MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bình đẳng giới là một mục tiêu quan trọng cần hướng đến không chỉ của Việt
Nam mà của các nước trên thế giới, là một trong những tiêu chí đánh giá sự phát triển
của một xã hội. Trên bình diện quốc tế, bình đẳng giới đã trở thành một trong tám mục
tiêu phát triển thiên nhiên kỷ của toàn cầu và là một đòi hỏi tất yếu trong quá trình
toàn cầu hoá và hội nhập của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, trong các văn kiện thành lập
Đảng tháng 2/1930, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu một chủ trương lớn về phương diện
xã hội “thực hiện nam nữ bình quyền”. Điều đó chứng tỏ, ngay từ khi thành lập Đảng,
vấn đề bình đẳng giới và giải phóng phụ nữ đã được Bác Hồ và Đảng ta hết sức coi
trọng trong xây dựng đường lối cách mạng. Hiện nay vị trí, vai trò của phụ nữ ngày
càng được nâng cao và phụ nữ đã từng bước đóng góp nhiều hơn vào sự phát triển
chung của xã hội.
Sự phát triển, tiến bộ của xã hội nói chung và của đất nước nói riêng gắn liền
với quá trình đấu tranh kiên trì của xã hội cho sự bình đẳng giới. Bất bình đẳng giới là
tác nhân gây ra tác động tiêu cực tới quốc gia, tới mọi thành viên trong xã hội. Một xã
hội, một quốc gia có mức độ bình đẳng giới càng cao thì thành quả tăng trưởng kinh tế
càng lớn phục vụ tốt cho công tác xoá đói giảm nghèo, xoá dần bất bình đẳng trong xã
hội.
Nhiều năm qua, vấn đề bình đẳng giới và đảm bảo quyền của phụ nữ là
chủ trương lớn của Đảng và là một trong những chính sách xã hội cơ bản của
quốc gia trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước và hội nhập kinh tế quốc
tế. Các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về bình đẳng giới đã được cụ
thể hoá trong Luật bình đẳng giới, Luật hôn nhân gia đình, Luật bảo vệ bà mẹ và trẻ
em, Luật phòng chống bạo lực gia đình và một số luật khác. Bên cạnh đó, ngày
24/12/2010 Thủ tướng Chính phủ cũng đã ký Quyết định phê số 2351/QĐ-TTg phê
duyệt Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020 với mục tiêu tổng
quát là “Đến năm 2020, về cơ bản, bảo đảm bình đẳng thực chất giữa nam và nữ về
cơ hội, sự tham gia và thụ hưởng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội
góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước”. Ở Việt Nam, qua
nhiều năm thực hiện chính sách về bình đẳng giới, địa vị phụ nữ và vấn đề bình
đẳng giới đã được cải thiện và đạt
1
được nhiều kết quả đáng kể trong nhiều lĩnh vực. Phụ nữ tham gia nhiều hơn vào lực
lượng lao động sản xuất, đội ngũ trí thức nữ đang phát triển mạnh mẽ về số lượng
và chất lượng, số lượng nữ tham gia quản lý Nhà nước tăng: lần đầu tiên Việt Nam
có 3 nữ tham gia Bộ chính trị, có Chủ tịch Quốc hội là nữ, có 26,8% nữ là đại biểu
quốc hội khoá XIV. Trong thực tế, phụ nữ Việt Nam có mặt ở hầu hết các cơ quan
quản lý hành chính, sự nghiệp và doanh nghiệp.
Trong những năm qua, phụ nữ Quân đội đã tích cực khẳng định vai trò của
mình trên hầu hết các lĩnh vực công tác, góp phần tích cực tạo nên sức mạnh tổng hợp
của Quân đội nhân dân Việt Nam. Nhiều nữ quân nhân được tham gia hầu hết các lĩnh
vực hoạt động ở cơ quan, đơn vị, đảm bảo được các quyền bình đẳng về lao động, việc
làm, giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, chính trị, văn hoá – xã hội… Tuy vậy, vấn đề bình
đẳng giới thực sự giữa nam và nữ trong xã hội ta nói chung và trong Quân đội nói
riêng vẫn còn nhiều bất cập, khó khăn và nhiều vấn đề quan tâm giải quyết. Cụ thể là:
định kiến về giới, phân biệt đối xử vẫn còn tồn tại, lao động nữ vẫn còn nhiều thiệt
thòi trong việc tiếp cận các dịch vụ cơ bản, về cơ hội được đào tạo thăng tiến, việc bồi
dưỡng, phát triển cán bộ nữ có nơi còn hạn chế, công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ nữ
chưa gắn với quy hoạch đội ngũ cán bộ chung. Các chế độ chính sách, mục tiêu quốc
gia của Nhà nước đã ban hành vì sự tiến bộ của phụ nữ có lúc, có nơi chưa triển khai
đồng bộ hoặc chưa thật sự coi trọng. Số phụ nữ tham gia cấp uỷ Đảng, lãnh đạo quản
lý chưa nhiều. Trình độ học vấn, chuyên môn, tay nghề nhiều chị em còn thấp…
Nguyên nhân của thực trạng này là do sự tồn tại khá lâu đời của tư tưởng trọng nam
khinh nữ. Thực tế, môi trường Quân đội từ lâu cũng gần như mặc định chỉ dành cho
nam giới nên nhiều cán bộ lãnh đạo các cấp còn xem nhẹ vấn đề bình đẳng giới và vì
sự tiến bộ của phụ nữ. Cùng với đó, nhiều chị em còn có tư tưởng an phận, e ngại
trong phấn đấu… Do vậy, cần làm sao để việc tổ chức thực hiện chính sách bình đẳng
giới đạt được hiệu quả thực chất, phù hợp với đặc điểm tình hình của Bộ Quốc phòng
là vấn đề cần nghiên cứu kỹ. Trên thực tiễn đó, việc nghiên cứu đề tài “Thực hiện
chính sách bình đẳng giới từ thực tiễn khối cơ quan chức năng Bộ Quốc phòng” là rất
cần thiết.
