đại học quốc gia hà nội
Khoa s- phạm
----------
D-ơng hoài văn
biện pháp quản lý tăng c-ờng hoạt động tự học
của sinh viên viện đại học mở hà nội
trong b-ớc phát triển hiện nay
Luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60 14 05
Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: pgs. Ts. đặng quốc bảo
Hà Nội - 2008
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã quyết định đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm
2020. Để đáp ứng nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ cho sự nghiệp Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi chúng ta phải phát triển giáo dục, thực sự coi
giáo dục là quốc sách hàng đầu. Nâng cao chất lượng giáo dục nhằm thực hiện
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài là nhiệm vụ quan trọng,
thường xuyên là mối quan tâm hàng đầu của các nhà trường. Chất lượng giáo
dục - đào tạo phụ thuộc vào họat động dạy của thày và họat động học của trò.
Trong đó dưới sự tổ chức, lãnh đạo, điều khiển của thầy , trò tự giác, chủ
động, tích cực tự tổ chức quá trình nhận thức nhằm thực hiện các nhiệm vụ
học tập. Tự học – tự đào tạo là con đường phát triển suốt đời của mỗi người,
đó cũng là truyền thống quí báu của dân tộc Việt Nam, được thể hiện qua các
câu thành ngữ, tục ngữ “học một, biết mười”, “ Đi một ngày đàng học một
sàng khôn”, “học thầy không tầy học bạn”…Chất lượng và hiệu quả giáo dục
được nâng lên khi tạo ra được năng lực sáng tạo của người học, khi biến quá
trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục. Quy mô giáo dục được mở rộng khi
có phong trào toàn dân tự học.
Trong lịch sử giáo dục Việt Nam, vấn đề phát huy tính tích cực độc lập
của cá nhân người học cũng như họat động tự học luôn được quan tâm, đặc
biệt là nền giáo dục XHCN. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy “Về cách học,
phải lấy tự học làm cốt”.
Điều 5 Luật Giáo dục 2005 cũng đã quy định rõ “Phương pháp giáo
dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người
học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say
mê học tập và ý chí vươn lên”.
Là một Đại học đa ngành nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân, Viện
Đại học Mở Hà Nội đã có nhiều cố gắng nhằm nâng cao chất lượng đào tạo
nói chung, chất lượng dạy và học nói riêng. Tuy nhiên chất lượng học tập của
sinh viên còn nhiều hạn chế không đạt được kết quả như mong đợi. Tỉ lệ sinh
viên khá, giỏi còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thị
trường lao động. Sinh viên vẫn còn thờ ơ với việc trang bị tri thức, lười đọc
sách, lười tìm kiếm tri thức…việc học tập còn mang tính chiếu lệ, sinh viên
chưa có được những phương pháp và kỹ năng học tập ở bậc đại học nên khả
năng tư duy, tự nghiên cứu, tự tìm tòi kiến thức còn rất yếu; về vấn đề đổi
mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, sáng tạo, nâng
cao năng lực tự học cho sinh viên chưa được thực hiện đồng bộ, chưa thường
xuyên; công tác quản lí, tổ chức của trường đối với hoạt động tự học của sinh
viên chưa được quan tâm đúng mức; số lượng giáo viên cơ hữu của trường
còn ít, đa phần là giáo viên thỉnh giảng…. Với tất cả những nguyên nhân nói
trên đã phần nào ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên còn thấp.
Chính vì vậy, việc tìm ra biện pháp tổ chức, quản lý hoạt động tự học
của sinh viên Viện Đại học Mở Hà Nội là một nhiệm vụ cấp thiết đối với
nhà trường trong giai đoạn hiện nay. Với những lý do nêu trên, chúng tôi
chọn đề tài :“ Biện pháp quản lý tăng cường hoạt động tự học của sinh
viên Viện Đại học Mở Hà Nội trong bước phát triển hiện nay.”
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất một số biện pháp
quản lý tăng cường hoạt động tự học nhằm nâng cao kết quả hoạt động tự học
của sinh viên Viện Đại học Mở Hà Nội.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Hoạt động tự học của sinh viên .
- Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp quản lý hoạt động tự học của
sinh viên Viện Đại học Mở Hà Nội.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài
- Nghiên cứu, khảo sát thực trạng hoạt động tự học, các biện pháp quản
lý tăng cường hoạt động tự học của sinh viên Viện Đại học Mở Hà Nội.
- Đề xuất các biện pháp tăng cường hoạt động tự học của sinh viên,
khảo nghiệm các biện pháp quản lý nhằm khẳng định tính cấp thiết và tính khả
thi của các biện pháp để nâng cao kết quả hoạt động tự học cuả sinh viên Viện
Đại học Mở Hà Nội.
