Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Thực hiện chính sách bình đẳng giới từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (860.88 KB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ THÚY HÀ

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BÌNH ĐẲNG GIỚI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI - 2016


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ THÚY HÀ

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BÌNH ĐẲNG GIỚI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành

: Chính sách công

Mã số

: 60.34.04.02


LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. VÕ KHÁNH VINH

HÀ NỘI - 2016


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn đến Ban Giám đốc Học viện Khoa học Xã hội,
khoa Chính sách công đã tạo điều kiện cho tôi được học tập và nghiên cứu tại Học viện và
hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến toàn thể quý thầy, cô giảng dạy chương trình thạc
sĩ Chính sách công, những người đã truyền đạt cho tôi những kiến thức hữu ích về kiến
thức nói chung và các kiến thức chuyên môn nói riêng, đó là cơ sở giúp tôi hoàn thành luận
văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành, lời chúc sức khỏe đến GS.TS. Võ Khánh Vinh,
người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình tôi thực hiện luận văn. Những góp ý,
chỉ bảo của thầy không chỉ giúp tôi hoàn thành luận văn mà còn là kinh nghiệm trong
nghiên cứu hoạt động sau này.
Sau cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình đã luôn tạo điều kiện tốt nhất
về mặt tinh thần cho tôi yên tâm học tập và nghiên cứu.
Do thời gian có hạn cũng như kinh nghiệm nghiên cứu chưa nhiều, nên luận văn
không tránh khỏi thiếu sót, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy, cô và anh
chị học viên./.
Hà Nội, ngày tháng

năm 2016

TÁC GIẢ


Trần Thị Thúy Hà


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của cá nhân
tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của GS.TS. Võ Khánh Vinh
Các số liệu sử dụng trong luận văn có trích dẫn nguồn rõ ràng, không sao chép của
người khác. Các kết luận nghiên cứu trong luận văn được đúc kết từ cơ sở lý luận đến thực
tiễn của vấn đề luận văn cần giải quyết.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình./.
Tác giả luận văn

Trần Thị Thúy Hà


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH BÌNH ĐẲNG GIỚI ............................................................................. 7
1.1. Chính sách bình đẳng giới hiện hành ......................................................... 7
1.2. Khái niệm, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách bình
đẳng giới .......................................................................................................... 15
1.3. Nội dung các bước thực hiện chính sách bình đẳng giới ......................... 18
1.4.Các phương pháp thực hiện chính sách bình đẳng giới ............................ 21
1.5. Các chủ thể thực hiện chính sách bình đẳng giới .................................... 23
1.6. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách bình đẳng giới .... 25
Kết luận Chương 1 .......................................................................................... 28
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BÌNH ĐẲNG
GIỚI TẠI TỈNH QUẢNG NAM.................................................................. 29

2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách bình đẳng giới tại
tỉnh Quảng Nam .............................................................................................. 29
2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách bình đẳng giới tại tỉnh Quảng
Nam ................................................................................................................. 34
2.3. Kết quả thực hiện chính sách bình đẳng giới tại tỉnh Quảng Nam .......... 43
2.4. Đánh giá chung về việc tổ chức thực hiện chính sách bình đẳng giới tại
tỉnh Quảng Nam .............................................................................................. 56
Kết luận Chương 2 .......................................................................................... 61
CHƯƠNG 3. TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BÌNH
ĐẲNG GIỚI ................................................................................................... 63
3.1. Mục tiêu, phương hướng tăng cường thực hiện chính sách bình đẳng giới ..... 63
3.2. Các giải pháp tăng cường thực hiện chính sách bình đẳng giới .............. 72
Kết luận Chương 3 .......................................................................................... 76
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bình đẳng giới luôn là một trong những vấn đề được hầu hết tất cả các quốc
gia trên thế giới quan tâm, nó là một mục tiêu phát triển và là một yếu tố nâng cao
khả năng tăng trưởng của mỗi quốc gia. Nam nữ bình đẳng là một trong những
quyền cơ bản của con người, trong xã hội dân chủ, quyền này luôn được coi trọng.
Ở Việt Nam, chủ trương bình đẳng giới được đề ra ngay từ khi Đảng Cộng sản ra
đời. Chính sách bình đẳng giới thật sự là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của chính sách phụ
vận qua các thời kỳ phát triển của nhà nước ta. Vị trí, vai trò của nữ giới dần được
xã hội tôn trọng và tạo điều kiện thuận lợi để phụ nữ từng bước đóng góp nhiều hơn
vào sự phát triển chung của xã hội.
Hiện nay, Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều Luật để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của phụ nữ: Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bảo vệ bà mẹ và trẻ em,

Luật Bình đẳng giới, Luật phòng chống bạo lực gia đình, một số luật khác và các
văn bản dưới luật có liên quan. Ngoài ra, còn có cả những quy phạm pháp luật được
ban hành với mục đích nhằm tạo điều kiện, cơ hội cho tất cả mọi người được đảm
bảo sự công bằng trên nhiều lĩnh vực như lao động, việc làm, giáo dục, y tế, tham
gia chính trị ...
Qua nhiều năm tổ chức thực hiện các chính sách về bình đẳng giới, địa vị của
người phụ nữ (được cho là nhóm người yếu thế, chịu nhiều bất lợi) trong xã hội và
vấn đề bình đẳng giới đã được cải thiện và đạt được những tiến bộ đáng kể. Tỷ lệ bé
gái theo học tiểu học đã tăng gần gấp đôi. Tuổi thọ bình quân của phụ nữ tăng từ
10-15 năm và cao hơn nam giới, phụ nữ tham gia nhiều hơn vào lực lượng lao động
sản xuất, đội ngũ trí thức nữ đang phát triển mạnh mẽ về số lượng và chất lượng, số
lượng nữ tham gia quản lý nhà nước tăng, Trong thực tế, phụ nữ Việt Nam đang có
mặt ở hầu hết cơ quan quản lý hành chính, sự nghiệp và doanh nghiệp. Phụ nữ
chiếm 50,3% số người làm công ăn lương và 32,4% các chủ doanh nghiệp....

