Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tiểu luận ngành dệt may VN trên con đường hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (738.32 KB, 27 trang )

Lời mở đầu
Ngành công nghiệp Dệt may là một ngành có truyền thống từ lâu ở Việt
Nam. Đây là một ngành quan trọng trong nền kinh tế của nớc ta vì nó phục vụ
nhu cầu thiết yếu của con ngời, là ngành giải quyết đợc nhiều việc làm cho xã
hội và đặc biệt nó là ngành có thế mạnh trong xuất khẩu, tạo điều kiện cho
kinh tế phát triển, góp phần cân bằng cán cân xuất nhập khẩu của đất nớc.Trong quá trình Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá hiện nay, ngành Dệt may
đang chứng tỏ là một ngành mũi nhọn trong nền kinh tế đợc thể hiện qua kim
ngạch xuất khẩu liên tục tăng trong mấy năm gần đây, các thị trờng luôn đợc
rộng mở,số lao động trong ngành ngày càng nhiều và chiếm tỷ trọng lớn trong
các ngành công nghiệp, giá trị đong góp của ngành vào thu nhập quốc dân
Tuy nhiên trong quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế và những biến động của
môi trờng kinh tế , ngành Dệt may đang đứng trớc những khó khăn và thách
thức mới cho sự phát triển.
Với mục đích tim hiểu những vấn đề lớn liên quan đến ngành trong giai
đoạn hiện nay và thử tìm một số giải pháp để khác phục những vấn đề đó, em
đã quyết định lựa chọn đề tài : Ngành Dệt May Việt Nam trên con đờng hội
nhập. Bài viết đợc hoàn thành với sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo Th.s Mai
Xuân Đợc. Đây là một bài viết với vấn đề đợc đề cập tơng đối rộng nên không
thể tránh khỏi những thiếu sót, em mong đợc sự góp ý của mọi ngời.
Nội dung bài viết đợc chia làm hai phần:
-Phần một: Thực trạng ngành Dệt May Việt Nam.
-Phần hai: Định hớng phát triển công nghiệp Dệt May Việt Nam.

I. Thực trạng ngành dệt may việt nam

1.1 Thị trờng dệt may
Trong hơn 10 năm qua, ngành dệt may Việt Nam đã có những bớc tiến vợt
bậc trong lĩnh vực xuất khẩu với tốc độ tăng trởng bình quân 23.8%/ năm, vơn
lên đứng thứ 2 trong cả nớc về kim ngạch xuất khẩu, sau ngành dầu khí. Nếu
nh năm 1990 hàng dệt may Việt Nam mới chỉ có mặt ở gần 30 nớc trên thế
giới thì đến nay đã hiện diện ở hầu khắp các châu lục với trên 100 nớc và vùng


lãnh thổ. Kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng. Năm 1998 xuất khẩu hàng

1


dệt may đạt 1,45 tỷ USD, tới năm 1999 đã tăng lên 1,76 tỷ USD và năm 2000
xuất gần 1,89 tỷ USD, gấp 16 lần so với năm 1990. Năm 2002 kim ngạch xuất
khẩu của ngành đạt 2,7 tỷ USD, tăng 30,7% so với năm 2001, vợt kế hoạch
12,5%. Năm 2003 là 3,6 tỷ USD và vợt hơn 400 triệu USD so với mục tiêu đề
ra, điều này không chỉ góp phần đa kim ngạch xuất khẩu nói chung của cả nớc
tăng 20% mà còn tạo cở sở vững chắc cho sự tăng trởng xuất khẩu cho những
năm sau.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may qua các
năm
Đơn vị : triệu USD

Thị trờng xuất khẩu chủ yếu của hàng dệt may nớc ta hiện nay là Nhật Bản,
Hoa Kỳ và EU.
*Thị trờng EU
Hàng dệt may chiếm 25% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU
Từ năm 1993, EU dành cho Việt Nam điều kiện xuất khẩu hàng dệt hàng
năm và từng đợt điều chỉnh tăng hạn ngạch. Kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam liên tục tăng từ 1991 đến nay. Trị giá xuất khẩu trong các năm 1991 đến
2001 tăng lên 21 lần. Tăng trởng liên tục hàng năm: năm thấp nhất (1993)
cũng tăng 5,3%, các năm cao đạt 77,6% (1994 và 1997), 87,6% (1995).
Bên cạnh đó EU là thị trờng nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam về hàng may
mặc (40% xuất khẩu may mặc của Việt Nam). Từ trớc đến nay hàng này đợc
EU cấp hạn ngạch, tăng số lợng hàng năm. Tốc độ tăng trởng hàng năm trên
38%. EU và Việt Nam đã ký hiệp định xuất khẩu may mặc của Việt Nam thời
kỳ 1998-2000, tăng 31% so với 1992-1997. Việt Nam sử dụng cả hạn ngạch

của EU cấp cho Singapore, Indonesia, Philipin. Giai đoạn 2001-2002 EU tăng
hạn ngạch cho Việt Nam với 16 mã hàng may mặc xuất khẩu sang EU. Tỷ

2


trọng hàng dệt may Việt Nam giữ mức 15-16% kim ngạch xuất khẩu. Năm
1999 xuất khẩu hàng này đạt 700 triệu USD. Các nớc nhập khẩu lớn là Đức,
Pháp, Hà Lan, Anh. Nhiều nớc đặt gia công may mặc cho Việt Nam (Đức,
Pháp )
Kim ngạch xuất khẩu dệt may vào EU
Đơn vị: triệu USD

*Thị trờng Nhật Bản
Nhật Bản là một thị trờng mở, có quy mô tơng đối lớn đối với các nhà xuất
khẩu hàng may mặc nớc ngoài, là nớc nhập khẩu hàng may mặc lớn thứ 2 trên
thế giới với số dân 126,9 triệu ngời và mức thu nhập bình quân hàng năm
30.039USD/ngời. Tuy nhiên, việc mua sắm của ngời Nhật Bản đối với các sản
phẩm may mặc khác với thị trờng Mỹ, EU. Ngời tiêu dùng Nhật Bản chịu tác
động rất mạnh bởi các phơng tiện thông tin đại chúng nh các loại tạp chí, phim
ảnh. Nếu nh có một mẫu mốt mới xuất hiện ở Newyork, Milan, Pari hoặc
Tokyo thì các phơng tiện thông tin về thời trang đều đa tin cập nhật đến mẫu
mốt đó, làm thay đổi sở thích tiêu dùng hàng may mặc rất nhanh. Trong khi
đó, hàng may mặc Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản chỉ mới đáp ứng đợc
một cách tơng đối hai yêu cầu, đó là giá cả và chất lợng. Còn yêu cầu về kiểu
dáng thì kiểu dáng hàng may mặc Việt Nam rất nghèo nàn, không đa dạng do
ngành công nghiệp thiết kế thời trang trong nớc cha phát triển, về nhãn mác
chỉ ngời tiêu dùng trong nớc mới biết đến nhãn mác các sản phẩm may Việt
Nam.
Hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản

1992
105.7

1993
58.4

1994
104.1

1995
210.5

1996
309.5

1997
325

1998
321

Đơn vị : triệu USD
3

1999 2000
417
620

2001
592


2002
480


Nhật Bản là thị trờng phi hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam. Hiện nay Việt
Nam đứng thứ 4 trong các nớc có hàng may xuất khẩu vào Nhật Bản. Các sản
phẩm của Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản chủ yếu là hàng may mặc nh
Jacket, quần áo thể thao, quần âu, sơ mi, quần áo lót, quần áo dệt kim. Kim
ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Nhật Bản hàng năm đến năm
2000 đạt cao nhất (620 triệu USD), sau đó đến năm 2001 lại giảm 5%so với
năm 2000 còn 592 triệu USD. Theo số liệu mới nhất của Bộ Thơng mại thì
năm 2002, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Nhật Bản đạt dới 500 triệu
USD, giảm 20% so với năm 2001. Nguyên nhân chính là do sức ép cạnh tranh
của hàng Trung Quốc có chất lợng, mẫu mã đa dạng và giá rẻ, hiện đã chiếm
tới gần 90% thị phần hàng may mặc nhập khẩu của Nhật Bản. Nhiều doanh
nghiệp Việt Nam chỉ nghĩ tới việc thay đổi mẫu mã sản phẩm khi chu kỳ sống
của sản phẩm đó đã bớc sang giai đoạn thoái trào, hàng không bán đợc nữa.
Còn xuất khẩu cả năm qua cũng giảm 1,8% so với năm 2002.
*Thị trờng Hoa Kỳ
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trờng Mỹ: năm
1998 đạt 26.4 triệu USD, năm 1999 đạt 48 triệu USD, năm 2000 đạt 60 triệu
USD, năm 2001 đạt 49 triệu USD.
Năm 2001 Việt Nam và Hoa Kỳ đã thiết lập quan hệ thơng mại trở lại bằng
việc ký kết một hiệp định thơng mại Việt Nam- Hoa Kỳ. Có thể nói đây là một
cơ hội mới rất tốt cho thơng mại của Việt Nam, trong đó có ngành may mặc.
Bởi Hoa Kỳ đợc xếp là nớc có lợng nhập khẩu hàng may mặc lớn nhất trên thế
giới, thêm vào đó trong thời gian đầu Mỹ không áp dụng quator cũng nh việc
mức thuế sẽ giảm từ 40% xuống còn 20% sau khi hiệp định thơng mại có hiệu
lực.

