển khoa học và công nghệ”.
Định nghĩa của tác giả Luận văn:
Tác giả Luận văn sử dụng định nghĩa của UNESCO vì định nghĩa này
là đầy đủ, chính xác và phù hợp hơn so với định nghĩa trong Luật Khoa học
và Công nghệ (2013).
Trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, hoạt động khoa học và công nghệ đã
thực sự thúc đẩy sự gia tăng của cải vật chất, nâng cao chất lƣợng sản phẩm
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của con ngƣời.
Hoạt động khoa học và công nghệ đã tác động nâng cao năng suất lao
động, giảm nhẹ cƣờng độ lao động, giảm chi phí, giá thành sản xuất, giảm rõ
rệt tỷ lệ tiêu hao vật chất, tăng tỷ lệ chất xám trong cấu tạo sản phẩm,…
Nhiều sản phẩm mới ra đời phong phú, đa dạng, đa năng, mẫu mã đẹp, kích
thƣớc nhỏ nhẹ hơn. Chu kỳ sản xuất cũng đƣợc rút ngắn đáng kể.

15


Từ khi chúng ta bắt đầu sự nghiệp đổi mới và mở cửa và đặc biệt là từ
khi có Nghị quyết Trung ƣơng 2 khóa VIII (1996), nhận thức về vai trò của
khoa học và công nghệ đã đƣợc nâng cao rõ nét và ngày càng khẳng định vai
trò động lực của khoa học và công nghệ trong phát triển kinh tế. Phƣơng
châm phát triển kinh tế phải dựa vào khoa học và công nghệ và khoa học và
công nghệ phải hƣớng vào xây dựng kinh tế. Đặc biệt trong trào lƣu hội nhập
quốc tế và khu vực, nhiều doanh nghiệp đã nhận thức là chỉ có đổi mới công
nghệ mới đủ sức cạnh tranh và tồn tại đƣợc trong nền kinh tế thị trƣờng. Chủ

trƣơng đó đã thúc đẩy và tạo điều kiện các ngành các cấp, các tầng lớp tri
thức, sinh viên, doanh nhân, kể cả nông dân, nghệ nhân, chủ trang trại,…
nghiên cứu ứng dụng tri thức khoa học, kỹ thuật, tiếp nhận chuyển giao công
nghệ với tinh thần làm giàu cho mình, cho quê hƣơng, cải thiện điều kiện lao
động, mới có giá trị cao, phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu. Doanh nghiệp đã trở
thành chủ thể của đổi mới công nghệ, nhân tố quan trọng trong hệ thống đổi
mới quốc gia.
1.2. Đầu tƣ cho khoa học và công nghệ
1.2.1. Nguồn vốn cho khoa học và công nghệ
Xét trên góc độ của toàn bộ nền kinh tế nguồn vốn đầu tƣ nói chung và
đầu tƣ cho khoa học và công nghệ nói riêng bao gồm nguồn vốn đầu tƣ trong
nƣớc và nguồn vốn đầu tƣ nƣớc ngoài. Trong nguồn vốn đầu tƣ trong nƣớc
bao gồm hai nguồn vốn chính là nguồn vốn nhà nƣớc và nguồn vốn của dân
cƣ và tƣ nhân. Nguồn vốn ngân sách nhà nƣớc là một bộ phận quan trọng của
nguồn vốn nhà nƣớc có vai trò nhất định.
Vốn ngân sách Nhà nƣớc là nguồn vốn mà Nhà nƣớc bỏ ra cho các
công cuộc đầu tƣ. Chi cho các địa phƣơng để tiến hành các hoạt động của
mình trong đó có hoạt động đầu tƣ nói chung và đầu tƣ cho khoa học và công
nghệ nói riêng.
Nguồn vốn ngân sách nhà nƣớc là nguồn chi của ngân sách Nhà nƣớc
cho đầu tƣ. Là một nguồn vốn đầu tƣ quan trọng trong chiến lƣợc phát triển
kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thƣờng đƣợc sử dụng cho
16


các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ cho các
dự án của doanh nghiệp đầu tƣ vào lĩnh vực cần sự tham gia của Nhà nƣớc,
chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và phát triển nông
thôn.

