Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Bảo vệ quyền lợi lao động nữ trong pháp luật lao động việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.36 KB, 10 trang )

đại học quốc gia hà nội
khoa luật

BO V QUYN LI LAO NG N TRONG PHP LUT LAO NG VIT
NAM

bùi quang hiệp

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60 38 50

đề c-ơng luận văn thạc sĩ luật học
Giáo viên h-ớng dẫn: ts nguyễn hữu chí

hà nội 2007


1. Tính cấp thiết của đề tài
Khai thác tiềm năng lao động của đất n-ớc, tạo thêm nhiều việc làm, thúc đẩy sự
phát triển của thị tr-ờng lao động là một trong những mục tiêu và nhiệm vụ của pháp
luật lao động. Đồng thời, yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cả ng-ời sử
dụng lao động và ng-ời lao động, bảo đảm mối quan hệ về lợi ích trong quan hệ lao
động phát triển hài hoà và ổn định cũng đặt ra một cách cấp thiết. Với vị trí, t- cách
của ng-ời lao động, việc bảo vệ quyền và lợi ích của lao động nữ, tr-ớc hết là quyền
bình đẳng với lao động nam không nằm ngoài yêu cầu đó. Thực hiện nhiệm vụ này,
hệ thống pháp luật n-ớc ta nói chung, pháp luật lao động nói riêng đã có những đóng
góp quan trọng trong việc hoàn thiện cơ sở pháp lí nhằm bảo đảm sự bình đẳng, bảo
vệ quyền và lợi ích của ng-ời lao động nữ.
Thực tiễn thi hành pháp luật lao động đã cho thấy, sự gia tăng nhu cầu sử dụng lao
động và tăng thu nhập cho ng-ời lao động không đồng nhất với với sự bảo đảm quyền
lợi của ng-ời lao động. Do những đặc điểm về tâm sinh lý, giới tính, lao động nữ


th-ờng gặp khó khăn hơn so với lao động nam trong quan hệ lao động. Cùng với quan
niệm sai lệch về giới, những khó khăn này đã làm cho lao động nữ trở thành đối t-ợng
dễ bị tổn th-ơng hơn. Điều này càng trở nên không thuận lợi khi lao động nữ ngày
càng chiếm số đông trên thị tr-ờng lao động.
Trong tình hình đó việc nghiên cứu đề tài: pháp luật về bảo hiểm xã hội liên quan đến
lao động nữ một số vấn đề lý luận và thực tiễn đ-ợc lựa chọn đáp ứng yêu cầu lý luận
và thực tiễn đang đặt ra. Mặc dù BLLĐ mới có hiệu lực từ ngày 01. 01. 2007 nh-ng
luận văn viết trên cơ sở những quy định của Bộ luật mới này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có một số đề tài nghiên cứu, sách báo, tạp chí đề cập đến từng vấn đề, khía cạnh,
hoặc tập trung giải quyết một số vấn đề riêng lẻ mà ch- có một công trình nghiên cứu
riêng nào nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề: Bo v quyn li lao ng n
trong phỏp lut lao ng Vit nam. Do đó đề tài này vẫn còn là một vấn đề mới mẻ
trong hoạt động nghiên cứu khoa học ở quy mô toàn diện
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ cơ sở của luật thực định và cơ sở hoàn
thiện pháp luật lao dong đối với lao động nữ ở n-ớc ta trong giai đoạn hiện nay v
những năm tiếp theo.
Để đạt đ-ợc mục đích trên,tác giả cần phải thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau :


-

Phân tích đặc điểm của lao động nữ và những yếu tố tác động đến lao động nữ
trong nền kinh tế thị tr-ờng ở Việt nam hiện nay. Đánh giá hiện trạng lao động nữ.
Nghiên cứu các qui định phap lut lao ng hiện hành liên quan đến quyn li lao
động nữ và đánh giá thực trạng thi hành và áp dụng.
Từ sự nghiên cứu và phân tích đó luận văn đ-a ra một số khuyn nghị khoa học
nhằm hoàn thiện pháp luật lao ng v bo v quyn li đối với lao động nữ.
Ph-ơng pháp nghiên cứu