2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Một trong những nội dung quan trọng nhất của mục tiêu tiến bộ, công bằng xã
hội là bình đẳng giới. Đây không chỉ là vấn đề nhận được sự quan tâm chung của cộng
đồng thế giới mà còn xuất phát từ đặc điểm Việt Nam là một nước Châu Á với tư
tưởng “trọng nam khinh nữ” của chế độ phong kiến vẫn còn ảnh hưởng nhiều trong
cuộc sống xã hội. Hiện nay, việc nghiên cứu bình đẳng giới vẫn luôn là đề tài được
nhiều nhà khoa học quan tâm, đi sâu nghiên cứu nhằm khẳng định địa vị của người
phụ nữ và tạo cơ hội cho phụ nữ đóng góp nhiều hơn cho công cuộc xây dựng, bảo vệ
Tổ quốc và đổi mới đất nước. Nhiều công trình là cơ sở để hoàn thiện chính sách pháp
luật về bình đẳng giới và vì sự tiến bộ phụ nữ. Một số công trình, đề tài nghiên cứu
tiêu biểu: Lương Phan Cừ với “Bình đẳng giới – hiện trạng chính sách và pháp luật về
bình đẳng giới” (2004): Đề tài nghiên cứu một số vấn đề lý luận về giới và tổng quan
về chính sách pháp luật về bình đẳng giới, khái quát thực trạng bình đẳng giới ở Việt
Nam nhìn từ góc độ thực thi. Trong nội dung đề tài đã phân tích và làm rõ một số thuật
ngữ cơ bản liên quan đến giới, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về bình
đẳng giới, chính sách pháp luật bình đẳng giới ở một số nước trên thế giới, thực trạng
thi hành bình đẳng giới ở một số lĩnh vực.
Lê Ngọc Hùng – Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “Xã hội học về giới và phát triển”,
(NXB Đại học Quốc gia Hà Nội - 2003): các tác giả đã có những phân tích khoa học
về tình hình phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước dưới
lăng kính xã hội học về giới.
Đăng Trường với “Giới, bình đẳng giới và phát triển bền vững” (NXB Dân
Trí, 2004): Cuốn sách trình bày các vấn đề liên quan đến quá trình đạt tới bình đẳng
giới, mối quan hệ hữu cơ, tất yếu, khác quan giữa bình đẳng giới, nhằm giúp người
đọc hiểu rõ hơn vai trò và tầm quan trọng của vấn đề này trong sự phát triển của mỗi
quốc gia và toàn nhân loại.
TS. Trần Thị Minh Thi - Viện Nghiên cứu gia đình và giới: “Rào cản thể chế
và văn hoá đối với sự tham gia chính trị của phụ nữ ở Việt Nam”, Tạp chí nghiên cứu
gia đình và giới, số t1/2016: bài viết đưa ra những phân tích và lập luận nhằm làm rõ
thực trạng phụ nữ Việt Nam tham gia các hoạt động chính trị và những rào cản đến sự
3
tham gia và đại diện của họ. Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ phụ nữ trong hệ thống chính trị
đã tăng lên trong những năm gần đây nhưng tỷ lệ nữ trong các vị trí quản lý cao
nhất vẫn duy trì ở mức thấp. Số lượng nữ tham gia còn quá ít cho nên tiếng nói
của họ không đủ mạnh. Thêm vào đó, đại đa số không ở vị trí chủ chốt hay các
mảng công việc ít mang tầm chiến lược cho nên phụ nữ tham chính có tiếng nói, song
không thực sự mang tính quyết định.
Cuốn sách “Bình đẳng giới trong chính trị ở Việt Nam hiện nay; Những chiều
cạnh thể chế, văn hóa và hội nhập quốc tế”, NXB KHXH 2017 do TS. Trần Thị Minh
Thi chủ biên đã phân tích tình hình bình đẳng giới trong chính trị ở một số quốc gia
trên thế giới, khung lí luận và lí thuyết trong phân tích sự tham gia của phụ nữ trong
chính trị, phân tích thực trạng bình đẳng giới trong chính trị với nhiều chỉ báo khác
nhau, phân tích các rào cả về thế chế, chính sách, văn hóa, gia đình ảnh hưởng đến sự
tham gia của phụ nữ trong chính trị, từ đó đề ra những khuyến nghị giải pháp nhằm
tăng cường sự tham gia xã hội của phụ nữ.
Nguyễn Thị Hoà: “Giới, việc làm và đời sống gia đình”, (NXB Khoa học xã
hội, 2007): Cuốn sách đề cập đến năng lực và vị trí của nữ giới trong xã hội đô thị, nêu
lên các vấn đề phụ nữ trong gia đình đương đại, phân tích vấn đề tri thức nữ trong các
công ty liên doanh và một vài hiện tượng đặc thù trong đời sống ở đô thị của giới nữ.
Lê Thi – Viện KHXH Việt Nam: “Gia đình, phụ nữ Việt Nam với dân số, văn
hoá và sự phát triển bền vững”, (NXB Khoa học xã hội, 2004): Giới thiệu vai trò, vị
trí của gia đình và người phụ nữ trong mối quan hệ và tác động lẫn nhau với vấn đề
dân số, văn hóa cũng như sự phát triển bền vững của môi trường, hướng tìm ra con
đường tốt nhất cho tương lai phát triển của nhân dân, của gia đình và người phụ nữ
Việt Nam, ảnh hưởng của xu thế toàn cầu hóa đối với sự phát triển của nước ta.
