Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.23 KB, 13 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

BÙI HUY TÙNG

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XỬ
LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN: PGS.TS PHẠM HỒNG THÁI

HÀ NỘI, 2007


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội và
các thầy cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, hướng dẫn tôi trong quá trình học
tập và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn Chi bộ; BCH Công đoàn và các đồng chí
lãnh đạo, chuyên viên Ban Đào tạo - Học viện Hành chính Quốc gia đã
động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập
và nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc PGS.TS Phạm Hồng Thái,
thầy đã trực tiếp hướng dẫn khoa học và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn tốt
nghiệp.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng do thời gian có hạn và bản thân còn
những hạn chế nhất định trong kinh nghiệm thực tiễn nên luận văn không
tránh khỏi thiếu sót. Do đó, tôi rất mong nhận được các ý kiến phê bình, góp
ý của Hội đồng chấm luận văn, các thầy cô giáo và đồng nghiệp để công
trình nghiên cứu được hoàn chỉnh hơn.
Tác giả



Bùi Huy Tùng

2


PHẦN MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang trong thời kỳ đổi mới toàn diện về mọi mặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Theo đó, công cuộc đổi mới, công nghiệp
hóa và hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn hiện nay đã và đang đặt ra yêu
cầu tăng cường pháp luật và pháp chế trong quản lý xã hội trên những mức
độ và sắc thái mới phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.
Quản lý xã hội bằng pháp luật đã trở thành một nhu cầu cấp thiết, là
một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo thắng lợi công cuộc xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân ở nước ta hiện nay,
góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Giáo dục là một lĩnh vực đặc biệt quan trọng, thông qua hoạt động
giáo dục con người dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu
cầu đề ra. Ở Việt Nam, quan điểm “ phát triển giáo dục là quốc sách hàng
đầu” vẫn được ghi nhận là quan điểm xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo
của Đảng và Nhà nước. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX tiếp tục xác định
những quan điểm và phương hướng cơ bản để tiếp tục nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống
trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện “chuẩn hóa, hiện đại hóa,
xã hội hóa”, thực hiện công bằng trong giáo dục.
Luật Giáo dục 2005 khẳng định mục tiêu giáo dục là “ đào tạo con
người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm
mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa

xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công
dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.

3


Để thực hiện triệt để quan điểm chỉ đạo của Đảng, thực hiện thành
công mục tiêu giáo dục, đảm bảo nguyên tắc pháp chế, ngoài cơ chế tổ chức
quản lý giáo dục nhất thiết cần phải có cơ chế xử lý vi phạm phù hợp, mà
trong đó xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục là một nội dung
đặc biệt quan trọng.
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính được Ủy ban thường vụ Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X thông qua ngày 02-72002, Nghị định số 49/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005định của Chính phủ quy
định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực giáo dục và các văn bản pháp lý
liên quan được ban hành đã đáp ứng một cách cơ bản yêu cầu về một hành
lang pháp lý cần thiết cho việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo
dục.
Mặc dù vậy, qua nghiên cứu cho thấy, các quy định về xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giáo dục ở nước ta phần lớn mới được ban hành,
còn tồn tại nhiều nội dung chưa phù hợp với thực tiễn, chưa thể đi vào thực
tiễn, có những quy định chưa bắt nguồn từ thực tiễn.
Xuất phát từ những tồn tại nêu trên, nhất thiết cần phải nghiên cứu
một cách toàn diện, có hệ thống nhằm từng bước hoàn thiện các quy định về
xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục, đưa những quy định này
trở thành công cụ pháp lý hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà
nước trong lĩnh vực giáo dục.
Cụ thể hơn, thông qua việc hoàn thiện các quy định về xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giáo dục sẽ góp phần đấu tranh phòng ngừa và
chống vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục một cách có hiệu quả,
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.


II. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trước hết, cần khẳng định rằng đã có nhiều đề tài nghiên cứu về lĩnh
vực giáo dục của nhiều ngành khoa học khác nhau như Tâm lý học; Xã hội