Sau một năm thực hiện Hiệp định thơng mại Việt- Mỹ, hàng dệt may vơn
lên đứng thứ 2 trong bảng xếp hạng xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Kim ngạch xuất
khẩu của hàng dệt may tăng lên tới 1,9 tỷ USD. Các mặt hàng dệt may xuất
khẩu sang Hoa Kỳ cũng đa dạng hơn so với trớc. Tháng 1 năm 2001, Việt Nam
mới chỉ có khoảng 17 chủng loại có kim ngach xuất khẩu đáng kể nhng đến
tháng 7 năm 2002 đã có đến 42 chủng loại khác nhau xuất khẩu vào Hoa Kỳ.
Đồng thời tỷ trọng của hàng dệt may trong tổng xuất khẩu của Việt Nam sang
Hoa Kỳ tăng lên rõ rệt. Năm 2001 hàng dệt may chỉ chiếm 4,7% tổng xuất
khẩu của Việt Nam thì đến tháng 7 năm 2002 đã lên đến 24,2%, chỉ đứng sau
nhóm hàng hải sản, vợt qua các nhóm hàng truyền thống là khoáng sản và giầy
dép. Mặc dù có sự đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, nhng tỷ trọng xuất khẩu
4


hàng dệt may tập trung chủ yếu vào các loại quần áo dệt kim và dệt thoi, các
mặt hàng khác chiếm tỷ trọng không lớn.

5


1.2 Thiết bị công nghệ ngành Dệt may.
Thiết bị công nghệ ngành Dệt may Việt Nam vừa lạc hậu vừa thiếu đồng bộ,
sản phẩm làm ra không có năng lựccạnh tranh. Theo chơng trình phát triển
Liên hợp quốc ngành Dệi may Việt Nam đang ở trình độ 2/7 của thế giới, thiết
bị máy móc lạc hậu 3-3 thế hệ. Điều này làm cho năng lực sản xuất của ngành
Dệt may còn nhiều hạn chế.
Máy móc thiết bị ngành Dệt phần lớn là cũ kỹ, lạc hậu và có xuất xứ từ
nhiều nớc. Ngành Dệt có gần 50% thiết bị đã sử dụng trên 25 năm nên h hang
nhiều, mất tính năng vận hành tự động nên năng suất thấp, chất lợng sản phẩm
thấp, giá thành cao.Trong nhiều năm qua, hầu hết các doanh nghiệp đã sử dụng

nguồn vốn tự có, vốn vay trung hạn, dài hạn để mua sắm thiết bị,góp phần
năng cao chất lơng công nghệ, đa dang hoá sản phảm.Hàng ngàn máy dệt
không thoi, có thoi khổ rông đã đợc nhập về, nhiều bộ đồ mắc mới , hiện đại
đã đợc trang bị thay thế cho những thiết bị quá cũ. Tuy ngành Dệt đã có nhiều
cố gắng trong đầu t đổi mới công nghệ nhng cho đến nay trình độ kỹ thuật của
ngành vẫn còn lạc hậu so với khu vực và thế giới.
Trong 5 năm gần đây , toàn ngành đã tranh bị thêm đợc gần 20.000 máy
may hiện đại các loại để sản xuất các mặt hàng sơ mi, jacket, đồ bảo hộ lao
động, áo phông các loại cải thiện một bớc chất lợng hàng may xuất khẩu và
nội địa. Ngành may liên tục đầu t mở rộng sản xuất và đổi mới thiết bị để đáp
ứng yêu cầu chất lợng của thị trờng thế giới.Các máy may đợc sử dụng hiện
nay phần lớn là hiện đại, có tốc độ cao(4.000-5.000 vòng/phút), có bơm dầu tự
động, đảm bảo vệ sinh công nghiệp. Một số doanh nghiệp đã đầu t dây chuyền
đồng bộ, sử dụng nhiều máy chuyên dùng sản xuất một mặt hàng nh đây
chuyền may s mi của May 10, đây chuyền may quần đứng có thao tác bộ phận
tự động theo chơng trình, đây chuyền sản xuất quần Jean có hệ thống máy giặt
mài.
1.3 Nguyên liệu cho ngành Dệt may.
Việc sản xuất nguyên liệu bông từ các nguồn trong nớc hiện đang thu
hút sự quan tâm đặc biệt. Hiện nay, Việt Nam chỉ có t5hể sản xuất hơn 3.000
tấn bông/năm, đáp ứng đợc 5% nhu càu của ngành Dệt trong nớc. Sợi tổng
hợp phải nhập khẩu hoàn toàn và sợi bong cho sản xuất hàng dệt kim cũng
phải nhập khẩu với số lợng lớn hàng năm. Hơn nữa, dù ngành hoá chất trong
nớc tơng đối phát triển nhng 100% hoá chất nhuộm và hơn 80%hoá chất khác
vẫn phải nhập khẩu. Nh vậy vấn đề nguyên liệu chính là vấn đề nan giải cho
ngành dệt. Cho đến nay mặc dù cây bông Việt Nam có những điều kiện thuận

6



lợi để phát triển nhng cơ chế và tổ chức thực hiện còn lúng tong. Có tới 95%
nguyên liệu chính(bông) phải nhập khẩu với giá không ổn đinh. Hiện tại các
doanh nghiệp Dệt vẫn phải chạy theo thị trờng mua bông theo kiểu mớ món,
giá cả thất thờng làm cho sản xuất kinh doanh ở thế bị động và bất lợi.
Đầu ra của dệt chính là đầu vào cho may hay nói cách khác là sản phẩm
của ngành Dệt chính là nguyên liệu cho ngành May. Nhng nguyên vật liệu
trong nớc (ngành Dệt) cha đáp ứng đợc do chất lợng thấp, nên phải nhập do đó
rất bị động , thờng không đồng bộ.Các sản phẩm Dệt thờng không đạt tiêu
chuẩn về chất lợng và có tính chất đơn điệu. Vải sợi sản xuất trong nớc phần
lớn đợc sử dụng ở các doanh nghiệp địa phơng để sản xuất quần áo cho nông
thôn và vùng xa, chỉ thoả mãn một số nhu cầu của thành thị. Điều này chính là
nguyên nhân gây khó khăn cho các nhà chế tạo may mạc và thời trang, cũng
nh các nhà thiết kế để nâng cao hiệu suất sử dụng các nguồn nguyên liệu trong
nớc.Trên 80% vải sẵn có trong nớc hiẹn nay đều phải nhập khẩu. Thậm chí các
doanh nghiêp may thuộc Tổng công ty Dệt may cũng hông sử dụng vải do các
công ty trong nớc sản xuất, có tới 90% nguyên vật liệu để sản xuất hàng may
mặc xuất khẩu phải nhập từ nớc ngoài nên bị phụ thuộc vào khách hàng bên
ngoài. Vì vậy giá trị xuất khẩu của ngành may lớn nhng nguyên liệu chính và
phụ phần lớn phải nhập khẩu nên hiệu quả thấp.
1.4 Mặt hàng Dệt may.
Trớc đây, các mặt hàng sợi đợc sản xuất chủ yếu là các loại sợi bông
chải thô, cung cấp cho thị trờng nội địa, dệt các mặt hàng phổ thông nh vải bạt
quân dụng, vải bảo hộ lao động, ka ki.Những năm gần đây mặt hàng sợi đa
dạng và phong phú hơn. Tuy các mặt hàng đã đợc phát triển và nâng cao chất lợng một cách rõ rệt, mang lại những kết quả khả quan trong xuất khẩu và tiêu
thụ nội địa nhng tỷ lệ sản lợng mặt hàng có hiệu quả cha cao làm cho việc
phục hồi vốn đầu t chem., kéo dài việc trả nợ.Hơn nữa công tác nghiên cứu các
mặt hàng cha đợc khuyến khích, thiếu chủ động trong việc tìm hang mới
nên cha thay thế đợc các mặt hàng mà ngành May phải nhập để tái xuất, cha
hình thành đợc mối liên hệ vững chắc giữa Dệt và May trên thị trờng nội địa.
Sản phẩm của ngành May rất đa dạng và phong phú, có tính chất thời

trang, vừa có tính quốc tế, vừa có tính dân tộc. Kinh tế phát triển, đời sống
nhân dân đợc nâng cao, yêu cầu hàng may lại càng phong phú và chất lợng cao
hơn. Bên cạnh những mặ hàng truyền thống nhân dân mặc hàng ngày, thông
qua gia công cho các nớc, các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện làm quen
với công nghệ may phức tạp, thời trang của thế giới. Có nhiều chủng loại mặt

7


hàng các doanh nghiệp đang sảnn xuất phục vụ tiêu dùng trong nớc và xuất
khẩu nh:
-Nhóm mặt hàng lót.
-nhóm mặt hàng mặc thơng ngày: sơ mi, quần âu,áo váy
-Nhóm quần áo thể thao: quần áo vải thun, quần áo Jean.
-Nhóm thời trang hiện đại
-Nhóm trang phục đặc biệt: Quân đội, Nội vụ, bảo hộ lao động cho các
loại ngành nghề.
Các chủng loại mặt hàng trên với nhiều chất liệu và phụ liệu, các doanh
nghiệp may đang thực hiện đơn hàng với nớc ngoài vàcủa các ngành trong nớc
với tay nghề tốt, khéo léo nên sản phẩm sản xuất ra đạt yêu cầu chất lợng của
khách hàng. Tuy vậy, do còn thiếu các máy chuyên dùng hiện đại, phải dung
nhiều thao tác thủ công nên năng suất thấp so với nhiều nớc khác. Một số mặt
hàng nh áo da.do cha co máy chuyên dùng nên còn bị hạn chế trong sản
xuất.