1


Tuy nhiên, kết quả đó chỉ là bước đầu, nó chưa thực sự mang tính bền vững và
đang đặt ra nhiều vấn đề cần lời giải đáp. Qua thực tế cho thấy tại tỉnh Quảng Nam,
tuy số lượng phụ nữ tham gia quản lý nhà nước tăng lên về con số tuyệt đối, song tỷ
trọng lại có xu hướng giảm, tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy đảng, chính quyền, đại biểu
dân cử vẫn còn thấp, chưa ổn định. Tình trạng phổ biến hiện nay là nữ cán bộ khoa
học là lực lượng tham gia (đôi khi là lực lượng chính) vào các công trình khoa học
công nghệ cấp tỉnh, cấp nhà nước, còn người chủ trì các công trình này chủ yếu lại
là cán bộ nam, tỷ lệ mất cân bằng giới tính khi sinh khá cao, việc tiếp cận với giáo
dục của trẻ em gái và phụ nữ vùng dân tộc thiểu số còn gặp nhiều trở ngại, tồn tại
một lực lượng lớn cả nam và nữ đều coi nam giới là trụ cột gia đình, xem công việc
chăm sóc gia đình hiển nhiên là trách nhiệm và vai trò dành riêng cho người phụ
nữ...Thực trạng bất bình đẳng giới tỉnh Quảng Nam vẫn còn tồn tại khá phổ biến

trên nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng rất khó nhận ra. Vấn đề về bình đẳng giới đã
được quan tâm rất lớn, chính sách thúc đẩy bình đẳng giới được Đảng, Nhà nước ta
ban hành tương đối nhiều nhưng chưa đem lại hiệu quả tương xứng. Nguyên nhân
của thực trạng này được cho là do sự tồn tại khá lâu đời của tư tưởng trọng nam
khinh nữ, nhận thức của xã hội nói chung về vấn đề này chưa được thấu đáo, thiếu
nguồn lực để xây dựng chính sách phù hợp, thiếu chuyên gia để đánh giá chính sách
một cách chính xác...Bên cạnh đó tôi cho rằng việc tổ chức thực hiện chính sách là
một khâu then chốt rất quan trọng trong việc có đưa được chính sách vào cuộc sống
hiện thực hay không. Do đó, việc nghiên cứu đề tài “Thực hiện chính sách bình
đẳng giới từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” là rất cần thiết, luận văn mong đưa ra một
cái nhìn thực tế hơn về những kết quả cũng như những khó khăn, bất cập gặp phải
khi thực hiện chính sách bình đẳng giới tại cơ sở và cộng đồng, bên cạnh đó đưa ra
một số giải pháp nhằm tăng cường thực hiện chính sách về bình đẳng giới trong thời
gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề bình đẳng giới càng có ý nghĩa quan trọng khi nước ta đang bước vào
giai đoạn mới của tiến trình đổi mới, khi chúng ta thực hiện mục tiêu mở rộng giao

2


lưu, hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Vì vậy, việc nghiên cứu về quyền bình
đẳng giới tiếp tục là đề tài được nhiều nhà khoa học quan tâm, đi sâu nghiên cứu
nhằm khẳng định địa vị của người phụ nữ và tạo cơ hội cho phụ nữ trong xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, đóng góp cho sự nghiệp đổi mới đất nước. Nhiều công trình, đề
tài được công bố làm cơ sở cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật, chính sách
dành cho sự phát triển con người (trong đó có phụ nữ, vì sự tiến bộ của phụ nữ,
phòng, chống phân biệt đối xử đối với phụ nữ)… Một số công trình, đề tài nghiên
cứu tiêu biểu là: Võ Khánh Vinh (chủ biên) - Viện Khoa học xã hội Việt Nam:
“Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các quyền mới xuất hiện trong quá trình phát

triển”, Nxb Khoa học xã hội, năm 2012; Võ Khánh Vinh (chủ biên) - Viện Khoa
học xã hội Việt Nam:“Cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người”, Nxb Khoa học
xã hội, năm 2011; GS. Võ Khánh Vinh (chủ biên) - Viện khoa học xã hội Việt Nam:
“Những vấn đề lý luận và thực tiễn của nhóm quyền dân sự, chính trị” - Nxb khoa
học xã hội Việt Nam; GS. Võ Khánh Vinh (chủ biên) - Viện khoa học xã hội Việt
Nam: “Những vấn đề lý luận và thực tiễn của nhóm quyền kinh tế, văn hóa, xã
hội”; TS Nguyễn Thị Hồi về “Vấn đề bình đẳng giới trên thế giới”, Lương Phan Cừ
về “Bình đẳng giới- hiện trạng chính sách và pháp luật về bình đẳng giới”, Nguyễn
Thị Báo (2003) về “Quyền bình đẳng của phụ nữ trong sự nghiệp và cuộc sống gia
đình”,Phạm Thị Mộng Hoa; trưởng nhóm công tác Ngân hàng Thế giới “Đánh giá
tình hình giới ở Việt Nam”, TS Lê Thị Vinh Thi về “Chính sách xã hội đối với phụ
nữ nông thôn”, GS. Đặng Cảnh Khanh và PGS. Lê Thị Quý về cuốn sách “Gia đình
học”, luận án TS Chu Thị Thoa “Bình đẳng về giới trong gia đình ở nông thôn
đồng bằng sông Hồng hiện nay”, Viện nghiên cứu Phát triển xã hội với nghiên cứu
“Các yếu tố xã hội quyết định bất bình đẳng giới ở Việt Nam”, bên cạnh đó còn rất
nhiều công trình nghiên cứu khoa học, luận văn, bài báo...viết về các chính sách
bình đẳng giới đăng trên nhiều tạp chí Cộng sản như: khoa học về phụ nữ, Nghiên
cứu lý luận, Xã hội học...
Những công trình nêu trên có ý nghĩa hết sức quan trọng, đã đề cập đến
nhiều khía cạnh khác nhau liên quan đến chính sách bình đẳng giới và pháp luật

3


về quyền của phụ nữ. Nhưng rất hiếm công trình khoa học, báo cáo nghiên cứu
về vấn đề thực hiện chính sách bình đẳng giới tại Việt Nam. Vì vậy, luận văn sẽ
nghiên cứu về thực trạng thực hiện và đề xuất giải pháp hoàn thiện việc thực thi chính
sách về bình đẳng giới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích lý luận, đánh giá thực trạng
thực hiện chính sách nhằm hoàn thiện việc tăng cường thực thi chính sách bảo đảm
bình đẳng giới tỉnh Quảng Nam hiện nay.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận về chính sách bình đẳng giới tại Việt Nam,
nêu những chính sách bình đẳng giới đang hiện hành và thực thi tại tỉnh Quảng
Nam.
Mô tả, phân tích thực trạng, nêu những mặt ưu điểm và hạn chế trong quá
trình tổ chức thực hiện chính sách bình đẳng giới từ thực tiễn tại tỉnh Quảng Nam.
Nêu quan điểm, mục tiêu, phương hướng và đề xuất các giải pháp hoàn
thiện việc thực thi chính sách về bình đẳng giới tại tỉnh Quảng Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận về thực hiện các chính sách bình đẳng giới,
nghiên cứu thực trạng thực hiện và giải pháp hoàn thiện việc thực hiện chính sách
bình đẳng giới.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về những chính sách đang tồn tại liên quan đến
việc thúc đẩy bình đẳng giới, thực tiễn thực thi chính sách bình đẳng giới tại tỉnh
Quảng Nam và trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện việc thực hiện
chính sách bình đẳng giới.
Luận văn nghiên cứu trong phạm vi không gian tỉnh Quảng Nam là chủ yếu và
trong khoảng thời gian 10 năm; từ năm 2005 đến năm 2015.

