Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC AN TOÀN VỆ SINH THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.11 KB, 103 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN ……..

TÊN LUAN VĂN THẠC SI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN ……..

TÊN LUAN VĂN THẠC SI

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: …………..

HÀ NỘI – 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các


kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Luận văn bảo đảm tính chính xác,tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn
thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Lê Thị Linh


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vệ sinh an toàn thực phẩm hay an toàn thực phẩm hiểu theo nghĩa hẹp là
một môn khoa học dùng để mô tả việc xử lý, chế biến, bảo quản và lưu trữ thực
phẩm bằng những phương pháp phòng ngừa, phòng chống bệnh tật do thực
phẩm gây ra. Vệ sinh an toàn thực phẩm cũng bao gồm một số thói quen, thao
tác trong khâu chế biến cần được thực hiện để tránh các nguy cơ sức khỏe tiềm
ẩn nghiêm trọng. Hiểu theo nghĩa rộng, vệ sinh an toàn thực phẩm là toàn bộ
những việc cần làm liên quan đến việc đảm bảo vệ sinh đối với thực phẩm
nhằm đảm bảo cho sức khỏe của người tiêu dùng. [27]
Bảo đảm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm giữ vị trí quan trọng
trong sự nghiệp bảo vệ sức khỏe người dân, góp phần giảm tỷ lệ mắc bệnh,
duy trì và phát triển nòi giống, tăng cường sức lao động, học tập, thúc đẩy sự

tăng trưởng kinh tế, văn hóa xã hội và thể hiện nếp sống văn minh. Mặc dù
cho đến nay đã có khá nhiều tiến bộ về khoa học kỹ thuật trong công tác bảo
vệ và an toàn vệ sinh thực phẩm, cũng như biện pháp về quản lý giáo dục như
ban hành luật, điều lệ và thanh tra giám sát vệ sinh an toàn thực phẩm, nhưng
các bệnh do kém chất lượng về vệ sinh thực phẩm và thức ăn ở Việt Nam vẫn
chiếm tỷ lệ khá cao.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam chuyển sang cơ chế
thị trường. Các loại thực phẩm sản xuất, chế biến trong nước và nước ngoài
nhập vào Việt Nam ngày càng nhiều chủng loại. Việc sử dụng các chất phụ
gia trong sản xuất trở nên phổ biến. Các loại phẩm màu, đường hóa học đang
bị lạm dụng trong pha chế nước giải khát, sản xuất bánh kẹo, chế biến thức ăn
sẵn như thịt quay, giò chả, ô mai,… Nhiều loại thịt bán trên thị trường không
qua kiểm duyệt thú y. Tình hình sản xuất thức ăn, đồ uống giả, không đảm
bảo chất lượng và không theo đúng thành phần nguyên liệu cũng như quy

1


trình công nghệ đã đăng ký với cơ quan quản lý. Nhãn hàng và quảng cáo
không đúng sự thật vẫn xảy ra.
Ngoài ra, việc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật bao gồm thuốc trừ sâu,
diệt cỏ, hóa chất kích thích tăng trưởng và thuốc bảo quản không theo đúng
quy định gây ô nhiễm nguồn nước cũng như tồn dư các hóa chất này trong
thực phẩm. Việc bảo quản lương thực thực phẩm không đúng quy cách tạo
điều kiện cho vi khuẩn và nấm mốc phát triển đã dẫn đến các vụ ngộ độc thực
phẩm. Các bệnh do thực phẩm gây nên không chỉ là các bệnh cấp tính do ngộ
độc thức ăn mà còn là các bệnh mạn tính do nhiễm và tích lũy các chất độc
hại từ môi trường bên ngoài vào thực phẩm, gây rối loạn chuyển hóa các chất
trong cơ thể, trong đó có bệnh tim mạch và ung thư.
Có thể thấy vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm là một vấn đề hết sức cấp

thiết, có tính thời sự cao đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay.
Điểm mấu chốt của thực trạng vệ sinh an toàn thực phẩm là sự xiết chặt
quản lý của các cơ quan chức năng nhà nước. Muốn làm tốt công tác quản lý
vệ sinh an toàn thực phẩm thì trước tiên phải có các văn bản quy phạm pháp
luật quy định rõ ràng về vấn đề này. Sau đó là khâu áp dụng và thực hiện.
Thực hiện pháp luật tốt, có những quy định, chế tài nghiêm minh cộng với
công tác tuyên truyền và phổ biến giáo dục pháp luật đến người dân thì mới
có thể đảm bảo hiệu quả của vệ sinh an toàn thực phẩm.
Do nhận thức và trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh thực
phẩm còn thấp, đôi khi chạy theo lợi nhuận, cố tình sản xuất, kinh doanh thực
phẩm không đảm bảo an toàn, thực phẩm không đảm bảo chất lượng mà
người tiêu dùng không biết hoặc biết không đầy đủ về chất lượng sản phẩm
nên đã sử dụng những sản phẩm đó.
Vệ sinh an toàn thực phẩm là một vấn đề quan trọng có tính chất sống
còn đối với sức khỏe của người dân nói riêng và sự phát triển giống nòi của cả