Vốn Ngân sách thƣờng đƣợc gọi là vốn ngân sách Nhà nƣớc bao gồm
vốn ngân sách trung ƣơng, vốn ngân sách cấp Tỉnh, vốn ngân sách cấp
huyện, thị xã... (Ngân sách Trung ƣơng và ngân sách Địa phƣơng).
Vốn ngân sách đƣợc hình thành từ vốn tích luỹ của nền kinh tế và đƣợc
Nhà nƣớc duy trì trong kế hoạch ngân sách để cấp cho các đơn vị thực hiện
các công thực hiện các công trình thuộc cấp nhà nƣớc. Đối với cấp hành chính
là huyện, thị xã thì việc nhận vốn ngân sách cho đầu tƣ bao gồm vốn đầu tƣ
của Nhà nƣớc cấp thông qua sở Tài chính, vốn ngân sách của Tỉnh.
Là nguồn vốn đƣợc huy động chủ yếu từ nguồn thu thuế và các loại
phí, lệ phí.
Nên có cách nhìn động đối với đầu tƣ cho khoa học và công nghệ và
đặt hoạt động đầu tƣ này trong bối cảnh tổng thể của đầu tƣ phát triển nói
chung và do vậy khẳng định mối liên hệ mật thiết, sự phụ thuộc chặt chẽ của
đầu tƣ cho khoa học và công nghệ vào các hoạt động đầu tƣ khác trong phát
triển kinh tế xã hội.
Vốn đầu tƣ cho khoa học và công nghệ là một loại đầu tƣ phát triển. Nó
là nguồn vốn đƣợc bỏ ra để thực hiện mục đích đầu tƣ phát triển khoa học và
công nghệ nhằm tăng năng lực khoa học và công nghệ của một đơn vị và của
quốc gia, thúc đẩy tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Hoạt động
khoa học và công nghệ bao gồm nghiên cứu khoa học và triển khai, chuyển
giao tri thức (bao gồm chuyển giao công nghệ), phát triển công nghệ, dịch vụ
khoa học và công nghệ. Đây là hoạt động có tính đặc thù. Do vậy, vốn đầu tƣ
cho khoa học và công nghệ cũng mang tính đặc thù cả trong nội dung và
phƣơng thức hoạt động cuả nó. Tính đặc thù này xuất phát từ đối tƣợng phục
vụ của nguồn vốn là hoạt động khoa học và công nghệ. Từ cách đặt vấn đề
17


nhƣ trên, ta có thể khái quát những đặc điểm cơ bản của nguồn vốn đầu tƣ
cho khoa học và công nghệ nhƣ sau:

Thứ nhất, đối tƣợng đầu tƣ không chỉ đơn thuần thuộc lĩnh vực sản
xuất, kinh doanh để nhà đầu tƣ trực tiếp thu lợi nhuận, thu đƣợc một giá trị
lớn hơn giá trị vốn đã bỏ ra, mà khoản đầu tƣ này còn lấy đối tƣợng là phục
vụ cho các hoạt động nghiên cứu, triển khai tìm kiếm, phát hiện tri thức mới
và vận dụng những tri thức đó vào việc tạo ra những phƣơng tiện, phƣơng
pháp mới thúc đẩy sản xuất và nâng cao chất lƣợng cuộc sống xã hội. Nó
không là bộ phận đầu tƣ trực tiếp tạo ra tài sản cố định và tài sản lƣu động,
mà là là bộ phận đầu tƣ để tăng năng lực sản xuất và để nâng cao chất lƣợng
của sự tăng trƣởng. Đầu tƣ cho phát triển khoa học và công nghệ thực chất là
đầu tƣ cho phát triển tri thức. Bởi vậy, đây là hình thức đầu tƣ có tính “sống
còn” trong việc nâng cao năng suất lao động của từng doanh nghiệp cũng nhƣ
thúc đẩy tăng trƣởng và phát triển kinh tế của một quốc gia.
Thứ hai, xét theo chu trình nghiên cứu và triển khai đến sản xuất hàng
loạt, thì hoạt động khoa học và công nghệ nằm trong giai đoạn trƣớc khi đƣa
ra sản xuất đại trà, hàng loạt.
Theo cách tiếp cận này, đầu ra của các đề tài, dự án khoa học và công
nghệ mới chỉ dừng lại ở sản phẩm loạt nhỏ.
Sản phẩm của đề tài, dự án khoa học và công nghệ có thể là tri thức
mới, là công nghệ hoàn chỉnh với đầy đủ tính năng mong muốn và có khả
năng thƣơng mại hóa. Sản phẩm của khoa học và công nghệ thực chất là tri
thức, chất xám nên khó lƣợng định, đƣợc thể hiện dƣới dạng vật chất hữu
hình nhƣ bằng sáng chế hoặc vô hình dƣới dạng ý tƣởng công nghệ. Việc xác
định giá trị của hàng hóa này là điều rất khó, do lao động sáng tạo ra hàng hóa
là lao động trí óc. Thực tế cho thấy, sự thành công trong việc tạo ra tri thức,
công nghệ và khả năng chuyển giao, thƣơng mại hóa phụ thuộc vào rất nhiều
yếu tố: kinh tế, kỹ thuật, tài chính, xã hội, v.v... Điều này có nghĩa là đầu tƣ
vào các đề tài, dự án khoa học và công nghệ thƣờng có độ mạo hiểm và rủi ro

