Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chỉ ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (332.04 KB, 20 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHÍ THỊ THANH TÂM

PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
TRONG LĨNH VỰC BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY

NGƢỜI HƢỚNG DẪN: PGS. TS THÁI VĨNH THẮNG

HÀ NỘI, 2007

1


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền báo chí cách mạng nước ta đã có những đóng góp to lớn trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trước đây cũng như trong sự nghiệp đổi
mới và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Chủ
trương đổi mới do Đảng khởi xướng cùng với những thành tựu vĩ đại của
công nghệ thông tin đã làm cho nền báo chí nước ta trong những năm gần đây
phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng. Chính vì vậy, công tác quản lý
Nhà nước về báo chí cần được tăng cường trong giai đoạn hiện nay.
Ngày 17-10-1997, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa VIII đã có Chỉ thị 22/CT-TƯ về Tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh
đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản. Cùng với những quan điểm chỉ đạo
quan trọng về hoạt động báo chí, quan điểm "phát triển đi đôi với quản lý tốt"
là một nguyên tắc cơ bản định hướng cho nội dung quản lý nhà nước về báo


chí trong tình hình mới. Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa X cũng đã thông qua
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật báo chí ngày 12-6-1999. Việc
thông qua Luật này tạo cơ sở hoàn chỉnh về hành lang pháp lý cho hoạt động
báo chí, đảm bảo sự bình đẳng, dân chủ trong thông tin, bảo đảm quyền tự do
báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí của công dân. Đây cũng là điều kiện mới
để báo chí Việt Nam phát triển, hội nhập với báo chí khu vực và trên thế giới.
Thực tiễn hơn 20 năm đổi mới, báo chí nước ta đã chuyển hướng kịp
thời, không ngừng phát triển và đã đạt được những thành tựu quan trọng.
Chưa thời điểm nào mặt trận báo chí phát triển mạnh, phong phú, đúng
hướng, tiến bộ cả về số lượng và chất lượng như hiện nay. Báo chí đã bám sát
đời sống xã hội; cung cấp thông tin đa chiều, sâu sắc; tạo dư luận xã hội rộng
lớn, đồng thuận với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Hầu hết
các cơ quan báo chí đã tuyên truyền sâu rộng gương người tốt, việc tốt; sản

2


phẩm mới, công trình mới, rút ra những kinh nghiệm hay, bài học tốt, thúc
đẩy phong trào thi đua, xây dựng xã hội phát triển lành mạnh. Đặc biệt trên
lĩnh vực chống tham nhũng, tiêu cực, quan liêu, lãng phí, các cơ quan báo chí
đã dũng cảm, sáng tạo, mang lại hiệu quả cao.
Tuy nhiên, trong thời gian qua báo chí cũng bộc lộ nhiều hạn chế, sai
sót, cần sớm khắc phục. Đó là: xu hướng thương mại hóa; xa rời tôn chỉ mục
đích, đối tượng phục vụ; làm lộ bí mật, an ninh quốc gia. Báo chí còn chưa
đến được đông đảo nhân dân lao động ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng
xa. Nhiều tờ báo đăng bài, ảnh dung tục, thiếu văn hóa, đi ngược lại thuần
phong mỹ tục của dân tộc ta. Có nhiều phóng viên báo chí đã bộc lộ sự non
nớt về chính trị; phẩm chất đạo đức nghề nghiệp yếu kém, thiếu tính chuyên
nghiệp, làm ảnh hưởng xấu đến uy tín tờ báo và giới báo chí cả nước.
Những tồn tại trên một phần là do hệ thống văn bản pháp luật trong