8


1.5 Lao động ngành dệt may.
Nghề dệt may không đòi hỏi kĩ thuật cao siêu, điêu luyện nên ngành rất

dễ thu hút nhiều lao động. Đến nay cac doanh nghiệp Dêt may đã thu hút hơn
500.000 lao động góp phần đáng kể trong việc giải quyết khó khăn về việc làm
cho ngời lao động. Tuy rằng lao động Việt Nam có đôi bàn tay khéo léo, tiếp
thu kiến thức mới nhanh nhng do cha đợc đào tạo bài bản, hệ thống nên trình
độ của họ còn rất hạn chế. Hơn nữa, do điều kiện làm việc chuyên môn hoá
cao nên cờng độ lam việc căng thẳng trong khi tiền lơng nói chung còn thấp và
có sự chênh lệch lớn giữa các doanh nghiệp nên có nhiều biến động lớn trong
đội ngũ lao động ngành. Thực tế cho thấy rằng các công ty sản xuất phát triển,
đủ việc làm, thu nhập cao, biến động lao động nhỏ, công nhân gắn bó với công
ty, thậm chí nhiều ngời xin vào làm việc. Ngợc lai ở những doanh nghiệp làm
ăn kém hiệu quả, sản xuất đình trệ, thiếu việc làm, thu nhập thấp sẽ nảy sinh
tinh trạng đất không lành, chim không đậu, công nhân lành nghề , công
nhân mới đào tạo sau thơi gian quen việc cung sẽ dần chuyển sang công ty
khác.
Bên cạnh đó ngành đang có tình trạng thiếu nguồn lao động quản lý và
kĩ thuật, nghiệp vụ. Hầu hết, các cán bộ quản lý chủ chốt trong các doanh
nghiệp Dệt may đều có trinh đọ đại học hoặc cao đẳng, chuyên môn khá nhng
trình độ quản lý theo phong cánh công nghiệp còn yếu, tiếp cận với phơng thức
quản lý hiện đại còn ít. Cán bộ kĩ thuật chủ yếu trởng thành từ công nhân bậc
cao nên chỉ giỏi về chuyên môn của nhng sản phẩm cụ thể con nh việc sáng
tác mẫu, tạo dang sản phảm còn rất kém. Các doanh nghiệp rất cần những kỹ
s có bằng cấp, công nhân kĩ thuật và các nhà quản lý- những ngời có khả năng
nắm bắt công nghệ hiện đại. Có một thực tế là nhiều doanh nghiệp bỏ ra một
số tiền lớn để mua thiết bị và công nghệ hiện đại, giá cao để chuẩn bị cho việc
sản xuất các mặt hàng cao cấp, song ngời vận hành các thiết bị này lại có trình
độ chuyên môn thấp.
Nhìn chung tăng trởng nhanh trong khi những cán bộ kĩ thuật và quản lý
đợc đào tạo tại các trờng có xu hớng giảm dần nên dẫn đến tình trạng thiếu đội
ngũ công nhân lành nghề và cán bộ khoa học cho ngành Dệt may.
II. định hớng phát triển công nghiệp dệt may việt nam


2.1.Quan điểm phát triển.
2.1.1 một số quan điểm phát triển ngành dệt may.
2.1.1.1 Công nghiệp dệt may phải đợc u tiên phát triển và phải đợc coi là
ngành trọng điểm trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nớc ta trong
những năm tiếp theo
9


Trong 4 năm qua ,kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đều tăng và đã vơn
lên hàng thứ hai trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của đất nớc . Mặt khác,
ngành công nghiệp dệt may là ngang thu hút nhiều lao động, vốn đầu t không
lớn và đang trong xu hớng chuyển dịch từ các nớc Đông á và các nớc Đông
Nam á. Nớc ta là một nớc có nguồn lao động dồi dào và lành nghề nên có thể
coi đây là một lĩnh vực lớn có khả năng phát triển nhất. Đồng thời với dân số
là hơn 80 triệu thị trờng trong nớc có tiềm năng to lớn tiêu thụ các mặt hàng
tiêu dùng trong đó có hàng Dệt may.
2.1.1.2 Phát triển công nghiệp Dệt may theo hớng hiện đại và đa dạng về sản
phẩm
Công nghệ hiện đại ngày nay đã trở thành yêu tố quyết định cho sự
phồn vinh của mỗi quốc gia, hay sức mạnh cạnh tranh kinh tế quốc tế của mỗi
sản phẩm. Chúng ta chỉ có thể thu hẹp khoảng cách so với các nớc phát triển
và tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế thông qua việc tăng cờng năng lực công nghệ quốc gia, tiếp cận và làm chủ công nghệ tiên tiến và
công nghệ cao. Từ nhận định đó , công nghiệp dệt may phải dợc phát triển
theo hớng hiện đại và đa dạng hoá về sản phẩm.
Trong thời gian tới , cung với sự phát triển kinh tế của cả nớc , nhu cầu
hàng tiêu dùng sẽ tăng lên nhng không đơn giản tăng về số lợng mà ngày càng
đòi hỏi nâng cao về chất lợng ,đa dạng về mẫu mã và số lợng các mặt hàng cao
cấp cũng tăng lên. Theo quy luật tiêu dùng thì khi thu nhập tăng lên , tỷ lệ chi
cho ăn uống sẽ giảm tơng đối , còn tỷ lệ tiêu dùng hàng hoá sẽ tăng lên rất

nhanh. Nh vậy cung với sự gia tăng dân số và tăng thu nhập thij trờng trong nớc sẽ là tiền đề cho công nghiệp sản xuất hang tiêu dùng nói chung và hàng dệt
may nói riêng.
Đối với thị trờng nớc ngoài , để tiếp cận thành công sự dịch chuyển kinh
tế từ các nớc phát triển hơn và nhanh chóng thay thế họ thâm nhập vào các thị
trờng quốc tế mới, ngành dệt may cang cần đợc trang bị theo hơng hiện đại. Có
nh vậy mới đáp ứng đợc nhng nhu câu ngày càng cao , ngày càng đa dạng cua
thị trờng trong và ngoài nớc.
Tất cả các yếu tố đó, đòi hỏi bức xúc nghành dệt may phải có kế hoạch
hiện đại hoá từng bớc, kết hợp giữa thay thế và hiện đại hoá, đồng thời nhanh
chóng tiếp thu công nghệ mới để giảm bớt khoảng cách tụt hậu.
2.1.1.3 Phát triển công nghiệp dệt may theo hớng kết hợp hớng về xuất khẩu
với thay thể nhập khẩu.
Hớng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu có hiệu quả, đó
là kinh nghiệm của nhiều nớc công nghiệp mới ( NIC) và ở nớc ta cũng xác
10


nhận điều đó. Đó là một hớng chiến lợc cơ bản của quá trình công nghiệp hoá
và hiện đại hoá trong những điều kiện của thế giới ngày nay. Ngành dệt may là
một trong những ngành làm đợc điều đó . Thực tế những năm qua cho they,
chiến lợc hớng về xuất khẩu đã thu đợc những kết quả đáng khích lệ. Kinh
nghạch xuất khẩu trong những năm qua đều tăng. Nhờ nguồn ngoại tệ thu đợc,
ngành có điều kiện tái đầu t để hiện đại hoá đẩy mạnh sản xuất.
Song song với xu hớng đẩy mạnh xuất khẩu, cần kết hợp sản xuất các
mặt hàng thay thế nhập khẩu. Thị trờng trong nớc với dân số đông và sức mua
ngày càng lớn là đối tợng rất quan trọng mà công nghiệp dệt may phải đáp ứng
cho đợc từ những sản phẩm bình thờng phù hợp với đa số ngời dân lao động
cho đến những mặt hàng cao cấp phục vụ cho các đối tợng có thu nhập cao.
Hiện tại, các sản phẩm dệt may của ta bị cạnh tranh gay gắt bởi các sản
phẩm nhập khẩu chủ yếu ở giá cả. mặc dù, chất lợng có kém hơn song do

thắng áp đảo về giá nên họ vẫn chiếm đợc thị trờng rộng lớn ở nông thôn. Đấy
là điểm yếu quan trọng buộc các nhà sản xuất phải bằng nhiều cách để tiết
kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm thì mới có thể cạnh tranh đợc.
2.1.1.4 Phát triển công nghiệp dệt may theo hớng đa dạng hoá sở hữu
và tập trung vào các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ.
Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trờng
có sự quản lý của nhà nớc theo định hớng XHCN là chiến lợc phát triển kinh tế
của Đảng. Thực tế cho thấy, ở bất cứ một ngành kinh tế kỹ thuật nào, nếu
không có nhiều thành phần kinh tế tham gia thì sẽ không tạo ra đợc môi trờng
cạnh tranh, mà cạnh tranh chính là đông lực thúc đẩy sự phát triển. Trong tổ
chức của ngành dệt may đã có những mô hình quy mô lớn nhng kém hiệu quả.
Qua nhiều lần tiến hành đổi mới quản lý và qua nhiềuhoạt động thực tế cho
they doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ là những mô hình hoạt động tốt.
2.1.1.5 Phát triển công nghiệp dệt may phải gắn liền với sự phát triển
của ngành công nghiệp và các ngành kinh tế khác, đồng thời góp phần thúc
đâỷ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và dịch chuyển cơ cấu kinh tế ở
nớc ta.
Trong chiến lợc phát triển Kinh tế- Xã hội đến năm 2010, Đảng đã chỉ
rõ cần phải đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế mà
trớc hết là công nghiệp hoá nông thôn.
Nh vậy , đối với tất cả các ngành công nghiệp , đặc biệt nh công nghiệp
Dệt may là nganh sử dụng nguồn nguyên liệu từ nông nghiệp nh bông tơ tằm ,
trong chiến lợc phát triển của mình cần phải xác định đợc hớng phát triển là
phải gắn lion với sự phát triển của ngành nông nghiệp
11