2


dân tộc nói chung. Tuy nhiên trên thực tế việc thực hiện vệ sinh an toàn thực
phẩm trong phần lớn các bộ phận người dân, từ người sản xuất cho đến kinh
doanh hàng hóa thực phẩm và người tiêu dùng còn rất thấp. Một trong những
nguyên nhân dẫn đến tình trạng vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm như hiện
nay bắt nguồn từ sự bất cập của các văn bản pháp luật trong lĩnh vực này. Tình
trạng một sản phẩm thực phẩm chịu sự quản lý và giám sát cùng lúc của 3-4
bộ, ngành khác nhau dẫn đến tình trạng “cha chung không ai khóc”. Tuy có rất
nhiều văn bản, nhưng vừa chồng chéo, không phân định rõ ràng trách nhiệm
quản lý giữa các bộ, ngành lại vừa thiếu sót, chưa phủ hết các lĩnh vực, có
khoảng trống giữa các khâu trong trách nhiệm quản lý liên tục một loại sản
phẩm. Một số lĩnh vực mới phát sinh (như thực phẩm chức năng, một số độc

chất và vi chất) chưa được hướng dẫn quản lý cụ thể, chi tiết nên địa phương
rất khó thực hiện. Bên cạnh đó, có những quy định không phù hợp với thực tế
như: hiện tuyến xã không thể nào có đủ cán bộ chuyên môn để thực hiện việc
khám sức khỏe, thẩm định cơ sở, cấp giấy phép theo quy định; những thử
nghiệm cho kết quả ngay thì không đủ cơ sở pháp lý để xử phạt và xử lý ngay,
nhằm tránh ngộ độc thực phẩm xảy ra, còn chờ kết quả chính thức thì thực
phẩm đã được tiêu thụ hết; mức xử lý vi phạm còn chưa phù hợp với quy mô
của cơ sở.
Ngoài tình trạng chồng chéo và thiếu thống nhất, vấn đề quan trọng là
hiệu quả quản lý thấp, không đi vào cuộc sống. Bên cạnh việc xây dựng văn
bản quy phạm pháp luật sát với thực tiễn cuộc sống thì việc triển khai thực
hiện là vấn đề rất quan trọng cần được đẩy mạnh. Có như vậy thì luật mới có
thể đi vào cuộc sống, tạo sự thay đổi tích cực đối với xã hội.
Mặc dù đã được Quốc hội thông qua Luật An toàn vệ sinh thực phẩm
số 55/2010, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2011; Nghị định 38/2012/NĐCP, ban hành 25 tháng 04 năm 2012 quy định chi tiết một số điều của Luật

3


An toàn thực phẩm; Nghị định 91/2012/NĐ-CP, ban hành ngày 08 tháng 11
năm 2012 quy định xử phạt hành chính về an toàn thực phẩm cùng nhiều văn
bản khác đã ghi nhận tương đối toàn diện về quyền và nghĩa vụ của tổ chức cá
nhân trong lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm song khả năng áp dụng còn
hạn chế, nội dung điều chỉnh còn mang tính nguyên tắc và cứng nhắc. Hơn
nữa việc đưa các chế tài mạnh mẽ để xử lý nghiêm khắc các hành vi vi phạm
còn chưa được chú trọng, quản lý vẫn theo nguyên tắc cũ là giơ cao đánh khẽ
do đó chưa tạo ra tính răn đe cao, nhiều hành vi với mức xử phạt quá nhẹ nên
dẫn đến tình trạng vi phạm bị xử phạt rồi lại tái phạm.
Tuy có tầm quan trọng đặc biệt như vậy nhưng vấn đề vệ sinh an toàn
thực phẩm và thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này mới chỉ được chú trọng

nghiên cứu trong một vài năm trở lại đây và kết quả nghiên cứu cũng còn rất
khiêm tốn. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu có liên quan như: Điều
tra ngộ độc thực phẩm – tiến sĩ Trần Thị Phúc Nguyệt, Đại học Y Hà Nội;
Một số bệnh truyền qua thực phẩm; Điều tra vệ sinh an toàn thực phẩm –
PGS.TS. Đỗ Thị Hà – Giảng viên chính Viện đào tạo Y học Dự phòng và Y tế
công cộng cục an toàn thực phẩm. Ngộ độc thức ăn – GS.TS.Nguyễn Thị dụ;
Pháp luật về Kiểm soát an toàn vệ sinh thực phẩm trong hoat động thương
mại ở Việt Nam” Luận văn thạc sỹ - Đặng Công Hiển – năm 2010, khoa Luật
- Đại học Quốc gia Hà Nội; “Tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực
phẩm trong Luật Hình sự Vệt Nam. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” Luận
văn thạc sỹ Hoàng Trí Ngọc năm 2009, khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Có thể thấy, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn
đề an toàn vệ sinh thực phẩm. Tuy nhiên chưa có công trình nghiên cứu sâu
về vấn đề thực hiện pháp luật trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm trên
địa bàn Hà Nội - một vấn đề hết sức nóng và luôn cần thiết, liên quan mật
thiết đến hiệu quả của việc thực hiện vệ sinh an toàn thực phẩm. Bởi muốn