TS Đỗ Thị Thạch: “Phát huy nguồn lực nữ tri thức Việt Nam trong sự nghiệp
CNH-HĐH”, (NXB Chính trị quốc gia, 2005): Cuốn sách tập trung làm rõ quan niệm
về trí thức, trí thức nữ, những cơ sở khẳng định phẩm chất trí tuệ cũng như những yếu
tố tác động đến sự phát triển trí tuệ của phụ nữ. Tác giả đi sâu phân tích sự hình thành,
đặc điểm của nguồn lực trí thức nữ Việt Nam, những đóng góp của họ đối với đất
4
nước; và đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy nguồn lực trí thức nữ Việt Nam
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Viện nghiên cứu phát triển xã hội với nghiên cứu “Các yếu tố xã hội quyết định
bất bình đẳng giới ở Việt Nam” (2016): Tài liệu này dựa trên kết quả cuộc nghiên cứu
về các yếu tố xã hội quyết định bất bình đẳng giới ở Việt Nam do Viện Nghiên cứu
Phát triển Xã hội thực hiện từ cuối năm 2012 đến năm 2015 với sự tài trợ của Quỹ
Ford, Oxfam Novib và Chính phủ Australia với mục tiêu là tìm hiểu những chiều cạnh,
bản chất và những yếu tố quyết định của tình trạng bất bình đẳng giới ở Việt Nam, tìm
hiểu những yếu tố góp phần tạo nên tình trạng bất bình đẳng giới và xây dựng các
khuyến nghị nhằm cải thiện chính sách và các chương trình can thiệp nhằm thúc đẩy
bình đẳng giới ở Việt Nam.
Bên cánh đó còn rất nhiều nghiên cứu, bài báo… về các chính sách bình đẳng
giới trên các tạp chí nghiên cứu gia đình và giới, tạp chí xã hội học, khoa học về phụ
nữ… Cùng với các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, Đảng, Chính phủ và
Nhà nước Việt Nam cũng đã có nhiều văn bản luật, thông tư, nghị định, chương trình
quốc gia về bình đẳng giới của Việt Nam như: Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính
trị ngày 27/4/2007 về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; Chiến
lược Quốc gia về BĐG giai đoạn 2011 – 2020; Chương trình hành động của Chính phủ
đến năm 2020 về thực hiện NQ số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về
công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; Chương trình quốc gia về
bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2015; Nghị định 48/2009/NĐ-CP ngày 19/05/2009
của Chính phủ về các biện pháp bảo đảm BĐG; Nghị định số 56/2012/NĐ-CP ngày
16/7/2012 quy định trách nhiệm của Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân các cấp trong việc
bảo đảm cho các cấp Hội LHPN Việt Nam tham gia quản lý nhà nước…
Nhằm cụ thể hoá các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bình đẳng
giới, Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng đã ban hành nhiều văn bản, nghị quyết,
chương trình hành động, chỉ thị, hướng dẫn như: Chương trình hành động số 195/CtrĐU ngày 4/6/2009 thực hiện nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác phụ
nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; Chỉ thị 70/CT-BQP ngày 18/3/2009 về
việc triển khai thi hành Luật BĐG; Hướng dẫn 902/HD-CT ngày 7/7/2009 thực hiện
5
nghị định số 48/2009/NĐ-CP quy định về các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới;
Thông tư 131/2011/TT-BQP ngày 15/7/2011 ban hành quy chế hoạt động của Ban
VSTB của phụ nữ trong QĐND Việt Nam; Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của
phụ nữ và bình đẳng giới trong quân đội giai đoạn 2011 – 2015 và giai đoạn 20162020…
Với các công trình nghiên cứu, các bài báo, các văn bản, Nghị định, Nghị
quyết trên thực sự có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đã đề cập đến nhiều khía cạnh
khác nhau liên quan đến chính sách bình đẳng giới tuy nhiên chưa thực sự có công
trình khoa học, báo cáo nghiên cứu về thực hiện chính sách bình đẳng giới từ thực tiễn
khối cơ quan Bộ quốc phòng. Vì vậy luận văn nghiên cứu về tình hình thực hiện và đề
xuất các giải pháp hoàn thiện việc thực thi chính sách về bình đẳng giới ở Bộ Quốc
phòng hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Luận văn vận dụng cơ sở lí luận chuyên ngành chính sách công để tìm hiểu việc
thực hiện chính sách bình đẳng giới nói chung và bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo
dục đào tạo nói riêng từ thực tiễn khối cơ quan chức năng Bộ quốc phòng, từ đó đề
xuất những giải pháp tăng cường thực thi chính sách bình đẳng giới trong khối các cơ
quan chức năng Bộ quốc phòng hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tổng quan các nghiên cứu về chính sách bình đẳng giới nói chung và trong
quân đội nói riêng.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về chính sách bình đẳng giới để làm khung phân tích
cho đề tài.
- Phân tích thực trạng việc thực hiện chính sách BĐG trong khối các cơ quan
BQP: các chính sách đang triển khai hiện nay và phân tích các kết quả, những mặt đã
làm được cũng như những hạn chế, những khoảng trống về chính sách bình đẳng giới,
trong đó tập trung đi sâu phân tích, nghiên cứu về thực hiện chính sách BĐG trong
lĩnh vực giáo dục đào tạo từ thực tiễn khối cơ quan chức năng Bộ Quốc phòng.
- Phân tích các yếu tố tác động đến thực hiện chính sách BĐG.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện khung chính sách, tăng cường hiệu
quả thực thi chính sách bình đẳng giới tại khối cơ quan Bộ Quốc phòng.
6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Việc thực hiện chính sách bình đẳng giới từ thực
tiễn khối các cơ quan chức năng BQP.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu những chính sách liên quan đến việc
thúc đẩy bình đẳng giới, tình hình thực thi chính sách bình đẳng giới từ thực tiễn khối
cơ quan chức năng Bộ Quốc phòng.
Phạm vi thời gian: Phân tích số liệu có sẵn trong thời gian 5 năm, từ 2012 đến
2017 và khảo sát nhóm cán bộ khối cơ quan chức năng Bộ Quốc phòng năm 2017.
Phạm vi khách thể nghiên cứu: lãnh đạo khối các cơ quan chức năng, nam và
nữ quân nhân thuộc khối các cơ quan chức năng BQP.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận: Luận văn sử dụng hệ tư tưởng của Đảng cộng sản Việt
Nam, về quyền bình đẳng nam nữ, bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ.
