Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Quản trị rủi ro pháp lý ngành dệt may VN khi xk vào EU.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.1 KB, 34 trang )

THỰC TRẠNG
Quan hệ thương mại Việt Nam – EU không ngừng phát triển cùng với tiến trình hợp tác
của phía EU và đà lớn mạnh của nền kinh tế Việt Nam do chính sách” Đổi mới” mang lại.
Hiện nay EU là một trong những đối tác thương mại lớn của Việt Nam. Quy mô thương mại
ngày càng được mở rộng. Hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào thị trường EU
phát triển mạnh và có nhiều triển vọng.Việt Nam có 15 thị trường xuất khẩu trong khối EU
kể từ năm 1995, khi EU mở rộng thành 15 nước thì tất cả 15 nước thành viên đều có mối
quan hệ buôn bán với Việt Nam tuy ở mức độ khác nhau.
2.1. Sơ lược về dệt may Việt Nam:
Cũng như nhiều quốc gia đang phát triển, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường,
nước ta chọn dệt may làm ngành kinh tế có tính đột phá.
Có thể rút ra nhận xét này từ ngành dệt may của Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ,
Bănglađét, Inđônêxia, Cămpuchia… Dệt may cũng trở thành một ngành kinh tế lớn của
Việt Nam trong quá trình phát triển.
Từ năm 2002, ngành Dệt may Việt Nam có tăng trưởng đột phá mở đầu cho một thời kỳ
tăng trưởng mạnh mẽ cả về kim ngạch lẫn tỷ trọng trong xuất khẩu chung của nền kinh tế.
Năm 2002, xuất khẩu dệt may đạt trên 2,7 tỷ USD và chiếm tỷ trọng trên 16% tổng kim
ngạch xuất khẩu chung của nền kinh tế.
Chỉ 5 năm sau, năm 2007, xuất khẩu dệt may đạt 7,8 tỷ USD. Đây cũng là năm đầu Việt
Nam gia nhập WTO, các rào cản thương mại như hạn ngạch dệt may vào thị trường Mỹ
được dỡ bỏ.
Ngay sau đó, năm 2008, mặc dù kinh tế Việt Nam và thế giới chứng kiến những biến
động mạnh mẽ, từ lạm phát những tháng đầu năm đến giảm phát cuối năm, nhưng hết năm,
kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam vẫn đạt con số kỷ lục 9,2 tỷ USD, đưa Việt Nam
đứng vào Top 10 nước xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới.
Phải nói rằng, ngành dệt may Việt Nam là ngành được Chính phủ rất quan tâm. Điều
này không chỉ do tốc độ tăng trưởng cao, tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu mà quan
trong hơn cả là đã tạo ra trên 2 triệu chỗ làm với 6 triệu người ăn theo. Những đóng góp cho
xã hội đó đã nâng cao vị thế của ngành dệt may trong nền kinh tế đất nước.
Đến nay, ngành dệt may Việt Nam khá phát triển, trang bị được đổi mới và hiện đại hóa
tới 90%. Lực lượng lao động trong ngành khá dồi dào, có kỹ năng và tay nghề tốt, có chi


phí lao động thấp so với nhiều quốc gia khác, có khả năng sản xuất được các loại sản phẩm
phức tạp, đòi hỏi chất lượng cao và được phần lớn khách hàng kỹ tính chấp nhận.
Nhiều doanh nghiệp trong ngành đã được tổ chức tốt, xây dựng được thương hiệu, có
mối quan hệ chặt chẽ với các nhà nhập khẩu bán lẻ nước ngoài, nhất là với Mỹ. Có tới 55%
kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may là vào Mỹ đã chứng tỏ điều đó.
2.2. Tình hình xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang thị trường EU
Với vị trí thứ hai, sau Hoa Kỳ, EU luôn được coi là thị trường tiềm năng và truyền thống
của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam. Trong những năm gần đây xuất khẩu hàng dệt may
vào thị trường này đều duy trì được mức tăng trưởng khá.
Trong cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang EU, hàng dệt may có kim ngạch
đứng thứ hai sau giày dép.
Thị trường EU hiện chiếm khoảng 40% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam.