18



tƣơng đối. Những rủi ro này thƣờng gắn với rủi ro về mặt công nghệ và rủi ro
về mặt thị trƣờng.
Rủi ro về mặt công nghệ gắn nhiều tới các yếu tố kỹ thuật, các yếu tố
đầu vào khác của đề tài, dự án (kinh tế, tài chính). Ví dụ, Edison - một nhà
sáng chế ra dây tóc bóng đèn điện, đã thất bại hàng nghìn lần thí nghiệm mới
chế tạo thành công dây tóc đèn điện, Marie Curie cũng thất bại hàng nghìn lần
mới phát minh ra chất phóng xạ uranium. Điều này nghĩa là nếu sử dụng tiền
túi tự đầu tƣ để nghiên cứu thì sự mạo hiểm có thể dẫn đến nguy hiểm. Thực
tế, đã có nhiều nhà khoa học ở các nƣớc tƣ bản công nghiệp bị phá sản vì thất
bại. Rủi ro về mặt thị trƣờng gắn nhiều tới các yếu tố liên quan tới yếu tố nhu
cầu cầu (nhu cầu và sức mua) của thị trƣờng.
Đầu tƣ cho khoa học và công nghệ tiềm ẩn sự mạo hiểm. Ngay cả tại
các nƣớc phát triển, tỷ lệ nghiên cứu thành công có thể áp dụng vào đời sống
và sản xuất cũng chỉ khoảng trên dƣới 20%.
Tuy vậy, đi cùng với nó, một dự án khi thành công (tạo ra sản phẩm là
tri thức, công nghệ hoàn chỉnh, đáp ứng đƣợc nhu cầu thị trƣờng), thì nhà đầu
tƣ sẽ thu đƣợc lợi nhuận lớn, thậm chí là rất lớn nếu đó là những dự án mang
tính đột phá. Đây chính là một điểm khá hấp dẫn các nhà đầu tƣ.
Thứ ba, trong kinh tế thị trƣờng, do áp lực cạnh tranh và lợi nhuận,
từng doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế đều phải coi phát triển khoa học và
đổi mới công nghệ sản xuất là một đòi hỏi có tính sống còn. Bí quyết công
nghệ phải có chủ sở hữu. Việc sản xuất và mua bán loại tài sản này tất yếu sẽ
diễn ra, do đó tất yếu hình thành và phát triển thị trƣờng công nghệ.
Kinh tế thị trƣờng càng phát triển, càng thúc đẩy phân công, chuyên
môn hóa sâu. Việc một chủ thể có đƣợc một sản phẩm công nghệ cũng không
nhất thiết phải do chính chủ đó tạo ra. Họ có thể mua trên thị trƣờng. Do đó,
tồn tại quan hệ cung - cầu về sản phẩm công nghệ. Dòng chảy của vốn đầu tƣ
cho khoa học và công nghệ cũng sẽ tuân theo quan hệ cung - cầu trên thị
trƣờng. Tức là ngƣời ta chỉ đầu tƣ vào lĩnh vực hay dự án khoa học và công