5. Giả thuyết khoa học
Hiện nay hoạt động tự học của sinh viên Viện Đại học Mở Hà Nội còn
hạn chế. Thực trạng này do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan.
Nguyên nhân chủ quan là do sinh viên còn thiếu ý chí và nỗ lực; nguyên nhân
khách quan là do công tác quản lý còn thiếu các tác động thích hợp. Nếu đề
xuất và áp dụng các biện pháp quản lý tăng cường hoạt động tự học của sinh
viên bao quát từ việc kế hoạch đến tổ chức, kiểm tra (bao quát được động cơ
nội lực của sinh viên, môi trường và có sự định hướng quản lí) thì chất lượng
hoạt động học tập của sinh viên sẽ được nâng cao và mục tiêu của nhà trường sẽ
được thực hiện tốt hơn.
6. Phạm vi nghiên cứu
Vì hạn chế về nguồn lực và thời gian, trong luận văn này chúng tôi chỉ
tập trung nghiên cứu đối với sinh viên chính quy hiện đang theo học tại Khoa
Du lịch và Khoa Tin học - Viện Đại học Mở Hà Nội (200 sinh viên hiện đang
học các năm thứ 2, thứ 3 và thứ 4) và nghiên cứu biện pháp quản lý tăng
cường hoạt động tự học của nhà trường.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu, phân tích tổng
hợp những tư liệu như: tư liệu về giáo dục học – tâm lý học, lý luận về quản lý
giáo dục, các văn bản về sinh viên.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp quan sát,
phương pháp điều tra bảng hỏi, phương pháp tổng kết kinh nghiệm,
phương pháp chuyên gia.
- Nhóm các phương pháp xử lý số liệu: Sử dụng các công thức toán học
như trung bình cộng, tính tổng số .....
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung luận văn được trình bày trong 3 chương
- Chương 1 :
Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động tự học
- Chương 2 :
Thực trạng quản lý hoạt động tự học của sinh
viên Viện Đại học Mở Hà Nội
- Chương 3 :
Biện pháp quản lý tăng cường hoạt động tự học của
sinh viên Viện Đại học Mở Hà Nội
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Từ xưa việc học tập vẫn luôn được xem trọng. Đó chính là con đường
quan trọng trong việc tu dưỡng, rèn luyện, ý chí, khả năng; là con đường lập
thân, lập nghiệp. Trên con đường học tập đó, bao giờ vấn đề tự học cũng được
xem trọng. Tự học trong học tập là vô cùng cần thiết. Chính tự học mới giúp
người học biến tri thức tiếp thu thành tri thức của chính bản thân mình. Tự học
xây nền móng tri thức vững chắc, tạo sự liên kết hơp lý trong hệ thtống kiến
thức, giúp việc tiếp tục học tập được thuận lợi, dễ dàng và kiến thức được phát
triển bền vững theo chiều rộng lẫn chiều sâu.
Khổng Tử (551 - 479 trCN), nhà tư tưởng nổi tiếng và nhà sư phạm vĩ đại
của Trung Quốc, về phương pháp giáo dục ông đã đề cao việc tự học, tự luyện, tu
nhân, chú trọng phát huy mặt tích cực, sáng tạo, năng lực nội sinh. Khổng Tử
thường chú ý việc dạy sát đối tượng, kết hợp học và hành, lý thuyết gắn liền với
thực tiễn, chủ trương phát triển hứng thú, động cơ ý chí của người học. Đề cập
đến vấn đề học tập, Khổng Tử xác định "Học nhi thời tập chí", việc học tập theo
ông phải gắn liền với thực hành để thông suốt được những điều đã học. Ông đề
cập và nhấn mạnh mối quan hệ tác động giữa việc học tập và tư duy trong học
tập, cho đó là hai yếu tố ràng buộc không thể thiếu của một vấn đề: "Học nhi bất
tư tắc vong, tư nhi bất học tắc đãi". Ông cho rằng học mà không nghĩ thì mờ tối,
nghĩ mà không học thì khó nhọc, mất công. Do vậy, với ông việc học tập và tự
học là cần thiết và gắn bó mật thiết với nhau. Cho nên để đạt hiệu quả trong học
tập, Khổng Tử khuyên người học cần chú ý đến thực hành, tự học, tự suy nghĩ và
nghiên cứu. Vấn đề này trong luận ngữ đã có triển khai sâu sắc, cụ thể hơn và
cũng đã phát triển thành tư tưởng quan niệm "Biết mà học, thích mà học, vui say
mà học". Các nhà giáo dục Phương Tây cũng đã nhấn mạnh về việc phát huy khả
năng và hiệu quả học tập của người học từ ý thức tự giác học, thực hành suy luận,
nghiên cứu, tìm tòi, khám phá.