4


thực hiện tốt công tác vệ sinh an toàn thực phẩm thì ngoài ý thức tự giác của
mỗi công dân nhà nước cần phải có chế tài nghiêm khắc được thể hiện qua
các văn bản quy phạm pháp luật buộc mỗi công dân phải tuân thủ chấp hành.
Chỉ có như vậy thì công tác vệ sinh an toàn thực phẩm mới có thể có những
bước tiến mới, quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm mới có thể kiểm soát được
từ khâu sản xuất đến tiêu dùng.
Vì vậy tôi chọn đề tài này với mong muốn có thể phân tích và chỉ ra
những tồn tại, hạn chế trong hệ thống pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm cũng
như việc thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này. Đề tài không mới nhưng có tính
ứng dụng cao. Rất mong những nghiên cứu, những vấn đề đưa ra và giải quyết

trong đề tài sẽ góp phần chỉ ra những tồn đọng, bất cập trong việc thực hiện pháp
luật vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn Thủ đô nói riêng và cả nước nói
chung. Tiến tới để mỗi công dân đều được hưởng những sản phẩm thực phẩm
sạch và an toàn. Những cơ sở lý luận đã được học, được tiếp cận sẽ giúp tôi
hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu này. Phần nào đưa ra lời giải đáp cho câu hỏi vệ
sinh thực phẩm trên địa bàn Hà nội đã thực sự tốt hay chưa?
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
cơ bản về việc thực hiện pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn Hà
Nội trong bối cảnh chung của cả nước. Đánh giá thực trạng chung về việc
thực hiện pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm của Việt Nam, từ đó đưa ra
những giải pháp để khắc phục những hạn chế, thiếu sót của thực tại, hoàn
thiện hệ thống pháp luật.
Từ những mục đích trên, Luận văn có những nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Phân tích và đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật Việt Nam về vệ
sinh an toàn thực phẩm.

5


- Đưa ra một số giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực hiện
pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm.
3. Đối tượng và phạm vy nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thực hiện pháp luật trong lĩnh
vực vệ sinh an toàn thực phẩm.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu thực hiện pháp luật về vệ sinh an toàn
thực phẩm trên địa bàn Hà nội dưới góc độ Lý luận và Lịch sử nhà nước và
pháp luật, lý thuyết về thực hiện pháp luật, thực trạng hệ thống pháp luật về

vệ sinh an toàn thực phẩm, thực trạng thực hiện pháp luật của các chủ thể.
Khoảng thời gian nghiên cứu: nghiên cứu về hệ thống pháp luật vệ sinh
an toàn thực phẩm và việc thực hiện pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm từ Nhà
nước ta khi đổi mới cơ chế bao cấp sang thị trường cho đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nghiên cứu, Luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau: phương pháp duy vật biện chứng; phương pháp duy vật lịch
sử; phương pháp điều tra xã hội học; phương pháp phân tích hệ thống;
phương pháp tổng hợp.
5. Nội dung nghiên cứu
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
TRONG LĨNH VỰC VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM
1. Khái niệm vệ sinh an toàn thực phẩm
2. Khái niệm thực hiện pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm
2.1. Khái niệm pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm
2.2. Khái niệm thực hiện pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm
3. Các hình thức thực hiện pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm

6


3.1.Tuân thủ pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm
3.2.Thi hành pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm
3.3.Sử dụng pháp luật vệ sinh an toàn vệ sinh thực phẩm
3.4.Áp dụng pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm
4. Đặc điểm thực hiện pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm
4.1. Về phạm vi điều chỉnh
4.2. Về hệ thống pháp luật điều chỉnh
4.3. Về các chủ thể thực hiện
5. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện pháp luật vệ sinh an toàn

thực phẩm
5.1. Yếu tố kinh tế và lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh
5.2. Yếu tố pháp luật
5.3. Yếu tố ý thức pháp luật và đạo đức của các chủ thể tham giam
quan hệ pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm
5.4. Yếu tố hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền
5.5.Yếu tố kỹ thuật công nghệ
5.6.Yếu tố tài chính, kinh phí thực hiện
6. Điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm
6.1.Hệ thống pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm phải hoàn thiện, đủ
tính răn đe
6.2. Thực hiện tốt công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
6.3.Thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp
luật vệ sinh an toàn thực phẩm
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỆ
SINH AN TOÀN THỰC PHẨM
2.1. Thực trạng của hệ thống pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm

7


2.1.1. Hệ thống các văn bản quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm
2.1.2. Nhận xét về ưu điểm, hạn chế của hệ thống văn bản pháp luật về
vệ sinh an toàn thực phẩm
2. 2.Thực trạng thực hiện pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm
1.Thực hiện pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền
2.Thực hiện pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm của các tổ chức, cá
nhân trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm

3. Thực hiện pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm của những người tiêu dùng
CHƯƠNG III.QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP VỀ THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM
3.1. Các quan điểm cơ bản về thực hiện pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm
3.1.1. Đảm bảo lợi ích chính đáng của mỗi chủ thể trong quan hệ pháp
luật vệ sinh an toàn thực phẩm
3.1.2. Đảm bảo nguyên tắc bình đẳng công bằng trong quá trình triển
khai và thực hiện pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm
3.1.3. Đảm bảo tính công khai trong tổ chức thực hiện pháp luật vệ sinh
an toàn thực phẩm
3.2. Các giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật trong lĩnh vực vệ sinh
an toàn thực phẩm
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm
3.2.2. Xây dựng và nâng cao trình độ và đạo đức nghề nghiệp của cán
bộ công chức trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm
3.2.3. Giáo dục pháp luật về an toàn vệ sinh thực phẩm
3.2.4. Yêu cầu các tổ chức sản xuất, kinh doanh ký cam kết an toàn vệ
sinh thực phẩm.