Ph-ơng pháp luận : Duy vật biện chứng, duy vật lịch sử
Ph-ơng pháp cụ thể : So sánh, phân tích tổng hợp, khảo sát thực tế

4.
5. Những đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Với mục đích nghiên cứu đã đề ra, luận văn đẵ có những đóng góp mới về khoa học
những vấn đề sau :
- Lần đầu tiên luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống ở bậc sau đại học cả về
mặt lý luận và thực tiễn vấn đề bo v quyn li lao ng n trong phỏp lut lao
ụng Vit nam .
- Luận văn chỉ ra đ-ợc những tồn tại v-ớng mắc của hệ thống các quy định pháp luật
lao ng đôí với lao động nữ và thực tiễn thi hành, áp dụng trong thời gian vừa
qua.
- Luận văn đ-a ra một số khuyn nghị nhằm hoàn thiện pháp luật lao ng nhm
bo v quyn li lao động nữ và nâng cao hiệu qu thc hin
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,luận văn có 3 ch-ơng.
Các nội dung cơ bản gồm :


CHƢƠNG I: Một số vấn đề lí luận về bảo vệ quyền lợi lao động nữ trong nền kinh
tế thị trƣờng ở Việt nam và sự điều chỉnh của pháp luật lao động .
1.1 Sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi lao động nữ trong điều kiện nền kinh tế thị
trƣờng ở Việt nam.
1.1.1 Đặc điểm,vai trò của lao động nữ trong quan hệ lao động.
1.1.2 Quan điểm về quyền bình đẳng của lao động nữ và bảo vệ quyền lợi lao động nữ ở
Việt nam hiện nay trong điều kiện nền KTTT.
1.1.3 Nhu cầu của lao động nữ cần được bảo vệ quyền lợi bằng pháp luật lao động Việt
nam.
1.2 Vai trò của pháp luật lao động trong việc bảo vệ quyền lợi lao động nữ.

1.2.1 Luật lao động quy định các nguyên tắc bảo vệ quyền lợi lao động nữ.
1.2.2 Luật lao động xác định nội dung để bảo vệ quyền lợi của lao động nữ.
CHƢƠNG II: Pháp luật lao động Việt nam hiện hành về bảo vệ quyền lợi lao
động nữ và thực tế áp dụng.
2.1 Sơ lƣợc lịch sử pháp luật lao động về bảo vệ quyền lợi của lao động nữ ở Việt
nam.
2.2 Quy định của pháp luật lao động hiện hành về bảo vệ quyền lợi của lao động nữ
và thực tế thực hiện.
2.2.1 Quy định trong lĩnh vực việc làm, tuyển dụng.
2.2.1.1 Quy định bảo vệ lao động nữ trong lĩnh vực việc làm.
2.2.1.2 Quy định bảo vệ lao động nữ trong lĩnh vực tuyển dụng.
2.2.2 Quy định trong lĩnh vực tiền lương và thu nhập.
2.2.3 Quy định về thời giờ làm việc và thời giờ nghỉ ngơi.
2.2.4 Quy định trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh lao động
2.2.5 Quy định trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội.
2.2.6 Quy định về chấm dứt hợp đồng lao động.
CHƢƠNG III: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật lao động về bảo vệ quyền
lợi lao động nữ ở Việt nam.
3.1 Yêu cầu hoàn thiện các quy định pháp luật để bảo vệ quyền lợi lao động nữ ở
Việt nam.
3.2 Các giải pháp hoàn thiện pháp luật lao động về bảo vệ quyền lợi lao động nữ ở
Việt nam.
3.2.1 Hoàn thiện hệ thống pháp luật lao động Việt nam.
3.2.2 Hoàn thiện cơ chế thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi lao động nữ.


