Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Quan điểm toàn diện trong Triết học Mác- Lênin, những nguyên nhân, quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.55 KB, 16 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lời mở đầu
Sau hai cuộc chiến tranh thế giới đẫm máu, hiện nay xu hớng phát triển
chung của toàn thế giới là hội nhập, đàm phán, hoà bình và hợp tác. Chính từ
sự ổn định này, nền kinh tế thế giới lại càng có điều kiện phát triển một cách
nhanh chóng và nền kinh tế thị trờng theo đó cũng ngày càng phát huy đợc
khả năng kì diệu của nó trong việc tạo thế mạnh về kinh tế cho các quốc gia
trên thế giới nói chung và cho Việt Nam nói riêng.
Thật vậy, chính đờng lối áp dụng cơ chế thị trờng vào nền kinh tế của Đảng
và Nhà nớc ta đã tạo đà cho nền kinh tế đang còn ngủ quên trong sự lời
biếng, trì trệ của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, có thể bừng tỉnh và tràn
trề sức sống mới. Kinh tế phát triển nhanh chóng, tổng sản phẩm trong n-
ớc(GDP) sau 10 năm tăng gấp đôi, tích luỹ nội bộ của nền kính tế từ mức
không đáng kể đến năm 2000 đã đạt 25%GDP. Từ tình trạng khan hiếm, sản
xuất không đáp ứng đợc nhu cầu thiết yếu, nay đã bảo đảm đủ lơng thực, thực
phẩm, nhiều loại hàng tiêu dùng, có dự trữ và xuất khẩu ngày càng tăng: từ
chỗ chủ yếu có hai thành phần kinh tế đã chuyển sang nền kinh tế nhiều
thành phần phá đợc thế bao vây cấm vận, cơ bản mở rộng quan hệ đối ngoại
và từng bớc hội nhập kinh tế khu vực và thế giới Sở dĩ chúng ta đạt đợc
những thành tựu trên đó là nhờ quá trình đổi mới kinh tế, chuyển đổi từ nền
kinh tế hiện vật sang nền kinh tế thị trờng. Theo em, để thực hiện qúa trình
chuyển đổi này, chúng ta cần phải nhận thức đúng đắn quan điểm toàn diện
trong triết học Mác - Lênin đến quá trình đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam. Vì
thế em chọn đề tài : "Quan điểm toàn diện trong Triết học Mác - Lênin,
những nguyên nhân, quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam". Nhng do cha có
kinh nghiệm và vốn kiến thức còn hạn chế nên em không thể tránh khỏi
những thiêú sót nhất định. Em mong có đợc sự nhận xét và góp ý của thầy
giáo. Em xin chân thành cảm ơn !
- 1 -
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nội dung


I. Nội dung cơ bản về quan điểm toàn diện của Triết
học Mác-Lênin
1. Quan điểm siêu hình về mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật và hiện
tợng trong thế giới.
Phơng pháp siêu hình đợc phổ biến rộng rãi trớc hết trong khoa học tự
nhiên và sau đó trong triết học suốt các thế kỷ XVII, XVIII. Khi nghiên cứu
và bàn luận về mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật và hiện tợng trong thế
giới, phơng pháp siêu hình coi các sự vật hiện tợng trong thế giới tồn tại
trong trạng thái biệt lập, tách rời nhau, cái này bên cạnh cái kia, hết cái này
rồi đến cái kia. Giữa chúng không có mối liên hệ ràng buộc, quy định và
chuyển hoá lẫn nhau, nếu có chỉ là những liên hệ có tính ngẫu nhiên, hời hợt
bên ngoài.
Nh vậy những quan điểm ttên đây của phơng pháp siêu hình đã phủ nhận
hoàn toàn mối liên hệ phổ biến của các sự vật, đồng thời cũng dẫn đến những
sai lầm về thế giới quan triết học, dựng lên những ranh giới giả tạo giữa các
sự vật và hiện tợng, đối lập một cách siêu hình giữa các nghành nghiên cứu
khoa học. Chính bởi sự hạn chế của trình độ khoa học tự nhiên ở phơng pháp
su tập tài liệu, nghiên cứu tách rời từng bộ phận riêng rẽ, phơng pháp siêu
hình đã không có khả năng phát hiện ra cái chung, cái bản chất và qui luật
của sự vận động và phát triển của các sự vật, hiện tợng trong thế giới.
2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về mối liên hệ phổ biến giữa
các sự vật và hiện tợng trong thế giới.
a. Cơ sở lý luận của quan điểm.
Trong các học thuyết triết học duy vật trớc Mác, vật chất đợc coi là vật
thể, cơ sở đầu tiên bất biến của tất cả các sự vật, hiện tợng tồn tại trong thế
giới khách quan. Chỉ có một thế giới duy nhất tồn tại là thế giới vật chất,
không thể có thế giới tinh thần ở ngoài hoặc bên cạnh thế giới vật chất. Vật
chất biểu hiện sự tồn tại của mình bằng vận động, hay nói cách khác vận
- 2 -
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