8


3.2.5. Tăng cường công tác kiểm tra, xử lý kịp thời, nghiêm minh, công
bằng mọi hành vi vi phạm pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm
3.2.6. Nâng cao vai trò của hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng trong việc
thực hiện pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm
3.2.7. Đảm bảo và nâng cao cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ trong
công tác thực hiện pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm
KẾT LUẬN


9


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TRONG
LĨNH VỰC VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM
1. Khái niệm vệ sinh an toàn thực phẩm
Một số khái niệm liên quan an toàn thực phẩm và Luật An toàn thực phẩm
Thực phẩm là sản phẩm mà con người ăn, uống ở dạng tươi sống hoặc
đã qua sơ chế, chế biến, bảo quản. Thực phẩm không bao gồm mỹ phẩm,
thuốc lá và các chất sử dụng như dược phẩm. [37]
Thực phẩm tươi sống là thực phẩm chưa qua chế biến bao gồm thịt,
trứng, cá, thuỷ hải sản, rau, củ, quả tươi và các thực phẩm khác chưa qua chế
biến. [37]
Thực phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng là thực phẩm được bổ sung
vitamin, chất khoáng, chất vi lượng nhằm phòng ngừa, khắc phục sự thiếu hụt
các chất đó đối với sức khỏe cộng đồng hay nhóm đối tượng cụ thể trong
cộng đồng. [37]
Thực phẩm chức năng là thực phẩm dùng để hỗ trợ chức năng của cơ
thể con người, tạo cho cơ thể tình trạng thoải mái, tăng sức đề kháng, giảm
bớt nguy cơ mắc bệnh, bao gồm thực phẩm bổ sung, thực phẩm bảo vệ sức
khoẻ, thực phẩm dinh dưỡng y học. [37]
Thực phẩm biến đổi gen là thực phẩm có một hoặc nhiều thành phần
nguyên liệu có gen bị biến đổi bằng công nghệ gen. [37]
Thực phẩm bao gói sẵn là thực phẩm được bao gói và ghi nhãn hoàn
chỉnh, sẵn sàng để bán trực tiếp cho mục đích chế biến tiếp hoặc sử dụng để
ăn ngay. [37]
Bệnh truyền qua thực phẩm là bệnh do ăn, uống thực phẩm bị nhiễm
tác nhân gây bệnh. [36]
Chất hỗ trợ chế biến thực phẩm là chất được chủ định sử dụng trong
quá trình chế biến nguyên liệu thực phẩm hay các thành phần của thực phẩm

10


nhằm thực hiện mục đích công nghệ, có thể được tách ra hoặc còn lại trong
thực phẩm. [37]
Chế biến thực phẩm là quá trình xử lý thực phẩm đã qua sơ chế hoặc
thực phẩm tươi sống theo phương pháp công nghiệp hoặc thủ công để tạo
thành nguyên liệu thực phẩm hoặc sản phẩm thực phẩm. [37]
Cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống là cơ sở chế biến thức ăn bao gồm
cửa hàng, quầy hàng kinh doanh thức ăn ngay, thực phẩm chín, nhà hàng ăn
uống, cơ sở chế biến suất ăn sẵn, căng-tin và bếp ăn tập thể. [37]
Điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm là những quy chuẩn kỹ thuật và
những quy định khác đối với thực phẩm, cơ sở sản xuất, kinh doanh thực
phẩm và hoạt động sản xuất, kinh doanh thực phẩm do cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền ban hành nhằm mục đích bảo đảm thực phẩm an toàn đối
với sức khoẻ, tính mạng con người. [37]
Kiểm nghiệm thực phẩm là việc thực hiện một hoặc các hoạt động thử
nghiệm, đánh giá sự phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn tương ứng
đối với thực phẩm, phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm, chất
bổ sung vào thực phẩm, bao gói, dụng cụ, vật liệu chứa đựng thực phẩm. [37]
Kinh doanh thực phẩm là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các
hoạt động giới thiệu, dịch vụ bảo quản, dịch vụ vận chuyển hoặc buôn bán
thực phẩm. [37]
Ngộ độc thực phẩm là tình trạng bệnh lý do hấp thụ thực phẩm bị ô
nhiễm hoặc có chứa chất độc. [37]
Nguy cơ ô nhiễm thực phẩm là khả năng các tác nhân gây ô nhiễm xâm
nhập vào thực phẩm trong quá trình sản xuất, kinh doanh. [37]
Ô nhiễm thực phẩm là sự xuất hiện tác nhân làm ô nhiễm thực phẩm
gây hại đến sức khỏe, tính mạng con người. [37]


11


Phụ gia thực phẩm là chất được chủ định đưa vào thực phẩm trong quá
trình sản xuất, có hoặc không có giá trị dinh dưỡng, nhằm giữ hoặc cải thiện
đặc tính của thực phẩm. [37]
Sản xuất thực phẩm là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt
động trồng trọt, chăn nuôi, thu hái, đánh bắt, khai thác, sơ chế, chế biến, bao
gói, bảo quản để tạo ra thực phẩm. [37]
Sản xuất ban đầu là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt
động trồng trọt, chăn nuôi, thu hái, đánh bắt, khai thác. [37]
Sơ chế thực phẩm là việc xử lý sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thu hái,
đánh bắt, khai thác nhằm tạo ra thực phẩm tươi sống có thể ăn ngay hoặc tạo ra
nguyên liệu thực phẩm hoặc bán thành phẩm cho khâu chế biến thực phẩm. [37]
Sự cố về an toàn thực phẩm là tình huống xảy ra do ngộ độc thực
phẩm, bệnh truyền qua thực phẩm hoặc các tình huống khác phát sinh từ thực
phẩm gây hại trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng con người. [37]
Tác nhân gây ô nhiễm là yếu tố không mong muốn, không được chủ
động cho thêm vào thực phẩm, có nguy cơ ảnh hưởng xấu đến an toàn thực
phẩm. [37]
Thời hạn sử dụng thực phẩm là thời hạn mà thực phẩm vẫn giữ được
giá trị dinh dưỡng và bảo đảm an toàn trong điều kiện bảo quản được ghi trên
nhãn theo hướng dẫn của nhà sản xuất. [37]
Thức ăn đường phố là thực phẩm được chế biến dùng để ăn, uống ngay,
trong thực tế được thực hiện thông qua hình thức bán rong, bày bán trên
đường phố, nơi công cộng hoặc những nơi tương tự. [37]
Truy xuất nguồn gốc thực phẩm là việc truy tìm quá trình hình thành và
lưu thông thực phẩm. [37]
Vệ sinh thực phẩm (food higyene) là một khái niệm khoa học để nói
thực phẩm không chứa vi sinh vật gây bệnh và không chứa độc tố. Ngoài ra