Trong suốt quá trình phát triển của mình ngành công nghiệp dệt may
Việt nam luôn ở trong tình trạng bị động về nguyên liệu . Hầu hết tất cả các
loại nguyên liệu đều phải nhập khẩu, kể cả bông xơ là loại nguyên liệu mà ta

có thể tự cung cấp một phần. Tơ tằm tuy không phải nhập khẩu nhng nguồn tơ
sản xuất bị hạn chế cả về số lợng lẫn chất lợng nên giá trị xuất khẩu thấp.Do
vậy muốn từng bớc tiến tới sự phát triển ổn định bền vững ngành dệt may phải
tạo đợc cho mình một cơ sở nguyên liệu thích hợp và ổn định
2.1.2 Một vài chính sách của đảng và nhà nớc đối với ngành dệt may
2.1.2.1Chính sách về bảo hộ hàng sản xuất trong nớc
Do tinh trạng thiết bị cũ , nhiều năm cha đợc đổi mới lại thêm công
nghệ lạc hậu nên sản phẩm sản xuất ra chỉ đạt mức trung bình, đáp ứng một
phần nhu cầu bình thờng của ngời dân. Trong khi đó các nớc khác với máy
moc hiện đại và công nghiệp tiên tiến đã sản xuất ra rất nhiều loại vải có mẫu
mã đẹp ,chất lợng cao , sẵn sàng tràn vào thị trờng việt nam để lũng đoạn thị
trờng. Trớc sức ép của hàng ngoại nhập vào nớc ta có thể đánh đổ hàng Dệt
may trong nớc , Nhà nớc có chủ trơng bảo vệ hàng nôịi địa. Chính sách bảo vệ
hàng dệt may nội địa đợc thực hiện qua các biện pháp chính sau đây:
- Lập hàng rào thuế quan đối với hàng ngoại nhập.
- Sử dụng hạn ngạch để hạn chế số lợng .
- Tăng cờng các biện pháp quản lý thị trờng nhằm hạn chế đến mức tối
thiểu hàng nhập lậu qua biên giới trên bộ và trên biển.
Với hàng rào thuế quan và hạn ngạch nhập khẩu , chúng ta đã bảo hộ
hàng sản xuất trong nớc , nhng không phải lúc nào cũng đạt kết quả mong
muốn . Với hàng ngàn con đờng biên giới trên bộ và trên biển , nhất là khi nớc
ta và Trung Quốc bình thờng hoá quan hệ thì tình trạng buôn lậu qua biên giới
rất phổ biến.Hàng dệt may Trung Quốc với mẫu mã đa dạng , phong phú về
chủng loại và giá rẻ đã nhanh chóng chiếm lĩnh thị trờng Việt Nam. Để hỗ trợ
các biện pháp về thuế quan và hạn ngạch hàng nhập , Nhà nớc ta tăng cờng
quản lý thị trờng nh đòi hỏi các chủ hàng vận chuyển phải có hoá đơn , chứng
minh xuất xứ hàng hoá, truy thu thuế và triệt để thu thuế doanh thu. Tuy nhiên
do lực lợng thu thuế của ta dàn mỏng nên khâu quản lý thị trờng còn nhiều sơ
hở, kết quả thu đợc không đạt nh mong muốn.
2.1.2.2 Chính sách về khuyến khích xuất khẩu

Xuất khẩu hàng hoá là một trong những mục tiêu lớn của Nhà nớc ta
nhằm cân bằng kim ngạch xuất nhập khẩu. Đối với ngành Dệt may là một
ngành mà nguyên liệu chủ yếu phụ thuộc nớc ngoài, hàng năm chúng ta phải
nhập khoảng 60.000-70.000 tấn bông, xơ sợi và hàng tấn hoá chất thuốc
12


nhuộm, phụ ting cơ kiện thay thế đa kim ngạch nhập khẩu lên khoảng 120-150
triệu USD. Muốn cân bằng kim ngạch xuất- nhập khẩu , không có cách nào
khác là phải đẩy mạnh sản xuất khẩu. Để khuyến khích xuất khẩu, từ nhiều
năm nay Nhà nớc không đánh thuế xuất bkhẩu ào mặt hàng Dệt may hay nói
cách khác là áp dụng biểu thuế suất bằng 0% đối với các mặt hàng Dệt may.
Đây là mức thuế thấp nhằm tạo điều kiên cho hàng Dệt may xuất khẩu đợc
thuận lợi. Dự kiến trong mấy năm tới đây, Nhà nớc cũng sẽ áp dụng chính sách
u đãi hàng xuất khẩu
2.1.2.3.Chính sách về khuyến khích đầu t nớc ngoài vào Việt nam
Luật đầu t nớc ngoài vào Việt nam ra đời đã đợc nhiều công ty từ các
quốc gia và khu vực hởng ứng. Với điều khoản rộng rãi, thoáng và luôn đợc
điều chỉnh ho phù hợp luật đầu t nớc ngoài tại Việt nam đã đợc d luận đánh giá
cao.
Qua xem xét các dự án đầu t nớc ngoài vào Việt nam về ngành Dệt,
chúng ta nhận they có một số điểm sau đây:
-Hầu hết các dự án đầu t của các nớc Đông á và các nớc Đông Nam á,
Nhật Bản, Tây Âu và Bắc Mỹ cha sẵn sàng đầu t vào ngành Dệt Việt nam.
-Đa phàn các thiết bị máy móc đa vào hầu hết đã qua sử dụng. Đây là
một sự chuyển dịch của các nớc NIC nhằm đổi mới công nghệ hiện đại tại
chính quốc, ận dụng giá trị sử dụng còn lại của thiết bị và khai thác nhân công
rẻ tai Việt Nam.
Rõ ràng trong lĩnh vực thu hút vốn đầu t nớc ngoài vào ngành Dệt may,
chúng ta gạp phải một mâu thuẫn. Đó là mâu thuẫn giữa ý muốn chủ quan đa

nhanh ngành Dệt trở thành ngành công nghiệp chủ lực có máy móc thiết bị
hiện đại, công nghệ tiên tiến và vốn đầu t thiếu. Chấp nhân đa thiết bị cũ vào
Việt Nam, ngành Dệt may nớc ta tiếp tục đi sau ngành Dệt may thế giới nhng
trong điều kiện nền kinh tế cha phát triển ngời lao động cha có đủ việc làm thì
chung ta phải tạm thời chấp nhận ở mức độ nhất định.
2.2 Định hớng phát triển ngành dệt may
2.2.1 Giải pháp về thị trờng
2.2.1.1 Nghiên cứu thị trờng
Thị trờng tiêu thụ sản phẩm hàng hóa là nguồn đầu ra của qua trình sản
xuất kinh doanh, thị trờng là vấn đề hết sức quan trọng mang tính sống còn của
mỗi doanh nghiệp vì nó đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Để
nâng cao hiệu qủa hoạt động sản xuất kinh doanh hàng may mặc trớc tiên là
phải nghiên cứa tìm hiểu thị trờng tiêu thụ một cách chu đáo. Hoạt động
nghiên cứa thị trờng đòi hỏi phải nắm bắt đợc những thông tin thiết yếu về nhu
13


cầu, khả năng tiêu thụ cũng nh các điều kiện xâm nhập thị trờng của hàng Dệt
May. Từng bớc củng cố, mở rộng các thị trờng truyền thống ( Khối Đông
Âu, Nga) đồng thời tích cực tìm mọi cách xâm nhập, chiếm lĩnh các thị trờng tiểm năng mới nh Nhật, Mỹ, Châu á Trớc mắt, để tăng tỷ trọng xuất
khẩu hàng Dệt May cần phải tập trung vào các thị trờng trọng điểm, đó là
thị trờng EU, Nhật.
2.2.1.2 Chính sách sản phẩm.
Quá trình tiêu thụ sản phẩm đợc thuận lợi hay không đòi hỏi cả một cơ
chế hệ thống hoàn hảo từ công nghệ sản xuất, hoàn thành sản phẩm đến việc
tiếp thị, quảng cáo, tiêu thụ đợc trên thị trờng sẽ đem lại doanh thu, lợi nhuận
cho doanh nghiệp, cho nền kinh tế, thúc đẩy sự phát triển sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm.Đối với ngành Dệt May, việc đề ra chính sách sản phẩm đúng đắn
phù hợp với từng thời kỳ, từng thị trờng có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc
đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, tăng thêm kim nghạch xuất khẩu, chiếm lĩnh thị