động là phơng thức tồn tại của vật chất, vật chất thông qua vận động mà biểu
hiện sự tồn tại của mình.
Là thuộc tính không tách rời của vật chất, nên không thể có vật chất
nếu không có vận động và ngợc lại. F. Ăng-ghen trong ''Biện chứng của tự
nhiên'' đã viết : ''Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, tức đợc hiểu là một
phơng thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao
gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị
trí đơn giản cho đến t duy''. Giữa các sự vật để có sự vận động thì sự vật phải
tác động và ràng buộc lẫn nhau, tức là phải có liên hệ. Mọi mối liên hệ đều là
sự tác động của các sự vật hiện thực của thế giới vật chất, các mối liên hệ đó
đợc con ngời phản ánh dới hình thức các khái niệm phạm trù. Nh vậy con ng-
ời không thể sáng tạo ra các mối liên hệ mà nó là cái vốn có của thế giới vật
chất, liên hệ là khách quan, nó không phải do thợng đế sinh ra hay nhẫu
nhiên mà có, không phải là sự thể hiện của bất cứ một ý niệm tuyệt đối nào.
Thế giới vật chất là muôn hình muôn vẻ tồn tại dới nhiều dạng cụ thể khác
nhau, nhng không tách rời biệt lập mà liên hệ thống nhất với nhau. Tất cả các
sự vật và hiện tợng tồn tại bằng cách tác động nhau, ràng buộc nhau, quy
định và chuyển hoá lẫn nhau. F. Ăng-ghen đã viết :'' Tất cả thế giới mà chúng
ta có thể nghiên cứu đợc là một hệ thống, một tập hợp gồm các vật thể khăng
khít với nhauViệc các vật thể ấy đều có liên hệ qua lại với nhau đã có nghĩa
là các vật thẻ này tác động lẫn nhau vì sự tác động qua lại ấy chính là sự vận
động.
b. Nội dung quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về mối liên hệ phổ
biến giữa các sự vật và hiện tợng.
Căn cứ vào thực tiễn đời sống xã hội và sự phát triển của khoa học, triết
học Mác-Lênin đã khẳng định : Bản chất của thế giới là vật chất, thế giới
thống nhất ở tính vật chất của nó. Mọi sự vật, hiện tợng, bộ phận khác nhau
của thế giới đều có sự liên hệ vật chất với nhau, nhng không có cái nào tồn
tại riêng lẻ, biệt lập, mà hợp thành một chỉnh thể, một hệ thống thống nhất và
tồn tại một cách khách quan, vĩnh hằng.

