Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Lý luận nhân cách trong triết học mác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.31 KB, 6 trang )

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

Lý luận nhân cách trong triết học Mác(*)
l PGS, TS HOÀNG ANH
Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Các Mác luôn được nhắc tới như một trong những vĩ nhân, một trong những vì sao sáng nhất
trong bầu trời trí tuệ của lịch sử nhân loại. Triết học của ông đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong sự
phát triển lịch sử tư tưởng của nhân loại. Một trong những nội dung đặc sắc trong tư tưởng triết học
Mác là lý luận về nhân cách. Bài viết tập trung làm rõ 4 nội dung chủ yếu về lý luận nhân cách trong
triết học Mác: 1. Khái niệm nhân cách; 2. Cấu trúc nhân cách; 3. Nhân cách và một số khái niệm liên
quan; 4. Tính quy luật của sự hình thành và phát triển nhân cách.
1. Khái niệm nhân cách
“Nhân cách là những phẩm chất, những trạng
thái, tính chất, xu hướng bên trong của từng cá nhân.
Đó là thế giới của cái “tôi” do tác động tổng hợp của
các yếu tố cơ thể và xã hội hết sức riêng biệt tạo nên
để cá nhân đó có thể tồn tại và hoàn thành trách
nhiệm của mình đối với bản thân và xã hội”(1).
Theo quan điểm triết học Mác, nhân cách trước
hết là nhân cách của con người hiện thực, gắn liền
với bản chất xã hội của nó, là sản phẩm của những
hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Nhân
cách là kết quả của hoạt động người trong quá trình
họ tiếp nhận sự giáo dục của xã hội và quá trình tự
giáo dục của bản thân. Quá trình này có ý nghĩa đặc
biệt trong sự hình thành và phát triển nhân cách của
mỗi người. Trong sự phát triển nhân cách, các yếu
tố sinh vật di truyền, tâm sinh lý là cơ sở tự nhiên
mà trên cơ sở đó hình thành những đặc điểm lịch sử
- xã hội của nhân cách.


Thứ hai, nhân cách là nhân cách của từng cá
nhân riêng biệt, cụ thể có mối quan hệ mật thiết với
điều kiện tự nhiên, xã hội xung quanh. Mỗi cá nhân
mang nhân cách này vừa có khả năng tự đánh giá
những hành vi của bản thân mình, vừa có khả năng
đánh giá hành vi của cá nhân mang nhân cách khác.
32

Quá trình tự đánh giá và được đánh giá đó là quá
trình cá nhân thực hiện những hành vi cho mình và
cho người khác theo yêu cầu chung của xã hội. Nói
cách khác, nhân cách là những phẩm chất bên trong
của mỗi cá nhân trước những đòi hỏi của xã hội và
của bản thân cá nhân để cá nhân đó làm tròn trách
nhiệm với bản thân và với xã hội. Phẩm chất bên
trong của mỗi con người là cơ sở để khẳng định giá
trị của chính họ và có thể qui nhân cách của mỗi
người vào những phẩm chất khác nhau. Tuy nhiên,
để trở thành con người có nhân cách, trước hết, cá
nhân ấy phải có sự phát triển tương ứng với những
trọng trách, nhiệm vụ được xã hội giao phó được
biểu hiện cụ thể ở một số phẩm chất cơ bản trong
cấu trúc của nhân cách. Căn cứ để xác định những
phẩm chất chủ yếu của nhân cách, ta có thể xuất phát
từ góc độ về sự định hướng của ý thức con người,
hoặc từ góc độ vai trò xã hội hay vị trí, chức năng
của họ trong hệ thống phân công lao động xã hội.
2. Cấu trúc của nhân cách
Hiện nay, có nhiều quan niệm về cấu trúc nhân
cách, xem xét dưới góc độ triết học, cấu trúc nhân

cách gồm hai mặt thống nhất với nhau là phẩm chất
và năng lực. Trong cấu trúc này, đức được coi là cơ
sở nền tảng của nhân cách; tài là các năng lực thích