Từ những phần đã trình bày, chúng ta thấy tuy vẫn còn có một số khác
biệt trong nhận định của các nhà giáo dục về vai trò và biện pháp thực hiện
giáo dục nhưng tất cả đều có sự thống nhất trên quan niệm đánh giá cao về vai
trò tự giác trong học tập của người học. Các ý kiến cũng xác định động lực của
tự học được hình thành từ tình cảm, từ ý thức của người học. Nhà trường, gia
đình, môi trường chung là những yếu tố có khả năng tác động để giúp cho nhu
cầu này được hình thành, phát triển và nâng cao. Nhà trường bao giờ cũng
đóng vai trò khơi gợi, hình thành phát triển và nâng cao ý thức tự học. Do
vậy, với các nhà giáo dục trước đây, xây dựng biện pháp hiệu quả trong quản
lý giáo dục nhằm nâng cao hoạt động tự học cho người học là một việc làm
quan trọng và cần thiết.
1.1.2. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề giáo dục, vấn đề học tập
và rèn luyện. Có nhiều bài phát biểu, bài viết trong những thời điểm, hoàn
cảnh lịch sử khác nhau nhưng bao giờ Bác cũng nhấn mạnh đến tác dụng và
hiệu quả to lớn của việc học tập và rèn luyện. Bác cho rằng học tập giúp con
người tiến bộ, nâng cao phẩm chất, mở rộng hiểu biết, làm thay đổi hiệu quả
lao động. Đặc biệt, Bác rất nhấn mạnh đến tác dụng của tự học. Tại Hội nghị
toàn quốc lần thứ nhất về công tác huấn luyện và học tập khai mạc ngày 6
tháng 5 năm 1950 Bác đã khuyên học viên " Không phải có thầy thì học, thầy
không đến thì đùa. Phải biết tự động học tập". Trong công tác huấn luyện
cán bộ, Bác cũng nhắc nhở về cách học tập : “Lấy tự học làm cốt. Do thảo
luận và chỉ đạo góp vào " [25, 226]. Như vậy, theo Bác việc tự học giữ vai trò
rất quan trọng, có tác dụng quyết định cho kết quả học tập. Việc tự học phải
xuất phát từ động lực thôi thúc của chính bản thân người học, nhưng vẫn cần
sự hỗ trợ, tác động từ môi trường học tập, cần sự chỉ đạo hướng dẫn của nhà
trường, của người thầy.
Các văn bản của Nghị quyết Trung ương II khoá VIII, Nghị quyết đại
hội Đảng lần thứ X, Luật Giáo dục trước đây và hiện nay cũng đã xác định rất
rõ về vai trò quan trọng của việc tự học trong học sinh, sinh viên. Thông tư số
36/TT - GD ngày 8 tháng 11 năm 1980 của Bộ Giáo dục quy định chế độ đối
với cán bộ ngành giáo dục đang làm công tác quản lý, chỉ đạo và nghiên cứu ở
các cơ quan, trường học tham gia công tác đào tạo đã nêu: "Khuyến khích cán
bộ có ý thức học tập nghiên cứu nâng cao trình độ chuyên môn, tiếp cận với
kiến thức khoa học hiện đại của thế giới, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho
cán bộ hiểu được tình hình thực tế của công tác đào tạo, từ đó có những suy
nghĩa biện pháp tốt hơn trong công tác quản lý, chỉ đạo và nghiên cứu".
1.1.3. Những công trình nghiên cứu gần đây
Trong những năm gần đây, có nhiều công trình nghiên cứu về tự học
của các học giả, các nhà nghiên cứu giáo dục như Đặng Vũ Hoạt, Hà Thế
Ngữ, Tạ Quang Bửu, Nguyễn Cảnh Toàn, Phan Trọng Luận, Nguyễn Ngọc
Bảo, Thái Duy Tuyên, Hà Thị Đức,… Những công trình nghiên cứu này
đều xác nhận vai trò thiết yếu của tự học trong quá trình học tập và rèn
luyện để hội nhập. Những công trình nghiên cứu này cũng đã đề cập đến
những biện pháp hiệu quả trong vấn đề quản lý và đầu tư nâng cao chất
lượng tự học, xác định những yêu cầu cơ bản để tiến hành và thực hiện việc
tự học. Đặc biệt, các công trình nghiên cứu đều quan tâm đến những yêu
cầu đổi mới phương pháp dạy và học, cải tiến khung chương trình đối với
nội dung phù hợp, điều chỉnh hợp lý giữa thời gian và tự học, bổ sung,
trang bị phương tiện học tập hiệu quả. Một trong những cải tiến quan trọng
đó vẫn nhằm vào việc tạo ra hiệu quả tự học bằng việc nhà trường tạo nên
những kích thích huấn luyện tinh thần, thái độ và quyết tâm tự học cho
người học.