4


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của triết học MácLênin; tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, các Công

ước quốc tế Việt Nam tham gia, ký kết về quyền bình đẳng nam, nữ; bình đẳng giới;
vì sự tiến bộ của phụ nữ. Luận văn vận dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành xã
hội và vận dụng triệt để các phương pháp nghiên cứu chính sách công. Các phương
pháp này giúp cho việc nghiên cứu đề tài được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau, từ
đó hoàn thiện hơn nữa việc thực thi chính sách về bình đẳng giới tại tỉnh Quảng Nam
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đa số các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn này cụ thể
như: thu thập thông tin, khảo sát thực địa, tổng hợp, phân tích, đối chiếu, so sánh...
các phương pháp này được sử dụng đan xen, phối hợp nhằm đem lại hiệu quả trong
nghiên cứu.
- Phương pháp thu thập thông tin: Phân tích và tổng hợp, được sử dụng để thu
thập, phân tích và khai thác thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên
cứu, bao gồm các văn kiện, tài liệu, nghị quyết, quyết định của Đảng, Nhà nước, bộ
ngành ở Trung ương và địa phương; các công trình nghiên cứu, các báo cáo, tài liệu
thống kê về chính sách bình đẳng giới.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực địa
Sử dụng phương pháp điều tra thực địa nhằm mục đích so sánh, với các số liệu
thu thập được; thu thập bổ sung các số liệu, tài liệu thực tế tại tỉnh Quảng Nam
nhằm củng cố tính xác thực các số liệu thu thập được.
- Phương pháp phân tích chính sách: Là đánh giá tính toàn vẹn, tính thống
nhất, tính khả thi và hiệu quả của chính sách nhằm điều chỉnh cho phù hợp với mục
tiêu và thực tế.
- Phương pháp thống kê: Là phương pháp thu thập, tổng hợp, trình bày số liệu,
tính toán các đặc trưng của đối tượng nghiên cứu nhằm phục vụ cho quá trình phân
tích, dự đoán và đề ra các quyết định.

5


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận
Nghiên cứu về chính sách bình đẳng giới không phải là vấn đề mới ở Việt
Nam nhưng lại rất mới mẻ tại tỉnh Quảng Nam, đặc biệt là lĩnh vực nghiên cứu
về vấn đề thực hiện chính sách. Trước đây đã có một số công trình nghiên cứu về
bình đẳng giới cấp quốc gia, tuy nhiên những công trình đó chỉ đề cập và giới
thiệu các văn bản pháp luật về bình đẳng giới, thực trạng bình đẳng giới tại Việt
Nam. Vì vậy, đây là công trình hoàn toàn mới, mang tính thực tế rất cao, phản ảnh
thực trạng về tình hình thực hiện các chính sách về bình đẳng giới và đề xuất
phương hướng, giải pháp hoàn thiện việc thực hiện chính sách về bình đẳng giới
trong phạm vi tỉnh Quảng Nam. Luận văn góp phần bổ sung, làm phong phú hệ
thống cơ sở cho việc xây dựng các kế hoạch thực thi chính sách bình đẳng giới một
cách hiệu quả.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn hoàn thành có thể làm tài liệu tham khảo, vận dụng trong quá trình
xây dựng, hoàn thiện và quá trình thực thi các chính sách về bình đẳng giới ở tỉnh
Quảng Nam hiện nay. Đây có thể được xem như một Đề tài khoa học cấp tỉnh, hoàn
thiện và phát triển thành chiến lược phát triển bình đẳng giới giai đoạn 2016-2010
của tỉnh Quảng Nam. Trên cơ sở đề tài này có thể xây dựng Kế hoạch hoạt động cụ
thể, có hạng mục ngân sách riêng để tổ chức các nội dung nhằm góp phần thúc đẩy
bình đẳng giới tại tỉnh Quảng Nam. Ngoài ra, những kết quả của luận văn có thể
được vận dụng làm tài liệu nghiên cứu về tổ chức thực hiện các chính sách bình
đẳng giới tại Việt Nam nói chung.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cấu làm ba chương.
Chương 1. Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách bình đẳng giới.
Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách bình đẳng giới tại tỉnh Quảng Nam.
Chương 3. Tăng cường thực hiện chính sách bình đẳng giới

6



CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BÌNH ĐẲNG GIỚI
1.1. Chính sách bình đẳng giới hiện hành
Hơn 70 năm đã trôi qua kể từ khi bản Tuyên ngôn Độc lập vang lên giữa
quảng trường Ba Đình lịch sử, song tư tưởng xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về quyền con người vẫn có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc. Tư tưởng đó đã được kế thừa,
phát triển trong nhiều bản Hiến pháp của Việt Nam. Đặc biệt, trong Hiến pháp mới
nhất năm 2013, tư tưởng này đã thể hiện một cách rõ nét và đang đi vào cuộc sống
thông qua các đạo luật. Hiến pháp 2013 đã dành hẳn một chương riêng quy định về
Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Với việc tích cực triển
khai xây dựng và ban hành các văn bản Luật nhằm cụ thể hóa Hiến pháp 2013 về
quyền con người đã cho thấy những nỗ lực của Việt Nam trong việc tôn trọng và
bảo đảm quyền con người. Bởi, tôn trọng quyền con người, đấu tranh vì quyền con
người chính là khát vọng của dân tộc ta, là mục tiêu phấn đấu của Đảng ta trong
suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng. Song song với tiến trình đảm bảo quyền con
người thì vấn đề bình đẳng giới cũng luôn được nhấn mạnh một cách rõ nét. Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định:“Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng
như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”. Quyền bình đẳng giới được xác
lập trong Hiến pháp đầu tiên năm 1946 khi nước nhà giành được chính quyền, tiếp
tục được khẳng định trong các bản Hiến pháp tiếp đó và được thể hiện ở nhiều
chính sách khác nhau. Vị trí, vai trò của phụ nữ được xã hội tôn trọng và pháp luật
bảo vệ trên cơ sở quyền con người, làm cơ sở, điều kiện cho phụ nữ phát triển tài
năng và tham gia hoạt động trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngày càng
nhiều phụ nữ tiêu biểu trên các lĩnh vực và tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý
xã hội. Chính vì vậy, bình đẳng giới của Việt Nam được Liên hợp quốc đánh giá là
điểm sáng trong thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ. Nhận thức về vai trò, vị trí
quan trọng của phụ nữ, ngay khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập, chủ trương