3.2.3 Phê chuẩn các công ước Quốc tế liên quan đến lao động nữ phù hợp với Việt nam.


CHƢƠNG I: Một số vấn đề lí luận về bảo vệ quyền lợi lao động nữ trong nền

kinh tế thị trƣờng ở Việt nam và sự điều chỉnh của pháp luật lao động.
1.1 Sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi lao động nữ trong điều kiện nền kinh tế thị
trƣờng ở Việt nam.
1.1.1 Đặc điểm, vai trò của lao động nữ trong quan hệ lao động.
Trong nền KTTT, hoạt động của mỗi thành viên trong xã hội không tách rời nhau
do mối liên hệ tự nhiên về sản xuất, trao đổi, phân phối tiêu dùng. Các mối quan hệ này
làm nảy sinh những lợi ích chung, những quan hệ phụ thuộc gắn chặt với nhau trong hệ
thống phân công lao động xã hội, ràng buộc về nghĩa vụ và quyền lợi bởi các quy định
của pháp luật. Xã hội càng phát triển thì phân công lao động càng rõ nét, mối quan hệ
phụ thuộc giữa các cá nhân càng chặt chẽ. Khi lợi ích của người lao động tăng lên thì lợi
nhuận của người chủ tư liệu sản xuất bị giảm xuống và ngược lại( Phạm thi xuân hương,
vấn đề đình công của công nhân ở nước ta hiên nay, luân án tiến sĩ triết học, H. 2001,
tr.41.). Người lao động do những nhu cầu vật chất và tinh thần thiết thân hàng ngày đã
tham gia quan hệ lao động để có thu nhập thỏa mãn các nhu cầu đó. Trong quan hệ lao
động, lợi ích của người lao động chủ yếu biểu hiện dưới dạng tiền lương, tiền thưởng và
một số lợi ích khác. Những lợi ích này là động lực cơ bản thúc đẩy hoạt động của người
lao động. Trong quan hệ lao động còn tồn tại lợi ích của người sử dụng lao động. Việc
thu lợi nhuận của người sử dụng lao động gắn liền với việc chiếm hữu giá trị thặng dư thu
được sau quá trình sử dụng lao động. Để tăng lợi nhuận người sử dụng lao động thường
tìm cách giảm tiền lương, tăng thời gian làm việc hay cắt giảm các chi phí cho việc bảo
đảm an toàn, vệ sinh lao động, bảo hiểm xã hội…Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến lợi
ích của người lao động và là một trong các nguyên nhân cơ bản tạo nên mâu thuẫn trong
quan hệ lao động bởi quan hệ lao động cũng giống như “các quan hệ kinh tế của một xã
hội nhất định nào đó, biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi ích” (C.Mác và Ph.Ăngen
toàn tập, tập 18, Nxb.Chính trị quốc gia, H.1995, tr.376). Khi xác lập quan hệ lao động,
các bên phải thỏa thuận với nhau về tiền lương, thời giờ làm việc và các điều kiện sử
dụng lao động khác. Sự thỏa thuận có thể diễn ra nhiều lần trong suốt quá trình tồn tại
quan hệ lao động, khi một trong hai bên thấy cần phải sủa đổi, bổ sung hợp đồng lao
động, thỏa ước lao động tập thể thì sự thỏa thuận lại diễn ra.(Bộ Lao động- Thương binh
và xã hội, Các yếu tố nảy sinh đình công và biện pháp giải quyết, H. 1996, tr.3). Trong

quá trình thỏa thuận, do vị trí yếu thế hơn của người lao động, do ảnh hưởng của tương
quan cung cầu sức lao động, do sức ép của vấn đề việc làm và thu nhập, người lao động
thường phải chấp nhận những điều khoản không có lợi cho chính mình. Sau khi hợp đồng
lao động đã được thỏa thuận, sức lao động của người lao động sẽ được kết hợp với tư liệu
sản xuất của người sử dụng lao động để tạo ra giá trị và giá trị thặng dư.