- 3 -
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Không có sự vật nào lại không có mối liên hệ với các sự vật và hiện tợng
khác, ngay trong cùng một sự vật, hiện tợng thì vẫn phải có sự tác động, liên
hệ và ràng buộc lẫn nhau giữa các mặt và các yếu tố. Sự vật có vô vàn mối
liên hệ, mối liên hệ tồn tại cả trong thế giới vĩ mô lẫn vi mô, cả trong thế giới
vô cơ và hữu cơ, cả trong tự nhiên, xã hội và t duy.
Ví dụ, trong tự nhiên, giữa động vật và thực vật, giữa cơ thể sống và môi
trờng có mối quan hệ với nhau. Trong đời sống xã hội, giữa cá nhân và các
tập đoàn ngời, giữa các quốc gia có quan hệ với nhau. Trong lĩnh vực nhận
thức t duy, giữa các hình thức của nhận thức, giữa các giai đoạn của nhận
thức cũng có quan hệ với nhau
Mối liên hệ của các sự vật và hiện tợng trong thế giới là đa dạng và nhiều
vẻ. Mỗi sự vật khác nhau có mối liên hệ khác nhau, mỗi một mối liên hệ lại
có vị trí, vai trò khác nhau trong sự vận động của sự vật. Lại tiếp tục căn cứ
vào vai trò, tính chất và phạm vi các mối liên hệ ngời ta lại chia thành các
mối liên hệ sau: Liên hệ bên trong, liên hệ bên ngoài; liên hệ trực tiếp, liên hệ
gián tiếp; liên hệ không gian, liên hệ thời gian; liên hệ chủ yếu, liên hệ thứ
yếu; liên hệ cơ bản, liên hệ không cơ bản; liên hệ chung nhất và liên hệ đặc
thù
Mặc dù sự phân loại các liên hệ này chỉ có ý nghĩa tơng đối, song sự phân
loại các mối liên hệ lại rất cần thiết, vì rằng vị trí của từng mối liên hệ trong
việc quy định sự vận động và phát triển của sự vật và hiện tợng không hoàn
toàn nh nhau. Những hình thức riêng biệt, cụ thể của từng mối liên hệ là đối
tợng nghiên cứu của từng nghành khoa học cụ thể. Phép biện chứng duy vật
nghiên cứu những mối liên hệ chung nhất, phổ biến nhất của thế giới, tác
động trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và t duy. Các khoa học cụ thể khác
nghiên cứu các mối liên hệ đặc thù. Vì thế, F. Ăng-ghen viết: ''Phép biện
chứng là khoa học về mối liên hệ phổ biến''.
- 4 -

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
3. ý nghĩa việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các
sự vật, hiên tợng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Nh ta đã biết, các sự vật và hiện tợng trong thế giới đều tồn tại trong mối
liên hệ phổ biến và nhiều vẻ, bởi vậy muốn nhận thức và tác động vào chúng,
chúng ta phải có quan điểm toàn diện, khắc phục quan điểm phiến diện một
chiều.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta khi phân tích sự vật phải đặt nó
trong mối quan hệ với sự vật và hiện tợng khác, phải xem xét tất cả các mắt
trung gian, gián tiếp, các yếu tố cấu thành nên sự vật, đồng thời cũng phải
xác định đợc vai trò của các mối liên hệ trong hệ thống các mối liên hệ của
sự vật.
Trong hoạt động thực tiễn, quan điểm toàn diện giúp chúng ta tránh những
sai lầm và sự cứng nhắc, chống lại quan điểm siêu hình coi sự vật là cái gì
riêng lẻ, biệt lập. Tuy nhiên, quan điểm toàn diện không có nghĩa là các xem
xét cao bằng, tràn lan mà phải thấy đợc vị trí của từng mối liên hệ, từng mặt,
từng yếu tố trong tổng thể của chúng. Có nh thế chúng ta mới thực sự nắm đ-
ợc bản chất của sự vật. Vì vậy, quan điểm toàn diện bản thân nó đã bao hàm
quan điểm lịch sử cụ thể.
II. Nguyên nhân và quá trình đổi mới nền kinh tế ở Việt
Nam.
1. Nguyên nhân và quá trình đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam.
Lịch sử nhân loại đã chứng kiến nhiều mô hình kinh tế khác nhau. Mỗi
mô hình đó là sản phẩm của trình độ nhận thức nhất định trong những điều
kiện lịch sử cụ thể. Song, nghiên cứu một cách nghiêm túc các mô hình đó,
cùng với thời gian và kinh nghiệm thực tế, chúng ta đã rút ra cho mình một
cách nhìn đúng đắn hơn và một sự lựa chọn thực tế hơn.
Trớc đây, mô hình kinh tế hiện vật đợc coi là lý tởng, thì nay đã bộc lộ
những hạn chế, vô tình nó đã phủ định những mục tiêu ban đầu của chủ nghĩa
xã hội. Đặc trng cơ bản của mô hình kinh tế hiện vật là nền kinh tế bị hiện