4


học; Quản lý giáo dục….Kết quả nghiên cứu của các ngành khoa học này
phục vụ rất tốt cho hoạt động nghiên cứu đề tài đang lựa chọn.
Đối với ngành Luật học hiện có một số đề tài nghiên cứu về xử lý vi
phạm hành chính hay các đề tài với nội dung nhằm hoàn thiện pháp luật về
giáo dục, tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các bậc đào
tạo. Tuy nhiên các đề tài này nghiên cứu trên bình diện rộng, với hướng
hoàn thiện chung, chưa đề tài nào phân tích một cách chi tiết nội dung hoàn
thiện các quy định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục.
Có thể nói, đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu về xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giáo dục. Đề tài nghiên cứu chi tiết về một vấn đề hẹp
nhưng cụ thể, đảm bảo ý nghĩa khoa học và tính khác biệt so với các đề tài
khác trong cùng ngành nghiên cứu.
Mặc dù vậy, có thể nói, các công trình nghiên cứu trong cùng lĩnh vực
đề cập ở trên đều là những tài liệu tham khảo có giá trị cao để tác giả nghiên
cứu và hoàn thành luận văn này.
III. Phạm vi nghiên cứu
Xử lý vi phạm hành chính nói chung và xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giáo dục nói riêng là một vấn đề rộng lớn và phức tạp, trong
khuôn khổ có giới hạn, luận văn chỉ tập trung vào một số khía cạnh pháp lý
chủ yếu liên quan đến vấn đề xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo
dục, đặc biệt là quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo
dục.


IV. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
a. Mục đích nghiên cứu của Luận văn: Đề tài tập trung phân tích toàn
diện, có hệ thống các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giáo dục, thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về xử
lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục nhằm tìm ra hướng hoàn
thiện, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của nội dung quản lý nhà nước về giáo dục.
b. Nhiệm vụ của Luận văn:
5


- Tổng kết các cơ sở lý luận về xử lý vi phạm hành chính nói chung và
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục nói riêng.
- Nghiên cứu thực trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục.
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy phạm trong quá trình xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục.
- Nghiên cứu và tìm ra những quy định chưa phù hợp, các chế định
chưa được đề cập tới hoặc có đề cập nhưng chưa đầy đủ, thiếu khả thi trong
văn bản pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục.
V. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu việc hoàn thiện các
quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục
ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu lực
của hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục.
b. Phạm vi nghiên cứu: Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo
dục bao gồm nhiều vấn đề lớn đặt ra cần quan tâm nghiên cứu. Đề tài nghiên
cứu của Luận văn tập trung chú ý vào việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn
để hoàn thiện các quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giáo dục. Là một đề tài nghiên cứu lý luận, luận văn không đi quá sâu ở
từng nội dung trong hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo

dục. Tuy nhiên, luận văn có phân tích và khái quát hóa các yêu cầu thực tế
của từng nội dung để làm nổi bật vấn đề quan tâm chủ yếu là: Hoàn thiện
các quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục.

VI. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt
Nam về xử lý vi phạm hành chính nói chung và xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giáo dục nói riêng.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của Triết học MácLênin như Phương pháp biện chứng, lịch sử; Phương pháp phân tích, tổng
6


hợp, hệ thống hóa; Phương pháp so sánh, thống kê; Phương pháp xã hội học,
xin ý kiến chuyên gia…

VII. Đóng góp mới và giá trị khoa học của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện, tập
trung và trực tiếp về vấn đề xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo
dục nhằm mục đích đưa ra phương hướng và đề xuất giải pháp hoàn thiện
quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu,
giảng dạy, học tập phục vụ việc hoàn thiện pháp luật về giáo dục nói chung
và pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục nói riêng.
VIII. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm : Lời mở đầu, 3 chương, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo.

7



CHƢƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC
1. Khái niệm vi phạm hành chính và vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giáo dục; Các dấu hiệu của vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giáo dục; Cấu thành vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục
1.1. Khái niệm vi phạm hành chính và vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giáo dục.
Vi phạm hành chính là hành vi được thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý
bởi cá nhân, cơ quan, tổ chức, vi phạm các quy định của pháp luật về quản
lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải
bị xử lý vi phạm hành chính.
Bản chất của vi phạm hành chính là hành vi vi phạm các quy định của
pháp luật về quản lý nhà nước do cá nhân, tổ chức thực hiện và vi phạm này
không phải là tội phạm, tức chưa đủ các yếu tố cấu thành tội phạm, trong đó
yếu tố có tính chất quyết định là mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi,
nói một cách khác, mức độ nguy hiểm của hành vi thấp hơn tội phạm.
Về giáo dục, hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau. Theo Từ điển
Tiếng Việt năm 1997 do Nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản thì giáo dục là
hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần,
thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được
những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra.
Hiểu một cách rộng hơn, giáo dục là hoạt động có mục đích, có
chương trình, tác động vào con người thông qua một hệ thống các biện pháp
tác động nhằm truyền thụ tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng và lối
sống, chuẩn bị cho đối tượng của giáo dục tham gia lao động, đi vào đời
sống xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống. Giáo dục là hoạt động tất yếu