Lý luËn chÝnh trÞ & TruyÒn th«ng

Sè th¸ng 6-2016


NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

ứng với xã hội của con người, hiệu quả trong một
lĩnh vực hoạt động nào đó của họ. Có thể khái quát
cấu trúc đức - tài như sau:
Một là, đức được coi là “gốc”, là cơ sở nền tảng
cho sự hình thành và phát triển nhân cách được thể
hiện ở những phẩm chất chủ yếu. Phẩm chất xã hội
bao gồm: thế giới quan, lập trường, thái độ chính trị
- xã hội, thái độ lao động. Sự phát triển cao của
những phẩm chất này làm cho cá nhân luôn có
những nhận thức và hành động đúng đắn, hợp lý
trong những hoàn cảnh, điều kiện thực tiễn khác
nhau. Thuộc tính tổng hợp các yếu tố, các mặt của
phẩm chất xã hội trong nhân cách là thế giới quan.
Chỉ khi nào xác lập được thế giới quan thì mỗi người
mới khẳng định được nhân cách của mình trong
cuộc sống, mới có khả năng tự điều chỉnh mọi hành
vi, thực hiện bản chất của mình. Phẩm chất đạo đức
cá nhân: đạo đức cá nhân là đạo đức của từng cá
nhân riêng lẻ của cộng đồng, phản ánh và khẳng

định tồn tại xã hội của các cá nhân ấy như là một
thể hiện riêng rẽ của tồn tại xã hội về lợi ích và hoạt
động của các cá nhân. Phẩm chất ý chí, tính kỷ luật,
tính phê phán, cung cách ứng xử, tác phong… là
những phẩm chất quan trọng của một con người
mang nhân cách. Sự phát triển cao của ý thức thẩm
mỹ là một phẩm chất quan trọng trong nhân cách.
Với một ý thức thẩm mỹ cao, cá nhân có một cuộc
sống tinh thần thanh cao, vui vẻ, khoáng đạt, khơi
dậy tiềm năng sáng tạo, ý thức luôn vươn tới và
chiếm lĩnh cái đẹp trong mỗi con người.
Hai là, tài là năng lực hoàn thành các hoạt động
được giao với chất lượng và hiệu quả cao. Năng lực
của cá nhân; một mặt, được xây dựng trên cơ sở của
những phẩm chất tâm sinh lý, mặt khác, quan trọng
hơn đó là kết quả của quá trình tích lũy tri thức, kinh
nghiệm trong hoạt động nhận thức và cải tạo thực
tiễn, là sự phát triển về mặt tư chất được biểu hiện
ra các mức độ, như năng khiếu, tài năng, thiên tài.
Ở mức độ chung nhất, có thể xem xét qua những
biểu hiện cụ thể trong các phẩm chất của tài: Quá
trình tiếp nhận, thẩm thấu tri thức, vốn tri thức được
tích lũy, biến những tri thức đó thành phẩm chất của
chủ thể mang nhân cách. Những phẩm chất ấy chỉ
Sè th¸ng 6-2016

đạo hoạt động thực tiễn. Quá trình thể hiện và khẳng
định bản lĩnh và dấu ấn cá nhân trong các quan hệ
xã hội, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn của cá nhân mang nhân cách; khả năng thể hiện