Tiếp cận chính sách công: Tiếp cận chính sách công giúp cho việc nghiên cứu
tình hình thực hiện chính sách bình đẳng giới được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau,
từ đó sẽ có những giải pháp hoàn thiện hơn nữa việc thực thi chính sách về bình đẳng
giới từ thực tiễn BQP hiện nay. Cùng với đó là tiếp cận xã hội học sẽ giúp đi sâu, nhấn
mạnh vào các quan hệ xã hội bên trong và bên ngoài gia đình, gia đình với cộng đồng
và xã hội, trong đó các quan hệ bên trong gia đình là những yếu tố quyết định: quan hệ
kinh tế, tái sinh sản, tình cảm, quan hệ giữa các thành viên, thế hệ, vợ - chồng, bố mẹ
-con cái, ông bà-con cháu, dòng họ.
Tiếp cận Hệ thống: Tiếp cận hệ thống dựa vào định hướng chính trị, vào năng lực
thực tế của chủ thể tham gia thực hiện, vào môi trường thực hiện và tồn tại của chính
sách và tình trạng pháp luật trong xã hội đó.
Tiếp cận Liên ngành: Tiếp cận liên ngành được vận dụng trên nền tảng những
phân tích đa chiều, đa ngành để tránh nhìn nhận phiến diện, chủ quan. Tiếp cận liên
ngành luôn là cần thiết khi muốn soi sáng, tìm hiểu nhiều chiều cạnh của giá trị
BĐG vốn rất cần các tiếp cận của chuyên ngành khác, gần gũi với xã hội trong
triển khai
7
nghiên cứu đề tài (như tâm lý học, kinh tế học, nghiên cứu con người, nghiên cứu gia
đình,….).
5.2. Phương pháp nghiên cứu, kỹ thuật sử dụng:
Phân tích tư liệu, văn bản thứ cấp: Trên cơ sở thu thập các tài liệu nghiên cứu
trong và ngoài nước xoay quanh chủ đề BĐG, đề tài sẽ phân tích, tổng hợp các văn
bản chính sách, pháp luật, chỉ thị, nghị quyết và báo cáo liên quan của Đảng, Nhà
nước, bộ ngành ở Trung ương và của BQP. Luật và các văn bản pháp quy hướng dẫn
thực hiện BĐG, các chương trình quốc gia về BĐG, tình hình thực hiện BĐG ở BQP,
các nghiên cứu và báo cáo đã có về thực hiện chính sách BĐG được thu thập và phân
tích để thấy xu hướng bình đẳng giới ở khối các cơ quan chức năng BQP.
Phân tích thống kê so sánh: Là tổng hợp, trình bày các số liệu và đánh giá tính
thống nhất, tính khả thi và hiệu quả của chính sách nhằm điều chỉnh cho phù hợp với
mục tiêu và điều kiện thực tế.
Phỏng vấn sâu các nhà quản lý và quân nhân nhằm tìm hiểu những hiểu biết,
đánh giá về các bước thực hiện chính sách BĐG ở BQP, những tồn tại bất cập trong
triển khai thực hiện chính sách để đề xuất các giải pháp khắc phục (3 lãnh đạo quản lý,
3 nữ quân nhân và 3 nam quân nhân đang công tác tại khối các cơ quan chức năng
BQP).
Khảo sát bảng hỏi tìm hiểu về quá trình triển khai thực hiện chính sách BĐG ở
BQP theo tiếp cận các bước trong chính sách công, trong đó đi sâu nghiên cứu về
BĐG trong lĩnh vực giáo dục đào tạo (120 quân nhân đang công tác tại khối các cơ
quan chức năng BQP trong đó đảm bảo cân bằng về giới, tuổi và vị trí công tác).
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận: Nghiên cứu về chính sách bình đẳng giới không phải là vấn đề
mới ở Việt Nam tuy nhiên lại rất mới trong Quân đội hiện nay, đặc biệt là lĩnh vực
nghiên cứu về vấn đề thực hiện chính sách. Đây hoàn toàn là công trình mới, mang
tính thực tế cao, phản ánh thực trạng về tình hình thực hiện các chính sách về bình
đẳng giới và đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện việc thực hiện chính sách
bình đẳng giới tại cơ quan chức năng Bộ Quốc phòng.
8
Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn hoàn thành có thể làm tài liệu tham khảo, vận dụng
trong quá trình thực thi chính sách về bình đẳng giới ở cơ quan Bộ Quốc phòng hiện nay.
7 . Cơ cấu của luận văn
Luận văn được chia làm 3 chương, không kể phần mở đầu, kết luận, danh mục
tài liệu tham khảo.
Chương 1. Những vấn đề lý luận về bình đẳng giới và thực hiện chính sách bình
đẳng giới.
Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách bình đẳng giới từ thực tiễn khối cơ
quan chức năng Bộ Quốc phòng hiện nay.
Chương 3. Định hướng và giải pháp tăng cường thực hiện chính sách bình đẳng
giới.
9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
VÀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BÌNH ĐẲNG GIỚI
1.1. Một số vấn đề lý luận về bình đẳng giới
1.1.1. Khái niệm bình đẳng giới
Quan điểm “nam nữ bình quyền” của Đảng và Bác Hồ đã xác định từ Cương
lĩnh năm 1930, là một trong 10 nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng Việt Nam, tiếp tục
được khẳng định trong Nghị quyết trong các nhiệm kỳ, được thể chế hoá trong các bản
Hiến pháp và nhiều văn bản Luật.
Bình đẳng giới theo quan niệm xã hội học là sự đối xử ngang quyền giữa hai
giới nam và nữ, cũng như giữa các tầng lớp phụ nữ trong xã hội, có xét đến đặc điểm
riêng của nữ giới, được điều chỉnh bởi các chính sách đối với phụ nữ một cách hợp lý.
Hay nói cách khác, bình đẳng giới là sự thừa nhận, sự coi trọng ngang nhau đối với
các đặc điểm giới tính và sự thiết lập các cơ hội ngang nhau đối với nữ và nam trong
xã hội.
Theo khoản 3, Điều 5 Luật bình đẳng giới quy định: “Bình đẳng giới là việc
nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực
của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về
thành quả của sự phát triển đó”.
Theo tài liệu “Hướng dẫn lồng ghép giới trong hoạch định chính sách” do Uỷ
ban quốc gia Vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam xuất bản năm 2004, “Bình đẳng giới
là sự thừa nhận và coi trọng như nhau các đặc điểm giống và khác nhau giữa phụ nữ
và nam giới. nam giới và phụ nữ cùng có vị thế bình đẳng và được tôn trọng như nhau.