12


khái niệm vệ sinh thực phẩm còn bao gồm cả những nội dung khác như tổ
chức vệ sinh trong bảo quản và chế biến thực phẩm. [31, 5-6]
An toàn thực phẩm (food safety) là khái niệm khoa học có nội dung
rộng hơn khái niệm vệ sinh thực phẩm. An toàn thực phẩm được hiểu như khả
năng không gây ngộ độc của thực phẩm đối với con người. Nguyên nhân gây
ra ngộ độc thực phẩm không chỉ ở vi sinh vật mà còn được mở rộng ra do các
chất hóa học, các yếu tố vật lý. Khả năng gây ngộ độc không chỉ ở thực phẩm
mà còn xem xét cả một quá trình sản xuất trước thu hoạch. [31, 5-6]
Theo nghĩa rộng an toàn thực phẩm còn được hiểu là khả năng cung
cấp đầy đủ và kịp thời về số lượng chất lượng thực phẩm một khi quốc gia
gặp thiên tai hay một lý do nào đó.” [31, 5-6]
Như vậy vệ sinh an toàn thực phẩm là tất cả điều kiện, biện pháp cần
thiết từ khâu sản xuất, chế biến, bảo quản, phân phối, vận chuyển cũng như sử
dụng nhằm bảo đảm cho thực phẩm sạch sẽ, an toàn, không gây hại cho sức
khỏe, tính mạng người tiêu dùng. Vì vậy, vệ sinh an toàn thực phẩm là công
việc đòi hỏi sự tham gia của nhiều ngành, nhiều khâu có liên quan đến thực
phẩm như nông nghiệp, thú y, cơ sở chế biến thực phẩm, y tế, người tiêu dùng.
Bảo đảm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm giữ vị trí quan trọng
trong sự nghiệp bảo vệ sức khỏe nhân dân, góp phần giảm tỷ lệ mắc bệnh,
duy trì và phát triển nòi giống, tăng cường sức lao động, học tập, thúc đẩy sự
tăng trưởng kinh tế, văn hóa xã hội và thể hiện nếp sống văn minh. Mặc dù
cho đến nay đã có khá nhiều tiến bộ về khoa học kỹ thuật trong công tác bảo
vệ và an toàn vệ sinh thực phẩm, cũng như biện pháp về quản lý giáo dục như
ban hành luật, điều lệ và thanh tra giám sát vệ sinh an toàn thực phẩm, nhưng
các bệnh do kém chất lượng về vệ sinh thực phẩm và thức ăn vẫn chiếm tỷ lệ
khá cao. Thực phẩm là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng cho sự phát triển của

cơ thể, đảm bảo sức khỏe con người nhưng đồng thời cũng là nguồn có thể

13


gây bệnh nếu không đảm bảo vệ sinh. Không có thực phẩm nào được coi là có
giá trị dinh dưỡng nếu nó không đảm bảo vệ sinh. Về lâu dài thực phẩm
không những có tác động thường xuyên đối với sức khỏe mỗi con người mà
còn ảnh hưởng lâu dài đến nòi giống của dân tộc. Sử dụng các thực phẩm
không đảm bảo vệ sinh trước mắt có thể bị ngộ độc cấp tính với các triệu
chứng ồ ạt, dễ nhận thấy, nhưng vấn đề nguy hiểm hơn nữa là sự tích lũy dần
các chất độc hại ở một số cơ quan trong cơ thể sau một thời gian mới phát
bệnh hoặc có thể gây các dị tật, dị dạng cho thế hệ mai sau. Những ảnh hưởng
tới sức khỏe đó phụ thuộc vào các tác nhân gây bệnh. Những trẻ suy dinh
dưỡng, người già, người ốm càng nhạy cảm với các bệnh do thực phẩm không
an toàn nên càng có nguy cơ suy dinh dưỡng và bệnh tật nhiều hơn.
Đối với nước ta cũng như nhiều nước đang phát triển, lương thực thực
phẩm là một loại sản phẩm chiến lược, ngoài ý nghĩa kinh tế còn có ý nghĩa
chính trị, xã hội rất quan trọng. Vệ sinh an toàn thực phẩm nhằm tăng lợi thế
cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Để cạnh tranh trên thị trường quốc tế, thực
phẩm không những cần được sản xuất, chế biến, bảo quản phòng tránh ô
nhiễm các loại vi sinh vật mà còn không được chứa các chất hóa học tổng hợp
hay tự nhiên vượt quá mức quy định cho phép của tiêu chuẩn quốc tế hoặc
quốc gia, gây ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng. Những thiệt hại khi
không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm gây nên nhiều hậu quả khác nhau,
từ bệnh cấp tính, mạn tính đến tử vong. Thiệt hại chính do các bệnh gây ra từ
thực phẩm đối với cá nhân là chi phí khám bệnh, phục hồi sức khỏe, chi phí
do phải chăm sóc người bệnh, sự mất thu nhập do phải nghỉ làm,… Đối với
nhà sản xuất, đó là những chi phí do phải thu hồi, lưu giữ sản phẩm, hủy hoặc
loại bỏ sản phẩm, những thiệt hại do mất lợi nhuận do thông tin quảng cáo,…

