Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Các giải pháp quản lý nhằm tăng cường xã hội hóa sự nghiệp giáo dục trong trường phổ thông trung học cơ sở ở quận thanh xuân thành phố hà nội giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (422.63 KB, 11 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƢ PHẠM

HÀ THỊ BÍCH HẠNH

CÁC GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHẰM TĂNG CƯỜNG XÃ HỘI
HOÁ
SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC TRONG TRƯỜNG PHỔ THÔNG
TRUNG HỌC CƠ SỞ
Ở QUẬN THANH XUÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY

Chuyên ngành

:

QUẢN LÝ GIÁO DỤC

Mã số

:

60 14 05

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. LÊ NGỌC HÙNG
HÀ NỘI - 2007


MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài:
Phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là một trong
những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, là điều kiện để tạo ra và phát huy lợi thế cạnh tranh quốc
tế của Việt Nam về nguồn nhân lực con người trong quá trình toàn cầu
hoá.
Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Vì lợi ích mười năm thì
phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người". Con người
vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội (KTXH), giáo dục (GD) là sự nghiệp "trồng người". Cũng trên tinh thần như
vậy, văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng xác định:
"Xuất phát từ nhận thức chăm lo cho con người, cho cộng đồng xã hội
là trách nhiệm của toàn xã hội, của mỗi đơn vị, của từng gia đình, là sự
nghiệp của Đảng, Nhà nước và toàn dân, chúng ta chủ trương giải quyết
các vấn đề xã hội theo tinh thần xã hội hoá, trong đó nhà nước giữ vai
trò nòng cốt... Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước và nhân dân cùng làm, mọi việc đều
phải dựa vào nhân dân. Đó là quan điểm và kinh nghiệm trong lịch sử
chiến tranh nhân dân và trong mười năm đổi mới cần nắm vững và phát
huy để tạo nguồn lực giải quyết vấn đề con người và xã hội trong thời kỳ
hiện nay"[24, tr.32]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng ta khẳng định: "…Đẩy mạnh xã hội hoá sự nghiệp giáo dục, đào
tạo. Khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế đầu tư phát triển
giáo dục ở tất cả các bậc học…"[27, tr.204].
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định:
"Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ
chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện "chuẩn hoá,
hiện đại hoá, xã hội hoá, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam"[29, tr.95].
Với tầm quan trọng của công tác XHHSNGD như vậy nên vấn đề
này luôn là nội dung được sự quan tâm hàng đầu của cấp uỷ Đảng ở
quận Thanh Xuân. Hơn thế nữa Đảng bộ và nhân dân quận cũng đang

đứng trước những khó khăn: quận mới thành lập, vừa kiện toàn ổn định
bộ máy tổ chức và cán bộ, vừa phải lãnh đạo chỉ đạo tổ chức thực hiện


các nhiệm vụ chính trị, cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội trên địa bàn còn
thiếu, chưa được đầu tư đồng bộ. Mặt khác là quận ven đô đang trong
quá trình đô thị hoá, biến động dân số cơ học tăng nhanh, nếp sống đô
thị và tập quán làng xã đan xen, phát sinh nhiều phức tạp trong công tác
quản lý đời sống xã hội. Bên cạnh đó là sự chống phá quyết liệt của các
thế lực thù địch... Trong khi ấy công tác XHHSNGD còn bộc lộ nhiều
yếu kém, bất cập, hiệu quả chưa cao.
Là một cán bộ hiện đang công tác trong ngành GD bản thân tôi luôn
trăn trở, suy nghĩ làm thế nào để thực hiện có hiệu quả XHHSNGD trên
địa bàn Thành phố Hà Nội nói chung và quận Thanh Xuân nói riêng.
Mong muốn của tôi cũng như đội ngũ cán bộ giáo viên của Thành phố
Hà Nội là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho
Thành phố Hà Nội, đào tạo lớp người có tài, có đức, có bản lĩnh xây
dựng Thủ đô Hà Nội văn minh - giàu đẹp, xứng đáng là trung tâm văn
hoá-xã hội-chính trị-thương mại của cả nước.
Đứng trước những đòi hỏi cấp bách cả mặt lý luận và thực tiễn như
vậy nên tác giả đã chọn đề tài: "Các giải pháp quản lý nhằm tăng
cường xã hội hoá sự nghiệp giáo dục trong trường phổ thông trung
học cơ sở ở quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay"
làm đề tài luận văn của mình.
2. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu thực trạng công tác XHHSNGD của Quận Thanh
Xuân trong những năm qua. Những thành công, tồn tại và bài học kinh
nghiệm để đưa ra những giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác XHHSNGD
một cách đồng bộ, hợp lý, có hiệu quả.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu

3.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động XHHSNGD của các trường phổ thông trung học cơ sở
(PTTHCS) công lập và dân lập.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Giải pháp tăng cường XHHSNGD trong hệ thống các trường trung
học cơ sở (THCS) công lập và dân lập.
4. Giả thuyết khoa học của đề tài
Công tác XHHSNGD trên địa bàn quận Thanh Xuân chưa đáp ứng
được yêu cầu, mục tiêu GD đề ra. Đất nước ta đã hội nhập WTO đòi hỏi


GD phải có những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng GD nước nhà
nói chung và chất lượng GD ở quận Thanh Xuân nói riêng. Hiện nay
trên địa bàn quận Thanh Xuân có hai loại hình GD THCS là công lập và
dân lập, nếu nhận thức đúng đắn, có cơ chế chính sách phù hợp, với
quyết tâm thực hiện "bốn không" do Bộ GD&ĐT phát động sẽ thúc đẩy
XHHSNGD, nâng cao chất lượng GD-ĐT đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp GD nước nhà hiện nay.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của chủ trương XHHSNGD
trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước hiện nay.
- Điều tra thực trạng công tác XHHSNGD ở địa bàn quận Thanh
Xuân trong những năm qua.
- Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn công tác XHHSNGD của
phòng GD-ĐT quận Thanh Xuân, rút ra những bài học kinh nghiệm, tìm
ra những nguyên nhân của thành công và tồn tại từ đó đề ra các giải
pháp nhằm đẩy mạnh công tác XHHSNGD.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu:
- Phương pháp phân tích văn bản:
- Điều tra, khảo sát một số địa bàn cơ sở, các trường PTTHCS; báo

cáo tổng kết của Phòng GD-ĐT quận Thanh Xuân…
- Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh...
7. Giới hạn và phạm vi đề tài:
Đề tài tập trung nghiên cứu XHHSNGD trên địa bàn quận Thanh
Xuân, thành phố Hà Nội từ năm 2004-2007.
- Sự lãnh đạo của cấp uỷ, chính quyền đối với công tác XHHSNGD.
- Vai trò của Phòng GD-ĐT Quận Thanh Xuân trong công tác
XHHSNGD.
- Sự phối hợp của các cơ quan, đoàn thể, phường, các tổ chức xã hội
để phát triển GD.
8. Đóng góp của đề tài:
Đề tài nghiên cứu góp phần làm rõ thực trạng mảng công tác
XHHSNGD ở quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội trong những năm
đổi mới, qua đó thấy được kết quả đã đạt được, những mặt còn hạn chế,
bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tế hoạt động với các nguyên nhân cụ
thể. Qua đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu


quả công tác XHHSNGD của quận Thanh Xuân trong những năm tiếp
theo.
9. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn bao gồm ba chương.


Chƣơng I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU CÁC
GIẢI PHÁP XÃ HỘI HOÁ SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC TRONG CÁC
TRƢỜNG PHỔ THÔNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Giáo dục xuất hiện cùng với đời sống của xã hội loài người. Sự tồn

tại và phát triển của GD luôn chịu sự chi phối của trình độ phát triển
kinh tế xã hội và ngược lại với chức năng của mình GD có vai trò to lớn
trong việc phát triển kinh tế xã hội. Xã hội loài người coi GD là công cụ,
phương tiện để cải biến xã hội. GD được coi vừa là động lực, vừa là mục
tiêu cho việc phát triển tiếp theo của xã hội. Khi xã hội phát triển lên
một mức mới, chính xã hội lại tạo điều kiện mới cho GD và "đặt hàng
mới" cho GD nói chung, nhà trường nói riêng và buộc GD phải tự nâng
mình lên để một mặt đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng mới của xã hội,
mặt khác tận dụng tốt những điều kiện mà xã hội mới tạo cho. Cứ như
thế tính chất biện chứng của mối quan hệ giữa GD và cộng đồng xã hội
thường xuyên được diễn ra trong sự cân bằng động và phát triển đi lên
theo đường xoắn ốc cùng với quá trình phát triển của xã hội loài người.
Để phát triển sự nghiệp GD-ĐT, chúng ta phải tiến hành công tác
XHHSNGD. XHHSNGD là huy động toàn xã hội làm GD, động viên
các tầng lớp nhân dân đóng góp sức xây dựng nền GD quốc dân dưới sự
quản lý của nhà nước.
XHHSNGD là tạo cơ hội học tập cho mọi người, tạo nên một xã hội
học tập, cộng đồng hoá trách nhiệm của GD và của cộng đồng, xã hội,
đa dạng hoá loại hình, hình thức GD, đa phương hoá nguồn lực và huy
động cộng đồng, thể chế hoá chủ trương XHHSNGD để chủ trương này
nhanh chóng đi vào cuộc sống. Bằng việc đối chiếu sự tác động các nội
dung XHHSNGD lên các mục tiêu quản lí giáo dục (QLGD), quản lí nhà
trường (QLNT), chúng ta thấy rất rõ vai trò của quá trình XHHSNGD
đối với việc thực hiện các mục tiêu QLGD nói chung và QLNT nói
riêng.
XHHSNGD nhằm mục tiêu "GD cho mọi người", làm cho mọi
thành viên của cộng đồng được hưởng thụ GD một cách thường xuyên,
liên tục, được đào tạo suốt đời. Các lực lượng xã hội được huy động vào
đa dạng hoá các hình thức GD và các loại hình nhà trường, nhằm mở ra
khả năng huy động nhiều lực lượng xã hội tham gia vào công tác GD,