lĩnh vực hoạt động báo chí còn thiếu, chưa đồng bộ, chưa được bổ sung, sửa
đổi kịp thời phù hợp với thực tiễn hoạt động báo chí. Ngoài ra, nguyên tắc
"phát triển báo chí đi đôi với quản lý tốt" chưa được quán triệt đầy đủ. Vì vậy,
phải có sự nghiên cứu để bổ sung, hoàn thiện hơn nữa pháp luật về quản lý
nhà nước đối với hoạt động báo chí.
Hoạt động báo chí trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong
quá trình hội nhập quốc tế và nhất là khi Việt Nam chính thức trở thành thành
viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đang đặt ra những yêu cầu mới.
Không nắm bắt được tình hình, báo chí khó có thể đảm đương được nhiệm
vụ và giữ vững bản lĩnh của mình. Trong điều kiện bùng nổ thông tin hiện
nay, khi các phương tiện thông tin kỹ thuật hiện đại ngày càng chiếm vị trí
quan trọng trong đời sống xã hội, hoạt động báo chí và việc xây dựng hành
lang pháp lý trong lĩnh vực báo chí cần được tăng cường và củng cố nhiều
mặt mới đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Bởi vậy, nghiên cứu hoàn thiện pháp
luật về quản lý nhà nước đối với báo chí trong giai đoạn hiện nay là vấn đề
cấp thiết.

3


Với lý do đó, tôi lựa chọn vấn đề: "Pháp luật về quản lý Nhà nước
trong lĩnh vực báo chí ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài luận văn Thạc sĩ,
chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong quá trình nghiên cứu lý luận báo chí, đề cập tới các khía cạnh
khác nhau của đề tài đã có nhiều bài báo nghiên cứu khoa học được đăng tải
rải rác trên các tạp chí chuyên ngành như: "Phạm vi bao quát và tăng cường
hiệu lực quản lý nhà nước thi hành Luật Báo chí" (Nguyễn Văn Dững - Tạp
chí Báo chí và Tuyên truyền, số 4/1998; "Quản lý nhà nước về báo chí qua 8
năm thi hành Luật Báo chí" (Đỗ Quý Doãn - Chuyên san Nhà báo và Công

luận, số 4/1998); "Báo chí Việt Nam - nhìn lại để bước vào thế kỷ mới" (Đỗ
Quý Doãn - Tạp chí Người làm báo, số tháng 12/1999); "Vấn đề lãnh đạo
quản lý báo chí trong thời kỳ đổi mới" (Bùi Đình Khôi - Tạp chí Người làm
báo, số tháng 6/1997; "Về mặt tổ chức quản lý báo chí, còn nhiều vấn đề phải
bàn" (Châu Văn Thư - Tạp chí Người làm báo, số tháng 1/1999); "Một số vấn
đề về quảng cáo trên các phương tiện truyền thông" (Đinh Hường - Tạp chí
Người làm báo, số tháng 5/2000); "Quản lý báo chí trong sự nghiệp đổi mới
đất nước hiện nay" (Lê Doãn Hợp - Báo điện tử Nhân dân, ngày 18/6/2007);
"Nhân ngày báo chí cách mạng Việt Nam (21-6): xã hội hóa hơn nữa để phát
triển" (Vũ Duy Thông - Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 20/6/2006);
"Một số vấn đề đặt ra trong công tác lãnh đạo, quản lý báo chí trước yêu cầu
mới" (Hồng Vinh - Báo Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 21/6/2006);
"Tiếp tục đổi mới và phát triển vững chắc nền báo chí cách mạng nước ta"
(Tô Huy Rứa - Báo Nhân dân, ngày 21/6/2007). Ngoài ra, vấn đề quản lý nhà
nước về báo chí luôn luôn được đề cập tới trong các cuốn sách nghiên cứu
nghiệp vụ của các cơ sở đào tạo báo chí, trong các tác phẩm của các tác giả
nghiên cứu về lý luận báo chí lâu năm như Hữu Thọ, Tạ Ngọc Tấn, Hà Minh
Đức... Tuy nhiên, như trên đã trình bày, hầu hết các tác giả trên mới dừng lại
ở mức độ đề cập giải quyết một số khía cạnh của vấn đề, những hiện tượng