nghệ nào mà xã hội có nhu cầu. Theo quy luật về dòng chảy của các nguồn
19


vốn đầu tƣ sản xuất, kinh doanh, thì sức cầu là một yếu tố quyết định việc chủ
kinh tế nên đầu tƣ vào dự án khoa học và công nghệ nào và mức độ nhiều hay
ít. Bởi vì loại vốn đầu tƣ này cũng tìm kiếm lợi nhuận. Nó sẽ vận động từ nơi
hoạt động đầu tƣ kém hiệu quả đến nơi hoạt động đầu tƣ có hiệu quả hơn.
Trên thị trƣờng công nghệ, sự cạnh tranh giữa các cơ sở khoa học với
tƣ cách là ngƣời bán (nghiên cứu, tìm kiếm sản phẩm tốt nhất phục vụ khách
hàng), và cạnh tranh giữa các chủ doanh nghiệp với tƣ cách là ngƣời mua (lựa
chọn sản phẩm tốt nhất của các cơ sở khoa học phục vụ mục tiêu phát triển).
Điều đó có nghĩa là trong kinh tế thị trƣờng, đầu tƣ cho phát triển khoa học và
công nghệ không chỉ đơn thuần là công việc đƣợc Nhà nƣớc bao cấp nhƣ đã
hiểu và làm trƣớc đây ở nƣớc ta. Đầu tƣ cho khoa học và công nghệ trƣớc hết
phải là hoạt động đầu tƣ cho sự tồn tại và phát triển của mọi doanh nghiệp
không phân biệt thuộc thành phần kinh tế nào trong cơ chế thị trƣờng. Vì
khoản đầu tƣ này gắn với lợi ích thiết thân của mỗi chủ kinh tế.
Tuy nhiên, đầu tƣ vào khoa học và công nghệ không chỉ đơn thuần là vì
bản thân khoa học và công nghệ, mà sâu xa hơn là vì đầu tƣ đó có đem lại cho
chủ sản xuất kinh doanh một hàng hóa và dịch vụ nào đó có chi phí thấp hơn
và có chất lƣợng sản phẩm cao hơn năng lực hiện có hay không. Đầu tƣ cho
khoa học và công nghệ là khoản đầu tƣ phái sinh, chỉ xuất hiện khi có nhu cầu
đầu tƣ tạo sản phẩm mới hoặc làm tăng thêm năng lực sản xuất kinh doanh
của một hàng hóa, dịch vụ nào đó trên thị trƣờng.
Thứ tƣ, do hiệu quả của hoạt động khoa học và công nghệ có độ trễ
nhất định, không dễ thấy, nên việc đầu tƣ không thể đòi hỏi nhìn thấy hiệu
quả ngay lập tức. Đầu tƣ cho khoa học và công nghệ là đầu tƣ phát triển, đầu
tƣ cho tƣơng lai. Nghiên cứu đã mất nhiều thời gian, đƣa kết quả nghiên cứu
vào cuộc sống cũng cần có thời gian, để kết quả nghiên cứu phát huy hiệu quả

lại cần thêm thời gian nữa. Đây chính là quá trình “thƣơng mại hóa” kết quả
nghiên cứu.

20


Trong lịch sử, nhiều phát minh vĩ đại phải hàng chục năm sau mới
đƣợc xã hội biết đến. Nhƣng nếu không đầu tƣ cho nghiên cứu hôm nay thì
không bao giờ có kết quả ngày mai.
Đầu tƣ cho khoa học và công nghệ ngoài hiệu quả trực tiếp, còn có
hiệu quả tiềm năng nhƣ: đầu thập niên 70 thế kỷ XX, Việt Nam bắt đầu
nghiên cứu về ƣu thế lai, 25 năm sau đánh bật đƣợc các công ty nƣớc ngoài,
giành lại thị phần ngô giống lai ở Việt Nam; hiệu quả mang tính tích hợp nhƣ:
Việt Nam chặn đứng đƣợc dịch SARS sớm nhất thế giới là nhờ công của các
nhà nghiên cứu siêu vi trùng, dịch tễ học, bác sĩ điều trị; hiệu quả gián tiếp
nhƣ: công trình nghiên cứu sản xuất dây hàn lõi thuốc bằng vật liệu trong
nƣớc ngoài hiệu quả kinh tế còn góp phần vào nâng cao chất lƣợng đóng tàu
của Việt Nam.
Nhiều sản phẩm khoa học mang lại hiệu quả lớn nhƣng là hiệu quả gián
tiếp hoặc vô hình. Ví dụ, một phần mềm diệt virus máy tính. Hiệu quả kinh tế
trực tiếp của nó rất khó nhìn thấy. Nhƣng ở một nƣớc có khoảng 10 triệu máy
tính cá nhân, nếu không có phần mềm diệt virus hiệu quả, khi bị virus tấn
công trên diện rộng, chi phí sửa chữa một máy có thể tới vài chục đô la. Nhân
lên cả xã hội thì tổn thất là rất lớn, chƣa kể thiệt hại do cơ sở dữ liệu quản lý
của cả xã hội bị phá hủy, trong khi việc bỏ ra vài nghìn đôla để đầu tƣ nghiên
cứu phần mềm diệt virus có thể cứu đƣợc cả chục triệu cái máy tính trên,
giảm tổn thất cho xã hội hàng nghìn tỷ đồng.
Thứ năm, đầu tƣ cho khoa học và công nghệ cũng là hoạt động đầu tƣ
trong kinh tế thị trƣờng để tạo ra sản phẩm hàng hóa. Do vậy, nguồn huy
động vốn cho hoạt động đầu tƣ này cũng tất yếu thông qua thị trƣờng. Các