và thiệt hại lớn nhất là mất lòng tin của người tiêu dùng. Ngoài ra còn có các
thiệt hại khác như phải điều tra, khảo sát, phân tích, kiểm tra độc hại, giải

14


quyết hậu quả,… Do vậy, vấn đề đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm để
phòng các bệnh gây ra từ thực phẩm có ý nghĩa thực tế rất quan trọng trong sự
phát triển kinh tế và xã hội, bảo vệ môi trường sống của các nước đã và đang
phát triển, cũng như nước ta. Mục tiêu đầu tiên của vệ sinh an toàn thực phẩm
là đảm bảo cho người ăn tránh bị ngộ độc do ăn phải thức ăn bị ô nhiễm hoặc
có chất độc; thực phẩm phải đảm bảo lành và sạch.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế của nước ta chuyển sang cơ chế
thị trường. Các loại thực phẩm sản xuất, chế biến trong nước và nước ngoài
nhập vào Việt Nam ngày càng phong phú, đa dạng và nhiều chủng loại. Việc
sử dụng các chất phụ gia trong sản xuất trở nên phổ biến. Các loại phẩm màu,
đường hóa học đang bị lạm dụng trong pha chế nước giải khát, sản xuất bánh
kẹo, chế biến thức ăn sẵn như thịt quay, giò chả, ô mai … Nhiều loại thịt bán
trên thị trường không qua kiểm duyệt thú y. Tình hình sản xuất thức ăn, đồ
uống giả, không đảm bảo chất lượng và không theo đúng thành phần nguyên
liệu cũng như quy trình công nghệ đã đăng ký với cơ quan quản lý. Nhãn
hàng và quảng cáo không đúng sự thật vẫn xảy ra.
Ngoài ra, việc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật bao gồm thuốc trừ sâu,
diệt cỏ, hóa chất kích thích tăng trưởng và thuốc bảo quản không theo đúng
quy định gây ô nhiễm nguồn nước cũng như tồn dư các hóa chất này trong
thực phẩm. Việc bảo quản lương thực thực phẩm không đúng quy cách tạo
điều kiện cho vi khuẩn và nấm mốc phát triển đã dẩn đến các vụ ngộ độc thực
phẩm. Các bệnh do thực phẩm gây nên không chỉ là các bệnh cấp tính do ngộ
độc thức ăn mà còn là các bệnh mãn tính do nhiễm và tích lũy các chất độc
hại từ môi trường bên ngoài vào thực phẩm, gây rối loạn chuyển hóa các chất

trong cơ thể, trong đó có bệnh tim mạch và ung thư.
Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới đánh giá các chương trình
hành động đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm trên toàn cầu đã

15


xác định được nguyên nhân chính gây tử vong ở trẻ em là các bệnh đường
ruột, phổ biến là tiêu chảy. Đồng thời cũng nhận thấy nguyên nhân gây các
bệnh trên là do thực phẩm bị nhiễm khuẩn.
Ở Việt Nam, Theo thống kê của của Bộ Y tế, từ năm 2004-2009 đã có
1.058 vụ NĐTP, trung bình 176,3 vụ/năm, số người bị NĐTP là 5.302
người/năm, số người chết là 298 người (49,7 người/năm), tính trung bình tỷ lệ
người bị NĐTP cấp tính là 7,1 người/100 ngàn dân/năm. Năm 2009 có 152 vụ
ngộ độc thực phẩm với 5.212 người mắc và 31 người tử vong. So sánh với
năm 2008, số vụ ngộ độc/năm 2009 giảm 53 vụ (25,9%); số người mắc giảm
2.616 người (33,4%); số người đi viện giảm 1.888 người (31,3%); và số
người bị tử vong giảm 26 trường hợp ( 42,6%) . Về nguyên nhân NĐTP,
29,6% số vụ do thực phẩm bị ô nhiễm vi sinh vật, 5,2% số vụ do hóa chất,
24,7% do thực phẩm có sẵn độc tố tự nhiên, 40,5% số vụ không xác định
được nguyên nhân.
Riêng trong năm 2010 (tính đến 20/12/2010), cả nước đã xảy ra 175 vụ
ngộ độc (trong đó có 34 vụ ngộ độc trên 30 người) làm 5.664 người mắc và
42 trường hợp tử vong. So sánh với số liệu trung bình/năm của giai đoạn
2006-2009, số vụ NĐTP giảm 9,1%, số mắc giảm 17,6% và số người tử vong
giảm 19,2%. Đáng chú ý là trong số 42 người chết, có tới 14 người do uống
rượu có Methanol (cồn công nghiệp) chiếm 33,3%, tiếp theo là do ăn phải
nấm (23,8%). Ngộ độc do cá nóc cũng còn khá cao (16,7%).
Tiến bộ đáng kể trong quản lý ngộ độc thực phẩm trong năm 20092010 là hệ thống thông tin ghi nhận ngộ độc thực phẩm đã thực hiện nhanh
chóng, xử lý kịp thời và các doanh nghiệp để xảy ra ngộ độc tập thể được

nhắc nhở, theo dõi, có cam kết và nhiều doanh nghiệp đã đầu tư, cải thiện
điều kiện ATTP đối với cơ sở nấu nướng và quy trình chế biến thức ăn. Đã
thiết lập được mạng lưới cảnh bảo nhanh có liên hệ chặt chẽ với WHO, FAO,