4


đơn lẻ của thực tiễn báo chí đất nước. Chưa có một công trình nghiên cứu sâu,
đầy đủ, có trọng tâm, trọng điểm và toàn diện về vấn đề này với tư cách là
một đề tài nghiên cứu khoa học từ góc nhìn của khoa học luật - đi tìm cơ sở
pháp lý của quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực
tiễn của pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí, từ đó đề

xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với
báo chí ở Việt Nam hiện nay.
Từ mục đích đặt ra như trên, nhiệm vụ của luận văn là:
- Làm rõ sự cần thiết quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực
báo chí, vai trò của pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí.
- Nêu thực trạng pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí
ở Việt Nam hiện nay; những thành tựu và hạn chế, nguyên nhân của những
mặt còn tồn tại và những vấn đề đang đặt ra đối với báo chí hiện nay.
- Trên cơ sở đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị, các giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí ở Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở khoa học của đề tài
- Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối chính sách của
Đảng và Nhà nước ta về pháp luật; lý thuyết về sự điều chỉnh của pháp luật về
quản lý nhà nước đối với tổ chức, hoạt động báo chí.
- Cơ sở thực tiễn: Hoạt động báo chí và pháp luật về quản lý nhà nước
đối với báo chí
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là pháp luật về quản lý nhà nước
trong lĩnh vực báo chí.

5


Phạm vi nghiên cứu: Luận văn không nghiên cứu về báo chí nói chung
mà chỉ đi sâu nghiên cứu pháp luật hiện hành về quản lý nhà nước đối với lĩnh
vực này nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với báo chí hiện nay.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phân tích, tổng
hợp, thống kê, lôgíc, so sánh đối chiếu, khoa học dự báo để hình thành các

khái niệm khoa học, đánh giá pháp luật, thực hiện pháp luật về quản lý nhà
nước trong lĩnh vực báo chí.
7. Đóng góp mới của luận văn
Một là, bước đầu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận pháp luật về quản
lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí, làm rõ vai trò của pháp luật đối với quản
lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí; bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn
luận của công dân.
Hai là, làm rõ lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về quản lý
nhà nước trong lĩnh vực báo chí từ Cách mạng tháng Tám đến nay, trong đó
làm sáng tỏ quá trình vừa kế thừa vừa phát triển liên tục của pháp luật về quản
lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí.
Ba là, bước đầu đánh giá thực trạng pháp luật về quản lý trong lĩnh
vực báo chí và thực trạng thực hiện pháp luật báo chí; nêu ra một số xu hướng
phát triển báo chí.
Bốn là, đưa ra một số quan điểm và phương hướng tạo cơ sở cho việc
hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí; đề xuất một
số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lý trong lĩnh vực
báo chí trong đó kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí
1999 (sửa đổi).
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:

6


Chương 1: Cơ sở lý luận của pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh
vực báo chí.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực
báo chí ở Việt Nam hiện nay và thực trạng thực hiện.

Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý
nhà nước trong lĩnh vực báo chí ở Việt Nam hiện nay.

7


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
TRONG LĨNH VỰC BÁO CHÍ

1.1. QUAN NIỆM PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC TRONG LĨNH
VỰC BÁO CHÍ

Ở nước ta, pháp luật về quản nhà nước trong lĩnh vực báo chí là một
bộ phận quan trọng của pháp luật hành chính và hệ thống pháp luật Việt Nam.
Tuy nhiên, trong nhiều năm qua vì những lý do khách quan, chủ quan khác
nhau mà khái niệm pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí chưa
được nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và có hệ thống. Do đó, đến nay
trong khoa học pháp lý ở Việt Nam, vẫn chưa đưa ra được một quan niệm
thống nhất, hoàn chỉnh về pháp luật trong quản lý nhà nước về báo chí.
Để làm sáng tỏ quan niệm pháp luật về quản lý trong lĩnh vực báo chí,
trước hết chúng ta cần làm rõ quan niệm "quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo
chí", các đặc điểm của quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí.
1.1.1. Quan niệm, đặc điểm quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực báo chí
Luật Báo chí năm 1999 (sửa đổi) quy định các nội dung quản lý nhà
nước về báo chí: Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp
luật về báo chí; xây dựng chế độ, chính sách về báo chí; tổ chức thông tin cho
báo chí; quản lý thông tin của báo chí; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ
chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ báo chí; tổ
chức, quản lý hoạt động khoa học, công nghệ trong lĩnh vực báo chí; cấp, thu