hình thức tín dụng, cổ phiếu, trái phiếu và quỹ đầu tƣ cũng là kênh dẫn vốn
thiết yếu cho hoạt động đầu tƣ này.
Tuy nhiên, do hoạt động khoa học và công nghệ có độ trễ, hiệu quả
hoạt động của nó là gián tiếp hoặc vô hình, nên sự hỗ trợ về tài chính của Nhà
nƣớc là rất cần thiết cho các hoạt động khoa học và công nghệ, nhất là đối với

21


các nghiên cứu cơ bản, có tính chất đột phá nhằm nâng cao tiềm lực khoa học
và công nghệ quốc gia.
Vốn đầu tƣ có tầm quan trọng đặc biệt. Nó là yếu tố vật chất trực tiếp
quyết định tốc độ tăng trƣởng kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ, cải thiện
môi trƣờng. Trên bình diện vĩ mô tất cả các chiến lƣợc, các chƣơng trình phát
triển kinh tế - xã hội đều rất cần đến vốn đầu tƣ. Đối với hoạt động khoa học
và công nghệ, vốn đầu tƣ có vai trò là điều kiện tiên quyết. Nếu không có
vốn, các dự án khoa học và công nghệ chỉ có thể dừng lại ở ý tƣởng và sự
mong muốn, chứ không thể trở thành hiện thực. Vốn đầu tƣ là điều kiện
không thể thiếu đƣợc để nâng cao năng lực khoa học và công nghệ của một
doanh nghiệp, một tổ chức và của một quốc gia.
1.2.2. Nguồn vốn ngoài ngân sách cho khoa học và công nghệ
Để khoa học và công nghệ nƣớc ta đạt trình độ tiên tiến trong khu vực,
mức đầu tƣ tối thiểu hàng năm cho khoa học và công nghệ phải trên 2% GDP.
Thế nhƣng, mức đầu tƣ những năm gần đây của nƣớc ta ở nƣớc ta còn rất
khiêm tốn so với các nƣớc trong vùng.
Ví dụ, năm 2006 nƣớc ta đầu tƣ 428 triệu USD cho khoa học và công
nghệ, chiếm khoảng 0,17% GDP toàn quốc. Trong khi đó, theo số liệu của
UNESCO, Singapore là nƣớc trong vùng có mức đầu tƣ cho khoa học và công
nghệ chiếm 2,2% GDP (tƣơng đƣơng 3,01 tỉ USD), Malaysia 0,5% GDP hay
1,54 tỉ USD, Thái Lan 0,3% GDP hay 1,79 tỉ USD. Theo số liệu năm 2004,