và khẳng định những hoạt động của mình có mục
đích, có tinh thần chủ động và cao nhất là thể hiện
tính tích cực xã hội của chủ thể mang nhân cách.
Năng lực trong mỗi nhân cách phát triển ở mức
độ khác nhau, tùy thuộc vào năng khiếu bẩm sinh,
nhưng yếu tố giữ vai trò quyết định là quá trình tu
dưỡng, rèn luyện, học tập trong hoạt động thực tiễn
của mỗi cá nhân. Có thể nói, sự thống nhất giữa
những phẩm chất và năng lực, giữa đức và tài mà
mỗi cá nhân đạt được trong quá trình học tập, lao
động và tu dưỡng được xã hội thừa nhận như một
giá trị đã tạo thành nhân cách của chính cá nhân
ấy. Và sự “tổng hòa những giá trị ấy ở mỗi cá nhân
sẽ đem lại cho cá nhân ấy một bản lĩnh độc đáo,
khiến cho cá nhân ấy trở thành một nhân cách độc
đáo (personnalité), và tồn tại như một giá trị”(2). Như
vậy, quá trình hình thành và đạt đến trình độ ổn định
bền vững những giá trị làm Người trong mỗi người
cũng chính là quá trình hình thành và phát triển
nhân cách ở họ. Những giá trị này, một mặt đã trở
thành động lực thúc đẩy mỗi cá nhân mang nhân
cách thực hiện các chức năng xã hội, khẳng định sự
tồn tại hiện thực của nhân cách đó. Mặt khác, nó bộc
lộ xu hướng của chính nhân cách ấy, chỉ rõ những
hạn chế cần điều chỉnh, những thiếu hụt cần bổ sung
đối với mỗi nhân cách trên con đường phát triển và
hoàn thiện. Tính tự điều chỉnh chính mình trước
những tác động của xã hội chính là linh hồn của
nhân cách con người.
3. Nhân cách và một số khái niệm liên quan

Để hiểu sâu sắc hơn khái niệm nhân cách, cần
phân biệt khái niệm nhân cách với các khái niệm có
liên quan, như, con người, cá nhân, cá thể. Khi nhận
thức và nghiên cứu về vấn đề con người, chủ nghĩa
Mác - Lênin đã tìm ra mối quan hệ bên trong và sự
khác biệt tương đối giữa các khái niệm: Con người,
cá nhân, cá thể và nhân cách.
Con người, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin là chủ thể của hoạt động lao động, vừa là

Lý luËn chÝnh trÞ & TruyÒn th«ng

33


NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

sản phẩm vừa là chủ thể sáng tạo ra lịch sử. Trong
quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo tự nhiên và xã
hội, con người từng bước hoàn thiện chính bản thân
mình. Bản chất con người mang phẩm chất xã hội.
Khi xây dựng học thuyết của mình nói chung và vấn
đề con người nói riêng, C.Mác và Ph.Ăngghen lựa
chọn ngay từ đầu mảnh đất “hoạt động thực tiễn”
làm nền tảng để nghiên cứu. Chính mảnh đất này là
sự thống nhất của cái khách quan và cái chủ quan
trong bản chất con người và tồn tại người. Theo các
ông, cần chấm dứt những bàn luận trừu tượng về
con người, mà cần xuất phát từ những con người
hiện thực. Con người hoạt động và sống trong

những điều kiện thực tiễn xác định. Những con
người ấy “không phải là những con người ở trong
một tình trạng biệt lập và cố định tưởng tượng”,
“không phải là những tồn tại trừu tượng, ẩn náu ở
đâu đó ngoài thế giới”, “mà là những con người
trong quá trình phát triển - quá trình phát triển hiện
thực và có thể thấy được bằng kinh nghiệm - của họ
dưới những điều kiện nhất định”(3).
Bàn về vấn đề con người, C.Mác và Ph.Ăngghen
đặc biệt chú ý tới bản chất xã hội của con người, lý
giải vai trò của hoạt động thực tiễn và các quan hệ
xã hội tham gia vào sự hình thành bản chất người.
Con người - bằng lao động luôn tìm mọi cách cải
tạo thiên nhiên để phục vụ nhu cầu của chính bản
thân mình. Lao động, như Ph.Ăngghen đã chỉ rõ:
“Là điều kiện cơ bản, đầu tiên của toàn bộ đời sống
loài người và như thế đến một mức mà trên ý nghĩa
nào đó, chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra
bản thân con người”(4). Trong quá trình lao động,
con người, một mặt có mối quan hệ rất khăng khít
với tự nhiên; mặt khác, dường như tự bứt lên, mang
vào trong tự nhiên sự biểu hiện và tự biểu hiện, sự
phát triển và tự phát triển những năng lực người,
những “sức mạnh bản chất của con người” để làm
nên một “tự nhiên thứ hai”. Cái “tự nhiên thứ hai”
ấy - theo C.Mác - là quá trình con người sáng tạo
văn hóa theo qui luật của cái đẹp. Bản chất con
người, một mặt bị qui định bởi môi trường và hoàn
cảnh lịch sử mà con người tồn tại nhưng mặt khác
chính con người cũng tạo ra hoàn cảnh cho phù hợp