hồi giấy phép hoạt động báo chí, thẻ nhà báo; quản lý hợp tác quốc tế về báo
chí, quản lý hoạt động báo chí Việt Nam liên quan đến nước ngoài và hoạt
động báo chí nước ngoài tại Việt Nam; kiểm tra báo chí lưu chuyển; quản lý
kho lưu chiểu báo chí; tổ chức, chỉ đạo công tác khen thưởng trong hoạt động
báo chí; hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chế độ, chính sách, quy

8


hoạch, kế hoạch phát triển báo chí, việc chấp hành pháp luật về báo chí; thi
hành các biện pháp ngăn chặn hoạt động báo chí trái pháp luật; giải quyết
khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm trong hoạt động báo chí.
Từ những nội dung nêu trên, có thể thấy rằng, hoạt động quản lý nhà
nước trong lĩnh vực báo chí ở nước ta xuất hiện chủ yếu là hoạt động của cơ
quan lập pháp và cơ quan hành pháp, nhưng còn thiếu vắng hoạt động của cơ
quan tư pháp (xét xử) khi có hành vi vi phạm pháp luật về báo chí.
Dưới góc độ khoa học học quản lý, "quản lý nhà nước về báo chí",
hiểu theo ý nghĩa trên là một khái niệm rộng bao hàm: Việc xây dựng và tổ
chức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực báo chí, mà trọng tâm là các hoạt
động chấp hành và điều hành của các cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo trật tự quản lý và quyền
công dân trong lĩnh vực báo chí, hướng tới xây dựng một nền báo chí tiến bộ,
cách mạng phục vụ sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền, kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng kịp thời thông tin phục vụ đời
sống cá nhân, xã hội.
Qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn, chúng tôi thấy quản lý nhà nước
trong lĩnh vực báo chí được thể hiện trên các phương diện sau:
Một là, quản lý nhà nước về báo chí là một dạng hoạt động mang tính
quyền lực đặc biệt, tính tổ chức cao và được điều chỉnh bằng pháp luật.
Như các hoạt động quản lý nhà nước nói chung, quản lý nhà nước

trong lĩnh vực báo chí luôn hướng tới phục vụ mục đích xây dựng trên quan
điểm của Đảng và Nhà nước là: mọi chủ trương, đường lối, hoạt động của
Đảng và Nhà nước và toàn xã hội đều nhằm mục đích vì cuộc sống và hạnh
phúc của nhân dân, vì nhân dân là cội nguồn của quyền lực. Vì vậy, hoạt động
này mang tính quyền lực đặc biệt của Nhà nước "của dân, do dân và vì dân".
Hoạt động quản lý nhà nước về báo chí thực chất là sự tác động mang
tính tổ chức cao và được điều chỉnh bằng pháp luật. Để quản lý tốt, cần biết tổ