đầu tƣ cho khoa học và công nghệ của EU là 1,95% GDP, Nhật Bản là 3,15%
GDP, Trung Quốc là 1,31% GDP, Hoa Kỳ là 2,59% GDP, Hàn Quốc là gần
5% GDP. Mức đầu tƣ cho hoạt động khoa học và công nghệ tính trên đầu
ngƣời năm 2007 của Việt Nam khoảng 5 USD, trong khi con số đó của Trung
Quốc khoảng 20 USD (năm 2004) và đặc biệt là Hàn Quốc khoảng 1.000
USD (năm 2007).
Mức đầu tƣ của nƣớc ta cho khoa học và công nghệ thấp nhƣ trên là sự
phản ánh một thực tế điểm xuất phát về kinh tế còn thấp, thu nhập chƣa cao,
phần tiết kiệm cho đầu tƣ còn ở mức rất khiêm tốn. Nƣớc ta đang đứng trƣớc
22


mâu thuẫn rất gay gắt giữa nhu cầu đầu tƣ cho phát triển kinh tế - xã hội nói
chung, khoa học và công nghệ nói riêng là rất lớn, nhƣng mức đáp ứng còn
hạn hẹp.
Do thu nhập của dân cƣ thấp, nên nguồn thu ngân sách Nhà nƣớc còn
ít. Mặc dù hàng năm Nhà nƣớc đã có nhiều cố gắng dành phần lớn ngân sách
cho phát triển khoa học và công nghệ, nhƣng không thể đáp ứng đƣợc nhu
cầu.
Thuật ngữ “Ngân sách nhà nƣớc” đƣợc sử dụng rộng rãi trong đời sống
kinh tế - xã hội ở mọi quốc gia. Song quan niệm về Ngân sách nhà nƣớc lại
chƣa thống nhất. Theo Luật Ngân sách nhà nƣớc đã đƣợc Quốc hội Việt Nam
Khóa XI, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 16/12/2002: “Ngân sách nhà nước là
toàn bộ các khoản thu, chia của nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các
chức năng nhiệm vụ của nhà nước”.
Luật Ngân sách Nhà nƣớc 2015 cũng khẳng định:
- Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nƣớc đƣợc
dự toán và thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định do cơ quan nhà
nƣớc có thẩm quyền quyết định để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm

vụ của Nhà nƣớc.
- Ngân sách địa phương là các khoản thu ngân sách nhà nƣớc phân cấp
cho cấp địa phƣơng hƣởng, thu bổ sung từ ngân sách trung ƣơng cho ngân
sách địa phƣơng và các khoản chi ngân sách nhà nƣớc thuộc nhiệm vụ chi của
cấp địa phƣơng.
- Ngân sách trung ương là các khoản thu ngân sách nhà nƣớc phân cấp
cho cấp trung ƣơng hƣởng và các khoản chi ngân sách nhà nƣớc thuộc nhiệm
vụ chi của cấp trung ƣơng.
Đó là cách hiểu về ngân sách nhà nƣớc, còn nguồn vốn ngoài ngân
sách đầu tƣ cho khoa học và công nghệ là vốn của các tổ chức nghiên cứu
khoa học và công nghệ và của doanh nghiệp đƣợc hình thành từ phần trích lập
quỹ, do liên doanh liên kết hay thực hiện các hợp đồng về nghiên cứu và
23


chuyển giao công nghệ; vốn vay ngân hàng theo các quy định của pháp luật;
viện trợ của các tổ chức chính phủ, phi chính phủ và các cá nhân trong và
ngoài nƣớc.
Đến nay, mức vốn thu hút cho đầu tƣ phát triển khoa học và công nghệ
đã đạt khoảng 0,65% GDP, trong đó vốn Nhà nƣớc đã bảo đảm mức chi bằng
0,52% GDP (tƣơng đƣơng 2% tổng chi ngân sách Nhà nƣớc), còn mức đầu tƣ
cho khoa học và công nghệ từ vốn ngoài nhà nƣớc đạt khoảng 0,13% GDP.
Ngoài ra, việc thu hút đầu tƣ cho khoa học và công nghệ còn đƣợc thực
hiện từ các nguồn nƣớc ngoài với ba hình thức: hợp tác quốc tế về khoa học
và công nghệ theo Nghị định thƣ song phƣơng hay đa phƣơng; hỗ trợ phát
triển chính thức (ODA); và đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài (FDI). Hiện nay, số
vốn thu hút từ nguồn nƣớc ngoài chƣa có số liệu thống kê cụ thể.
Nếu trƣớc đây, quy mô vốn đầu tƣ cho khoa học và công nghệ chỉ đƣợc
thực hiện bởi Nhà nƣớc, thì đến nay đã có khoảng 9-12% nguồn vốn cho khoa
học và công nghệ hàng năm đƣợc thu hút từ các nguồn khác ngoài ngân sách