Thế nhưng nếu nhìn từ phía EU, thì Việt Nam chỉ là nhà xuất khẩu lớn thứ 16 và chiếm
0,5% kim ngạch nhập khẩu của EU. Thị trường nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam lớn nhất
trong Liên minh EU vẫn là Đức (46,9%); Pháp (10,8%); Hà Lan (10,3%); Anh (9,4%); Bỉ
(6,1%); Tây Ban Nha (5,1%); Ý (4,4%); Đan Mạch (2%); Thụy Điển (1,9%); Áo (1,5%);
Phần Lan (0,6%); Ai Len (0,4%); Luxembourg (0,3%); Hy Lạp (0,2%) và Bồ Đào Nha
(0,1%).
TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM
VÀO THỊ TRỪƠNG EU QUA CÁC NĂM
Nói về tình hình xuất khẩu dệt may quý I năm 2010, theo Thời báo Kinh tế Sài Gòn, kim
ngạch xuất khẩu dệt may cả nước trong quí 1-2010 đạt 2,2 tỉ đô la Mỹ, tăng gần 13% so với
cùng kỳ.
Năm 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Kim ngạch XK (triệu
USD)
537,1 760 882,8 1245 1500 1650 1584
Nhìn chung các thị trường xuất khẩu chính như Mỹ, EU và Nhật Bản đã được cải thiện
đáng kể đang tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu sản phẩm dệt may của Việt
Nam. Tuy nhiên, việc chủ động nguồn nguyên liệu bông, xơ sợi cho ngành dệt may hiện

vẫn còn nhiều hạn chế.
2.3. Việt Nam gia nhập WTO và những rủi ro trong thay đổi pháp lí:
2.3.1 WTO bãi bỏ hạn ngạch cho các nước thành viên
Kể từ 01/01/2005, hàng dệt may xuất khẩu từ một nước thành viên WTO sang một nước
thành viên khác sẽ không còn chịu hạn ngạch nữa. Như vậy, với việc gia nhập WTO, Việt
Nam không còn gặp phải vấn đề hạn ngạch khi xuất khẩu hàng dệt may nữa. Điều này giúp
Việt Nam có nền tảng cạnh tranh công bằng hơn, ít nhất là về mặt pháp lý, với các nước sản
xuất hàng dệt may khác như Ấn Độ, Băng-la-đét, Trung Quốc, v.v.
Vừa rồi năm 2008, EU bãi bỏ hạn ngạch dệt may cho Trung Quốc và áp dụng một hệ
thống giám sát “kiểm tra kép” để theo dõi việc cấp phép xuất khẩu hàng dệt may tại Trung
Quốc và việc nhập khẩu mặt hàng này vào EU. So với trước đây, rõ ràng từ năm 2008 xuất
khẩu của Trung Quốc sang EU sẽ thuận lợi hơn. Và như thế, các nước xuất khẩu hàng dệt
may sẽ không dễ dàng nếu muốn tăng thị phần tại EU, bởi hàng dệt may của các nước trong
đó có Việt Nam sẽ phải cạnh tranh gay gắt hơn với hàng dệt may Trung Quốc vốn có năng
lực cạnh tranh lớn do chủ động được nguyên phụ liệu và có khả năng đáp ứng nhiều loại
phẩm cấp hàng hoá.
2.3.2 Hàng rào bảo hộ dệt may trong nước không còn
Nếu như hiện nay, thuế nhập khẩu hàng may mặc vào Việt Nam là 50%, thuế nhập khẩu
vải là 40%, thuế nhập khẩu sợi là 20% thì khi vào WTO, Việt Nam sẽ phải thực hiện đúng
cam kết theo Hiệp định Dệt may (với mức giảm thuế lớn, ví dụ thuế suất đối với vải giảm
từ 40% xuống 12%, quần áo may sẵn giảm từ 50% xuống 20% và sợi giảm từ 2% xuống
5%). Do vậy vải Trung Quốc sẽ tràn vào nước ta vì lúc nước sẽ phải cạnh tranh với vải
Trung Quốc nhập khẩu.
Bảng sau thể hiện mức thuế nhập khẩu của Việt Nam đối với các sản phẩm dệt may
phân loại theo Chương HS. Theo đó, hầu hết các mức trần thuế suất sẽ bắt đầu giảm ngay từ
khi Việt Nam gia nhập WTO, và không bị cắt giảm theo lộ trình thêm nữa. Điều này được
thể hiện qua mức trần thuế suất khi gia nhập và trần thuế suất cuối cùng là khá giống nhau.