vật hoá, t duy hiện vật, chỉ có sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là phổ biến,
- 5 -
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nền kinh tế khép kín với cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung cao độ. Trên
thực tế, yếu tố kế hoạch hoá tập trung đã loại bỏ yếu tố thị trờng, quan hệ
hàng hoá - tiền tệ chỉ còn là hình thức. Sự điều tiết theo chiều dọc đã lấn át
các quan hệ kinh tế theo chiều ngang. Vai trò ngời tiêu dùng bị hạ thấp. Hệ
thống quản lý quan liêu tỏ ra không có khả năng gắn sản xuất với nhu cầu.
Kinh tế hiện vật gắn liền với quan niệm truyền thống về kinh tế xã hội chu
nghĩa tuy đã có tác dụng trong điều kiện chiến tranh, góp phần mang lại
chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta, song khi chuyển sang xây dựng và phát
triển kinh tế, chính mô hình đó đã tạo ra nhiều khuyết tật: nền kinh tế không
có động lực, không có sức đua tranh, không phát huy đợc tính chủ động sáng
tạo của ngời lao động, các chủ thể sản xuất - kinh doanh, sản xuất không gắn
với nhu cầu, ý chí chủ quan đã lấn át khách quan và triệt tiêu mọi động lực,
sứ mạnh nội sinh của bản thân nền kinh tế, đã làm cho nền kinh tế suy thoái,
thiếu hụt, hiệu quả thấp, nhiều mục tiêu của chủ nghĩa xã hội không đợc thực
hiện. Đó là tất yếu của sự chuyển đổi nền kinh tế hiện vật sang nên kinh tế
thị trờng.
Kinh tế thị trờng có những đặc trng cơ bản nh : phát triển kinh tế hàng
hoá, mở rộng thi trờng, tự do kinh doanh, tự do thơng mại, tự định giá cả, đa
dạng hoá sở hữu, phân phối do quan hệ cung- cầu đó là cơ chế hỗn hợp '' có
sự điều tiết vĩ mô '' để khắc phục những khuyết tật của nó.
ở nớc ta, sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trờng là một tất yếu. Do những
hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, trong một thời kỳ dài chúng ta đã duy trì nền kinh
tế hiện vật theo mô hình của các nớc xã hội chủ nghĩa. Chế độ kinh tế - xã
hội đó đã tỏ rõ sức mạnh trong chiến tranh, nhng những khuyết tật nghiêm
trọng của nó lại đợc chính hoàn cảnh chiến tranh che lấp. Mặt khác, nớc ta đi
lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát rất thấp, cơ cấu kinh tế mang nặng đặc
trng của một nớc nông nghiệp lạc hậu. Nhận rõ điểm xuất phát đó, trong

chính sách kinh tế, Đảng ta đã có những tìm tòi với mong muốn thoát khỏi
sản xuất nhỏ, nhng những giải pháp đó đợc đặt trong môi trờng kinh tế hiện
vật, nên không mang lại kết quả.
- 6 -

×