Thị trường lao động trong nền kinh tế thị trường là “ cơ sở kinh tế để hình thành quan
hệ lao động”[38, tr23]. Quan hệ lao động trong nền KTTT được hiểu là quan hệ sử dụng
lao động có thỏa thuận về tiền công và các quyền lợi, nghĩa vụ khác giữa chủ sử dụng lao
động và người lao động, trên cơ sở tuân thủ các quy định của pháp luật. Xét về bản chất
quan hệ lao động là quan hệ mua bán sức lao động, ở đó người lao động muốn bán sức
lao động với giá cao, ngược lại người sử dụng lao động muốn mua sức lao động với giá
thấp. Chính vì vậy, quan hệ lao động vừa là quan hệ đối lập(sự đối lập có thể dẫn tới
xung đột), nhưng đồng thời lại là quan hệ hợp tác (xung đột, đấu tranh nhưng hai bên rất
cần nhau).
Mặc dù pháp luật lao động cho phép các bên trong quan hệ lao động được tự do, tự
nguyện cùng nhau thỏa thuận xác lập quan hệ lao động mà hợp đồng lao động chính là
kết quả của sự tự do thỏa thuận đó, nhưng trong quá trình mua bán sức lao động hay
trong quá trình lao động, giữa người lao động và người sử dụng lao động lúc này hay lúc
khác đều có thể xuất hiện các xung đột, mâu thuẫn, bất đồng trong việc thực hiện các
quyền lợi mà pháp luật quy định nhằm bảo vệ người lao động. Hiện tượng này là một tất
yếu khách quan trong điều kiện của nền KTTT bởi vì khi tham gia quan hệ mua bán sức
lao động, cả người lao động và người sử dụng lao động đều đặt ra mục đích của mình, mà
những mục đích này hoàn toàn không tương đồng nhau. Người sử dụng lao động muốn
hạ giá thành sản xuất nhằm thu được lợi nhuận nhiều hơn, vì vậy họ luôn tìm cách khai
thác tối đa sức lao động của người lao động bằng cách tăng giờ làm việc, giảm tiền
lương…còn người lao động khi tham gia quan hệ lao động cũng muốn có nguồn thu nhập
cao nhất để đảm bảo cho cuộc sống bản thân và gia đình. Vì vậy cùng với thời gian giữa
người lao động và người sử dụng lao động sẽ xảy ra những hành vi ngược chiều nhau,

đến lúc đó sẽ xảy ra các tranh chấp phát sinh chủ yêú từ quan hệ lao động và cũng chủ
yếu gắn bó với quá trình lao động.
Trong quan hệ lao động thì lao động nữ luôn được coi là lao động yếu thế hơn so với
lao động nam và thường bị giới chủ đối xử bất bình đẳng. Nền KTTT tất yếu hình thành
thị trường lao động, với các quan hệ lao động ngày càng phức tạp đa dạng đã tạo ra nhiều
cơ hội tốt hơn cho lao động nữ phát huy được khả năng của mình, tuy nhiên do nhiều
nguyên nhân khác nhau, quyền lợi của lao động nữ nhất là trong việc tuyển chọn, đào tạo,
trả công, trả lương, bảo hiểm xã hội … vẫn có sự phân biệt và vi phạm. Đặc biệt mỗi khi
có sự thay đổi công nghệ sản xuất, tổ chức lại lao động trong các doanh nghiệp thì lao
động nữ là người chịu thiệt thòi, dễ bị mất việc hơn nam giới, dường như có một xu
hướng phụ nữ là người cuối cùng được tuyển dụng nhưng là người đầu tiên bị thải hồi.
Thực tiễn thi hành pháp luật lao động đã cho thấy, sự gia tăng nhu cầu sử dụng lao động
và tăng thu nhập cho người lao động không đồng nhất với sự bảo đảm quyền lợi của


người lao động trong đó quyền lợi của lao động nữ còn bị xâm phạm. Chính điều đó là
nguyên nhân của những bất đồng và các cuộc đình công của lao động nữ có xu hướng gia
tăng đặc biệt trong các khu công nghiệp có tỷ lệ lao động nữ cao.
Để bảo vệ quyền lợi của lao động nữ một cách hiệu quả, khắc phục tình trạng bất bình
đẳng của lao động nữ so với lao động nam trong các quan hệ lao động, không thể không
xem xét đến các đặc điểm đặc thù chi phối đến vị thế, điều kiện lao động của lao động nữ
trong mối tương quan so với lao động nam trong các quan hệ lao động, xã hội cũng như
các hành vi đối xử của giới chủ. Qua đó cũng khẳng định vai trò quan trọng không thể
thiếu của người phụ nữ trong cả hai mối quan hệ, quan hệ gia đình và quan hệ lao động
trong tiến trình phát triển kinh tế xã hội.
1.1.1.1 Đặc điểm của lao động nữ
Khi nghiên cứu đặc điểm của lao động nữ, không thể không đề cập đến những yếu tố
chi phối đến địa vị pháp lý của lao động nữ như tính đặc thù, vị trí vai trò của lao động nữ
trong gia đình và xã hội. Trước hết ta tìm hiểu tính đặc thù của lao động nữ.
Lao động nữ được hiểu là người lao động có giới tính là nữ, chính từ sự khác biệt về