Phụ nữ và nam giới có điều kiện bình đẳng để phát huy hết khả năng và thực hiện các
mong muốn của mình; có cơ hội để tham gia, đóng góp và thụ hưởng từ các nguồn lực
của xã hội và quá trình phát triển; được hưởng tự do và chất lượng cuộc sống bình
đẳng; được hưởng thành quả bình đẳng trong mọi lĩnh vực của xã hội”.
Với các khái niệm trên có thể hiểu bình đẳng giới có nghĩa là phụ nữ và nam
giới có vị trí như nhau và có cơ hội như nhau để làm việc và phát triển. Nói bình đẳng
10
giới không có nghĩa là chỉ đấu tranh quyền lợi cho phụ nữ mà là đấu tranh cho sự bất
bình đẳng của cả hai giới. Nhưng trong thời đại ngày nay, nhìn chung sự bất bình
đẳng xảy ra đối với phụ nữ là đa số nên người ta nói nhiều đến việc đòi quyền lợi
cho phụ nữ. Bình đẳng giới không chỉ đơn giản là số lượng của phụ nữ và nam giới,
hay trẻ em trai và trẻ em gái tham gia trong tất cả các hoạt động là như nhau, cũng
không có nghĩa là nam giới và phụ nữ giống nhau, mà bình đẳng giới có nghĩa là
nam giới và phụ nữ được công nhận và hưởng các vị thế ngang nhau trong xã hội.
Đồng thời, sự tương đồng và khác biệt giữa nam và nữ được công nhận. Từ đó
nam và nữ có thể trải nghiệm những điều kiện bình đẳng để phát huy đầy đủ các
tiềm năng của họ, có cơ hội để tham gia, đóng góp và hưởng lợi bình đẳng từ công
cuộc phát triển của quốc gia trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội.
Như vậy, bình đẳng giới không phải là sự hoán đổi vai trò của nam, nữ từ thái
cực này sang thái cực khác và cũng không phải là sự tuyệt đối hóa bằng con số hoặc tỉ
lệ 50/50 mà là sự khác biệt về giới tính trong các vai trò sản xuất, tái sản xuất, vai trò
chính trị và cộng đồng, đặc biệt là sự chia sẻ công việc gia đình, chăm sóc các thành
viên gia đình để tạo cơ hội và điều kiện cho nam, nữ phát triển toàn diện về mọi mặt.
Đồng thời tạo điều kiện và cơ hội cho phụ nữ bù đắp những khoảng trống do việc
mang thai, sinh con và gánh vác phần lớn lao động gia đình đem lại.
1.1.2. Khái niệm thực hiện chính sách bình đẳng giới
Theo Điều 7 Luật Bình đẳng giới khẳng định, chính sách của Nhà nước về Bình
đẳng giới đó là bảo đảm bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá,
xã hội và gia đình; hỗ trợ và tạo điều kiện cho nam, nữ phát huy khả năng, có cơ hội
như nhau để tham gia vào quá trình phát triển và thụ hưởng thành quả của sự phát
triển; Bảo vệ, hỗ trợ người mẹ khi mang thai, sinh con và nuôi con nhỏ; tạo điều kiện
để nam, nữ chia sẻ công việc gia đình; Áp dụng những biện pháp thích hợp để xoá bỏ
phong tục, tập quán lạc hậu cản trở thực hiện mục tiêu bình đẳng giới; Khuyến khích
cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân tham gia các hoạt động thúc đẩy bình đẳng giới;
Hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số
và vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn; hỗ trợ những điều kiện cần thiết
11
để nâng chỉ số phát triển giới đối với các ngành, lĩnh vực và địa phương mà chỉ số phát
triển giới thấp hơn mức trung bình của cả nước.
Như vậy, có thể hiểu chính sách bình đẳng giới là những quy định, quan điểm,
hệ thống các quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa
nhận thể hiện ý chí của nhà nước nhằm đảm bảo việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang
nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của
cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó trên
cơ sở giáo dục thuyết phục và cưỡng chế.
Việc tổ chức thực hiện chính sách BĐG là quá trình chuyển các quan điểm, các
ứng xử của Nhà nước thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt được mục
tiêu và tạo sự phát triển, chuyển biến rõ rệt về BĐG. Tổ chức thực hiện chính sách
BĐG là bước hiện thực hoá chính sách BĐG vào thực tế đời sống xã hội, làm cho mọi
người dân hiểu rõ và có những hành vi ứng xử với phụ nữ cũng như nhận thức về bình
đẳng giới hiệu quả, tích cực.
Tổ chức thực hiện chính sách BĐG là một quá trình gồm nhiều bước khác nhau
với nhiều phương pháp, nội dung khác nhau nhằm giảm sự chênh lệch giữa nam và nữ
về vị trí, vai trò, điều kiện, cơ hội phát huy năng lực và thụ hưởng thành quả của sự
phát triển và nâng cao vị thế của phụ nữ trong các lĩnh vực còn bất bình đẳng hoặc có
nguy cơ bất bình đẳng cao.
1.1.3. Khái niệm khối các cơ quan chức năng Bộ Quốc phòng
Bộ Quốc phòng là cơ quan tham mưu cho Đảng và Nhà nước về đường lối,
nhiệm vụ quân sự, quốc phòng bảo vệ Tổ quốc; quản lý nhà nước về lĩnh vực quốc
phòng trong phạm vi cả nước; tổ chức thực hiện việc xây dựng, quản lý và chỉ huy
Quân đội nhân dân, Dân quân tự vệ; quản lý các dịch vụ công theo quy định của pháp
luật. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng vừa là người chỉ đạo thực hiện các chức năng quản lý
nhà nước về quân sự, quốc phòng theo quy định của pháp luật, vừa chịu trách nhiệm tổ
chức, xây dựng, quản lý và là người chỉ huy cao nhất của Quân đội nhân dân và Dân
quân tự vệ. Bộ Quốc phòng có Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị, các tổng cục
và các đơn vị trực thuộc khác.