9


chức về mặt thực tiễn các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực báo chí. Tính tổ
chức cao thể hiện ở hai phương diện: Thứ nhất, đây là hoạt động trực tiếp của
các cơ quan nhà nước được giao chức năng nhiệm vụ trong lĩnh vực báo chí.
Thứ hai, đây là hoạt động phải được đảm bảo về tổ chức (bộ máy) chuyên
trách, mà tổ chức này được hình thành xuất phát từ nhu cầu quản lý nhà nước
và đòi hỏi mang tính khoa học để đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động. Thực
tiễn cho thấy, không có tổ chức, thì quản lý sẽ bị lỏng, sơ hở và kém hiệu quả,
thậm chí có thể dẫn đến tình trạng vô chính phủ.
Để quản lý nhà nước về báo chí có hiệu quả, pháp luật được nhà nước
sử dụng như một kênh để tổ chức bộ máy và định chi tiết các khuôn mẫu xử
sự của các cơ quan quản lý cũng như công dân trong mối quan hệ thể hiện
quyền và nghĩa giữa Nhà nước và công dân. Trong hoạt động quản lý nhà
nước về báo chí, các cơ quan nhà nước luôn đụng chạm tới quyền tự do báo
chí, tự do ngôn luận của công dân cho nên phải căn cứ vào các quy định của
pháp luật để giải quyết. Do vậy, cũng giống như quản lý hành chính nhà nước
nói chung, quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí được điều chỉnh bằng
pháp luật theo phương pháp mệnh lệnh.
Hai là, quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí là hình thức quản lý
nhà nước vừa mang tính phổ quát vừa mang tính đặc thù

Điều này được thể hiện trên hai phương diện: Thứ nhất, quyền tự do
báo chí, tự do ngôn luận là một cơ bản của công dân. Các nhà nước trên thế
giới không thể không ghi nhận trong Hiến pháp và tạo ra cơ chế pháp lý để
đảm bảo thực hiện nó trong đời sống xã hội. Các nhà nước đều thực hiện chức
năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí đồng thời luôn coi việc thực
hiện chức năng quản lý trong lĩnh vực này là hoạt động có mục tiêu chiến
lược, có chương trình và có kế hoạch để thực hiện mục tiêu nhằm mở rộng
dân chủ, thúc đẩy quá trình giao lưu và hội nhập, nâng cao đời sống văn hóa
tinh thần cho người dân…. Đặc điểm này đòi hỏi hoạt động quản lý nhà nước
trong lĩnh vực báo chí phải có chương trình, kế hoạch dài hạn, trung hạn và

10


hàng năm; có tiêu chí vừa mang tính định hướng vừa mang tính pháp lệnh và
có biện pháp cơ bản để tổ chức thực hiện các tiêu chí đó. Vì vậy, quản lý báo
chí là quản lý mang tính phổ quát toàn cầu. Thứ hai, do báo chí có vai trò hết
sức to lớn trong việc thông tin, tư tưởng, phát triển văn hóa và giải trí; là vũ
khí tư tưởng sắc bén nên mỗi nhà nước với các thể chế chính trị, điều kiện
kinh tế - xã hội, văn hóa khác nhau sẽ quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí
với những nét đặc thù.
Ba là, quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí là quản lý trên lĩnh
vực tư tưởng văn hóa
Quản lý nhà nước trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa khác với quản lý nhà
nước trong hoạt động vật chất như: quản lý hoạt động xuất nhập cảnh, kinh
doanh, du lịch… Lĩnh vực báo chí liên quan trực tiếp đến con người - thực thể
xã hội cụ thể với tư tưởng, trạng thái, nhận thức cụ thể. Hơn nữa, quản lý nhà
nước trên lĩnh vực báo chí gắn liền với thể chế chính trị nhất định, thể hiện
mục tiêu, lợi ích của nhà nước nên tính định hướng chính trị của nội dung
thông tin được quan tâm đặc biệt.

1.1.2. Quan niệm pháp luật về quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực
báo chí
Để làm rõ quan niệm pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực
báo chí, chúng ta cần phân tích và đặt nó trong mối quan hệ với pháp luật
hành chính.
Theo giáo trình về quản lý nhà nước của Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh (1996) thì: "Quản lý hành chính nhà nước là dạng quản lý xã
hội mang tính quyền lực nhà nước với chức năng chấp hành luật và tổ chức
thực hiện luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp và hành chính nhà
nước (hệ thống Chính phủ và chính quyền địa phương [41, tr. 10].
Trong sách "Luật hành chính Việt Nam (2005), PGS.TS Đinh Văn
Mậu và PGS.TS Phạm Hồng Thái cho rằng:

11


Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh
bằng

12


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. VĂN KIỆN CỦA ĐẢNG
1. Chỉ thị 22-CT/TW ngày 17-10-1997 của Bộ Chính trị (Khóa VIII) về đổi
mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản
2. Chỉ thị 37-CT/TW ngày 18-3-2004 của Ban Bí thư về tiếp tục nâng cao
vai trò, chất lượng hoạt động của Hội Nhà báo Việt Nam trong thời
kỳ đổi mới.