tạo điều kiện cho GD phát triển mạnh mẽ hơn, thực hiện có hiệu quả hơn
nhiệm vụ "nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài". Mở
rộng các nguồn đầu tư, khai thác tiềm năng về nhân lực, vật lực, tài lực
trong xã hội, phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nhân
dân tạo điều kiện cho GD phát triển. Sức mạnh tổng hợp của các ngành
có liên quan đến GD được huy động vào việc phát triển sự nghiệp GD.
XHHSNGD là chủ trương đúng đắn mang tính chiến lược của Đảng,
là một trong những phương diện quan trọng của xã hội hoá (XHH) hoạt
động quản lý Nhà nước để phát triển GD-ĐT nước ta trong giai đoạn hiện
nay.
Chủ trương XHHSNGD được đặt ra từ Nghị quyết TW4 khóa VII,
Nghị quyết TW2 khoá VIII. Đặc biệt đến Nghị quyết TW 6 khoá IX
Đảng ta khẳng định: "Đẩy mạnh xã hội hoá sự nghiệp giáo dục, xây
dựng xã hội học tập, coi giáo dục là sự nghiệp của toàn dân là một giải
pháp quan trọng để tiếp tục phát triển giáo dục"[26, tr.86].
Chủ trương XHHSNGD của Đảng được thể chế hoá vào Hiến pháp
1992, tại Điều 35: "…Phát triển các hình thức trường quốc lập, dân lập
và các hình thức giáo dục khác [56, tr.89]. Điều 12 của Luật GD 2005
khẳng định: "Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục để thực hiện đa dạng hoá
các loại hình trường và các hình thức giáo dục; khuyến khích, huy động
và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo
dục"[57, tr.35].
Ngày 18/4/2005 Chính phủ ban hành Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP
về đẩy mạnh XHH các hoạt động GD, văn hoá, y tế, thể dục thể thao.
Tiếp đó, ngày 24/6/2005, Bộ GD&ĐT đã ban hành Quyết định số
20/2005/QĐ-BGD&ĐT phê duyệt Đề án "Quy hoạch phát triển xã hội
hoá sự nghiệp giáo dục giai đoạn 2005 - 2010''.
1.2. Các khái niệm cơ bản có liên quan đến vấn đề nghiên cứu

1.2.1. Giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt trong lịch sử nhân loại,
là một trong những lĩnh vực hoạt động xã hội nhằm kế thừa, duy trì và
phát triển nền văn hoá xã hội, văn minh nhân loại. GD là nhân tố cốt lõi
và tồn tại khách quan trong mọi giai đoạn phát triển xã hội.
Theo nghĩa chung nhất: "Giáo dục là quá trình truyền đạt và lĩnh
hội những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và những kinh nghiệm nhằm chuẩn