giới tính mà lao động nữ có những đặc tính riêng biệt so với lao động nam mà chúng ta
thường gọi là tính đặc thù của lao động nữ. Tính đặc thù của lao động nữ xét theo những
yếu tố sinh học đó là những đặc điểm về sinh lý, tâm lý và thể lực khác nam giới. Ngoài
ra lao động nữ còn có những đặc trưng riêng của mình trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã
hội…
Do những đặc điểm về tâm sinh lí, giới tính, lao động nữ thường gặp khó khăn hơn so
với lao động nam trong quan hệ lao động, cùng với quan niệm sai lệch về giới, những
khó khăn này đã làm cho lao động nữ trở thành đối tượng dễ bị tổn thương hơn. Tính đặc
thù của lao động nữ thể hiện không chỉ ở những đặc điểm về tâm sinh lí mà còn ở vấn đề
thể lực, nữ thường yếu hơn nam nên họ thích hợp với các công việc nhẹ nhàng. Ngoài ra,
lao động nữ có thời kỳ phát triển thể chất, tinh thần, thời kỳ lão hóa khác nam giới, nhu
cầu ăn uống, nghỉ ngơi giải trí cũng khác nam giới. Cụ thể như phụ nữ trải qua các giai
đoạn sinh lý đặc biệt như thời kỳ kinh nguyệt, thời kỳ thai nghén, thời kỳ cho con bú,
những giai đoạn này làm ảnh hưởng giảm sút sức khỏe của phụ nữ rất nhiều. Trong cuộc
đời của phụ nữ có các thời kỳ phát triển về thể chất và tinh thần gắn liền với sự nghiệp,
địa vị xã hội và vai trò trong gia đình:
+Thời kỳ từ 15 đến 25 tuổi đây là thời kỳ chuẩn bị các điều kiện để bước vào lao động.
+Thời kỳ từ 25 đến 35 tuổi là thời kỳ khủng hoảng gồm những việc như lập gia đình,
sinh con, nuôi con nhỏ.
+Thời kỳ từ 35 đến 45 tuổi đa số các vấn đề xã hội, lao động đã đi vào ổn định, lao động
có hiệu quả.


+Thời kỳ từ 45 đến 55 tuổi là thời kỳ tiền mãn kinh, sức khỏe giảm sút, nhưng kinh
nghiệm lao động đã được tích lũy nhiều.
Sự khác biệt về mặt sinh học đã tạo cho nữ giới những chức năng riêng là mang thai,
sinh sản và cho con bú. Như vậy phụ nữ khác với nam giới ở chỗ chị em phải đảm nhiệm
chức năng làm vợ, làm mẹ sinh đẻ và nuôi con mất khoảng từ 5-10 năm là thời kỳ sung
sức nhất, dẫn tới thường tụt hậu về nghiệp vụ, trình độ, chuyên môn so với nam giới.
Điều này càng trở nên không thuận lợi khi lao động nữ chiếm khoảng hơn 50% lực lượng