trờng trong nớc và thế giới trong giai đoạn hiện nay.
Chính sách sản phẩm hàng Dệt May trớc tiên phải bảo đảm phù hợp
thị hiếu ngời tiêu dùng và khả năng từng thị trờng tiêu thụ sản phẩm. Bắt đầu
từ khâu sẩn xuất, sản phẩm phải bảo đảm đợc tiêu chuẩn chất lợng phù hợp với
từng thị trờng, các lọai vải phải đủ chất lợng, quần áo phải phù hợp với hoàn
cảnh và thời gian sử dụng. Nhà kinh doanh hàng Dệt May phải nắm đợc thị
hiếu, sở thích của thị trờng trong nớc và quốc tế về các loại mẫu mã để từ đó
đáp ứng nhu cầu của họ. Trớc mắt, sự cần thiết phải có một bộ phận nghiên
cứu mẫu mã hàng Dệt May. Sự phát triển của việc nghiên cứu mẫu hàng ở
Việt Nam mới chỉ bắt đầu nhng phần nào đẫ đáp ứng đợc nhu cầu tạo mẫu cho
hàng Dệt May.
Một hớng phát triển tốt cho việc nghiên cứu tạo mẫu hàng Dệt May đó
là thành lập các trung tâm nghiên cứu tạo mẫu thời trang nằm trong các doanh
nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội về những thông tin thời trang và nhu cầu
về tiêu dùng sản phẩm Dệt May trong tơng lai, từ đó mở rộng hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
* Thị trờng trong nớc.
Nớc ta với số dân khá đông ( Khoảng 75 triệu dân ) nên nhu cầu tiêu thụ
cũng rất lớn, thu nhập quốc dân bình quân đầu ngời mới đạt 250 USD/ năm nhng có sự chênh lệch lớn giữa thu nhập của ngời dân thành thị và nông thôn.
Những ngời dân thành thị có yêu cầu về hàng Dệt May cao hơn nhiều so với
những ngời ở nông thôn và miền núi. Nghĩa là họ có thể mua sắm quần áo

14


hàng tháng, đặc biệt là vào các dịp lễ tết. Ngợc lại, ngời có nhu cầu thấp hiện
nay cũng thích xài hàng Dệt May một mùa hợp với túi tiền của họ. Điều
này cho thấy tại sao hàng may mặc Trung Quốc cần rất ít nguyên liệu, mẫu mã
đẹp, rẻ lại tràn ngập thị trờng Việt Nam. Hàng Dệt May Việt Nam lại chủ
yếu xuất khẩu xuất chủ yếu sang thị trờng EU, Nhật Bản.. là những khách

hàng rất kỹ tính với đòi hỏi cao về chất lợng. Nếu có sai sót bị trả lại và bán
trên thị trờng nội địa thì không phải ai cũng có thể mua đợc ngoại trừ tầng lớp
có thu nhập cao và tơng đối cao nên rất khó tiêu thụ. Đó chính là hạn chế của
nền kinh tế hớng về xuất khẩu.
Một số doanh nghiệp chú trọng sản xuất hàng xuất khẩu, bỏ rơi thị trờng
nộiđịa trong khi điều kiện cơ sở vật chất, trang bị kỹ thuật còn lạc hậu, tỷ lệ
sản phẩm đủ tiêu chuẩn xuất khẩu thấp đã dẫn đến tình trạng làm ăn thua lỗ.
Đối với những sản phẩm may mặc cao cấp, lâu nay chúng ta vẫn mặc thừa
của các khách hàng nớc ngoài, thị trờng nội địa đang bị các nhà sản xuất bỏ
quên. Nhiều doanh nghiệp chỉ bán những sản phẩm không đạt tiêu chuẩn xuất
khẩu trên thị trờng nội địa mà không có chiến lợc phát triển thị trờng trong nớc, điều đó làm uy tín của doanh nghiệp trên thị trờng nội địa bị giảm sút. Đó
là do các hoạt động nghiên cứu thị trờng còn yếu, không chủ động xây dựng
chiến lợc mở rộng thị trờng sản phẩm, không thờng xuyên nghiên cứu thiết kế
mẫu, mốt nên không chủ động trong việc sản xuất hàng cao cấp tiêu thụ trong
nớc. Mặt khác, do bộ máy đôi lúc còn quan liêu, ỷ lại, khách hàng nớc ngoài
thờng đặt với lô hàng lớn, có sẵn mẫu mã, chỉ phải tính giá thành và thơng lợng giá bán với khách hàng và sản xuất theo mẫu khách hàng đặt mà thôi.
Đặc điểm chu kỳ sống của sản phẩm Dệt May là ngắn. Tuy nhiên,
đối với các thị trờng có thu nhập thấp nh nông thôn, miềm núi, chu kỳ sống
cuẩ sản phẩm lại dài hơn. Vì vậy, bên cạnh việc phát triển thị trờng cao cấp ở
các đô thị, còn phải phát triển mạnh mẽ thị trờng cấp thấp và trung bình ở
nông thôn. Đây là chiến lợc phù hợp với trình độ và các điều kiện về thiết bị
công nghệ ngành Dệt May nớc ta hiện nay.
Để duy trì và mở rộng thị trờng nội địa, ngoài việc nắm chắc các hoạt động
nh nghiên cứu thị trờng, chính sách các sản phẩm, còn phải tổ chức tốt các
kênh tiêu thụ sản phẩm thành một mạng lới rộng khắp cả nớc. Tổ chức ra các
trung tâm chuyên buôn bán kinh doanh hàng Dệt May, phân phối hàng hóa
đến mọi vùng của đất nớc.
* Thị trờng xuất khẩu

15



Bên cạnh việc đàm phán để tăng hạn ngạch đối với các thị trờng có hạn
ngạch thì các doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp để tăng sản xuất và xuất
khẩu sang các thị trờng phi hạn ngạch, tìm kiếm các thị trờng mới. Cần chú
trọng, nghiên cứu các tập quán, thông lệ để mở rộng buôn bán với các thị trờng
khác nhau. Nhng điều quan trọng nhất là phải chuyển hình thức sản xuất và
tiêu thụ để nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu, tận dụng lợi thế so sánh
và tính cạnh tranh của sản phẩm. `Chính sách sản xuất và xuất khẩu hàng Dệt
May hiện tại và trong tơng lai gần theo phơng thức mua nguyên liệu bán
thành phẩm là định hớng đúng đắn cho việc phát triển ngành Dệt May.
Hiện tợng giảm giá gia công đã kéo dài trong nhiều năm qua và dờng nh
cha có dấu hiệu chấm dứt trong những năm tiếp theo, ngành Dệt - May phải
có giải pháp để đối phó với tình hình này khi còn cha muộn. Bản thân các nhà
hoạch định của ngành cũng đã khẳng định rằng làm gia công cho nớc ngoài
khó có thể tăng thu nhập nếu không muốn nói là có nguy cơ giảm dần và cũng
không có tích lũy để đầu t phát triển sản xuất trong nớc. Chỉ có con đờng sản
xuất sản phẩm toàn bộ cho xuất khẩu và thị trờng trong nớc mới đem lại lợi ích
cho ngành Dệt May và ngời lao động. Những ngời trực tiếp sản xuất cũng
nhận thấy thời hoàng kim của gia công đang lụi dần. Hầu hết các doanh nghiệp
năng động trong nớc đều có chung một mong muốn là đợc xuất khẩu theo điều
kiện FOB.
Ngay cả trong việc ủy thác gia công, nếu không tự cung ứng kịp thời đợc
nguyên liệu cho các mặt hàng trung và cao cấp cũng sẽ mất u thê cạnh tranh
đối vơí những nớc có khả năng cung ứng nguyên liệu tại chỗ và đây cũng
chính là yếu điểm của ngành Dệt May nên cũng dễ bị ép giá gia công thấp
hơn các nớc khác nh đã thấy trong mấy năm gần đây.
Trong các phơng thức thanh toán với nguồn hàng và bạn hàng quốc tế,
các nhà kinh doanh hàng Dệt May nên thực hiện các hình thức phù hợp với
các điều kiện linh hoạt dễ dàng trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. Việc cung cấp

đối với nguồn cung cấp hàng, các nhà xuất khẩu nên tạo điều kiện thanh toán
đúng hạn với các phơng thức thỏa thuận hợp lý giữa đôi bên, thậm chí nếu có
cơ sở cung ứng gặp khó khăn về tài chính thì có thể ứng vốn trớc để họ sản
xuất hàng. Việc thiết lập các thủ tục thanh toán đơn giản, gọn nhẹ sẽ tạo điều
kiện cho các nhà sản khẩu chuẩn bị đầy đủ và kịp thời các mặt hàng xuất khẩu,
đảm bảo thực hiện đúng hợp đồng xuất khẩu, tạo lập uy tín đối với khách
hàng, đồng thời duy trì đợc nguồn cung ứng hàng khan hiếm.