3. Chỉ thị số 52-CT/TW ngày 22-7-2005 của Ban Bí thư về phát triển và
quản lý báo điện tử ở nước ta hiện nay.
4. Thông báo kết luận số 162-TB/TW ngày 1-12-2004 của Bộ Chính trị
(Khóa IX) về một số biện pháp tăng cường quản lý báo chí trong tình
hình hiện nay.
5. Thông báo kết luận số 41-TB/TW ngày 11-10-2006 của Bộ Chính trị
(Khóa X) về một số biện pháp tăng cường lãnh đạo, quản lý báo chí.
6. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (2000), Nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (2006), Nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
II. VĂN BẢN PHÁP LUẬT
8. Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Bộ luật Hình sự nước CHXHCN Việt Nam (2000), Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.

13


10. Chính phủ (1992), Nghị định 133 - HĐBT ngày 20/4/1992 quy định chi
tiết thi hành Luật Báo chí 1989, Hà Nội.
11. Chính phủ (1996), Nghị định số 67/NĐ-CP ngày 31/10/1996 ban hành
Quy chế hoạt động thông tin, báo chí của phóng viên nước ngoài,
các cơ quan, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam.
12. Chính phủ (2002), Nghị định số 51/2002/NĐ-CP ngày 26/4/2002 quy định
chi tiết thi hành Luật Báo chí, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
Luật Báo chí.
13. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 1946, 1959,
1980, 1992), (1995), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

14. Luật Báo chí (1989), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
15. Luật Báo chí (đã được sửa đổi, bổ sung năm 1999), Nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
16. Pháp lệnh Bảo vệ bí mật Nhà nước.
17. Pháp lệnh Quảng cáo.
18. Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính (1995).
19. Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính (1995).
III. SÁCH, BÁO
20. Ban Tuyên giáo Trung ương (2007), Tăng cường lãnh đạo, quản lý tạo
điều kiện để báo chí nước ta phát triển mạnh mẽ, vững chắc trong
thời gian tới, Nhà xuất bản lý luận chính trị, Hà Nội.
21. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Bộ Văn hóa - Thông tin, Hội nhà
báo Việt Nam (2002), Tiếp tục thực hiện Chỉ thị 22-CT/TW của Bộ
Chính trị (Khóa VIII) về đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý
công tác báo chí, xuất bản, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.

14


22. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2007), Hoạt động báo chí năm
2006, phương hướng nhiệm vụ năm 2007, Hà Nội.
23. Lê Thanh Bình (2004), Quản lý và phát triển báo chí - xuất bản, Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
24. Nguyễn Đức Bình (1995), "Vai trò của báo chí trong hệ thống công tác tư
tưởng", Tạp chí Báo chí & Tuyên truyền (1).
25. Nguyễn Đức Bình (1997), "Những quan điểm hàng đầu đối với công tác
báo chí, xuất bản", Tạp chí Báo chí & Tuyên truyền, (5).
26. Nguyễn Đức Bình (1998), Phấn đấu nâng cao chất lượng, phát huy vai
trò to lớn của báo chí, xuất bản trong thời kỳ mới, Tài liệu môn Báo