7


bình đẳng giới đã được đề ra, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt qua các thời kỳ phát triển của
đất nước, là cơ sở đảm bảo quyền của phụ nữ trên các lĩnh vực.
1.1.1. Công ước CEDAW, các quy định khác mang tính Quốc tế
Bình đẳng giới không phải là vấn đề riêng của một quốc gia nào, mà nó là vấn
đề chung của toàn nhân loại. Xuất phát từ thực tế, quyền con người đang bị xâm
phạm, con người bị phân biệt đối xử, bóc lột đã diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới mà
phần lớn những bất lợi nghiêng về người phụ nữ. Cho nên vấn đề cốt lõi trong việc
bảo đảm bình đẳng giới cũng chính là bảo đảm các quyền của người phụ nữ, bảo
đảm quyền bình đẳng nam, nữ; đồng thời phải có những chính sách hợp lý cho mỗi
giới phát huy khả năng và hưởng thụ lợi ích. Về điểm này, luật pháp quốc tế đã sớm
cụ thể hóa và ghi nhận bằng các quy phạm pháp luật trong các văn kiện quốc tế về
quyền con người như Hiến chương Liên hợp quốc, Tuyên ngôn nhân quyền thế giới
năm 1948, Công ước về quốc tịch của phụ nữ khi kết hôn năm 1957, các Công ước
Giơ-ne-vơ về bảo hộ nạn nhân chiến tranh năm 1949, Công ước về quyền dân sự chính trị năm 1966, Công ước CEDAW năm 1979…
Công ước CEDAW là chữ viết tắt tiếng Anh (Convenstion on the Elimination
of all forms of Discrimination against women). Công ước về Xoá bỏ mọi hình thức
phân biệt đối xử với phụ nữ, là một văn bản pháp luật quốc tế do Đại Hội đồng Liên
hợp quốc thông qua ngày 18 tháng 12 năm 1979 và có hiệu lực ngày 03/9/1981.
Hiện nay đã có trên 186 quốc gia cam kết thực hiện CEDAW. Việt Nam là một
trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới ký tham gia Công ước vào ngày
29/7/1980, phê chuẩn Công ước vào ngày 17/2/1982.
CEDAW bao gồm 6 phần, 30 điều xác định những nội dung cơ bản về khái
niệm phân biệt đối xử, về các cam kết quốc gia về xoá bỏ phân biệt đối xử với phụ
nữ trong chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và dân sự dưới mọi hình thức mà tất cả
các nước tham gia phê chuẩn có nghĩa vụ thực hiện nhằm bảo đảm cho phụ nữ được
thực hiện các quyền bình đẳng như nam giới. CEDAW tạo ra cơ sở pháp lý để các

nước cam kết thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm xoá bỏ sự phân biệt đối với phụ nữ
dưới tất cả các hình thức. CEDAW là công cụ quan trọng góp phần cải thiện địa vị

8


pháp lý của phụ nữ ở các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội ở 186 quốc
gia đã phê chuẩn. CEDAW là công cụ pháp lý duy nhất về quyền của phụ nữ, trở
thành một bộ phận quan trọng trong hệ thống Điều ước quốc tế về quyền con người
của Liên hợp quốc.
Quyền bình đẳng của nam và nữ trong việc hưởng thụ tất cả các quyền con
người; là một trong những nguyên tắc cơ bản được luật pháp quốc tế thừa nhận và
được nêu ở các văn kiện quốc tế chủ yếu về nhân quyền. Công ước quốc tế về các
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa; bảo vệ những quyền có ý nghĩa căn bản đối với
nhân phẩm của mỗi người. Cụ thể là Điều 3 của Công ước đã nêu ra quyền bình
đẳng giữa nam và nữ trong việc hưởng thụ các quyền mà Công ước quy định. Điều
khoản này được xây dựng dựa trên Điều 1, khoản 3, Hiến chương Liên hợp quốc và
Điều 2 của Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người. Ngoài ra quy định này
cũng rất giống với quy định ở Điều 3 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị.
Theo Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn
hóa thì những quyền giống nhau phải được thừa nhận rộng rãi cho cả nam và nữ
trên cơ sở bình đẳng và cần phải có các biện pháp hợp lý để bảo đảm rằng phụ nữ
có cơ hội để thực hiện quyền của họ. Việc thụ hưởng các quyền con người một cách
bình đẳng giữa nam và nữ cần phải được hiểu toàn diện. Sự bảo đảm không phân
biệt đối xử và bình đẳng trong các điều ước quốc tế về nhân quyền khẳng định sự
bình đẳng cả trong pháp luật và trên thực tế. Sự bình đẳng trong pháp luật và sự
bình đẳng trên thực tế là những khái niệm khác nhau nhưng liên quan với nhau.
Sự bình đẳng hình thức có nghĩa là luật pháp và chính sách đối xử với nam và nữ
phải công bằng như nhau. Sự bình đẳng thực chất cũng có nghĩa đó nhưng bổ

sung thêm là với tác động của luật, chính sách và tập quán thì bảo đảm các quy
định này không duy trì, mà phải giảm thiểu những thiệt thòi vốn có đối với một
số nhóm dân cư nào đó.
CEDAW là một trong chín công ước quốc tế quan trọng nhất hiện nay về
quyền con người của Liên Hiệp Quốc. Mặc dù vậy, CEDAW không xác lập các