12
Các cơ quan chức năng Bộ Quốc phòng hoạt động theo từng lĩnh vực, từng
nhiệm vụ cụ thể đã được phân công, tiến hành xây dựng các kế hoạch, chương
trình, đề ra các chủ trương biện pháp và phối hợp với các cơ quan chức năng khác
thực hiện các nội dung công việc do mình phụ trách như Tổng cục Chính trị là cơ
quan chỉ đạo và tiến hành công tác Đảng, công tác chính trị trong quân đội. Tổng cục
có Chủ nhiệm và các Phó Chủ nhiệm, các cục chức năng chịu trách nhiệm về công
tác cán bộ, tuyên huấn, tổ chức đảng, công tác dân vận, an ninh quân đội...; Tổng
cục Hậu cần là cơ quan đầu ngành về hậu cần của Quân đội nhân dân Việt Nam;
có chức năng tham mưu, chỉ đạo, tổ chức bảo đảm vật chất, bảo đảm sinh hoạt, bảo
đảm quân y, bảo đảm vận tải... cho Quân đội; Tổng cục Công nghiệp quốc phòng
chịu trách nhiệm sản xuất vũ khí, trang bị quân dụng cho Quân đội và dân quân tự
vệ…
Như vậy, khối các cơ quan chức năng Bộ Quốc phòng là các cơ quan tham
mưu, nghiên cứu đề xuất giúp Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng các chủ trương,
biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo các hoạt động, các mặt công tác trong quân đội theo đúng
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
1.1.4. Lí thuyết giới
Lý thuyết giới là một trong những lý thuyết chủ đạo trong các nghiên cứu về gia
đình, đặc biệt là các nghiên cứu về quan hệ vợ chồng. Lý thuyết giới đề cập đến quan
hệ xã hội của nữ giới và nam giới trong các mối quan hệ xã hội. Sự phân công các
công việc phù hợp với vai trò của người vợ và người chồng trong gia đình xuất phát từ
sự thuận lợi về mặt sinh học và do sự phân công của xã hội. Trên cơ sở quan điểm
giới, khi xác định vị thế xã hội của phụ nữ và nam giới trong gia đình không chỉ đơn
giản là việc xem xét sự đóng góp của họ mà còn phân tích khả năng và mức độ ảnh
hưởng của họ trong việc xây dựng và đưa ra quyết định (Nguyễn Hữu Minh, 2013).
Hầu như ở mọi xã hội, sự phân công lao động theo giới đều tồn tại. Sự phân
công lao động theo giới là sự phân định những công việc có vẻ phù hợp với nam và
những công việc có vẻ phù hợp với nữ. Sự phân công này dẫn đến nam nữ có những
đặc thù công việc khác nhau, có những vị trí khác nhau và có cơ hội tiếp cận các
nguồn lực tài sản, uy tín, quyền lực… khác nhau. Quan điểm của các nhà kinh tế học
giải thích cho những trường hợp phụ nữ có xu hướng lựa chọn các công việc không
13
đòi hỏi cao, không yêu cầu đầu tư đào tạo hay kỹ năng là do phụ nữ còn phải đảm
đương trách nhiệm gia đình [36, 2017].
Các quan điểm giới trong các nghiên cứu về quan hệ vợ chồng còn được sử
dụng để giải thích về chất lượng hôn nhân và khái niệm hạnh phúc. Theo đó, hôn nhân
có lợi cho sức khỏe tinh thần của nam giới hơn phụ nữ, do phụ nữ có xu hướng bị hạn
chế vai trò trong môi trường gia đình. Người phụ nữ với vai trò là người đảm nhận các
công việc không được trả công - công việc nội trợ - với vai trò này, địa vị xã hội của
phụ nữ thường thấp hơn nam giới và không được đánh giá cao về các đóng góp cho
gia đình thông qua công việc không được trả công (Kok Mun Ng et all, 2009 – Trích
lại theo Trần Thị Cẩm Nhung, 2009: 81). Theo đó, nếu như người phụ nữ tham gia vào
các lao động xã hội khác, người phụ nữ lại phải đảm nhiệm vai trò kép, điều này dễ
dẫn đến những căng thẳng và khiến cho phụ nữ ít cảm nhận sự hài lòng, sự viên mãn
trong quan hệ hôn nhân.
Các thể chế chính trị có thể đóng vai trò quan trọng đối với sự tham gia của phụ
nữ trong chính trị như là các yếu tố xã hội, văn hóa và kinh tế [36, 2017]. Tự do chính
trị ở một quốc gia được biểu hiện bằng luật pháp mạnh mẽ, tôn trọng quyền tự do,
thiếu sự xung đột sắc tộc và tôn giáo, cạnh tranh chính trị cởi mở, mức độ tham nhũng
thấp và truyền thông độc lập [36, 2017]. Do đó, sự phát triển của các thể chế chính trị
trong một quốc gia có thể liên quan đến gia tăng sự tham gia của lãnh đạo chính trị
phụ nữ.
1.2. Ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách bình đẳng giới
Thực hiện chính sách là một khâu cấu thành chu trình chính sách, là quá trình
chuyển hoá ý chí của chủ thể chính sách thành hiện thực với các đối tượng quản
lý nhằm đạt mục tiêu nhất định. Có thể nói, tổ chức thực thi chính sách là trung tâm
kết nối các bước trong chu trình chính sách thành hệ thống. Đây là giai đoạn có ý
nghĩa vô cùng quan trọng vì chính sách sẽ trở thành vô nghĩa nếu không được đưa vào
thực hiện và mục tiêu của chính sách sẽ không được thực hiện.
Việc thực hiện chính sách bình đẳng giới là khâu biến ý đồ chính sách thành
hiện thực. Tổ chức thực thi chính sách bình đẳng giới là để từng bước thực hiện các
mục tiêu chính sách về bình đẳng giới và mục tiêu chung. Các mục tiêu quốc gia về
14
bình đẳng giới được xem xét dưới 2 khía cạnh: các mục tiêu chung của quốc gia về
bình đẳng giới nhằm đảm bảo bình đẳng nam nữ và các mục tiêu đặc thù về bình đẳng
giới là cơ sở để xây dựng các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới được quy định
trong Luật Bình đẳng giới.