Chỉ có 5 dòng thuế vẫn tiếp tục được cắt giảm thêm là 59112000 (từ 10% xuống 8% vào
năm 2009), 59119010 (từ 10% xuống 5% vào năm 2010), 59119090 (từ 10% xuống 5% vào
năm 2010), 63079010 (từ 15% xuống 10% vào năm 2009), 63079020 (từ 15% xuống 10%

vào năm 2009). Với việc tham gia WTO, Việt Nam cũng phải cam kết không vận dụng hạn
ngạch nhằm hạn chế nhập khẩu hàng dệt may.
Bảng : Thuế nhập khẩu cam kết (trung bình) khi gia nhập WTO
Đơn vị tính: %
Chương HS Trần thuế suất khi gia nhập Trần thuế suất cuối cùng
50 9,77 9,77
51 7,73 7,73
52 9,50 9,50
53 5,66 5,66
54 9,05 9,05
55 8,77 8,77
56 10,32 10,32
57 12,00 12,00
58 12,00 12,00
59 11,15 10,89
60 12,00 12,00
61 19,92 19,92
62 19,80 19,80
63 14,70 14,60
Nguồn: Cục Xúc tiến thương mại (2009)
Các cam kết giảm thuế đối với hàng dệt may nhập khẩu sẽ làm giảm mức độ bảo hộ đối
với ngành dệt may.
Bảng sau thể hiện ước tính mức độ bảo hộ thực tế - mức tăng giá trị gia tăng của ngành
trong trường hợp có bảo hộ so với trường hợp không có bảo hộ - của các ngành dệt may.
Theo đó, mức độ bảo hộ thực tế của các ngành dệt may sẽ tăng nhẹ trong giai đoạn
2008-2010, trước khi giảm liên tục trong các năm tiếp theo cho đến 2020. Mức độ bảo hộ
thực tế đối với các sản phẩm quần áo được duy trì khá ổn định kể từ sau khi Việt Nam gia
nhập WTO. Đối với thảm dệt và các sản phẩm thêu ren, tỷ lệ bảo hộ thực tế chỉ tăng nhẹ
trong giai đoạn 2007-2010, trước khi giảm xuống trong giai đoạn 2015-2020. Riêng sản
phẩm sợi còn không nhận được bảo hộ từ hàng rào thuế quan, thể hiện qua tỷ lệ bảo hộ nhỏ

hơn 0 trong giai đoạn 2007-2020.
Bảng: Tỷ lệ bảo hộ thực tế của các ngành dệt may (%)
2006 2007 2008 2009 2010 2015 2020
Dệt may 124,71 34,06 34,74 35,28 35,61 33,31 28,59
Sợi 4,00 -4,97 -4,46 -4,06 -3,81 -3,10 -2,66
Quần áo 135,70 58,02 58,44 57,72 57,48 58,26 57,83
Thảm dệt 56,00 25,02 25,22 25,38 25,47 19,81 20,32
Sản phẩm thêu ren (ngoại trừ thảm) 62,33 17,44 17,69 17,90 18,05 16,03 16,31
Nguồn: Phạm Văn Hà (2007).
2.3.3 Quy định về xuất xứ của hàng hóa
Quy định về xuất xứ của hàng hóa cũng có thể ảnh hưởng đến khả năng thâm nhập thị
trường của các sản phẩm dệt may. Các quy định này liên quan đến các tiêu chí được sử
dụng nhằm xác định xem sản phẩm được sản xuất ở đâu. Đây là một phần quan trọng trong
quy định thương mại vì nhiều chính sách có phân biệt giữa các nước xuất khẩu (liên quan
đến hạn ngạch, thuế suất ưu đãi, chống bán phá giá, v.v.), trong khi quá trình toàn cầu hóa
đang khiến các sản phẩm được sản xuất qua các công đoạn ở nhiều nước khác nhau trước
khi đến với người tiêu dùng cuối cùng.