9


quyền con người mới cho phụ nữ mà công ước đề ra cách thức, biện pháp nhằm loại
trừ sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ trong việc thụ hưởng các quyền con người
mà họ được thừa nhận trong những điều ước quốc tế trước đó. Như vậy, bình đẳng
nam nữ không có nghĩa là đối xử với phụ nữ giống như đối xử với nam giới trong
mọi trường hợp, bởi điều này chỉ làm tăng thêm sự phụ thuộc của phụ nữ với nam
giới. Đây là bình đẳng thực chất mang tính điều chỉnh, phụ nữ và nam giới được
công nhận vị thế như nhau trong xã hội, có cùng điều kiện và cơ hội như nhau để
phát huy khả năng, tham gia đóng góp và hưởng thụ thành quả phát triển của quốc
gia trên mọi lĩnh vực. Để nhóm chủ thể là phụ nữ có được cơ hội, khả năng thụ
hưởng như nam giới thì phải nâng cao năng lực cho nhóm chủ thể này như một
nhóm đối tượng yếu thế. Bình đẳng nam nữ trong việc hưởng thụ tất cả quyền con
người là một nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong tất cả các văn kiện quốc tế về
lĩnh vực này. Bản chất của quy định về quyền bình đẳng của phụ nữ trong luật quốc
tế về quyền con người là nhằm để bảo đảm không có sự phân biệt đối xử vì lý do
giới tính trong việc thụ hưởng tất cả quyền con người. Như vậy các quốc gia khi nội
luật hóa các công ước quốc tế mình tham gia cần phải biết rõ nghĩa vụ của quốc gia
thành viên bao gồm: tôn trọng, bảo vệ và thực hiện quyền con người của phụ nữ.
- Chương trình hành động về phòng chống buôn bán người và bóc lột mại
dâm người khác được Liên hiệp quốc (LHQ) thông qua, nhấn mạnh việc bảo vệ
những phụ nữ là nạn nhân của tình trạng buôn bán người và bóc lột tình dục năm
1996.

- Hội nghị Thế giới lần thứ IV về phụ nữ thông qua Tuyên bố Bắc Kinh và
chương trình hành động năm 1995.
- Giới và quyền bình đẳng của phụ nữ được thảo luận trong Hội nghị Liên
hiệp quốc về môi trường và phát triển ở Riode Zanero năm 1992.
- LHQ thông qua Công ước về kết hôn tự nguyện, tuổi tối thiểu khi kết hôn và
việc đăng ký kết hôn năm 1962.
- Hiến chương LHQ khẳng định vị thế bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ năm
1945.

10


- Các Công ước của Tổ chức Lao động Quốc tế về bình đẳng giới: Các Công ước
của Tổ chức Lao động Quốc tế tập trung chủ yếu vào lĩnh vực lao động, bao gồm:
Công ước số 100 về trả công như nhau cho lao động làm công việc có giá trị
ngang nhau. Công ước này thúc đẩy sự trả công công bằng cho lao động nam và lao
động nữ khi họ làm không chỉ những công việc giống nhau mà cả những công việc
có giá trị như nhau.
Công ước số 183 về Bảo vệ thai sản, khuyến khích các quốc gia thành viên
tăng cường hơn nữa vấn đề bảo vệ thai sản trong hệ thống pháp luật và thông lệ của
quốc gia mình với các quy định cụ thể như bảo vệ sức khỏe, chế độ nghỉ thai sản,
nghỉ ốm, bảo trợ việc làm và không phân biệt đối xử với lao động nữ trong thời gian
mang thai và cho con bú.
1.1.2. Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Hiến pháp năm 1946: Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa khẳng định, quyền bình đẳng giữa nam và nữ được công nhận.“Đàn bà ngang
quyền đàn ông về mọi phương diện”[22]. Có thể nói, quy định này có ý nghĩa rất
lớn trong bối cảnh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vừa mới được thành lập, góp
phần phá tan xiềng xích tư tưởng “trọng nam khinh nữ” của chế độ phong kiến, chế
độ thuộc địa nửa phong kiến.

Hiến pháp năm 1959: Điều 24 quy định “Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội và gia đình”[23].
Như vậy so với Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 đã cụ thể hóa hơn
các lĩnh vực mà người phụ nữ được quyền bình đẳng với nam giới. Quyền bình
đẳng nam nữ được thể hiện trên 5 lĩnh vực từ xã hội đến gia đình bao hàm tất cả các
mặt của đời sống xã hội.
Hiến pháp năm 1980: Hiến pháp này cũng quy định đảm bảo sự bình đẳng
giữa nam và nữ trong lĩnh vực lao động, hôn nhân và gia đình
Hiến pháp sửa đổi năm 2013: Một số quyền mới được bổ sung thể hiện bước
tiến mới trong việc mở rộng và phát triển quyền, phản ánh kết quả của quá trình đổi

11


mới gần 30 năm qua ở nước ta. Đó là các quyền“Quyền được sống trong môi
trường trong lành”, “Quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia
vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa”. Ngoài quy định “Mọi người đều
bình đẳng trước pháp luật”, Hiến pháp 2013 còn bổ sung thêm quy định “Không ai
bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”[25].
Như vậy, theo Hiến pháp sửa đổi năm 2013, trong hệ thống quyền con người, về cơ
bản, quyền bình đẳng giới được hiểu là phụ nữ cũng được hưởng các cơ hội bình
đẳng như nam giới nhưng để có sự bình đẳng thực chất, phụ nữ phải được bảo đảm
thực hiện các quyền đó. Nói cách khác, họ phải được nâng cao năng lực tham gia trực
tiếp và gián tiếp vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội; tham gia vào đời sống dân sự,
chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của đất nước. Do đó, quyền bình đẳng giới là nền
tảng, có tính quyết định việc thực hiện những quyền đó.
1.1.3. Luật Bình đẳng giới
Theo điều 7 quy định“Bảo đảm bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình; hỗ trợ và tạo điều kiện cho nam, nữ phát huy

khả năng, có cơ hội như nhau để tham gia vào quá trình phát triển và thụ hưởng
thành quả của sự phát triển”[31].
Điều 11. BĐG trong lĩnh vực chính trị: “Nam, nữ bình đẳng trong tham gia
quản lý nhà nước, tham gia hoạt động xã hội. Nam,nữ bình đẳng trong tham gia
xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của cộng đồng hoặc quy định, quy chế
của cơ quan, tổ chức. Nam,nữ bình đẳng trong việc tự ứng cử và được giới thiệu
ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân;tự ứng cử và được giới thiệu
ứng cử vào cơ quan lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp,
bình đẳng về tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm vào cùng vị
trí quản lý, lãnh đạo của cơ quan, tổ chức”[31].
Điều 12. BĐG trong lĩnh vực kinh tế: “Nam, nữ bình đẳng trong việc thành
lập doanh nghiệp, tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý doanh nghiệp,

12


bình đẳng trong việc tiếp cận thông tin, nguồn vốn, thị trường và nguồn lao
động”[31].
Điều 13. BĐG trong lĩnh vực lao động: “Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ
tuổi khi tuyển dụng, được đối xử bình đẳng tại nơi làm việc về việc làm, tiền công,
tiền thưởng, bảo hiểm xã hội, điều kiện lao động và các điều kiện làm việc khác.
Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm giữ các chức
danh trong các ngành, nghề có tiêu chuẩn chức danh”[31].
Điều 14. BĐG trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo: “Nam, nữ bình đẳng về độ
tuổi đi học, đào tạo, bồi dưỡng, bình đẳng trong việc lựa chọn ngành, nghề học tập,
đào tạo. Nam, nữ bình đẳng trong việc tiếp cận và hưởng thụ các chính sách về
giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ. Nữ cán bộ, công chức, viên
chức khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng mang theo con dưới ba mươi sáu tháng tuổi
được hỗ trợ theo quy định của Chính phủ” [31].