34

với mục đích, nhu cầu và lợi ích của bản thân con
người. C.Mác viết: “Bản thân xã hội sản xuất ra con
người với tính cách là con người như thế nào thì nó
cũng sản xuất ra xã hội như thế”(5). Trong “Luận
cương về Phoiơbắc” năm 1845, Mác nhấn mạnh:
“Đời sống xã hội, về thực chất là có tính chất thực
tiễn”(6). “Bản chất con người không phải là một sự
trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là sự tổng hòa
những quan hệ xã hội”(7). Đây là luận điểm tiêu biểu
và nổi tiếng nhất của triết học Mác - Lênin về bản
chất con người. Nó đã trở thành cơ sở khoa học cho
các tiếp cận nghiên cứu về con người.
Như đã phân tích ở trên, nhân cách là của con
người và chỉ có con người mới có nhân cách, nhưng
không vì thế mà chúng ta đồng nhất con người với
nhân cách. Con người là một thực thể sinh vật - xã
hội. Các yếu tố sinh vật ở mỗi con người chỉ được
tạo nên để hình thành nhân cách, hình thành phẩm
chất xã hội đặc thù của nhân cách, còn nhân cách
phản ánh trình độ phát triển về mặt xã hội, phản
ánh mức độ cá thể hóa, tính độc đáo trong mỗi cá
nhân con người. Nhân cách là sự thống nhất biện
chứng giữa yếu tố xã hội và yếu tố cá nhân trong
mỗi con người.
So với bản chất con người, về thực chất, bản chất
nhân cách trùng hợp với bản chất con người. Nhân
cách là thước đo xã hội trong sự phát triển cá thể của

con người vì nhân cách là sự tồn tại của quan hệ xã
hội trong mỗi cá nhân. Bản chất xã hội của nhân
cách chính là những quan hệ xã hội tồn tại hiện thân
trong cái “tôi”. Nhưng bản chất con người và nhân
cách không là một, không đồng nhất vì bản chất con
người không là toàn bộ con người, nó là những
thuộc tính chủ yếu của con người nói chung, còn
nhân cách là do tồn tại của các quan hệ xã hội trong
mỗi cá nhân. Nhân cách là một chỉnh thể thống nhất,
trong đó các yếu tố sinh vật kết hợp chặt chẽ với các
yếu tố xã hội trong quá trình sống của cá nhân.
Cá nhân là một khái niệm triết học dùng chỉ một
con người, một thành viên của xã hội là sản phẩm
của sự phát triển xã hội, là chủ thể của hoạt động,
chủ thể của những quan hệ xã hội và chủ thể của

Lý luËn chÝnh trÞ & TruyÒn th«ng

Sè th¸ng 6-2016


NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

nhận thức trong một điều kiện lịch sử - xã hội xác
định. Khái niệm cá nhân, trước hết, chỉ một cá thể
riêng lẻ với tư cách là đại biểu cho loài sinh vật phát
triển cao nhất. Thứ hai, chỉ một phần tử đơn nhất,
riêng lẻ của cộng đồng xã hội. Cá nhân đặc trưng
cho con người trong sự thống nhất giữa những đặc
điểm riêng biệt của cá nhân với chức năng xã hội