16


2.2.2 Giải pháp về cơ cấu sở hữu
Đờng lối phát triển kinh tế nhiều thành phần,vận hành trong cơ chế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nớc của Đảng ta
trong thời gian vừa qua đã huy động đợc tiềm lực to lớn trong dân vào đầut
phát triển. Điều đó đợc thể hiện rất rõ ở số doanh nghiệp thuộc thành phần
kinh tế t nhân và các cơ sở tiểu thủ công nghiệp và rất nhiều các liên doanh và
xí nghiệp 100% vốn nớc ngoài.
Nhờ có sự đa dạng hóa về loại hình sở hữu nh vậy mà nhu cầu đa dạng về
hàng Dệt -May của các tầng lớp dân c ở khắp mọi miền đất nớc đã bớc đầu đợc
đáp ứng, ngay cả các nhu cầu lẻ nh các loại vải thổ cẩm phục vụ cho các dân
tộc ít ngời, các loại vải lễ hội... cũng đợc các tổ chức quy mô nhỏ đáp ứng.
Trong xu thế phát triển chung, các doanh nghiệp Dệt May cần đợc tổ
chức theo mô hình quy mô nhỏ và vừa, đồng thời đẩy mạnh cổ phần hóa các
doanh nghiệp Nhà nớc để tăng khả năng huy động vốn từ nhân dân. Khi tiến
hanhf cổ phần hóa, cần dành một tỷ lệ thích hợp giá trị tài sản của các doanh
nghiệp giao cho công nhân quản lý dới dạng các cổ phần cho vay. Có nh vạy
mới gắn đợc quyền lợi và trách nhiệm ngời lao động với doanh nghiệp, làm
cho họ tận tâm với doanh nghiệp mình.
Thực tế cho thấy, cổ phần hóa các doanh nghiệp Dệt May là một vấn đề
hết sức khó khăn vì hiện tại hầu hết các doanh nghiệp đều có hiệu quả không

cao. Để khắc phục tình trạng này, cần tiến hành cổ phần hóa từng bớc một, cổ
phần hóa các doanh nghiệp May trớc rồi đến các doanh nghiệp Dệt quy mô
nhỏ.
Đẩy mạnh phát triển các doanh nghiệp Dệt May theo hớng hạn chế việc
thành lập các doanh nghiệp Nhà nớc ngoại trừ các daonh nghiệp kéo sợi hoặc
nhuộm, hoàn tất vì đối với các công đoạn này, tổ chức sản xuất theo quy mô
trung bình hoặc trên trung bình là có hiệu quả hơn. Đồng thời, tạo điều kiện
cho mọi thành phần kinh tế cùng tham gia phát triển các doanh nghiệp Dệt
May ở quy mô nhỏ.
Hiện tại, ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam dang trong xu hớng
tiếp nhận sự chuyển dịch từ các nớc phát triển hơn trong khu vực và trên thế
giới. Đối tợng trực tiếp của sự chuyên dịch này, trớc hết các doanh nghiệp Nhà
nớc ( các doanh nghiệp Nhà nớc có u thế hơn các doanh nghiệp ở các thành
phần kinh tế khác là hạ tầng cơ sở tốt hơn và có diện tích lớn hơn, nên khả
năng thu hút vốn đầu t nớc ngoài dới hình thức liên doanh nhiều hơn), sau đó
mới đến các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác.

17


Chính vì vậy, song song với quá trình tiếp nhận thiết bị và công nghệ mới,
cần phải chuyển dịch tốt quá trình chuyển giao thiết bị và công nghệ bao gồm
cả phần cứng và phần mềm từ các doanh nghiệp nhà nớc sang các doanh
nghiệp nhỏ của các thành phần kinh tế khác, có nh vậy sẽ tạo nên một hệ
thống công nghệ nhiều tầng, nhiều trình độ, có khả năng phục vụ đợc mọi nhu
cầu của mọi đối tợng trong xã hội.
Sản xuất trong công nghiệp Dệt May không thích hợp với mô hình sản
xuất lớn, do đó về lâu dài cần nghiên cứu để có bớc đi thích hợp trong việc
chuyển sang các thành phần phi quốc doanh. Đã đến lúc cần tìm lời giải đáp
cho câu hỏi: Nhà nớc có cần thiết duy trì một lợng vốn quá lớn cho sự phát

triển của ngành Dệt- May nh hiện nay hay không hay nhờng dần cho các
thành phần kinh tế khác? Thay vào đó, Nhà nớc sẽ tập trung vào việc phát triển
những ngành làm cơ sở cho công nghiệp Dệt May phát triển tốt nh Điện, cơ
khí, hóa chất......
Đa dạng hóa các loại hình sở hữu cũng là một tronh những giải pháp về
vốn quan trọng mà ngành Dệt May cần thực hiện để đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hóa- hiện đại hóa ngành kỹ thuật này.
2.2.3 Giải pháp về thiết bị công nghệ
2.2.3.1 Đầu t đổi mới thiết bị công nghệ
Vấn đề cấp bách hiện nay là cần mạnh dạn đổi mới quy trình công nghệ,
kết hợp đúng mức các trình độ công nghệ hiện có, đầu t mua sắm thiết bị Dệt
May đồng bộ, đạt tiêu chuẩn kỹ thuật cao, loại bỏ dần các thiết bị công
nghệ lạc hậu, không còn thích hợp.
Đầu t đổi mới thiết bị công nghệ là nhân tố đóng vai trò quyết định đối với
sự phát triển của ngành Dệt May. Nó cũng là sự đòi hỏi khách quan, là sự
sống còn của ngành Dệt May, đặc biệt là ngành Dệt vì:
Hàng Dệt May có đặc điểm là có tính linh động cao trên thị trờng,
chu kỳ sản phẩm ngắn, tính mốt thể hiện rõ, tính quốc tế cao. Do đó
công nghệ phải đổi mới nhanh và theo hờng hiện đại. Đổi mới máy móc
thiết bị công nghệ là một yêu cầu cấp bách để đảm bảo tính cạnh tranh
của sản phẩm Dệt May.
Xu thế phát triển ngành Dệt May trên thế giới là chuyển dịch ngành
Dệt May từ các nớc Tây Âu, Nhật Bản sang các nớc Châu á, Đông
Nam á - nơi có nhân công rẻ, trình độ phát triển thấp. Điều đó đòi hỏi
ngành Dệt May phải đổi mới thiết bị công nghệ để hòa nhập với thế
giới.
18


Để đổi mới thiết bị công nghệ vốn đầu t, vốn đàu t lớn sẽ điều kiện để có

công nghệ và kỹ thuật hiện đại. Lựa chọn đúng công nghệ cần đầu t và quản
lý, sử dụng tốt công nghệ sẽ nâng cao hiệu quả đầu t. Do đó đầu t đổi mới thiết
bị công nghệ và vốn là hai mặt của một quá trình thống nhất, quan hệ mạt
thiết, ràng buộc, chi phối lẫn nhau.
Ngành Dệt May trong những năm qua đã có nhiều cố gắng trong đầu t
đổi mới thiệt bị công nghệ theo hớng trang bị đồng bộ một số máy móc thiết
bị, dây chuyền hiện đại để tăng sản lợng, tăng năng suất lao động, hạ giá thành
sản phẩm, nâng cao chất lợng sản phẩm, đa dạng hóa kinh doanh, đa dạng hóa
sản phẩm. Quá trình dổi mới thiết bị công nghệ trong ngành Dệt May đợc
thực hiện theo các phơng thức đa dạng và có hiệu quả.
Nhằm thực hiện mục tiêu phát triển ngành Dệt May nh đã đề ra, việc
đầu t đổi mới thiết bị công nghệ của ngành Dệt May cần quán triệt cac quan
điểm chủ yếu:
Đầu t đổi mới thiết bị công nghệ ngành Dệt May phải nhằm đa công
nghệ Dệt May trở thành ngành mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân.
Ngành Dệt- May phải phát triển với quy mô lớn và đạt trình độ tiên tiến,
đủ sức hòa nhập với nền kinh tế thế giới. Phát triển công nghiệp Dệt
phải gắn liền với công nghiệp May nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp góp
phần thúc đẩy công nghiẹep hóa hiện đại hóa.
Đầu t đổi mới thiết bị công nghệ trong ngành Dệt May phải thực hiện
theo hớng: Nâng cao trình độ công nghệ sẩn xuất, nhờ đó mà tăng sản lợng, tăng năng suất lao động, tăng chất lợng sản phẩm; Đa dạng hóa sản
phẩm, tạo ra nhiều sản phẩmđại diện cho kỹ thuật mới, có hiệu quả kinh
tế xã hội cao; Kết hợp đầu t chiều sâu và chiều rộng, trong đó chủ yếu
coi trọng đầu t chiều sâu, áp dụng công nghệ nhiều trình độ, trong đó
các doanh nghiệp Nhà nớc phải đi vào kỹ thuật, công nghệ hiện đại.
Đầu t đổi mới thiết bị công nghệ là sự nghiệp của doanh nghiệp, do
doanh nghiệp tự quyết định việc lựa chọn hớng va ftrình độ đổi mới, tự
lo vốn và tự tổ chức việc đổi mới. Nhng Nhà nớc đống vai trò quan trọng
trong việc khuyến khích đầu t đổi mới thiết bị công nghệ nh có chính
sách u đãi miễn giẩm thuế, chú trọng đào tạo cán bộ, cấp kinh phí hoặc