Theo Hiệp định về Quy định xuất xứ, các thành viên WTO phải bảo đảm các quy định
xuất xứ được ban hành và thực thi một cách minh bạch, mà không có tác dụng hạn chế, bóp
méo, hay gián đoạn đối với thương mại quốc tế, và được quản lý một cách thống nhất, đầy
đủ, và hợp lý. Về dài hạn, Hiệp định hướng tới sự hài hòa hóa các quy định về xuất xứ của
các nước thành viên WTO, ngoại trừ các quy định trong một số hiệp định ưu đãi thương
mại (như hiệp định thương mại tự do). Tất cả các quốc gia đều thừa nhận rằng việc hài hòa
hóa các quy định này sẽ góp phần thúc đẩy thương mại quốc tế. Các quy định về xuất xứ
được sử dụng nhằm: thực hiện các biện pháp và công cụ chính sách thương mại như thuế
chống bán phá giá, các biện pháp tự vệ, v.v.; xác định xem liệu sản phẩm nhập khẩu sẽ nhận
được ưu đãi tối huệ quốc hay chỉ là ưu đãi thương mại; thống kê thương mại; vận dụng các
quy định về nhãn mác; và phục vụ cho mua sắm chính phủ. Tuy vậy, các quy định này cũng
có thể được vận dụng thiếu hợp lý với mục đích bảo hộ. Chính vì vậy, Hiệp định về xuất xứ
hàng hóa có thể ảnh hưởng đến hoạt động của ngành dệt may.

2.3.4 Định giá hải quan
Định giá hải quan là một thủ tục hải quan được thực hiện nhằm xác định giá trị hải quan
của hàng nhập khẩu. Đối với các đơn vị nhập khẩu, quá trình này có ý nghĩa quan trọng như
là mức thuế được áp dụng, vì nếu mức thuế được tính theo tỷ lệ % của giá trị hải quan, giá
trị hải quan cũng ảnh hưởng đến mức thuế phải chịu đối với hàng nhập khẩu.
Hiệp định về định giá hải quan trong khung khổ WTO hướng tới một hệ thống định giá
hàng hóa cho mục đích hải quan được thực hiện một cách công bằng, đồng nhất, và trung
tính. Kể từ khi kết thúc vòng đàm phán Uruguay, Hiệp định này đã được thay thế bằng Hiệp
định về thực thi Điều VII của GATT 1994, và chỉ áp dụng đối với quá trình định giá hàng
nhập khẩu để áp dụng mức thuế nhập khẩu theo tỷ lệ %.Theo đó, định giá hải quan chủ yếu
dựa trên giá hàng hóa thực trả - thường được thể hiện trên hóa đơn - có thực hiện một số
điều chỉnh được nêu trong Điều VIII. 6 phương pháp định giá được sử dụng là: giá trị giao
dịch; giá trị giao dịch của hàng hóa giống hệt; giá trị giao dịch của hàng hóa tương tự;
phương pháp trừ (deduction); phương pháp tính toán (computed method); phương pháp dự
phòng (fall back method).
Hiện tại các Doanh nghiệp Dệt May Việt Nam đang thực hiện các hợp đồng gia công là
chủ yếu, vì vậy các DN chưa thấy rõ được sự ảnh hưởng của Hiệp định này. Tuy nhiên các
DN đang phấn đấu tăng dần tỷ lệ đơn hàng theo phương thức FOB, do vậy việc hiểu biết
Hiệp định này là một việc cần thiết để các DN chủ động sử dụng được lợi thế của phương
pháp định giá này tăng tính cạnh tranh của sản phẩm may mặc Việt Nam khi hội nhập thế
giới.
2.3.5 Thủ tục hải quan:
Câu chuyện của Cty TNHH May Minh Trí là một trong nhiều ví dụ điển hình về tình
hình khó khăn hiện nay của các DN dệt may. Ông Vũ Đình Tân - Phó Giám đốc Cty cho
biết: Minh Trí là Cty chuyên gia công xuất khẩu vào thị trường các nước. Hàng tháng,
lượng hàng nhập và XK của Cty rất lớn. Minh Trí đã đăng ký và đang thực hiện các hợp
đồng tại Chi cục Hải quan Đầu tư – Gia công Hà Nội. Theo quy định của Quyết định
69/2004/QĐ-BTC ngày 24/8/2004, khi hàng hoá nhập/xuất khẩu được miễn kiểm tra, DN
chỉ việc nhận hàng và đưa hàng về nhà máy để sản xuất hoặc hàng xuất được đưa thẳng tới
Cảng để làm thủ tục và chất hàng lên tàu. DN tiết kiệm được rất nhiều thời gian và chi phí

giao nhận vận chuyển. Điều này đã giúp DN đảm bảo được thời hạn giao hàng cho khách
hàng nước ngoài, công nhân không phải nghỉ chờ việc, chờ nguyên phụ liệu về nhà máy.