lao động, trong khi đó sự áp dụng pháp luật và sự phân biệt giới giữa các thành phần kinh
tế, đặc biệt trong khu vực kinh tế ngoài nhà nước vẫn còn tồn tại.
Lao động nữ có vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống gia đình và xã hội. Trước đây
do tập tục và thói quen, lao động nữ ít khi khẳng định được vai trò và tầm quan trọng
trong lĩnh vực lao động, đặc biệt là trong công tác lãnh đạo và nghiên cứu khoa học.
Ngày nay, lao động nữ ở Việt nam đã có mặt ở nhiều ngành nghề, kể cả những ngành
nghề được coi là độc quyền của lao động nam. Trong cơ chế thị trường, khả năng cạnh
tranh tìm việc làm của lao động nữ vẫn thấp hơn nam giới do nhiều nguyên nhân. Điều
đó đòi hỏi phải từng bước thực hiện sự bình đẳng nam nữ thông qua các biện pháp khác
nhau, trong đó sự điều chỉnh và định hướng kịp thời của pháp luật lao động nhằm bảo vệ
quyền lợi của lao động nữ trong các quan hệ lao động.
Nền kinh tế thị trường với những yếu tố cạnh tranh quyết liệt, trong đó thị trường lao
động đã và đang nảy sinh những vấn đề nóng bỏng, phức tạp trong các lĩnh vực nảy sinh
trong quan hệ lao động và nó đã tác động mạnh mẽ đến người lao động, đặc biệt là lao
động nữ. Với những yếu tố đặc thù của mình, thời gian làm việc thực tế(cả thời gian lao
động tại gia đình) của lao động nữ nhiều hơn nam giới, điều này đã ảnh hưởng đến lao
động nữ trong các cơ hội thăng tiến nghề nghiệp và không được người sử dụng lao động
tuyển dụng vào những vị trí công việc có mức lương cao. Vì vậy lao động nữ phải đối
mặt với nhiều thách thức trong các cơ hội so với nam giới về việc làm, tiền lương thu
nhập, điều kiện lao động, bảo hiểm xã hội…Nhiều chủ sử dụng lao động đã không muốn
tuyển nhận lao động nữ nếu không có sự ràng buộc của các quy định pháp luật. Bởi vậy,
ngoài những quy định áp dụng cho tất cả mọi người lao động nói chung, pháp luật lao
động đã có những quy định riêng áp dụng cho lao động nữ nhằm bảo vệ và bảo hộ họ
trước những nguy cơ bất lợi có thể xảy ra do ảnh hưởng từ chính những yếu tố đặc thù.
Đồng thời cũng giúp cho họ vừa có thể thực hiện tốt chức năng lao động xã hội vừa có
thể thực hiện tốt thiên chức của người phụ nữ.
Về mặt xã hội: Theo các nhà xã hội học phụ nữ ở thời kỳ bình minh của nhân loại, phụ
nữ tham gia vào các hoạt động sản xuất một cách bình đẳng với nam giới, thủa ban đầu,
nam giới và phụ nữ cùng lao động chung, cùng săn bắt hái lượm. Nhưng vào thời kỳ đó,



do công cụ săn bắt còn quá thô sơ, không mấy thích hợp với cấu trúc sinh học của phụ
nữ, nhất là những phụ nữ đang trong giai đọan thực hiện thiên chức của mình “săn bắt với
kỹ thuật nguyên thủy: vây dồn, đuổi, bẫy, phóng lao, ném đá… là những hình thức lao
động nặng nhọc mà phụ nữ có mang và nuôi con nhỏ khó có điều kiện tham gia một cách
bình thường”(TS. Hoàng Bá Thịnh,Vai trò của phụ nữ nông thôn trong công nghiệp hóa
nông nghiệp nông thôn, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2002, tr.27). Xu thế lao động tự nhiên
là phụ nữ chuyển dần sang công việc hái lượm, những việc thích hợp với thể chất hơn.
Có thể nói ngay trong thời kỳ sơ khai này đã hình thành nên sự phân công lao động dựa
trên cơ sở giới tính một cách tự nhiên theo hai hướng nam giới săn bắt còn phụ nữ hái
lượm, những việc thích hợp với thể chất hơn. Chính trên cơ sở phân công lao động một
cách tự nhiên này, do đặc điểm của điều kiện khí hậu, tự nhiên và công cụ sản xuất của
thời kỳ nguyên thủy khiến cho hoạt động săn bắn của nam giới bấp bênh, phụ thuộc vào
sự may rủi, trong khi đó phụ nữ đảm nhận công việc hái lượm có tính chất ổn định hơn.
Do vậy phụ nữ có vai trò quan trọng hơn nam giới trong lĩnh vực sản xuất, cung cấp thức
ăn cho cộng đồng. Đó là cơ sở hình thành chế độ mẫu hệ (người phụ nữ nắm quyền thống
trị). Sau này trình độ xã hội phát triển, con người chuyển hình thái lao động từ hái lượm
sang săn bắt và trồng trọt. Do tính chất công việc, nam giới trở thành lao động chính và
nắm giữ quyền lực, từ đó chế độ phụ quyền xuất hiện và kéo dài trong nhiều hình thái xã
hội. Nhất là thời kỳ phong kiến,



×