Các đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ trong những năm gần đây
thuộc ngành quản lý giáo dục cũng đã đề cập đến vấn đề tự học, tự nghiên
cứu của học sinh, sinh viên trong từng hoàn cảnh nhà trường cụ thể, của
từng môi trường đào tạo ngành nghề chuyên biệt. Những luận văn này đã
đóng góp trong các công tác quản lý của nhà trường với hoạt động tự học
nói riêng và của giáo dục nói chung.
1.2. Những vấn đề lý luận về sinh viên
1.2.1. Khái niệm “Sinh viên”
Thuật ngữ "Sinh viên" có nguồn gốc từ tiếng La tinh "students" có
nghĩa là người làm việc học tập nhiệt tình, hăng say, người tìm kiếm khám phá
kho tàng tri thức của nhân loại. Nó được dùng cùng nghĩa với từ "student" của
tiếng Anh để chỉ những người đang theo học ở bậc đại học, cao đẳng và để
phân biệt với học sinh các trường phổ thông.
Khái niệm sinh viên được dùng rộng rãi với nghĩa: Sinh viên là đại biểu
của một nhóm xã hội đặc biệt gồm những người đang trong quá trình chuẩn bị
tri thức, nghề nghiệp, để trở thành các chuyên gia hoạt động, lao động trong
một lĩnh vực nhất định thuộc các ngành kinh tế, văn hoá, xã hội [14,20]
X.L Rubinstein quan niệm: "Sinh viên là đại biểu của một nhóm xã hội
đặc biệt được đào tạo trong các trường Đại học, Cao đẳng để chuẩn bị cho
hoạt động lao động và sản xuất vật chất cho xã hội. Nhóm sinh viên rất cơ
động tổ chức theo một mục đích xã hội nhất định nhằm chuẩn bị thực hiện vai
trò xã hội với trình độ nghề nghiệp cao trong các lĩnh vực xã hội. Sinh viên là
nguồn lực bổ xung cho đội ngũ tri thức được đào tạo trở thành những người
lao động có tay nghề cao, tham gia hoạt động xã hội tích cực" [29,90].
Từ khái niệm trên, ta có thể hiểu: Sinh viên Việt Nam là những người
đang học tập tại các trường Đại học, Cao đẳng trong và ngoài nước nhằm
đáp ứng nguồn lao động có tri thức, có tay nghề cao đáp ứng nguồn nhân lực
cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Ngọc Bảo (1995), Phát triển tính tích cực của học sinh trong quá
trình dạy học, Bộ giáo dục và đào tạo - Vụ giáo viên.
2. Đặng Quốc Bảo (1995), Một số tiếp cận mới về khoa học quản lý và việc
vận dụng vào quản lý giáo dục, Trường cán bộ quản lý giáo dục và đào tạo Trung
Ương I, Hà Nội.
3. Lê Khánh Bằng (1998), Tổ chức phương pháp tự học cho sinh viên Đại
học - ĐHSP Hà Nội .
4. Mi Kon Đa Côp (1985), Cơ sở lý luận khoa học quản lý giáo dục, Trường
CBQL giáo dục, Hà Nội.
5. Nguyễn Quốc Chí - Nguyễn Thị Mỹ Lộc (1997), Những cơ sở khoa học
về quản lý giáo dục, Trường CBQL giáo dục - Đào tạo, Hà Nội.
6. Vũ Đình Cự (Chủ biên) (1998), Giáo dục hướng tới thế kỉ XXI, Nhà xuất
bản chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành
Trung ương khoá III - NXB chính trị Quốc gia - Hà Nội 1997.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX NXB Chính trị Quốc gia - Hà Nội 2001.
9. Nguyễn Minh Đạo (1997), Cơ sở khoa học quản lý, NXB chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
10. Nguyễn Văn Đạo , Tự học - Tự đào tạo tư tưởng chiến lược của phát
triển giáo dục Việt Nam, Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội.