Khi chính sách được thực thi là đã khẳng định tính đúng đắn của chính sách đó.
Chính sách bình đẳng giới đã được triển khai thực hiện rộng rãi trong đời sống xã hội,
thì tính đúng đắn của chính sách bình đẳng giới được khẳng định ở mức cao hơn, được
cả xã hội thừa nhận nhất là các đối tượng thụ hưởng chính sách, đặc biệt là phụ nữ.
Việc hoạch định một chính sách đúng, có chất lượng là rất quan trọng nhưng
việc tổ chức thực hiện đúng chính sách còn quan trọng hơn. Chính sách bình đẳng giới
dù hay đến mấy, có ý nghĩa đến mấy nhưng sẽ là không tưởng nếu không được kiểm
nghiệm trong thực tiễn. Thực tiễn chính là tiêu chuẩn để kiểm tra những lý luận đó có
đúng đắn hay không. Quá trình tổ chức thực hiện chính sách bình đẳng giới với những
hoạt động thực tiễn sẽ góp phần điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện chính sách cho phù
hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống. Quá trình thực thi chính sách bình
đẳng giới sẽ góp phần thúc đẩy quá trình bình đẳng giới có kết quả hơn, đạt các mục
tiêu nhanh hơn và bền vững hơn.
1.3. Chính sách bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay
Bình đẳng giới luôn là một trong những vấn đề được hầu hết tất cả các quốc gia
trên thế giới quan tâm, nó là một mục tiêu phát triển và là một yếu tố nâng cao khả
năng tăng trưởng của mỗi quốc gia. Nhiều năm qua, chính phủ của nhiều nước trên thế
giới đã nỗ lực để mang lại bình đẳng giới cho con người, để con người thật sự được
sống trong xã hội văn minh, phát triển bền vững và nhân văn, trong đó có Chính phủ
Việt Nam.
1.3.1. Công ước CEDAW
Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW)
được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 18/12/1979, có hiệu lực ngày
3/9/1981. Đây là một trong chín công ước quan trọng nhất trong hệ thống văn kiện
quốc tế về con người và là văn kiện chủ chốt nhất trong số những văn kiện quốc tế tập
trung vào vấn đề bình đẳng giới và quyền con người của phụ nữ; là văn kiện quốc tế
15
mang lại tính ràng buộc pháp lý đầu tiên nhằm ngăn chặn sự phân biệt đối xử với phụ
nữ và xây dựng một chương trình hành động nhằm thúc đẩy quyền bình đẳng của phụ
nữ. CEDAW ra đời được hơn 30 năm qua và nhận được sự hưởng ứng của toàn thế
giới, nó đã phản ánh những quy chuẩn mang tính quy phạm thích hợp với các quyền
của phụ nữ. Hiện có 187 quốc gia là thành viên của CEDAW. Việt Nam ký CEDAW
ngày 29/7/1980, phê chuẩn ngày 30/11/1981 và có hiệu lực ở Việt Nam từ ngày
19/3/1982.
Công ước CEDAW gồm 6 chương và 30 điều có tính ràng buộc pháp lý nhằm
đảm bảo quyền bình đẳng thực tế của phụ nữ, không chỉ về khía cạnh dân sự mà còn
về kinh tế, xã hội, văn hoá và gia đình. CEDAW chỉ ra những ảnh hưởng của văn hoá
và truyền thống làm giới hạn quyền của người phụ nữ và gây khó khăn cho các nhà
chức trách trong việc thay đổi các thành kiến, khuôn phép, phong tục, tập quán, phân
biệt đối xử chống lại phụ nữ, đồng thời CEDAW cũng ngăn chặn các hành vi và chính
sách gây bất lợi cho phụ nữ trên mọi phương diện. Công ước bao hàm nguyên tắc về
nghĩa vụ của các quốc gia. Và các chính quyền phải mang lại kết quả thực tế chứ
không phải chỉ mang tính lý thuyết. CEDAW là công ước về quyền con người duy
nhất xác nhận và khẳng định quyền được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ bao
gồm cả việc tiếp cận các phương pháp kế hoạch hoá gia đình của phụ nữ.
CEDAW không chỉ là luật quốc tế về quyền phụ nữ mà còn là một chương trình
hành động cho các nước để đảm bảo việc thụ hưởng những quyền đó. Việt Nam là
quốc gia thứ 6 trên thế giới tham gia công ước CEDAW và đã có những nỗ lực đáng
kể để thực hiện cam kết của mình trong công tác thúc đẩy bình đẳng giới. Nhà nước
Việt Nam đã thực hiện trách nhiệm của một quốc gia thành viên Công ước CEDAW,
đặc biệt là việc thiết lập sự bảo vệ bằng pháp luật các quyền của phụ nữ trên cơ sở
không phân biệt đối xử và bình đẳng nam, nữ. Từ sau khi công ước có hiệu lực, các
nội dung của Công ước đã được thể hiện khá đầy đủ trong các Hiến pháp và hệ thống
pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ, đặc biệt đầy đủ từ Hiến pháp và hệ thống pháp
luật từ năm 1992 đến nay, đáng chú ý nhất là Luật Bình đẳng giới và mới đây là Hiến
pháp năm 2013 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2014.
16
1.3.2. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Bình đẳng giới và quyền phụ nữ là quyền hiến định. Nguyên tắc bình đẳng đã
được khẳng định ngay trong Hiến pháp Việt Nam năm 1946: “Tất cả mọi công dân
Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hoá” (Điều 6)
và “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” (Điều 9)
Hiến pháp năm 1959: Điều 24 quy định “Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ Cộng
hòa có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội và gia đình’’. Như vậy so với Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 đã cụ
thể hoá và đề cập cụ thể đến phụ nữ.
Hiến pháp năm 1980: Từ Điều 52 đến Điều 65 quy định quyền của phụ nữ vừa
được lồng vào các quyền cơ bản của công dân, vừa được quy định riêng nhằm tạo ra
những điểm nhấn quan trọng, khẳng định quyền của phụ nữ. “Mọi công dân đều bình
đẳng trước pháp luật”; “Công dân không phân biệt dân tộc, nam - nữ, thành phần xã
hội... đủ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử
vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp”.
Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001, từ Điều 53 đến Điều 74 quy
định rõ các quyền bình đẳng nam, nữ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình,
trong đó tại Điều 63 quy định “Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối
xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ”.
Qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung đến nay, Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định
sâu sắc hơn quyền của phụ nữ trên cơ sở kế thừa và phát triển các quy định của Hiến
pháp năm 1992. Từ Điều 14 đến Điều 49, Chương II, Hiến pháp năm 2013 đã quy định
các quyền con người nói chung và quyền công dân nói riêng, trong đó có quyền của
phụ nữ được quy định tại Điều 26 “Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà
nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới. Nhà nước, xã hội và gia
đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã
hội. Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới”. Tại Điều này trách nhiệm tạo điều kiện
cho phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội, không chỉ của
nhà nước, xã hội mà còn có trách nhiệm của cả gia đình.
17
Như vậy, qua các bản Hiến pháp nước ta đã thể hiện rõ quan điểm “bình đẳng và
ưu tiên”. Có những quyền được pháp luật xây dựng bảo đảm quyền bình đẳng giữa
nam và nữ trước pháp luật nhằm xoá bỏ sự phân biệt đối xử trong công việc, trong
đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và trong đời sống gia đình và bên cạnh
đó có những quyền ưu tiên trong việc tuyển dụng, sắp xếp công việc..., tạo điều kiện
thuận lợi cho phụ nữ thể hiện khả năng của mình với việc đóng góp ngày càng nhiều
cho gia đình, xã hội, đồng thời tránh rủi ro trong nghề nghiệp, trong cuộc sống gia đình
và xã hội.
Chúng ta có thể khẳng định quyền của phụ nữ Việt Nam luôn luôn được quy
định qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung các bản Hiến pháp để ngày càng phù hợp với điều
kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước và phù hợp với các điều ước quốc
tế mà nước ta đã tham gia và cũng phù hợp xu hướng Hiến pháp của các nước trong
khu vực và quốc tế. Điều này đã thể hiện mối quan tâm sâu sắc của cả hệ thống chính
trị, của bộ máy nhà nước Việt Nam đối với sự phát triển của phụ nữ Việt Nam trong
tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1.3.3. Một số văn bản chủ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về bình đẳng
giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ
- Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27 tháng 4 năm 2007 của Bộ Chính trị về công
tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước
Hội nhập quốc tế và những vấn đề mới đặt ra đối với việc bảo đảm quyền bình
đẳng của phụ nữ, Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27 tháng 4 năm 2007 của Bộ Chính
trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước đã đưa ra mục tiêu:
“Phấn đấu đến năm 2020, phụ nữ được nâng cao trình độ về mọi mặt, có trình độ học
vấn, chuyên môn, ngiệp vụ, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế,
có việc làm, được cải thiện rõ rệt về đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần, tham gia
ngày càng nhiều hơn công việc xã hội, bình đẳng trên mọi lĩnh vực, đóng góp này
cành lớn hơn cho xã hội và gia đình. Phấn đấu để nước ta là một trong các quốc gia
có thành tựu và bình đẳng giới tiến bộ nhất khu vực”. Cùng với chính sách về đào tạo,
bồi dưỡng, quy định về tỷ lệ nữ tham gia các vị trí lãnh đạo, quản lý và các cơ quan
dân cử, Nghị quyết thể hiện sự quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện
các mục tiêu về bình đẳng giới và vì sự phát triển của phụ nữ.
18
- Kết luận số 55-KL/TW ngày 18 tháng 1 năm 2013 của Ban Bí thư về tiếp tục
đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 11-NQ /TW ngày 27 tháng 4 năm 2007 của Bộ
Chính trị khoá X về “Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước” tiếp
tục khẳng định thực hiện mục tiêu của Nghị quyết: “Phấn đấu đến năm 2020, cán bộ
nữ tham gia cấp uỷ đảng các cấp đạt từ 25% trở lên; nữ đại biểu Quốc hội và Hội
đồng nhân dân các cấp đạt từ 35% đến 40%. Các cơ quan đơn vị có tỷ lệ nữ từ 30%
trở lên, nhất thiết có cán bộ lãnh đạo chủ chốt là nữ. Cơ quan lãnh đạo cấp cao của
Đảng, Quốc hội, Nhà nước, Chính phủ có tỷ lệ nữ phù hợp với mục tiêu bình đẳng
giới”.
- Thông báo số 196-TB/TW ngày 16 tháng 3 năm 2015: Kết luận của Ban bí thư
về Đề án “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bình đẳng giới và vì sự
tiến bộ của phụ nữ trong tình hình mới”
Cùng với những đánh giá về kết quả đạt được và nêu ra những vấn đề hạn chế,
nguyên nhân của hạn chế trong công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ
nữ, Ban bí thư yêu cầu: “Tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về
giới và ý thức trách nhiệm thực hiện bình đẳng giới cho cán bộ, đảng viên và các
tầng lớp nhân dân. Lên án và đề ra biện pháp khắc phục tư tưởng coi thường phụ nữ,
các hành vi phân biệt đối xử, xâm hại, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ”. Tăng cường
kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
nhà nước liên quan đến phụ nữ và bình đẳng giới”, và “Cấp uỷ, tổ chức Đảng làm
tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và bổ nhiệm cán bộ nữ; thực
hiện cho được mục tiêu nêu trong Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá X”.
1.3.4. Luật Bình đẳng giới
Luật Bình đẳng giới được Quốc hội nước Cộng Hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khoá XI, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29/11/2006 và có hiệu lực thi hành từ ngày
1/7/2007, là một minh chứng về quyết tâm chính trị của Đảng và nhà nước Việt Nam
trong việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bình đẳng nam, nữ, xoá bỏ phân
biệt đối xử với phụ nữ, thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người nói chung,
quyền bình đẳng của phụ nữ nói riêng. Luật bình đẳng giới được xây dựng với quan
điểm chỉ đạo: nội luật hoá các quy định phù hợp trong công ước quốc tế về quyền con