chí học, T.2, Khoa Báo chí, Phân viện BCTT xuất bản, Hà Nội.
27. Bộ Văn hóa - Thông tin (2007), Báo cáo sơ kết 2 năm thực hiện Thông
báo Kết luận 162-TB/TW của Bộ Chính trị về một số biện pháp tăng
cường quản lý báo chí trong tình hình hiện nay, Hà Nội.
28. Bộ Văn hóa - Thông tin (2007), Báo cáo tình hình công tác quản lý nhà
nước về báo chí, Hà Nội.
29. Cục bảo vệ an ninh văn hóa - tư tưởng, Tổng cục an ninh (1998), Văn bản
pháp quy về báo chí - xuất bản, Hà Nội.
30. Nguyễn Văn Cường (2006), Hoàn thiện pháp luật trong quản lý nhà nước
về xuất cảnh, nhập cảnh ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Viện
Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.
31. Trần Bá Dung (2000), Các quan điểm của Đảng về báo chí trong thời kỳ
đổi mới (từ 1986 đến 1999), Luận án Thạc sĩ khoa học xã hội và
nhân văn, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
32. Nguyễn Văn Dững (1996), "Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí",
Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền (số 3).
33. Nguyễn Văn Dững (1998), "Phạm vi bao quát và tăng cường hiệu lực
QLNN thi hành Luật Báo chí", Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền (4).

15


34. Nguyễn Văn Dững (2000), "Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về phê bình
và tự phê bình công khai trên báo chí", Tạp chí Báo chí và Tuyên
truyền (3).
35. Hà Minh Đức chủ biên (1997), Báo chí- những vấn đề lý luận và thực
tiễn, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội.
36. Hà Minh Đức (2005), Báo chí Hồ Chí Minh - Chuyên luận và tuyển chọn,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
37. Nguyễn Duy Gia (1996), Cải cách nền hành chính quốc gia ở nước ta,

Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
38. Hans - Ingvar Johnsson (1995), Bức tranh toàn cảnh Thụy Điển, Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
39. Lương Khắc Hiếu (1999), Dư luận xã hội trong sự nghiệp đổi mới, Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
40. Chử Kim Hoa (2001), Quản lý nhà nước về báo chí thời kỳ đổi mới, Luận
án Thạc sĩ Báo chí, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
41. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1996), Giáo trình về quản lý
nhà nước, tập II, Hà Nội
42. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Phân viện Báo chí và Tuyên
truyền Giáo trình Cơ sở lý luận báo chí, (1999), Giáo trình cơ sở lý
luận báo chí, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
43. Học viện Hành chính Quốc gia (2005), Giáo trình Luật Hành chính và Tài
phán hành chính Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
44. Học viện Hành chính Quốc gia (2006), Giáo trình Hành chính công, Nhà
xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
45. Lê Văn Hòe (chủ biên) (2005), Các văn kiện của Đảng và Nhà nước về
cải cách bộ máy nhà nước, Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

16


46. Hội nhà báo (2006), Báo cáo sơ kết 2 năm thực hiện Thông báo Kết luận
162-TB/TW của Bộ Chính trị về một số biện pháp tăng cường quản
lý báo chí trong tình hình hiện nay, Hà Nội.
47. Lê Doãn Hợp (2007), "Quản lý báo chí trong sự nghiệp đổi mới đất nước
hiện nay", Báo điện tử Nhân dân (18/6)
48. Trần Đình Huỳnh (2001), Phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước, NXB
Hà Nội.

49. Kỷ yếu Hội thảo: 80 năm báo chí cách mạng Việt Nam - Những bài học
lịch sử và định hướng phát triển, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
Hà Nội 2005.
50. V.I. Lênin (1981), Toàn tập, tập 36, Nhà xuất bản Tiến bộ, Matxcơva.
51. Đinh Văn Mậu và Phạm Hồng Thái (2005), Luật hành chính Việt Nam,
Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
52. Hồ Chí Minh (1990), Về nhà nước và pháp luật Việt Nam, Nhà xuất bản
pháp lý, Hà Nội.
53. Mai Phi Nga (2003), Một số vấn đề về đạo đức cán bộ, công chức trong
lĩnh vực xuất bản, báo chí, Luận án Thạc sĩ Quản lý hành chính
công, Học viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội.
54. Phạm Quang Nghị (1997), "Bước phát triển của báo chí trong quá trình
đổi mới ở nước ta", Tạp chí Cộng sản (11).
55. Nguyên Ngọc (2005), "Tên gọi của một đạo luật", Tạp chí nghiên cứu lập
pháp 7 (54) tr. 8-9.
56. Phan Quang (2001), Về diện mạo báo chí Việt Nam - Tiểu luận và chân
dung, Nhà xuất Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
57. Tô Huy Rứa (2007), "Tiếp tục đổi mới và phát triển vững chắc nền báo
chí cách mạng nước ta", Báo Nhân dân (21/6).