Đối với các lô hàng hoá phải kiểm tra, DN làm thủ tục kiểm hoá và nhập/xuất hàng tại Cảng
cũng rất nhanh và thuận tiện, chỉ trong vòng 4 giờ làm việc đã được thông quan hàng hoá.
Thế nhưng, kể từ ngày 20/4/2009, khi Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 79/2009/TT-
BTC hướng dẫn về thủ tục hải quan; kiểm tra giám sát hải quan; thuế xuất khẩu, nhập khẩu
và quản lý thuế đối với hàng hoá xuất nhập khẩu thì tình hình lại khác. Quy định tại mục 6 ,
khoản C của điều 57 của Thông tư số 79: Hàng hoá của DN bắt buộc phải làm thủ tục niêm
phong chuyển tiếp về cửa khẩu mở tờ khai hoặc kho riêng (kể cả hàng hoá thuộc diện miễn
kiểm tra thực tế), hải quan cửa khẩu ghi rõ số niêm phong và tình trạng hàng hoá vào biên
bản bàn giao, niêm phong hồ sơ và giao cho chủ hàng chuyển cho chi cục hải quan ngoài
cửa khẩu.
Vì thế, khi hàng về đến địa điểm đăng ký trong đơn chuyển cửa khẩu, DN nộp hồ sơ đã
được hải quan cửa khẩu niêm phong cho chi cục hải quan ngoài cửa khẩu để làm tiếp thủ
tục thông quan lô hàng. "Chúng tôi hiểu theo quy định hiện hành, việc giám sát các lô hàng
phải kiểm tra là việc bắt buộc" - ông Trí cho biết. Tuy nhiên, theo ông Trí đối với các lô
hàng thuộc diện miễn kiểm tra thực tế hàng hoá nếu áp dụng phương pháp giám sát như trên
thì nó thực sự không có ý nghĩa ưu tiên gì đối với DN chấp hành tốt pháp luật (không
khuyến khích DN chấp hành tốt pháp luật trong hoạt động xuất nhập khẩu), đi ngược lại chủ
trương đổi mới và hiện đại hoá ngành Hải quan để đi đến thông quan điện tử, không tạo nên
sự khác biệt giữa hàng hoá phải kiểm tra và miễn kiểm tra. Hơn nữa việc niêm phong/kẹp
chì ở của khẩu nhập sẽ gây tốn kém, chi phí vận chuyển vòng vèo do không cùng tuyến
đường, thời gian lưu xe, lưu container chờ thông quan tại Hải quan ngoài cửa khẩu, nếu DN
muốn lấy hàng ngoài giờ lại phải đăng ký, làm các thủ tục để di chuyển hàng hoá đến địa
điểm kiểm tra ngoài cửa khẩu.
Theo ông Trí, hiện tại rất nhiều lô hàng của DN đang ứ đọng ở cảng do hải quan cửa
khẩu và ngoài cửa khẩu không thống nhất trong việc áp dụng Thông tư 79. Hàng hoá nhập
khẩu trong diện miễn kiểm tra không được đưa ngay về nơi sản xuất mà vẫn phải chịu sự
giám sát của hải quan cửa khẩu và ngoài cửa khẩu. Do vậy , chi phí cho 1 lô hàng nhập tăng
gấp 2-3 lần do vận chuyển vòng vèo chờ thông quan, chi phí lưu container, lưu xe , bến

bãi..., thời gian chờ đợi làm thủ tục gây chậm trễ cho sản xuất, ảnh hưởng tới tiến độ xuất
khẩu.
2.4. Qui định của EU và những rủi ro pháp lí:
2.4.1. Tiêu chuẩn của EU về chất lượng và môi trường:
Bất chấp hệ thống điều hoà EU có thể tạo điều kiện cho thương mại tự do giữa các nước
thành viên trong EU, mỗi thị trường thành viên có những yêu cầu khác nhau liên quan đến
vấn đề chất lượng, loại vải, sợi, các tiêu chuẩn, kích cỡ, mầu sắc…
Không có tiêu chuẩn chung của EU cho các sản phẩm may mặc. Đa số các nhà nhập
khẩu, đặc biệt là các tổ chức bán lẻ, làm việc trên cơ sở một số các yêu cầu tối thiểu. Trên
khía cạnh này, nhà nhập khẩu đã hình thành và đưa ra những yêu cầu chất lượng tối thiểu
liên quan đến cả vật liệu và sản xuất.