hỗ trợ kinh phí cho các đề tài có ý nghĩa kinh tế quốc dân.
Đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội của đầu t đổi mới thiết bị công nghệ.
Đầu t đổi mới thiết bị công nghệ trong ngành Dệt May liên quan đến
những vấn đề nh tỗc độ tăng trởng, năng suất, chất lợng, giá cả sản
19


phẩm, khả năng cạnh tranh của sản phẩm,lợng vốn, cơ chế huy động và
sử dụng vốn, việc làm..Hiệu quả kinh tế là mục tiêu căn cứ của lựa
chọn phơng án đầu t đổi mới thiết bị công nghệ và thực hiện đầu t đổi
mới thiết bị công nghệ. Tuy nhiên, những vấn đề xã hội nh việc làm, tận
dụng năng lực hiện có cũng cần đặt ra khi đầu t đổi mới thiết bị công
nghệ.
Đầu t đổi mới thiết bị công nghệ của các doanh nghiệp trong ngành DệtMay chịu tác động của các nhân tố thị trờng, nguồn vốn và hiệu quả sự dụng
vốn, xu thế tiến bộ khoa học công nghệ của ngành và của doanh nghiệp, chiến
lợc sản phẩm, cơ chế chính sách về khoa học công nghệ. Thực tế đã chỉ ra rằng
thị trờng, cơ chế chính sách tác động trớc hết, toàn diện và mạnh mẽ đến đầu t
đổi mới thiết bị công nghệ hơn là tác động của chính cơ chế chính sách khoa
học công nghệ. Bộ bao thị trờng, công nghệ, vốn luôn là vấn đề cốt lõi của
đầu t đổi mới thiết bị công nghệ, trong đó thị trờng là khâu đột phá. Vì vậy để
đầu t đổi mới thiết bị công nghệ cần chú ý các giải pháp:
Xuất phát từ nhu cầu thị trờng về số lợng, chủng loại, chất lợng, giá cả
sản phẩm mà lựa chọn mục tiêu, phơng hớng, trình độ đối mới thiết bị
công nghệ của doanh nghiệp cho thích hợp. Thực chất đây là sự gắn bó
giữa chiến lợc thị trờng, chiến lợc và phơng án sản phẩm với chiến lợc
và phơng án đổi mới thiết bị công nghệ, trong đó chiến lợc và phơng án
sản phẩm đóng vai trò quyết định.
Lựa chọn hình thức đầu t đổi mới thiết bị công nghệ thích hợp nhằm đổi
mới nhanh và có hiệu quả. Trong điều kiện của tiến bộ khoa học công
nghệ ngày nay, doanh nghiệp có nhiều hình thức đầu t đổi mới thiết bị

công nghệ cần phải lựa chọn. Nếu căn cứ vào quan hệ giữa tăng vốn và
lao động cũng nh trình độ kỹ thuật công nghệ của đổi mới có đầu t theo
chiều sâu và đầu t theo chiều rộng. Nếu căn cứ vào nguồn đầu t đổi mới
thiết bị công nghệ có:
Nhập và chuyển giao công nghệ thông qua liên doanh với nớc
ngoài hoặc thông qua hợp tác làm hàng xuất khẩu cho nớc ngoài.
Vay ngân hàng và bằng vốn tự có mua thiết bị, công nghệ hiện đại
ở nớc ngoài để đầu t vào một số khâu trọng điểm của dây chuyền
hoặc cả dây chuyền.
Tự nghiên cứu phát triển công nghệ

20


Mỗi doanh nghiệp căn cứ vào nhu cầu và xuât phát từ khả năng,
điều kiện cụ thể của mình mà lựa chọn hình thức đổi mới thích hợp. Song nhìn
chung, đối với ngành Dệt May, nhất là ngành Dệt phải lấy đầu t theo chiều
sâu là chủ yếu và coi trọng chuyển giao công nghệ thông qua liên doanh vơí nớc ngoài hoặc lập doanh nghiệp 100% vốn nớc ngoài.
Đa dạng hóa và tăng nguồn vốn cho đầu t đổi mới thiết bị công nghệ. Để
đổi mới thiết bị công nghệ, ngành Dệt May cần lợng vốn đầu t rất
lớn. Giải pháp về vốn là: Tăng cờng đầu t từ trong nớc thông qua con đờng tự tích lũy, khấu hao cơ bản, tăng nguồn vốn lu động từ cổ phiếu,
trái phiếu, vay tín dụng.; Đẩy mạnh thu hút vốn đầu t từ nớc ngoài nhờ
việc lập các xí nghiệp liên doanh với nớc ngoài và lập xí nghiệp 100%
voón nớc ngoài. Dự kiến vốn nớc ngoài sẽ đảm bảo 65% nhu cầu đầu t;
Thực hiện lãi suất u đãi cho đổi mới thiết bị công nghệ, áp dụng thời hạn
cho vay dài hạn đổi mới thiết bị công nghệ với ngành Dệt từ 6 8 năm.
Tăng cờng quản lý Nhà nớc và phát triển công tác t vấn đào tạo. Nhà nớc cần xác định đổi mới thiết bị công nghệ ngành Dệt May là một hớng u tiên trong danh mục các công nghệ đợc u tiên. Chú trọng công tác
thẩm định đối với việc chuyển giao công nghệ, chú trọng phát triển công
tác thông tin khoa học công nghệ và dịch vụ t vấn về khoa học công
nghệ phục vụ và hỗ trợ đổi mới thiết bị công nghệ của các doanh nghiệp

ngành Dệt May.
2.2.3.2 Đồng hóa công nghệ nhập.
Đồng hóa công nghệ nhập là quá trình làm chủ công nghệ đã đợc giao
vàtạo công nghệ nội sinh trên cơ sở công nghệ chuyển giao đó. Đây là một
trong những giải pháp phát triển khoa học công nghệ rất thích hợp đối với các
nớc đang phát triển. Nội dung của làm chủ công nghệ nhập bao gồm:
Duy trì đợc sản xuất ( bằng công nghệ nhập) tức là vận hànhvà bảo trì
tốt thiết bị công nghệ.
Tự thiết kế chế tạo đợc những phụ tùng hay hỏng ( trừ những phụ tùng
tự làm đắt hơn nhập).
Phát huy hết khả năng sản xuất mặt hàng của thiết bị công nghệ.
Nội dung tạo ra công nghệ nội sinh bao gồm:
Tự thiết kế, chế tạo đợc thiết bị để phát triển đợc sản xuất ( trừ trờng hợp
thiết bị tự làm ra đắt hơn nhập)

21


Cải tiến, nâng cao tính năng thiết bị ( cho phù hợp với điều kiện Việt
Nam, nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lợng mặt hàng và sáng
tạo thêm những mặt hàng mới).
Tạo ra các bí quyết, các đơn công nghệ sản xuất mặt hàng mới
Đối với ngành Dệt May nớc ta, việc đồng hóa công nghệ nhập có ý nghĩa
sống còn. Hiện nay, để duy trì sản xuất hoặc trẻ hóa thiết bị, các cơ sở sản xuất
kinh doanh phải nhập nhiều máy móc, thiết bị, phụ tùng, hóa chất, thuốc
nhuộm, phụ kiện may mặc với giá thờng cao ( vì đó là hàng hóa có hàm lợng
công nghệ cao). Trong khi đó láỉan xuất chủ yếu các mặt hàng gia công và cấp
thấp với giá thờng hạ ( vì đó là mặt hàng có hàm lợng công nghệ thấp). Việc
cân bằng cán cân thơng mại trong ngành là rất khó khăn. Nhiều trờng hợp, các
cơ sở sản xuất kinh doanh phải vay mợn số lợng ngoại tệ tơng đối lớn để rồi

không có khả năng thanh toán nợ. Đồng hóa công nghệ với nội dung nh trên
chính là biện pháp giảm nhập khẩu.
2.2.3.3 Tăng cờng các tác nhân thúc đẩy công nghệ
* Tăng cờng các viện nghiên cứu
Trong những nămvừa qua, công tác nghiên cứu của các cơ quan nghiên
cứu, thiết kế ngành Dệt May còn cha đáp ứng đợc yêu cầu của sản xuất
kinh doanh. Một số nghiên cứu xuất phát từ sở trờng và khả năng của tổ chức,
cha đáp ứng đợc thực tế đòi hỏi sản xuất, kinh doanh. Một số điều kiện nghiên
cứu và cơ sở vật chất phục vụ nghiên cứu thiếu đồng bộ và lạc hậu so với thiết
bị hiện có của các cơ sở sản xuất. Vì vậy, tăng cờng các cơ quan nghiên cứu
chính là làm cho các tác nhân này đi sát với sản xuất kinh doanh.
* Tăng cờng các bộ phận thông tin khoa học công nghệ
Trong đầu t và hoạt động sản xuất kinhdoanh, các doanh nghiệp Dệt
May thờng thiếu thông tin về công nghệ và thị trờng công nghệ. Điều đó ảnh
hởng không nhỏ đến hiệu quả của sản xuất kinh doanh. Đầu t vẫn cha làm
tăng trởng mạnh ngành Dệt May và cha góp phần khai thác tiềm năng của
ngành. Hàng Dệt May Việy Nam vốn đã quen với thị trờng Nga và Đông
Âu, thế những hàng Dệt May Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ hiệnđã chiếm hầu
nh thị trờng may mặc bình dân này. Rõ ràng phải tăng cờng các bộ phận thông
tin công nghệ và thị trờng công nghệ.
2.2.4 Giải pháp về lao động.
Lao động là một yếu tố đóng góp quan trọng vào sự phát triển của ngành
công nghiệp Dệt May. Hiện tại và ngaycả sau này, khi mà ngành công