16


EU và các nước trên Thế giới; bước đầu xây dựng hệ thống phân tích nguy cơ
phục vụ quản lý.
Bệnh truyền qua thực phẩm là nguy cơ lớn đối với sức khỏe con người
và giống nòi do sử dụng lâu dài thực phẩm không bảo đảm ATTP. Hiện có tới
400 các bệnh truyền qua thực phẩm, chủ yếu là tả, lỵ trực trùng, lỵ amip, tiêu
chảy, thương hàn, cúm gia cầm...
Tỷ lệ mắc bệnh giun sán ở nước ta còn rất cao. Có tới hơn 60.000.000
người đang mang giun sán trong người do tập quán ăn uống mất vệ sinh (ăn
gỏi cá, ăn rau sống, ăn tiết canh, nộm...). Nhiều bệnh ký sinh trùng gây tác hại
rất lớn cho sức khỏe: gây thiếu máu, suy dinh dưỡng, viêm và áp xe gan, rối
loạn tiêu hóa, thần kinh và vận động. Bệnh sán lá gan lớn có ở 18 tỉnh, tỷ lệ
mắc có nơi tới 37% như Nam Định, Phú Yên... Bệnh sán lá gan nhỏ có ở 24
tỉnh, tỷ lệ nhiễm rất cao như Hà Tây (40%), Thanh Hóa (38%), Nam Định
(37%), Ninh Bình (30%), Phú Yên (37%), Bình Định (30%). Ngoài ra, các
bệnh ký sinh trùng khác như: giun đũa, giun xoắn, giun kim, bệnh ấu trùng
sán, giun cũng còn phổ biến. Đây là các bệnh mà nguồn lây truyền chủ yếu
qua đường thực phẩm, ăn uống. [3]
Hiện nay chúng ta đang đứng trước nhiều thách thức mới. Đó là Sự
bùng nổ dân số cùng với đô thị hóa nhanh dẫn đến thay đổi thói quen ăn uống
của nhân dân, thúc đẩy phát triển dịch vụ ăn uống trên hè phố tràn lan, khó có
thể đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Thực phẩm chế biến ngày càng nhiều,
các bếp ăn tập thể gia tăng … là nguy cơ dẩn đến hàng loạt vụ ngộ độc. Bên
cạnh đó, sự gia tăng nhanh dân số còn làm khan hiếm tài nguyên thiên nhiên,

trong đó nguồn nước sạch sử dụng cho sinh hoạt và ăn uống thiếu cũng ảnh
hưởng không nhỏ đến việc bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm.
Ô nhiễm môi trường: sự phát triển của các ngành công nghiệp dẩn đến
môi trường ngày càng bị ô nhiễm, ảnh hưởng đến vật nuôi và cây trồng. Mức độ

17


thực phẩm bị nhiễm bẩn tăng lên, đặc biệt là các vật nuôi trong ao hồ có chứa
nước thải công nghiệp, lượng tồn dư một số kim loại nặng ở các vật nuôi cao.
Sự phát triển của khoa học công nghệ: việc ứng dụng các thành tựu
khoa học kỹ thuật mới trong chăn nuôi, trồng trọt, sản xuất, chế biến thực
phẩm làm cho nguy cơ thực phẩm bị nhiễm bẩn ngày càng tăng do lượng tồn
dư thuốc bảo vệ thực vật, hóa chất bảo quản trong rau, quả; tồn dư thuốc thú y
trong thịt, thực phẩm sử dụng công nghệ gen, sử dụng nhiều hóa chất độc hại,
phụ gia không cho phép, cũng như nhiều quy trình không đảm bảo vệ sinh
gây khó khăn cho công tác quản lý, kiểm soát.
2. Khái niệm thực hiện pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm
2.1. Khái niệm pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chó tính bắt buộc chung do Nhà
nước đặt ra và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và nhu
cầu tồn tại của xã hội nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, tạo lập trật tự, ổn
định cho sự phát triển xã hội.[33, 44]
Bám vào khái niệm trên, ta có thể đưa ra một khái niệm về pháp luật vệ
sinh an toàn thực phẩm như sau:
Pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm là hệ thống các quy tắc xử sự có
tính bắt buộc chung do nhà nước đặt ra và bảo đảm thực hiện nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm.
Như vậy, pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm là toàn bộ các văn bản luật và
dưới luật, các thông tư nghị định có liên quan điều chỉnh những vấn đề xã hội

phát sinh trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm.
2.2. Khái niệm thực hiện pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm
Thực hiện pháp luật trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm là quá
trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật vệ sinh