mà cá nhân đó thực hiện. Hoạt động xã hội qui định
những phẩm chất của cá nhân như biết suy nghĩ, biết
đánh giá thực tế cuộc sống. V.I.Lênin đã viết: Chúng
ta căn cứ vào cái gì để xét đoán những tư tưởng và
tình cảm thực của các cá nhân có thực? Tất nhiên,
căn cứ đó chỉ có thể là những hoạt động của các cá
nhân ấy, và một khi vấn đề chỉ là tư tưởng và tình
cảm xã hội thì cần phải nói thêm: Những hoạt động
xã hội của cá nhân tức là những sự kiện xã hội(8).
Mặt khác, khi đề cập đến khái niệm cá nhân là người
ta muốn đặt nó trong quan hệ với mặt đối lập với nó
là khái niệm xã hội: Cá nhân - xã hội. Trong đó, cá
nhân người là một chỉnh thể đơn nhất gồm cả một
hệ thống những đặc điểm cụ thể, không lặp lại, khác
biệt với những cá nhân khác về cơ thể, tâm lý, trình
độ... Bất cứ xã hội nào cũng được cấu thành không
phải từ những con người trừu tượng mà chính từ
những cá nhân cụ thể, những cá nhân sống, cá nhân
- xã hội. Trong xã hội có giai cấp, ngoài những đặc
trưng riêng có của mình, mỗi cá nhân đều mang bản
chất chung của loài người và mang bản chất của một
giai cấp nhất định. Cơ cấu xã hội và nhà nước luôn
nảy sinh ra từ quá trình sinh sống của những cá nhân
nhất định, không phải của những cá nhân đúng như
bản thân những cá nhân ấy có thể tự hình dung hay
đúng như người khác có thể hình dung, mà là của
những cá nhân đúng như trong hiện thực, nghĩa là
đúng như họ đang hành động, sản xuất một cách vật
chất, tức là đúng như họ hành động trong những giới
hạn, tiền đề và điều kiện vật chất nhất định, không

phụ thuộc vào ý chí của họ(9). Biểu trưng của sự phát
triển cá nhân trong mỗi điều kiện lịch sử - xã hội xác
định là sự phát triển hài hòa giữa thể chất lành
mạnh và một tư tưởng, tình cảm phong phú. Đứa trẻ
sinh ra chưa phải là một cá nhân mà nó mới chỉ
mang tiềm năng của cá nhân. Để trở thành cá nhân,
Sè th¸ng 6-2016

đứa trẻ đó phải hòa mình trong các quan hệ xã hội,
hòa mình trong những thành tựu của văn hóa, những
chuẩn mực của đạo đức dân tộc. Quá trình trở thành
cá nhân thuộc về sự tự vận động của bản thân chủ
thể. Đó cũng chính là quá trình con người tự xác lập
nhân cách. Nhân cách được hình thành trong từng
con người cụ thể, trong từng cá nhân nhưng không
phải là cá nhân. Nhân cách được thể hiện thông qua
từng cá nhân. Từng cá nhân bộc lộ, thể hiện nhân
cách của mình trong toàn bộ hoạt động sống của
mình. Hoàn cảnh xã hội, đời sống của mỗi cá nhân
có tác động đến cá nhân đồng thời cũng tác động
đến nhân cách của cá nhân ấy. Như vậy, nhân cách
được cá thể hóa ở từng cá nhân, được biểu hiện
thông qua từng cá nhân nhưng không đồng nhất với
cá nhân.
4. Tính qui luật của sự hình thành và phát
triển nhân cách
Thứ nhất, sự hình thành và phát triển nhân cách
gắn liền với sự phát triển của con người qua quá
trình giáo dục, tự giáo dục và hoạt động thực tiễn.
Giáo dục là một hiện tượng xã hội, trong đó một

tập hợp xã hội (nhóm người) đã tích lũy được vốn
kinh nghiệm nhất định truyền đạt lại cho nhóm xã
hội khác nhằm giúp họ tham gia vào đời sống xã hội,
giúp họ hiểu biết các chuẩn mực, khuôn mẫu, giá trị
xã hội để xây dựng thành nhân cách phù hợp với sự
đòi hỏi của lợi ích xã hội(10). Giáo dục có khả năng
uốn nắn những hành vi lệch chuẩn trong sự phát triển
nhân cách, tạo dựng những mẫu hình nhân cách mới
đáp ứng những đòi hỏi của xã hội. Hệ thống giáo dục
của xã hội đã khẳng định vai trò quan trọng trong
quá trình xây dựng những phẩm chất tốt đẹp của
nhân cách. Những yêu cầu, những chuẩn mực xã hội
(cộng đồng, giai cấp, dân tộc) không thể trực tiếp áp
đặt vào con người những phẩm chất cá nhân phù hợp
với các yêu cầu, các chuẩn mực ấy. Những phẩm
chất của nhân cách được hình thành chủ yếu là do
quá trình giáo dục và tự giáo dục. Nói cách khác,
nhân cách trong sự hình thành và phát triển chịu sự
tác động có mục đích của quá trình giáo dục.
Nhân cách cũng là kết quả của quá trình tự giáo
dục, tự hoàn thiện trong bản thân mỗi con người. Sự