bị cho con người bước vào cuộc sống lao động và sinh hoạt xã hội; là
một nhu cầu tất yếu của xã hội loài người, dảm bảo cho sự tồn tại và
phát triển của con người và xã hội" [46, tr.7].
Giáo dục là điều kiện để con người gắn bó và gắn bó với nhau một
cách có hiệu quả theo mục tiêu đổi mới điều kiện sinh tồn, bởi vì hành
động của bất kỳ cá nhân nào cũng bị hạn chế do khả năng và kinh
nghiệm của riêng người đó. Chính nhờ GD, kết quả những cố gắng của
mỗi thế hệ được truyền lại cho thế hệ sau rồi cứ thế tích luỹ lại và ngày
càng phong phú.
Giáo dục chuẩn bị cho mỗi cá nhân hoà nhập vào cộng đồng và
khẳng định được vị thế vai trò với cộng đồng. GD là con đường đặc
trưng cơ bản để loài người tồn tại và phát triển.
GD là một hiện tượng xã hội đặc biệt, được hình thành tồn tại và
phát triển trong môi trường xã hội cụ thể, nên mọi hoạt động GD đều vì
sự tiến bộ xã hội. Mối quan hệ biện chứng ấy trong thời đại kinh tế tri
thức được thể hiện rất sinh động.
Thế giới ngày nay coi GD là con đường cơ bản để khỏi tụt hậu, để
tiến lên "giáo dục là khâu cực kỳ quan trọng trong quy trình từ khoa học
đến sản xuất, nhất là trong thời đại công nghiệp hoá"[34, tr.79] .
Phát triển GD là quốc sách hàng đầu, là điều kiện tiên quyết để phát
triển nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để xã hội phát triển nhanh và

bền vững. GD vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội,
văn hoá, kinh tế, chính trị.
1.2.2. Quản lý
Quản lý là quá trình tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng
nhằm điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội, hành vi hoạt động của
con người để đạt tới mục đích, đúng với ý chí của nhà quản lý và phù hợp
với quy luật khách quan. Trong quá trình phát triển của mình, tuỳ từng
thời kỳ và điều kiện thì con người có nhiều quan niệm khác nhau về quản
lý.
Một xã hội, một tổ chức hay một cộng đồng muốn phát triển tốt,
trước hết phải có một cơ chế quản lý tốt. Cơ chế ấy phải chi phối và tác
động vào mọi lĩnh vực hoạt động của hệ thống tổ chức, xã hội và làm
cho nó vận động theo chiều hướng tích cực mà chủ thể quản lý đã định
hướng từ trước.


1.2.3. Quản lý giáo dục
Thuật ngữ QLGD cũng được các học giả nêu ra với nhiều khái
niệm:
QLGD là quá trình tác động của chủ thể quản lý và toàn bộ hoạt
động của GD nhằm thúc đẩy GD phát triển theo mục tiêu mà Đảng và
Nhà nước đã xác định. QLGD được biểu hiện thông qua quản lý mục
tiêu đào tạo, chương trình đào tạo, quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị
phục vụ dạy và học, quản lý đội ngũ cán bộ, giáo viên, quản lý người
học và chất lượng GD-ĐT.
QLGD là hệ thống các tác động có mục đích, có kế hoạch nhằm đạt
mục tiêu GD đề ra. QLGD là quản lý quá trình hoạt động dạy và học bao
gồm quản lý tất cả các thành tố của hoạt động dạy-học, do đó những tác
động của nó lên hệ thống là những tác động kép, nhằm tạo ra một sức
mạnh tổng hợp, chủ thể quản lý phải chú ý đến mối quan hệ quản lý dạy

và học trong hoạt động GD, quan hệ giữa các cấp quản lý, quan hệ giữa
nội bộ và bên ngoài; các vấn đề kỹ năng, phong cách, chiến lược, ưu tiên
trong quản lý… QLGD có quy mô và cấp độ đa dạng phức tạp, tầng nấc,
thứ bậc, lại nhiều yếu tố cấu trúc khác nhau và chịu sự tác động của các
yếu tố khách quan luôn vận hành và tương tác trong mối quan hệ đa
dạng, phức tạp, nhưng lại theo quy luật.
1.2.4. Xã hội hoá
Khái niệm xã hội hoá được dùng trong nhiều lĩnh vực khác nhau:
XHH trước hết là sự vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của
nhân dân, của toàn xã hội vào sự phát triển sự nghiệp văn hoá-xã hội
nhằm từng bước nâng cao mức hưởng thụ về GD, y tế, văn hoá,... và sự
phát triển về thể chất và tinh thần cho nhân dân.
XHH không có nghĩa là giảm nhẹ trách nhiệm của nhà nước giảm
bớt phần ngân sách của Nhà nước mà trái lại là nhà nước tìm thêm các
nguồn thu để tăng tỷ lệ ngân sách cho các hoạt động này đồng thời quản
lý tốt các nguồn thu để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn kinh phí
đó.
1.2.5. Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục
XHHSNGD trả lại đầy đủ tính chất xã hội của GD, cho GD, làm
cho GD có được sự liên hệ hữu cơ với toàn thể xã hội. Mặt khác, trả lại
bản chất xã hội cho GD cũng có nghĩa là làm cho mọi người, mọi thành


viên của xã hội có quyền và nghĩa vụ tham gia vào quá trình GD với tư
cách là những chủ thể GD (mặc dù họ là đối tượng của GD) dưới mọi
hình thức, với mọi khả năng và điều kiện về mọi mặt của quá trình
XHH.
1.3. Các quan điểm, chính sách về xã hội hoá sự nghiệp giáo dục
1.3.1. Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục là quy luật tất yếu để phát triển
giáo dục cho mọi quốc gia