Điều 15. BĐG trong lĩnh vực khoa học và công nghệ: “Nam, nữ bình đẳng
trong việc tiếp cận, ứng dụng khoa học và công nghệ, bình đẳng trong việc tiếp cận
các khoá đào tạo về khoa học và công nghệ, phổ biến kết quả nghiên cứu khoa học,
công nghệ và phát minh, sáng chế” [31].
Điều 16. BĐG trong lĩnh vực văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao: “Nam, nữ bình
đẳng trong tham gia các hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao, bình đẳng
trong hưởng thụ văn hoá, tiếp cận và sử dụng các nguồn thông tin” [31].
Điều 17. BĐG trong lĩnh vực y tế: “Nam, nữ bình đẳng trong tham gia các
hoạt động giáo dục, truyền thông về chăm sóc sức khỏe, sức khoẻ sinh sản và sử
dụng các dịch vụ y tế” [31].
1.1.4. Các văn bản, chiến lược, chính sách khác của Việt Nam liên quan
đến bình đẳng giới
- Nghị định số 48/2009/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2009 của chính phủ về
các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới với 6 Chương, 23 Điều.
- Nghị định số 55/2009/NĐ-CP ngày 10 tháng 6 năm 2009 của chính phủ quy
định xử phạt vi phạm hành chính về bình đẳng giới với 5 Chương, 29 Điều.

13


- Chương trình hành động của Chính phủ giai đoạn đến năm 2020 thực hiện
NQ số 11-NQ/TW ngày 27 tháng 4 năm 2007 của Bộ chính trị về công tác phụ nữ
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mục tiêu của Nghị quyết
là “Phấn đấu đến năm 2020, phụ nữ được nâng cao trình độ về mọi mặt, có trình độ
học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế; có việc làm, được cải thiện rõ rệt về đời sống vật chất, văn
hóa, tinh thần; tham gia ngày càng nhiều hơn công việc xã hội, bình đẳng trên
mọi lĩnh vực; đóng góp ngày càng lớn hơn cho xã hội và gia đình”[11, Tr.6].
Phấn đấu để nước ta là một trong các quốc gia có thành tựu bình đẳng giới tiến bộ
nhất của khu vực.

- Chiến lược quốc gia về BĐG giai đoạn 2011-2020 với mục tiêu tổng quát
“Đến năm 2020, về cơ bản, bảo đảm bình đẳng thực chất giữa nam và nữ về
cơ hội, sự tham gia và thụ hưởng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã
hội, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước”[12, Tr.8]. Mục
tiêu cụ thể là: Tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo,
nhằm từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị; Giảm khoảng
cách giới trong lĩnh vực kinh tế, lao động, việc làm; Tăng cường sự tiếp cận của phụ
nữ nghèo ở nông thôn, phụ nữ người dân tộc thiểu số đối với các nguồn lực kinh tế,
thị trường lao động; Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, từng bước bảo đảm sự
tham gia bình đẳng giữa nam và nữ trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo; Bảo đảm
BĐG trong tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe; Bảo đảm BĐG
trong lĩnh vực văn hóa và thông tin; Bảo đảm BĐG trong đời sống gia đình, từng
bước xóa bỏ bạo lực trên cơ sở giới; Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về BĐG.
- Chương trình quốc gia về BĐG giai đoạn 2011 - 2015 với mục tiêu
Tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức nhằm thúc đẩy toàn xã hội thay
đổi hành vi thực hiện BĐG; từng bước thu hẹp khoảng cách giới và nâng vị thế của
phụ nữ trong một số lĩnh vực còn bất bình đẳng hoặc nguy cơ bất BĐG cao, góp
phần thực hiện thành công các mục tiêu của Chiến lược quốc gia về BĐG giai đoạn
2011 - 2020.

14


1.2. Khái niệm, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách
bình đẳng giới
1.2.1. Khái niệm Giới, bình đẳng giới:
Khái niệm Giới: Giới là những quan niệm, những mong đợi của xã hội về đặc
điểm, vai trò, vị trí của nam hoặc nữ. Những quan niệm này do dạy và học mà có,
không thống nhất theo không gian và thời gian, có thể thay đổi.
Khái niệm bình đẳng giới: Theo Điều 3 Luật bình đẳng giới khẳng

định:“BĐG là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ
hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và
thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó”. Thực chất BĐG chính là
nữ giới và nam giới cùng có điều kiện bình đẳng để phát huy hết khả năng và thực
hiện các mong muốn của mình; có cơ hội bình đẳng để tham gia, đóng góp và thụ
hưởng từ các nguồn lực của xã hội và quá trình phát triển; được hưởng tự do và chất
lượng cuộc sống bình đẳng; được hưởng thành quả bình đẳng trong mọi lĩnh vực của
xã hội. BĐG không chỉ đơn giản là nam giới và phụ nữ hay trẻ em trai và trẻ em gái
có số lượng tham gia như nhau trong mọi hoạt động mà BĐG có nghĩa là nam giới
và nữ giới được hưởng các vị thế xã hội ngang nhau. BĐG không có nghĩa nam giới
và nữ giới là giống nhau mà có nghĩa là sự tương đồng và sự khác biệt của họ được
thừa nhận, được coi trọng như nhau; có nghĩa là nam giới và nữ giới được tạo những
điều kiện ngang nhau để phát huy đầy đủ các tiềm năng của bản thân và có cơ hội để
tham gia đóng góp và hưởng lợi như nhau từ các hoạt động phát triển của cộng đồng
trên mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội; điều quan trọng, BĐG có nghĩa là
nam giới và nữ giới được thụ hưởng các thành quả một cách bình đẳng.
1.2.2. Khái niệm chính sách bình đẳng giới, thực hiện chính sách bình đẳng
giới
Khái niệm về chính sách bình đẳng giới: Chính sách bình đẳng giới là tập hợp
các quyết định có liên quan của Nhà nước gồm các mục tiêu, giải pháp, công cụ
nhằm làm giảm sự chênh lệch giữa nam và nữ về vị trí, vai trò, cơ hội, điều kiện
phát huy năng lực và thụ hưởng thành quả của sự phát triển.