Lý luËn chÝnh trÞ & TruyÒn th«ng

35


NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

tự giáo dục biểu hiện ở chỗ mỗi chủ thể tự giáo dục

hướng toàn bộ năng lực, hành động của mình vào
sự hình thành thế giới nội tâm bắt đầu từ sự tự ý thức
cho đến quá trình tham gia tích cực và tự giác vào
việc tạo ra cho mình những điều kiện, môi trường,
hoàn cảnh để trong đó họ tồn tại. Trong quá trình
hoạt động tự giác ấy, mỗi con người đã biết tách
mình ra thành hai phần riêng biệt: Cái tôi - chủ thể
và cái tôi - đối tượng để tự giác phấn đấu, cải tạo,
xây dựng thế giới quan, nhân sinh quan và những
phẩm chất tích cực trong nhân cách. Chính sự phát
triển của tình cảm, lý trí và ý chí, tức là sự phát triển
của ý thức nhân cách trong mỗi chủ thể hoạt động
là yếu tố trực tiếp qui định khả năng xác định, lựa
chọn và thực hiện hành vi của nhân cách. Sự phát
triển của ý thức nhân cách chính là chỉ số phản ánh
sự phát triển nhân cách và là điều kiện quan trọng
của việc thực hiện những hoạt động thực tiễn của
nhân cách mỗi người trong môi trường xã hội.
Hoạt động thực tiễn của mỗi người để cải tạo
môi trường, xã hội cũng là nhân tố tác động quan
trọng tới sự phát triển nhân cách của chính họ. Tính
xã hội là một trong những đặc trưng cơ bản nhất
trong các hoạt động thực tiễn của con người. Trong
quá trình hoạt động thực tiễn, con người phải trao
đổi với nhau bằng ngôn ngữ, phải sử dụng một khối
lượng lớn văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần của
nhân loại. Trong các hoạt động của mình, con người
cần thiết phải hợp tác với những người xung quanh.
Họ phải tồn tại và phát triển trong các mối quan hệ
xã hội, nếu tách khỏi nó con người không bao giờ

có thể phát triển được. Trong quá trình ấy, mỗi cá
nhân phản ứng trước sự tác động của môi trường xã
hội một cách khác nhau, thể hiện trong bản thân
mình nét này hoặc nét khác của môi trường xã hội
tạo nên sự phong phú, đa dạng của nhân cách con
người. Có thể nói, thông qua hoạt động thực tiễn,
con người biểu hiện các năng lực và phẩm chất nhân
cách của mình.
Thứ hai, sự hình thành và phát triển nhân cách
là quá trình thống nhất giữa cá nhân và xã hội, giữa
mặt sinh vật và mặt xã hội. Đó là sự thống nhất giữa
điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan.
36

Nếu con người bị tách ra khỏi môi trường và các
hoạt động xã hội thì nhân cách con người không thể
hình thành và phát triển được. C.Mác và Ph.Ăngghen, trên cơ sở kế thừa quan niệm của các nhà duy
vật Pháp về sự tác động của môi trường xã hội đến
cá nhân, đã khẳng định rằng: “Nếu như con người
bẩm sinh đã là sinh vật có tính xã hội thì do đó, con
người chỉ có thể phát triển bản tính chân chính của
mình trong xã hội và cần phải phán đoán lực lượng
của bản tính của anh ta, không phải căn cứ vào lực
lượng của cá nhân riêng lẻ mà căn cứ vào lực lượng
của toàn xã hội”. Đây chính là quá trình xã hội hóa
cá nhân và cá nhân hóa xã hội, nhưng suy cho cùng,
xã hội hóa cá nhân là yếu tố quyết định quá trình
hình thành và phát triển nhân cách. Vì thế, có thể
khái quát một số yếu tố cơ bản tác động đến sự hình
thành và phát triển nhân cách như sau:

Một là, sự hình thành và phát triển nhân cách
trước hết bị qui định bởi điều kiện kinh tế - xã hội.
Tính qui định khách quan của điều kiện kinh tế - xã
hội đã tạo ra một giới hạn chung, một xu thế chung
cho mọi hoạt động của con người. Sự phát triển của
nhân cách với tư cách là sự phát triển các phẩm chất
xã hội của mỗi cá nhân trong cộng đồng xã hội cũng
không nằm ngoài những qui định khách quan của
điều kiện kinh tế - xã hội hiện thời mà mỗi cá nhân
đó là thành viên. V.I.Lênin gọi đây là quyết định luận
lịch sử. Bị qui định khách quan bởi điều kiện kinh
tế - xã hội, nhưng cái trực tiếp qui định bản chất và
đặc trưng của nhân cách lại không phải là tất cả các
quan hệ kinh tế, mà nhân tố qui định nhân cách ở
tầng sâu nhất đó là quan hệ lợi ích. Bởi cái lõi vật
chất của đạo đức, nhân cách là vấn đề lợi ích. Nói
cụ thể hơn, tính chất của việc giải quyết quan hệ lợi
ích giữa cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội là
nhân tố sau cùng qui định bộ mặt của nhân cách. Sự
phát triển của con người nói chung, nhân cách nói
riêng chỉ có thể phát triển đúng qui luật khi mỗi cá
nhân tự giác nhận thức đúng đắn, giải quyết hài hòa
về mối quan hệ cá nhân - xã hội xét trên phương
diện lợi ích. Lợi ích cá nhân đóng vai trò trực tiếp,
cơ sở cho mọi hoạt động tự giác, hoạt động tích cực
của con người. Lợi ích cá nhân cũng là nhân tố quyết

Lý luËn chÝnh trÞ & TruyÒn th«ng

Sè th¸ng 6-2016



NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

định, là cơ sở để thực hiện lợi ích tập thể, lợi ích xã
hội. Lợi ích xã hội với ý nghĩa là lợi ích hướng vào
thỏa mãn những nhu cầu chung của nhiều thành viên
hợp lại thành cộng đồng xã hội. Vì vậy, lợi ích xã
hội là điều kiện và đóng vai trò định hướng cho việc
thực hiện lợi ích cá nhân. Tuy nhiên, trên thực tế
không phải lợi ích cá nhân nào cũng chính đáng, có
những lợi ích cá nhân khi thực hiện nó ảnh hưởng
đến lợi ích của người khác, lợi ích của xã hội. Việc
thực hiện những lợi ích cá nhân này làm cho con
người xa rời những chuẩn mực đạo đức, xa rời
những yêu cầu chung mà xã hội đặt ra, thiếu ý thức
trách nhiệm... đó là nguyên nhân để niềm tin, quan
niệm, lương tâm, lý tưởng, năng lực đạo đức... tức
là nhân cách bị suy thoái. Vì vậy, nhân cách chỉ được
hoàn thiện và phát triển khi giải quyết hài hòa giữa
lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội. Đó
là quá trình mà việc thực hiện lợi ích cá nhân này
không xâm phạm đến lợi ích của cá nhân khác,
không xâm phạm đến lợi ích chung của toàn xã hội.
Và lợi ích xã hội thể hiện vai trò động lực của mình
thông qua lợi ích của mỗi cá nhân. Điều này đã được
Mác - Ăngghen căn dặn: “Nếu lợi ích đúng đắn là
nguyên tắc của toàn bộ đạo đức thì do đó cần ra sức
làm cho lợi ích riêng của con người cá biệt phù hợp
với toàn thể loài người”(12).