17


58. Tạ Ngọc Tấn (1996), "Khuynh hướng chính trị-tư tưởng trong báo chí",
Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền (8).
59. Tạ Ngọc Tấn (1998), "Mặt sau của bức tranh toàn cầu hóa thông tin đại
chúng", Tạp chí Cộng sản (8).
60. Tạ Ngọc Tấn (1999), Từ lý luận đến thực tiễn báo chí, Nhà xuất bản Văn
hóa Thông tin, Hà Nội.
61. Tạ Ngọc Tấn (2001), Truyền thông đại chúng, Nhà xuất bản Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.
62. Nguyễn Văn Thâm (chủ biên) (2002), Thủ tục hành chính - lý luận và
thực tiễn, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
63. Chu Hồng Thanh (1998), Nhà nước quản lý kinh tế bằng pháp luật trong
cơ chế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Luận án PTS Luật học, Học
viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
64. Chu Thái Thành (1999), Đội ngũ nhà báo Việt Nam trong công cuộc đổi
mới theo định hướng XHCN, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
65. Hữu Thọ (1997), Nghĩ về nghề báo, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
66. Hữu Thọ (2002), Theo bước chân đổi mới, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
67. Vũ Duy Thông (chủ biên) (2004), Thực trạng và giải pháp nâng cao trình
độ cán bộ báo chí hiện nay, Đề tài khoa học, Ban Tư tưởng Văn hóa
Trung ương, Hà Nội.
68. Vũ Duy Thông (2007), "Nhân ngày báo chí cách mạng Việt Nam (21-6)
xã hội hóa hơn nữa để phát triển", Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt
Nam (20/6).

18


69. Vũ Đình Thường (2004), Hoạt động báo chí trong kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, Luận án Thạc sĩ Văn
hóa học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
70. Nguyễn Vũ Tiến (2003), Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí trong thời
kỳ đổi mới, Luận án Tiến sĩ lịch sử, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội
71. Nguyễn Vũ Tiến (2005), Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí trong
thời kỳ đổi mới, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

72. Trần Công Trục (1996), Hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với
các vùng biển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận
án Tiến sĩ Luật, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
73. Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình lý luận nhà nước và pháp
luật, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.
74. Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (1994), Giáo trình Luật hành chính
Việt Nam, Hà Nội.
75. Đào Trí Úc (2005), "Mối quan hệ giữa nhà nước với xã hội dân sự và
vấn đề cải cách hành chính", Tạp chí Nhà nước và pháp luật 4(192),
tr.3-10.
76. Văn bản pháp quy về báo chí - xuất bản (2006), Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
77. Hồng Vinh (2007), "Một số vấn đề đặt ra trong công tác lãnh đạo, quản
lý báo chí trước yêu cầu mới", Báo Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt
Nam(21/6).
78. Võ Khánh Vinh (2005), "Khái quát về hệ thống pháp luật Việt Nam: 60
năm hình thành và phát triển", Tạp chí Nhà nước và pháp luật 9
(209), tr.50-60.ến (2001), Vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt
động báo chí ở nước ta hiện nay, Luận án Thạc sĩ Quản lý nhà nước,
Học viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội

19


79. Nguyễn Văn Yểu (2004), "Hoàn thiện hệ thống pháp luật để phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Tạp chí Cộng sản,
(20), tr.8-13.

20




×