22


nghiệp Dệt May đã đợc hiện đại hóa thì nó vẫn là một trong các ngành sử
dụng nhiều lao động.
Lao động phục vụ công nghiệp Dệt May không đòi hỏi tinh xảo, khéo

léo ở mức độ cao. Vì vậy, nó dễ dàng đợc đào tạo trong một thời gian ngắn để
nắm bắt và thao tác thành thạo các loại máy móc và thiết bị của ngành. đặc
biệt sự dồi dào nguồn lực lao động ở các nớc đang phát triển là cơ hội và là
tiền đề để các nớc này đi vào phát triển ngành công nghiệp Dệt May.
Khi chi phí về sức lao động trong giá trị sản phẩm Dệt May tăng lên
làm đội giá thành, vợt qua mức mà thị trờng tiêu thụ chấp nhận. Lúc đó, sản
xuất Dệt May sẽ không phát triển đợc và sẽ xuất hiện sự chuyển dịch từ
vùng này sang vùng khác trong một nớc hoặc từ nớc này sang nớc khác trong
phạm vi tòan cầu.
Một nguyên tắc khác gây nên sự chuyển dịch của ngành Dệt May là sự
thiếu hụt về lực lợng lao động. Do phải làm việc căng thẳng, trong những điều
kiện không mấy thuận lợ ( ca kíp, bụi, nóng, ồn.) trong khi thu nhập lại thấp
nên lao động của ngành công nghiệp Dệt May có xu hớng chuyển dịch sang
các ngành kinh tế kỹ thuật khác ngày một nhiều. Chính vì vậy mà ở nhiều nớc,
do không chịu đựng đợc sức ép về tăng giá nhân công nên đã phải chuyển dịch
ngành công nghiệp này từ thành thị ra vùng nông thôn hoặc thậm chí ra nớc
ngoài để mong tìm đợc một chi phí lao động thấp hơn.
Để có đợc đội ngũ lao động có trình độ nên thực hiện các biện pháp
cụ thể về đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật trong ngành nh sau:
Các doanh nghiệp trong hiệp hội lập qũy học bổng, khuyến khích học
viên giỏi trong các chuyên ngành Dệt May để thu hút học viên vào
học ngành này.
Đầu t cơ sở vật chất cho các trờng đào tạo công nhân công nghệ cùng
với việc thay đổi nội dung và chơng trình đào tạo để theo kịp với các nớc
công nghiệp phát triển.
Bồi dỡng chuyên môn nghiệp vụ cho các cán bộ trong ngành. Phối hợp
đào tạo giữa các viện, trờng trong ngành Dệt May với các cơ sở đào
tạo quốc gia nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ kinh tế kỹ thuật của
ngành. Bồi dỡng thờng xuyên theo các chơng trình ngắn hạn. Tổ chức
hội thảo để cung cấp trao đổi những thông tin trong và ngoài nớc. Cử

cán bộ khoa học kỹ thuật giỏi, có khả năng và kiến thức cần thiết đi thực
tập, đào tạo ở các nớc có nền công nghiệp Dệt May phát triển nhằm

23


thu thập và nắm bắt các bí quyết về công nghệ mà trong nớc đang cần
hoặc tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới.
Chuẩn hóa chức năng, yêu cầu về trình độ chuyên môn kỹ thuật của
từng vị trí trong ngành, từ đó có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại đội ngũ
lao động trong ngành.
Ngoài ra để ổn định và giữ vững đội ngũ lao động và cán bộ khoa
học kỹ thuật, nghiệp vụ trong ngành, một số biện pháp có thể thực hiện nh:
Xây dựng tiêu chuẩn tuyển dụng lao động nh: ít nhất phải tốt nghiệp phổ
thông trung học; đã đợc đào tạo cơ bản qua trờng dạy nghề ( những trờng hợp cha đợc đào tạo, doanh nghiệp sẽ tổ chức đào tạo chuyên môn).
Các biện pháp về đòn bẩy kinh tế - đây là động lực kích thích mạnh
nhất, có tác dụng trực tiếp thu hút sự quan tâm, sự gắn bó lâu dài, khả
năng phát huy năng lực trí tuệ của ngời lao động và đội ngũ cán bộ quản
lý, cán bộ khoa học kỹ thuật và nghiệp vụ. Các công ty đã hoàn chỉnh
các quy chế tiền lơng, đảm bảo công bằng, công khai, quy chế khen thởng, phụ cấp cho cán bộ quản lý giỏi, cán bộ kỹ thuật giỏi và công nhân
giỏi, quy chế khuyến khích cán bộ công nhân đi học.
Không ngừng nâng cao chất lợng và đổi mới thiết bị công nghệ nhằm
tăng năng suất lao động và cải thiện điều kiện làm việc cho ngời lao
động. Đối với vấn đề lao động trong ngành Dệt, do liên quan tới nguyên
lý máy - đó là sự chuyển động tập trung của các cọc sợi, do sự hiện đại
hóa, chơng trình hóa máy dệt là quá đắt, cha phù hợp với nguồn tài
chính trong các doanh nghiệp nên khó có những biện pháp khắc phục về
mặt kỹ thuật, công nghệ. Chúng ta chỉ có thể cải thiện điều kiện làm
việc cho ngời lao động thông qua các chế độ về lơng, về phụ cấp độc hại
( tiếng ồn, bụi bông), về các chế độ nghỉ ngơi. Riêng công nhân may,

nên dung hòa giữa tổ chức lao động theo dây chuyền, tức là gữa cái lợi
về quản lý với các lựo của ngời công nhân. Nên nhanh chóng thay đổi
quan điểm chia nhỏ công đoạn nh hiện nay, dây chuyền cần ít công đoạn
hơn ( Ví dụ: may một chiếc áo chỉ nên còn 4 khâu: may thân, may tay
và vào tay, may cổ và vào cổ, hoàn tất gồm khuy- là - thêu..). Tất nhiên
nh vậy sẽ nổi lên những vấn đề cân đối thời gian giữa các khâu. Điều
này có thể giải quyết đợc bằng cách tổ chức lại dây chuyền, vừa theo hớng dọc lẫn hớng ngang, theo lý thuyết mạng, sau những thời gian nhất
định, nên chuyển đổi thợ theo kiểu vòng tròn.

24


Thông qua các tổ chức đòan thể phát động các phong tào thi đua, tuyên
truyền giáo dục cán bộ công nhân viên; luôn chăm lo đến việc nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ công nhân viên trên cơ sở phát
triển sản xuất kinh doanh, coi đó là động lực phát triển doanh nghiệp và
là chất kết dính giữa ngời lao động và doanh nghiệp.

Kết luận
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích tình hình ngành công nghiệp Dệt
May ở Việt Nam, có một số điểm nội bật sau:
Thị trờng nớc ngoài của ngành Dệt May trong mấy năm gần đây đã
không ngừng đợc mở rộng, kim ngạch xuất khẩu đã tăng rất nhanh trong
thời gian qua. Tuy nhiên, do hoạt động chủ yếu dới hình thức gia công
xuất khẩu nên phần gia trị gia tăng đem lại cho đất nớc là không nhiều.
Hơn nữa các doanh nghiệp trong nớc đã không phát huy đợc thị trờng
nội địa nên đã để mất nhiều thị phần cho hàng hóa ngoại nhập và nhập
lậu. Do đó, có thể nói rằng đối với ngành Dệt May Việt Nam, thị
trờng nơc ngoài: làm thuê; thị trờng nội địa: bỏ ngõ. Để tăng hiệu quả
trong việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm Dệt May, các nhà sản xuất

cần có xu hớng chuyển sang hình thức mua nguyên liệu, bán thành
phẩm và đa dạng hóa sản phẩm để đáp ứng nhu cầu trong và ngòai nớc.
Máy móc thiết bị của ngành phần lớn là cũ kỹ,lạc hậu và cần phải thay
thế, nâng cấp. Mặt hàng đợc san xuất trong nớc còn nhiều hạn chế về
chất lợng va chủng loại nên tính cạnh tranh của hàng hóa thấp. Do vậy,
ngành có nhu cầu đầu t để đổi mới thiết bị công nghệ rất lớn trong
những nămtiếp theo để có thể sản xuât đợc những mặt hàng chất lơng
cao.
Ngành May hiện đang nhập khẩu một số lợng lớn vải các loại. Do vậy
việc đầu t tập trung cho ngành Dệt để tạo ra những sản phẩm đáp ứng đợc đầu vào của ngành May là một vấn đề đáng quan tâm.
25


×