Nhà nƣớc. Bên cạnh nguồn vốn đầu tƣ cho khoa học và công nghệ từ ngân
sách nhà nƣớc nhƣ đã nêu trên, cần phải thấy một thực tế là cho đến nay việc
thống kê nguồn vốn đầu tƣ từ các chủ thể ngoài Nhà nƣớc cho khoa học và
công nghệ ở nƣớc ta còn chƣa đƣợc chú trọng, chế độ báo cáo việc thu hút
vốn dành cho khoa học và công nghệ hàng năm của nhiều bộ, ngành, địa
phƣơng và doanh nghiệp đã không đƣợc thực hiện nghiêm túc, nên rất khó có
đủ dữ liệu thống kê để đánh giá chính xác qui mô thu hút nguồn vốn này đầu
tƣ cho khoa học và công nghệ.
Nguồn vốn thu hút từ các cơ sở ngoài Nhà nƣớc vào khoa học và công
nghệ tuy chỉ là bƣớc đầu với tỷ trọng ƣớc định là khá nhỏ, khoảng 9-12%
trong tổng vốn đầu tƣ thu hút cho khoa học và công nghệ nhƣng đã góp phần
rất quan trọng vào việc giảm thiểu gánh nặng của ngân sách nhà nƣớc, tăng
nguồn lực cho phát triển khoa học và công nghệ, làm cho các cơ sở kinh tế
thấy đƣợc tính thiết thân của hoạt động đầu tƣ này. Điều đáng quan tâm là các

24


doanh nghiệp trong nền kinh tế đã có những động thái đầu tƣ cho nghiên cứu
phát triển làm tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trƣờng.
Trong những năm qua , ngân sách nhà nƣớc chi cho KH &CN là nguồ n
lƣ̣c chủ yế u để phát triể n KH &CN, đồng thời kinh phí ngoài ngân sách nhà
nƣớc cho KH&CN không ngƣ̀ng tăng lên tƣ̀ các nguồ n sau: Vố n tƣ̣ có của các
đơn vi ̣; vố n vay ngân hàng , các tổ chức tín dụng ; vố n tƣ̀ nƣớc ngoài (ODA,
FDI)...
Để thu hút các nguồn vốn cho KH&CN cần phải cải thiện môi trƣờng
đầu tƣ, đổi mới về nội dung và phƣơng thức vận động theo một chƣơng trình
hành động có hiệu quả, phù hợp với từng đối tƣợng và đối tác. Phƣơng thức
huy động vốn cần thực hiện theo nguyên tắc: Nhà nƣớc định hƣớng, tạo môi
trƣờng pháp lý thông thoáng, thuận lợi để mọi thành phần kinh tế, mọi ngƣời

dân huy động vốn, cùng có trách nhiệm chung khi đầu tƣ vào lĩnh vực
KH&CN phục vụ phát triển kinh tế địa phƣơng; tiếp tục đổi mới cơ chế quản
lý KH&CN nhƣ tăng nguồn thu ngân sách địa phƣơng, tăng tỷ lệ chi ngân
sách nhà nƣớc cho KH&CN, huy động các nguồn vốn của ngân sách Trung
ƣơng, sửa đổi và bổ sung mục lục ngân sách đảm bảo nội dung chi cho
KH&CN nhƣ một nhiệm vụ chi của ngân sách cấp huyện; tiếp tục mở rộng
quy mô, hoàn thiện các quy định quản lý Quỹ Phát triển KH&CN nhƣ:
Khuyến khích đầu tƣ vốn mạo hiểm vào KH&CN; huy động các nguồn vốn
ngoài ngân sách nhà nƣớc nhƣ vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, vốn từ các thành phần
kinh tế và các tầng lớp dân cƣ trong nƣớc...
1.3. Các thể chế liên quan trực tiếp đến nguồn vốn ngoài ngân sách cho
khoa học và công nghệ
1.3.1. Thị trường công nghệ
Thị trƣờng công nghệ là một bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế thị
trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, có vai trò then chốt trong việc tạo môi
trƣờng thúc đẩy hoạt động sáng tạo, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực
khoa học và công nghệ quốc gia phục vụ phát triển kinh tế xã hội của đất
nƣớc. Để hình thành và phát triển thị trƣờng này, trong những năm qua, một
25


×