Hai là, sự hình thành và phát triển nhân cách bị
qui định bởi nhân tố văn hóa của xã hội. Giá trị tinh
thần truyền thống của dân tộc có tác động mạnh mẽ
đến sự hình thành những kiểu mẫu hành vi, đến sự
đánh giá và những tình cảm đạo đức trong sáng của
nhân cách. Hiệu quả của giáo dục, với tính cách là
một nhân tố phát triển nhân cách phụ thuộc rất nhiều
vào kỹ năng vận dụng những giá trị truyền thống
vào hoàn cảnh xã hội mới để phục vụ xã hội và bản
thân mỗi cá nhân. Văn hóa xã hội là tổng hòa của
văn hóa cá nhân, tuy nhiên đây không phải là phép
cộng đơn giản của tất cả văn hóa cá nhân mà nó là
sự kết tinh những tinh hoa của nhiều thời đại, nhiều
thế hệ đã qua. Mỗi cá nhân khi sinh ra đã được sống,
được tiếp nhận một hệ các giá trị, hệ các chuẩn mực
của văn hóa xã hội. Những giá trị, chuẩn mực này
được phản ánh trong thế giới quan, hệ thống tri thức
Sè th¸ng 6-2016

xã hội, trong những chuẩn mực về pháp lý, đạo đức,
thẩm mỹ... Nhân cách của con người được hình
thành và phát triển trong môi trường văn hóa xã hội
một cách gián tiếp thông qua quá trình giáo dục và
tự giáo dục.
Trong những yếu tố cấu thành nên văn hóa tinh
thần xã hội thì thế giới quan, những chuẩn mực pháp
lý, thẩm mỹ, đạo đức… có vị trí quan trọng trong
việc hình thành và phát triển nhân cách. Trong đó,
thế giới quan có vị trí đặc biệt trong cấu trúc nhân
cách. Nó được cấu thành từ những yếu tố cơ bản là

tri thức, niềm tin, lý tưởng. Một thế giới quan đúng
đắn là cơ sở quan trọng nhất để xây dựng một nhân
cách phát triển toàn diện. Nói cách khác, thế giới
quan giữ vai trò định hướng chung cho con người
trong mọi hoạt động hiện thực của họ. Hiện nay, chủ
nghĩa Mác - Lênin là thế giới quan khoa học và tiến
bộ nhất. Bởi vì, ngoài sự phản ánh lợi ích của giai
cấp vô sản, đồng thời phản ánh xu thế vận động tất
yếu của xã hội loài người. Giáo dục chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay không
chỉ làm cho những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh được quán
triệt cho mọi người, mà cần làm cho những nguyên
tắc ấy trở thành niềm tin, động lực cho mọi hoạt
động của họ. Với ý nghĩa ấy, chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở tư tưởng, là động
lực cho sự phát triển nhân cách của con người Việt
Nam hiện nayr
(*) Công trình là kết quả nghiên cứu khoa học được tài trợ từ
quỹ Naposted.
(1) Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa
học, Nxb. CTQG, H.,1994, tr.264.
(2) Trần Văn Giầu, Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc
Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, H.,1980, tr.11.
(3), (6), (7), (9) C.Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tập, T3, Nxb.
CTQG, H., 1995, tr.38, 12, 12, 36.
(4) C.Mác-Ph.Ăngghen, Toàn tập, T20, Nxb. CTQG, H.,
1996, tr. 641.
(5) C.Mác-Ph.Ăngghen, Toàn tập, T42, Nxb. CTQG, H. 1996, tr.169.
(8) V.I.Lênin, Toàn tập, T1, Nxb. Tiến bộ, M., 1978, tr. 531.

(10) Nguyễn Văn Hộ - Hà Thị Đức: Giáo dục học đại cương,
Nxb. Giáo dục, H.,2002, tr. 5.
(11), (12) C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, T2, Nxb. CTQG,
H.,1995, tr. 200, 199-200.

Lý luËn chÝnh trÞ & TruyÒn th«ng

37



×