15


Khái niệm thực hiện chính sách BĐG: Tổ chức thực thi chính sách BĐG là
toàn bộ quá trình chuyển hoá cách ứng xử của chủ thể thành hiện thực với các đối
tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu định hướng và phát triển về BĐG.
Tổ chức thực thi chính sách BĐG là bước hiện thực hoá chính sách BĐG vào

đời sống xã hội, tác động đến mọi tầng lớp nhân dân với mục tiêu thay đổi nhận
thức, các hành vi ứng xử với phụ nữ theo chiều hướng tích cực.
Tổ chức thực thi chính sách BĐG là một quá trình hành động gồm nhiều bước
khác nhau với nhiều phương pháp và nội dung khác nhau nhằm làm giảm sự chênh
lệch giữa nam và nữ về vị trí, vai trò, điều kiện, cơ hội phát huy năng lực và thụ
hưởng thành quả của sự phát triển và nâng cao vị thế của phụ nữ trong những lĩnh
vực còn bất bình đẳng hoặc nguy cơ bất bình đẳng cao.
1.2.3. Ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực thi chính sách bình đẳng giới
Thực hiện chính sách BĐG là một khâu hợp thành chu trình chính sách về
bình đẳng giới. Đây là một quá trình có thể nói là trung tâm kết nối các bước trong
chu trình chính sách. Thực hiện là giai đoạn có vị trí đặc biệt quan trọng, vì đây là
bước hiện thực hoá các chính sách BĐG trong đời sống xã hội. Chính sách BĐG sẽ
trở thành vô nghĩa nếu nó không được đưa vào tổ chức thực hiện. Mục tiêu của
chính sách sẽ không thực hiện được nếu chính sách không được thực thi.
Thực thi chính sách BĐG là giai đoạn biến ý đồ chính sách thành hiện thực.
Tổ chức thực thi chính sách BĐG để từng bước thực hiện các mục tiêu chính sách
về BĐG và mục tiêu chung. Từng bước thực hiện mục tiêu của chính sách BĐG
trong mục tiêu chung của quốc gia. Mục tiêu chính sách BĐG có liên quan đến
nhiều hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội theo những cấp độ khác nhau, nên không
thể cùng một lúc giải quyết tất cả các vấn đề có liên quan và cũng không thể đốt
cháy giai đoạn của mỗi quá trình. Thực thi chính sách BĐG để giải quyết các vấn đề
trong mối quan hệ biện chứng với mục tiêu cơ bản nhất để thúc đẩy quá trình vận
động của cả hệ thống đến mục tiêu chung.
Thực thi chính sách là để khẳng định tính đúng đắn của chính sách về BĐG.
Một khi chính sách được triển khai thực hiện rộng rãi trong đời sống xã hội, thì tính

16


đúng đắn của chính sách được khẳng định ở mức cao hơn, được cả xã hội thừa

nhận, nhất là các đối tượng thụ hưởng chính sách. Lý luận, lý thuyết, ý tưởng của
chính sách BĐG dù hay đến mấy, tốt đến mấy, nhân đạo đến mấy đều trở thành
không tưởng nếu nó không được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn. Thực tiễn
chính là tiêu chuẩn để kiểm tra những tri thức, lý luận đó có đúng đắn hay không,
nếu nó đúng đắn mới trở thành chân lý.
Qua thực thi giúp cho chính sách BĐG ngày càng hoàn chỉnh. Góp phần thúc
đẩy quá trình BĐG có kết quả hơn, được nhanh hơn và bền vững hơn. Vấn đề chính
sách tự nó đã phản ánh nhu cầu cơ bản của xã hội đòi hỏi để được giải quyết những
mâu thuẫn phát sinh. Nếu nhu cầu đó là chính đáng, bức xúc cần được thỏa mãn để
xã hội ổn định, phát triển thì vấn đề chính sách đó bước đầu được coi là đúng đắn và
ngược lại.
Chính sách BĐG được hoạch định bởi nhiều chủ thể một tập thể trong những
điều kiện nhất định. Đặc biệt chính sách BĐG khi triển khai bị tác động rất lớn bởi
yếu tố môi trường, do đó khi thực hiện nó có thể sai lệch với mục tiêu đã đặt ra.
Đồng thời khi hoạch định chính sách BĐG còn bị tác động bởi rất nhiều yếu tố như
lợi ích của các chủ thể hoạch định, ý chí chủ quan của chủ thể đứng đầu, cơ chế của
hệ thống cơ quan hoạch định, thể chế chính trị của quốc gia, tác động của các nhóm
lợi ích… những yếu tố này không phải chỉ ảnh hưởng đến quá trình hoạch định
chính sách BĐG, mà còn tác động qua nhiều quá trình như: phân tích, dự báo, lựa
chọn để có được mục tiêu, biện pháp chính sách BĐG. Đồng thời, các quá trình
kinh tế, xã hội lại thường xuyên vận động, phát triển, trong khi chính sách được
hoạch định lại dựa chủ yếu vào thực trạng của môi trường sống và có khoảng cách
khá lớn về thời gian kể từ khi hoạch định đến lúc tổ chức thực thi. Do bị ảnh hưởng
bởi yếu tố, điều kiện trên nên giữa chính sách BĐG và thực tế xã hội trong giai đoạn
tổ chức thực thi chắc chắn có khoảng cách cần được lấp đầy bằng những điều chỉnh
về chính sách BĐG hay các biện pháp tổ chức thực thi chính sách về BĐG.
Mục tiêu của việc thực hiện chính sách bình đẳng giới:
Đã có chính sách bình đẳng giới đúng nếu không được thực hiện sẽ trở thành