8



của phát triển xã hội loài người, là một bộ phận cơ bản của quá trình tái sản
xuất mở rộng lao động xã hội.
Như vậy, hiểu một cách chung nhất, vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giáo dục chính là vi phạm các nội dung hoạt động nhằm truyền thụ tri thức
và kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng và lối sống, chuẩn bị cho đối tượng của
giáo dục tham gia lao động, đi vào đời sống xã hội và nâng cao chất lượng
cuộc sống.
Hiểu theo phương diện pháp lý, vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giáo dục là một dạng của vi phạm hành chính nói chung được thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý bởi cá nhân, tổ chức, vi phạm các quy định quản lý nhà
nước trong lĩnh vực giáo dục mà không phải là tội phạm và theo quy định
của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và Nghị định của Chính phủ quy
định về xử phạm vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục phải bị xử phạt
vi phạm hành chính.
Pháp luật hiện hành đã quy định những nội dung, đối tượng cụ thể
thuộc lĩnh vực giáo dục là đối tượng bị xâm hại bởi hành vi vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giáo dục.
Căn cứ Luật Giáo dục 2005 và Nghị định số 49/2005/NĐ-CP ngày
11/4/2005 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giáo dục ta có thể hiểu lĩnh vực giáo dục là đối tượng xâm hại của hành
vi vi phạm hành chính ở 14 nội dung cơ bản.
Thông qua 02 khái niệm về vi phạm hành chính và vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giáo dục nêu trên, chúng ta thấy vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giáo dục thống nhất với vi phạm hành chính nói chung ở các dấu
hiệu pháp lý cơ bản của vi phạm hành chính: hành vi; tính trái pháp luật của
hành vi; tính có lỗi và tính bị xử phạt hành chính.
1.2. Các dấu hiệu của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục
Vi phạm hành chính nói chung và vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giáo dục nói riêng đều có những dấu hiệu cụ thể như sau:

9


Thứ nhất, vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục là một hành vi.
Theo Các-Mác thì “ con người chỉ tồn tại đối với pháp luật thông qua
hành vi của mình”. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục cũng như
mọi vi phạm khác, trước hết nó phải là hành vi, nó chỉ được thực hiện bởi
hành vi. Những suy nghĩ, quan niệm, tư tưởng, khi chưa thể hiện thành hành
vi thì dù xấu thế nào cũng chưa phải là vi phạm pháp luật. Hành vi có thể
thực hiện dưới hình thức hành động hoặc không hành động.
Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục là loại hành vi
xâm hại hoặc có nguy cơ xâm hại đến các quan hệ xã hội hình thành trong
lĩnh vực quản lý nhà nước về giáo dục. Các quan hệ này được nhà nước tác
động, điều chỉnh bằng pháp luật. Mặc dù có nội dung đa dạng nhưng các
quan hệ xã hội trong quản lý nhà nước được sắp xếp, phân loại thành những
nhóm nhất định do các quy phạm pháp luật hành chính điều chỉnh, tạo nên
trật tự quản lý nhà nước. Tĩnh xâm hại đến các quy tắc quản lý nhà nước
trong hoạt động giáo dục của hành vi vi phạm hành chính là việc làm tổn hại
đến các trật tự quản lý nhà nước trong hoạt động giáo dục được pháp luật
quy định và bảo vệ.
Thứ hai, tính trái pháp luật của hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giáo dục thể hiện ở chỗ, những hành vi do chủ thể vi phạm hành chính
thực hiện trái với quy định của pháp luật hành chính điểu chỉnh các quan hệ
trong lĩnh vực quản lý nhà nước về giáo dục. Cụ thể hơn, đó là hành động bị
pháp luật hành chính cấm, hoặc không thực hiện, hay thực hiện không đúng,
hành động mà pháp luật hành chính buộc phải thực hiện. Ví dụ: Pháp luật
quy định không được cấp văn bằng, chứng chỉ có nội dung sai gây trở ngại
cho người sử dụng mà vẫn cấp văn bằng chứng chỉ có nội dung sai gây trở
ngại cho người sử dụng, hoặc phải dạy đủ số tiết, nội dung kiến thức môn
học nhưng không dạy đủ theo quy định…thì đều là hành vi (hành động và

không hành động) trái pháp luật.