18


an toàn thực phẩm đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp
pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Sau khi Luật An toàn thực phẩm được thông qua, Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành Nghị định số 38/2012/NĐ-CP về quy định chi tiết thi hành một
số điều luật. Nhiều giải pháp về an toàn thực phẩm được triển khai trên toàn
quốc. Năm 2012 Chính phủ phê duyệt Chiến lược an toàn thực phẩm từ 2011
đến 2020 tầm nhìn tới 2030 của Bộ y tế. Các cấp ủy đảng, chính quyền, các
ban ngành đoàn thể từ trung ương đến các tỉnh thành phố, quận, huyện, xã,
phường đã vào cuộc quyết liệt để triển khai có hiệu quả các quy định của
pháp luật về an toàn thực phẩm. Tuy nhiên việc triển khai thực hiện các văn
bản pháp luật đôi khi còn chưa kịp thời. Công tác phối hợp liên ngành giữa
các cơ quan chức năng còn chưa tốt. Nhiều chính quyền địa phương coi công
tác quản lý an toàn thực phẩm là trách nhiệm của riêng ngành y tế nên công
tác chỉ đạo, huy động sự tham gia của các cơ quan liên quan chưa quyết liệt.
Đầu tư kinh phí từ ngân sách còn thấp, trang thiết bị và nhân lực còn hạn chế.
3. Các hình thức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực vệ sinh an toàn
thực phẩm
Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, khoa học pháp
lý đã xác định những hình thức thực hiện pháp luật sau:
Thứ nhất, tuân thủ pháp luật;
Thứ hai, thi hành pháp luật;
Thứ ba, sử dụng pháp luật;

Thứ tư, áp dụng pháp luật.
Do đó cũng có 4 hình thức thực hiện pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm:
3.1.Tuân thủ pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm
Là một hình thức thực hiện pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm, trong
đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp

19


luật vệ sinh an toàn thực phẩm cấm. Ở hình thức thực hiện này đòi hỏi chủ thể
pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm thực hiện nghĩa vụ một cách thụ động,
dưới dạng không hành động.
Ví dụ: Điều 5 - Luật An toàn thực phẩm số 55/2010 quy định những
hành vi bị cấm trong an toàn vệ sinh thực phẩm. Do đó một công dân không
thực hiện những hành vi vi phạm được qui định tại điều này, tức là công dân
đó tuân thủ những qui định của luật này.
Những hành vi bị cấm:
- Sử dụng nguyên liệu không thuộc loại dùng cho thực phẩm để chế
biến thực phẩm.
- Sử dụng nguyên liệu thực phẩm đã quá thời hạn sử dụng, không rõ nguồn
gốc, xuất xứ hoặc không bảo đảm an toàn để sản xuất, chế biến thực phẩm.
- Sử dụng phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm đã quá
thời hạn sử dụng, ngoài danh mục được phép sử dụng hoặc trong danh mục
được phép sử dụng nhưng vượt quá giới hạn cho phép; sử dụng hóa chất
không rõ nguồn gốc, hóa chất bị cấm sử dụng trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh thực phẩm.
[37, Điều 5]
3.2. Thi hành pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm
Là một hình thức thực hiện pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm, trong
đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình về vệ sinh an

toàn thực phẩm bằng hành động tích cực.
Khác với hình thức tuân thủ pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm,
trong hình thức thi hành pháp luật vệ sinh an toàn thực phẩm đòi hỏi chủ thể
phải thực hiện nghĩa vụ pháp lý về vệ sinh an toàn thực phẩm dưới dạng hành
động tích cực.

20


Ví dụ: một người thấy người khác đang lâm vào tình trạng có thể nguy
hiểm đến tính mạng và người đó cứu giúp, tức là người đó đã bằng hành động
tích cự thi hàng qui định về nghĩa vụ công dân của pháp luật nói chung và của
luật hình sự nói riêng.
Ví dụ: điểm 7, mục II, Quyết định số 4128/2001/QĐ-BYT ngày
03/10/2001 về việc ban hành quy định về điều kiện bảo đảm an toàn thực
phẩm tại các nhà ăn, bếp ăn tập thể và cơ sở kinh doanh chế biến suất ăn sẵn
quy đinh về trách nhiệm của chủ cơ sở, thương nhân có loại thức ăn gây ngộ
độc khi có ngộ độc xảy ra phải hành động một tích cực đó là báo cáo cho cơ
quan y tế gần nhất đồng thời phải giữ lại mẫu thực phẩm, thức ăn thừa gửi cơ
quan y tế dự phòng. Tức là chủ cơ sở, thương nhân bằng hành động tích cực
thi hành quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm:
Khi có ngộ độc thực phẩm phải báo cáo ngay cho cơ quan y tế gần nhất
và giữ lại mẫu thực phẩm lưu, thức ăn thừa để gửi cơ quan y tế dự phòng của
tỉnh hoặc quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (được gọi chung là huyện)
xét nghiệm tìm nguyên nhân. Chủ cơ sở, thương nhân có loại thức ăn gây ngộ
độc sẽ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về hành vi sai phạm và phải trả toàn
bộ mọi chi phí khám, chữa bệnh cho bệnh nhân bị ngộ độc và chi phí tìm
nguyên nhân gây ngộ độc của các cơ quan điều tra.
[11, Điểm 7]
3.3. Sử dụng pháp luật vệ sinh an toàn vệ sinh thực phẩm

Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật
thực hiện quyền chủ thể của mình, đó là những hành vi mà pháp luật vệ sinh
an toàn thực phẩm cho phép.
Hình thức này khác với các hình thức trên ở chỗ chủ thể pháp luật vệ
sinh an toàn thực phẩm có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền được

21


×