17



khẩu hiệu suông, không những không có ý nghĩa, mà còn ảnh hưởng đến uy tín của
chủ thể hoạch định và ban hành chính sách (uy tín của nhà nước). Chính sách bình
đẳng giới được thực hiện đúng sẽ tăng độ tin tưởng của nhân dân đối với nhà nước.
Qua thực hiện mới biết được chính sách bình đẳng giới có đúng, phù hợp và đi vào
cuộc sống hay không. Thực hiện chính sách bình đẳng giới sẽ góp phần điều chỉnh,
bổ sung và hoàn thiện chính sách bình đẳng giới cho phù hợp với thực tiễn, đáp ứng
yêu cầu của cuộc sống. Đồng thời, việc thực hiện chính sách bình đẳng giới làm cơ
sở để phân tích, đánh giá một chính sách binhf đẳng giới (mức độ tốt, xấu). Kết quả
thực hiện chính sách bình đẳng giới là thước đo, là cơ sở đánh giá một cách chính
xác, khách quan và khoa học về chất lượng và hiệu quả của chính sách bình đẳng
giới.
1.3. Nội dung các bước thực hiện chính sách bình đẳng giới
Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách bình đẳng giới:
Các cơ quan từ TW đến địa phương đều phải xây dựng kế hoạch thực hiện
chính sách BĐG bao gồm những nội dung cơ bản sau:
Kế hoạch về tổ chức, điều hành
Kế hoạch cung cấp các nguồn vật lực
Kế hoạch thời gian triển khai thực hiện
Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực thi chính sách
Dự kiến những nội qui, qui chế về tổ chức điều hành, về trách nhiệm, quyền
hạn, nhiệm vụ của các cá nhân, tổ chức tham gia, điều hành chính sáchBĐG; về các
biện pháp khen thưởng, kỷ luật
Kế hoạch và điều chỉnh kế hoạch thực thi chính sách BĐG do lãnh đạo có
thẩm quyền các cấp xem xét thông qua.
Phổ biến, tuyên truyền chính sách bình đẳng giới:
Trước hết cần tổ chức phổ biến cho mỗi cán bộ, công chức có trách nhiệm tổ
chức thực thi, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, để họ nắm vững về mục đích, yêu cầu
chính sách BĐG, phục vụ tốt trong quá trình thực thi chính sách BĐG và thực hiện

lồng ghép Giới vào các chương trình phát triển kinh tế xã hội ở mỗi cấp, mỗi ngành,

18


mỗi địa phương. Giúp cho CBCC có trách nhiệm tổ chức thực thi nhận thức đầy đủ
tính chất quy mô, tầm quan trọng của chính sách để họ tích cực tìm kiếm các giải
pháp thực hiện.
Tổ chức phổ biến, tuyên truyền về chính sách BĐG cho các đối tượng chính
sách và mọi người dân hiểu rõ về tính đúng đắn của chính sách để họ tự giác thực
hiện, tham gia thực thi nhằm tạo sự đồng thuận cao trong mọi tầng lớp xã hội, đồng
thời họ cũng có thể tham gia vào quá trình giám sát xem chính sách về BĐG có
được tổ chức thực hiện đảm bảo không.
Việc tổ chức phổ biến, tuyên truyền chính sách BĐG phải được thực hiện
thường xuyên, liên tục và bằng nhiều hình thức khác nhau như trực tiếp tiếp xúc,
trao đổi với các đối tượng tiếp nhận; gián tiếp qua các phương tiện thông tin đại
chúng...
Phân công, phối hợp thực thi chính sách bình đẳng giới trên phạm vi rộng
lớn:
Số lượng cá nhân và tổ chức tham gia thực thi chính sách BĐG là rất
lớn.Trong thực tế thông thường hay phân công cơ quan chủ trì và các cơ quan phối
hợp thực hiện một chính sách cụ thể nào đó.
Chính sách bình đẳng giới tác động đến lợi ích của một bộ phận lớn dân cư,
kết quả tác động lại liên quan đến nhiều yếu tố, quá trình thuộc các bộ phận khác
nhau, nên cần phải phối hợp chúng lại để đạt yêu cầu quản lý.
Phân công từng vai trò cụ thể cho các đơn vị, các cấp, các ngành để tự họ chủ
động tổ chức thực hiện chính sách BĐG và có cơ chế phối hợp liên ngành một cách
cụ thể, chặc chẽ để tránh tình trạng bỏ sót không ai chịu trách nhiệm hay sự chồng
chéo một việc lại do quá nhiều đơn vị quản lý.
Duy trì chính sách bình đẳng giới:

Là làm cho chính sách BĐG sống được trong môi trường thực tế và phát huy
tác dụng. Phải thường xuyên quan tâm tuyên truyền, vận động các đối tượng chính
sách và toàn xã hội tích cực tham gia thực thi và giám sát chính sách về BĐG.

19


Nếu gặp phải khó khăn do môi trường biến động các cơ quan Nhà nước cần sử
dụng các công cụ quản lý tác động tạo môi trường thuận lợi cho việc thực thi chính
sách BĐG. Chủ động điều chỉnh chính sách BĐG cho phù hợp với hoàn cảnh mới
và tình hình thực tế của mỗi địa phương, mỗi ngành.
Các cơ quan Nhà nước có thể kết hợp sử dụng các biện pháp hành chính để
duy trì chính sách BĐG.
Tăng cường thực hiện dân chủ để tất cả mọi người dân mạnh dạn tham gia
quản lý xã hội, trong đó tự giác chấp hành chính sách BĐG và tham gia tìm kiếm,
đề xuất các biện pháp, giải pháp thực hiện mục tiêu của chính sách BĐG.
Điều chỉnh chính sách bình đẳng giới:
Đây là một hoạt động cần thiết diễn ra thường xuyên trong tiến trình tổ chức
thực thi chính sách bình đẳng giới nhằm giúp chính sách ngày càng phù hợp với yêu
cầu quản lý và tình hình thực tế.
Các cơ quan nhà nước các ngành, các cấp chủ động điều chỉnh biện pháp, cơ
chế chính sách để thực hiện có hiệu quả chính sách BĐG, miễn là không làm thay
đổi mục tiêu chung của chính sách BĐG. Cơ quan nào ban hành chính sách cơ quan
đó có thẩm quyền điều chỉnh, bổ sung chính sách.
Cơ quan ban hành (Chính phủ hay Quốc hội) hoàn thiện mục tiêu và điều
chỉnh chính sách BĐG dựa trên nguyên tắc: chỉ được điều chỉnh các biện pháp, cơ
chế thực hiện mục tiêu, hoặc bổ sung, hoàn chỉnh mục tiêu theo yêu cầu thực tế.
Nếu điều chỉnh làm thay đổi mục tiêu, nghĩa là làm thay đổi chính sách về BĐG, thì
coi như chính sách đó không tồn tại.
Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách bình đẳng giới:

Căn cứ để kiểm tra chính sách BĐG là kế hoạch triển khai thực hiện chính
sách. Phát hiện, đánh giá khách quan về những điểm mạnh, điểm yếu của công tác
tổ chức thực thi chính sách BĐG. Từ đó giúp phát hiện những thiếu sót trong công
tác lập kế hoạch tổ chức thực thi để điều chỉnh. Tạo điều kiện phối hợp nhịp nhàng
các hoạt động độc lập của các cơ quan, đối tượng thực thi chính sách về BĐG.

20


×