11. Đỗ Ngọc Đạt (1997), Tiếp cận hiện đại hoạt động dạy học, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
12. Nguyễn Tiến Đạt (2003), Kinh nghiệm và thành tựu phát triển giáo dục và
đào tạo trên thế giới. Tài liệu dùng cho các khoá đào tạo cao học về quản lý
giáo dục, Hà Nội.
13. Phạm Minh Hạc (1986), Một số vấn đề về giáo dục và khoa học giáo dục,
Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội.
14. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (1998), Tâm lý học (tập 1), Nhà xuất bản giáo
dục, Hà Nội .
15. Vũ Ngọc Hải - Trần Khánh Đức - Đồng chủ biên (2003), Hệ thống giáo dục
hiện đại trong những năm đầu thế kỷ XXI, Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội.
16. Hà Sỹ Hồ (1985), Những bài giảng về quản lý trường học (Tập II), Nhà
xuất bản giáo dục, Hà Nội.
17. Trần Kiểm (1997), Quản lý giáo dục và trường học, Viện khoa học giáo
dục, Hà Nội.
18. Trần Kiểm (2004), Khoa học quản lý giáo dục - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn, Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội.
19. Harold Koontz (1992), Những vấn đề cốt yếu của quản lý, Nhà xuất bản
khoa học - kỹ thuật, Hà Nội .
20. Nguyễn Kỳ (chủ biên) (1995), Phương pháp giáo dục tích cực lấy người
làm trọng tâm, Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội.
21. Nguyễn Kỳ (1996), Mô hình dạy học tích cực lấy người làm trọng tâm,
Trường cán bộ quản lý giáo dục và đào tạo, Hà Nội.
22. Đặng Bá Lãm (2003), Giáo dục Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ
XXI - Chiến lược phát triển, Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội.
23. Nguyễn Hiến Lê (2002), Tự học – Một nhu cầu thời đại, Nhà xuất bản
văn hóa thông tin, TP Hồ Chí Minh .
24. Hồ Chí Minh (2002), Hồ Chí Minh tuyển tập (Tập II), Nhà xuất bản chính
trị quốc gia, Hà Nội.
25. Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt (1987) Giáo dục học (Tập 1) Nhà xuất bản
giáo dục, Hà Nội.
26. Nguyễn Ngọc Quang (1989), Những khái niệm cơ bản về lý luận quản lý
giáo dục, Trường CBQL Giáo dục - Đào tạo trung ương, Hà Nội .
27. Trần Hồng Quân , Về chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2020 và
một số định hướng cơ bản phát triển giáo dục THCS trong thời kỳ mới ,
Thông tin khoa học giáo dục (số 63).
28. Lò Thị Quyến (2007), Các biện pháp quản lý tăng cường hoạt động tự học
của sinh viên trường Cao đẳng sư phạm Điện Biên, Luận văn tốt nghiệp, Đại
học Sư phạm Hà Nội.
29. Lê Thị Thuỷ (2002), Tìm hiểu thực trạng tự học của sinh viên trường
CĐSP Hà Nội , Khoá luận tốt nghiệp .
30. Nguyễn Cảnh Toàn (1997), Quá trình dạy - Tự học, Nhà xuất bản giáo dục,
Hà Nội.
31. Nguyễn Cảnh Toàn (2001), Tuyển tập tác phẩm tự học - Tự giáo dục - Tự
nghiên cứu , Trường ĐHSP Hà Nội.
32. Trung tâm thông tin tư vấn phát triển (2001), Hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật ngành giáo dục và đào tạo Việt Nam, Nhà xuất bản chính trị
quốc gia, Hà Nội.
33. Nguyễn Đức Trí (2002), Quản lý quá trình giáo dục và đào tạo, Viện phát
triển giáo dục, Hà Nội.
34. Nguyễn Quang Uẩn - Trần Hữu Luyến - Trần Quốc Thành (1997)
Tâm lý học quản lý, Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội
35. Phạm Viết Vƣợng (1996), Giáo dục học đại cương, Nhà xuất bản đại học
quốc gia Hà Nội.
Luận văn đ-ợc hoàn thành tại
Khoa S- phạm - đại học quốc gia hà nội
Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: pgs.ts. trần khánh đức
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Luận văn đ-ợc bảo vệ tr-ớc Hội đồng chấm luận văn Thạc sĩ tại
Khoa S- phạm - đại học quốc gia hà nội.
Vào hồi .. giờ, ngày .. tháng .. năm 2007
Có thể tìm đọc luận văn tại:
- Trung tâm Thông tin - Th- viện, đại học Quốc gia hà nội.
- Khoa S- Ph¹m, ®¹i häc Quèc gia hµ néi.