10


Tuy nhiên, một cá nhân, tổ chức khi thực hiện hành vi chưa được
ngành luật hành chính và các văn bản pháp luật quy định về quản lý nhà
nước ở lĩnh vực giáo dục quy định và bảo vệ (thể hiện trong các văn bản
pháp luật quy định về hành vi vi phạm hành chính, xử phạt vi phạm hành
chính) thì không bị coi là trái pháp luật hành chính trong lĩnh vực giáo dục.
Trên cơ sở thừa nhận tính trái pháp luật hành chính là một dấu hiệu của vi
phạm hành chính, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 quy định:
“ Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt hành chính khi có vi phạm hành chính do
pháp luật quy định”.
Không phải mọi hành vi có tính chất trái pháp luật hành chính đểu là
vi phạm hành chính, nói cách khác, không phải mọi hành vi có tính trái các
quy định quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục đều là vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giáo dục. Một số tội phạm cũng là hành vi trái pháp
luật hành chính về giáo dục (tội chống người thi hành công vụ, tội kinh
doanh trái phép…) nhưng phải xử lý hình sự. Để phân biệt tội phạm với vi
phạm hành chính trong trường hợp hai loại vi phạm này cùng có chung
khách thể, người ta lấy tiêu chí là mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
để phân biệt.
Phạm vi của đề tài này không cho phép đi sâu vào phân tích, so sánh
để phân biệt giữa tội phạm và vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục,
tuy nhiên có thể thấy các tiêu chí để phân biệt giữa tội phạm và vi phạm
hành chính là:
- Loại khách thể bị xâm hại, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi là
tiêu chí đầu tiên.
- Hành vi đó đã bị xử lý hành chính hay chưa? Theo quy định của Bộ

Luật Hình sự Việt Nam có rất nhiều tội danh có cấu thành “ đã bị xử phạt vi
phạm hành chính mà còn vi phạm”.
- Phần lớn các cấu thành vi phạm hành chính không bắt buộc phải có
dấu hiệu hậu quả thiệt hại của hành vi và quan hệ nhân quả giữa hành vi và
11


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được
sửa đổi, bổ sung năm 2001.
2. Văn kiện Đại hội Đảng, Kết luận của Hội nghị TW.
3. Hồ Chí Minh, Toàn tập Nxb Chính trị Quốc gia
4. Các văn bản hiện hành về giáo dục-đào tạo, Nxb Thống kê(2001-2003)
gồm 05 tập.
5. Giáo trình Luật Hành chính-Khoa Luật-Đại học Quốc gia Hà nội.
6. Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật-Học viện Hành chính Quốc
gia.
7. Giáo trình Luật Hành chính và Tài phán Hành chính-Học viện Hành chính
Quốc gia-2004.
8. Giáo trình Luật Hành chính-Đại học Luật Hà Nội.
9. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học-Vũ Cao Đàm-1997.
9. Phạm Minh Hạc-Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện
(tháng9/2002) Tạp chí Cộng sản.
10. Phạm Minh Hạc-Giáo dục nhân cách đào tạo nhân lực, Nxb Chính trị
Quốc gia-1997.
11. Phạm Thành Nghị -Vấn đề kiểm định chất lượng giáo dục đại học nước
ta(tháng10/2002) Tạp chí Giáo dục.
12. Hội nghị thông tin giáo dục Quốc tế-Hiện đại hóa giáo dục Nhật Bản,
Nxb CHính trị Quốc gia.
13. Bộ Giáo dục và Đào tạo(2004), báo cáo tình hình thi hành Luật Giáo dục

trong 05 năm 1998-2003 và những nội dung cần sửa đổi, bổ sung đối với các
quy định của Luật Giáo dục.
14. Báo cáo thanh tra, thanh tra tuyển sinh của Thanh tra Bộ Giáo dục và
Đào tạo.
12


15. Thông tin tham khảo từ Cục An ninh Tư tưởng Văn hóa - Bộ Công An
16. Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010, Nxb Giáo dục-2002.
17. Viện nghiên cứu phát triển giáo dục (1997), Một số nét về giáo dục và
đào tạo ở Việt Nam, Lưu hành nội bộ.
18. Luật Giáo dục của nước Bỉ trong sách “những Bộ luật của Bỉ” (1965)
bản dịch từ tiếng Pháp.
19. Giáo dục Việt Nam hướng tới tương lai vấn đề và giải pháp (2004) NxB
Chính trị Quốc gia.
20. Và các Tài liệu chuyên khảo khác….

13



×