Bản chất của GD mang tính xã hội sâu sắc. Điều này đã được Mác
khẳng định: "Xét trong ý nghĩa hiện thực, con người là tổng hoà các mối
quan hệ xã hội"[45, tr.127].
1.3.2. Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục là một quan điểm cơ bản của
Đảng và Nhà nước ta để làm giáo dục
Hệ thống quan điểm của Đảng và các chính sách của Nhà nước ta về
XHHSNGD thực chất là khẳng định tư tưởng chiến lược của Đảng trong
quá trình phát triển GD-ĐT.
Quán triệt tư tưởng chiến lược của Đảng, nhằm đẩy mạnh
XHHSNGD, ngày 21/8/1997 Chính phủ đã có Nghị quyết số 90/CP về
"Phương hướng và chủ trương XHH các hoạt động giáo dục, y tế, văn
hoá"; Để đẩy mạnh hơn nữa XHH các hoạt động GD, ngày 18/4/2005
Chính phủ đã có Nghị quyết 05/2005/NQ-CP về "Đẩy mạnh XHH sự
nghiệp GD-ĐT, y tế văn hoá giai đoạn 2005-2010". Để triển khai thực
hiện Nghị quyết 05/2005/NQ-CP, Bộ GD&ĐT đã có Quyết định số
20/2005/QĐ-BGD&ĐT phê duyệt Đề án "Quy hoạch phát triển xã hội
hoá sự nghiệp giáo dục giai đoạn 2005-2020".
1.3.3. Chính sách xã hội hoá sự nghiệp giáo dục ở một số nước trong
khu vực và trên thế giới
Ngày nay, GD có vai trò ngày càng quan trọng trong sự phát triển
kinh tế-xã hội ở tất cả các nước trên thế giới. Kinh nghiệm của các nước
công nghiệp phát triển nhất (G8) chứng minh điều đó bởi những bước
nhảy vọt trong gian ngắn vừa qua. GD thực sự trở thành nhân tố phát
triển kinh tế, kinh tế tri thức đóng một vai trò quan trọng trong cán cân
kinh tế với sự phát triển như vũ bão của thông tin, khoa học, công
nghệ... Vì thế vấn đề huy động nguồn nhân lực, làm phong phú tài
nguyên trí tuệ vì mục tiêu phát triển kinh tế xã hội hơn lúc nào hết đều
được các nước quan tâm chú trọng tìm mọi cách đầu tư cho GD.



1.4. Mục tiêu của xã hội hoá sự nghiệp giáo dục
Trước hết làm cho xã hội nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của GDĐT trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước nói chung, cũng như
trong phát triển KT-XH của mỗi địa phương, mỗi gia đình và toàn cộng
đồng. Trên cơ sở đó hình thành hệ tư tưởng xã hội về GD-ĐT theo quan
điểm, đường lối của Đảng, coi "Giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư
cho giáo dục là đầu tư cho phát triển" .
1.5. Nội dung của xã hội hoá sự nghiệp giáo dục
1.5.1. Giáo dục cho mọi người
GD cho mọi người là tạo lập phong trào học tập sâu rộng trong cộng
đồng xã hội, làm cho xã hội ta trở thành một xã hội học tập.
1.5.2. Huy động cộng đồng tham gia phát triển giáo dục - xây dựng
môi trường giáo dục lành mạnh
Huy động cộng đồng tham gia phát triển GD thực chất là thực hiện
tốt nguyên lý 3 môi trường GD: GD nhà trường, GD gia đình và GD xã
hội, tạo lập một không gian khép kín trong hoạt động GD.
1.5.3. Đa dạng hoá loại hình
Là mở rộng các loại hình trường lớp, các hình thức đào tạo, hình
thức học tập bên cạnh hệ thống trường học công lập được xây dựng và
phát triển ổn định gần một nửa thế kỷ qua, phát triển thêm các loại hình
trường ngoài công lập bao gồm trường bán công, dân lập, tư thục ở tất cả
các ngành học, bậc học, từ GD mầm non đến cao đẳng và đại học.



×