Chẳng hạn như:
• Quy định của EU và Anh về các chất nhuộm bị cấm, chất nhuộm gây ung thư (Azo
dyes)
• Quy định của EU về những chất gây ô nhiễm hữu cơ dai dẳng (POPs)
Anh đã ban hành luật của EU thành luật quốc gia về về vấn đề liên quan đến hóa chất
nonyl phenol ethoxylates và nonyl phenol để bảo vệ môi trường.
Ngoài ra Anh đã có những qui định riêng:
• Anh ban hành luật Châu Âu thành luật quốc gia cho việc cấm sử dụng pentaBDE and
octaBDE trong sản phẩm.
• Luật của Anh về vấn đề an toàn sản phẩm: Theo chỉ thị về an toàn sản phẩm, nhà sản
xuất và phân phối sản phẩm tiêu dùng có nhiệm vụ chung là đưa ra thị trường sản
phẩm an toàn. Chỉ thị này áp dụng cho tất cả các sản phẩm trên thị trường trừ phi có
những luật định Châu Âu khác đã được áp dụng để khống chế an toàn cho sản phẩm
có liên quan.
• Anh đã ban hành luật về an toàn cho sản phẩm đồ mặc ngủ.
• Luật của Anh liên quan đến hóa chất có trong vải chống cháy sử dụng trong may
mặc: Anh đã ban hành luật của EU liên quan đến hóa chất có trong vải chống cháy
sử dụng trong may mặc bao gồm những chất sau: Tri-(2,3,-dibromopropyl)-
phosphate (TRIS), Tris-(aziridinyl)-phosphineoxide (TEPA) và

Polybromobiphenyles (PBB).
• Sử dụng kim loại Nikel trong trang trí sản phẩm may mặc: Anh đã ban hành luật về
giới hạn lượng nikel được sử dụng trong sản phẩm có tiếp xúc trực tiếp với da
(những dụng cụ nhọn như hoa tai và những sản phẩm có tiếp xúc trực tiếp với da
khác).
• Luật của Anh: liên quan đến vật liệu gỗ dùng để đóng gói (những sinh vật có hại như
vi khuẩn, côn trùng, ve, nấm...):
• Luật của Anh về việc giảm tác động của các chất thải từ đóng gói: Anh đã ban hành
chỉ thị 94/62/EC về việc đóng gói và chất thải đóng gói ở cấp độ quốc gia. Khía cạnh
quan trọng nhất của luật này đối với các nhà sản xuất ở các nước không thuộc khối
EU là việc không được sử dụng vật liệu đóng gói có hàm lượng kim loại nặng.
Đóng gói, nhãn hiệu và ghi nhãn
Cần phải quan tâm đến bao bì đóng gói sản phẩm khi xuất khẩu sang EU. Các doanh
nghiệp phải nghiên cứu kỹ vấn đề bao bì để bảo vệ hàng hoá trong quá trình vận chuyển qua
nhiều quốc gia. Các sản phẩm phải được bảo vệ chống lại thời tiết, những thay đổi nhiệt độ,
xử lý không cẩn thận và ăn cắp. Một số nhà nhập khẩu có những nhu cầu đặc biệt liên quan
đến bao bì. Vì những lý do về môi trường, bao bì đóng gói từ những vật liệu như PVC… ít
thông dụng đối với người tiêu dùng và trong vài trường hợp, chính phủ có thể cấm sử dụng
loại vật liệu này. Các nhà xuất khẩu từ những quốc gia đang phát triển cần phải thảo luận về
vấn đề này với các khách hàng tiềm năng của mình và nên dự trù trước các chi phí đóng gói
đặc biệt trong giá bán sỉ nếu được yêu cầu.
Kích thước sử dụng để ghi : 3 số đo cơ bản là chiều dài, vòng ngực, vòng hông.
Ghi nhãn: Việc ghi nhãn phải đảm bảo thông tin cho người tiêu dùng về tương lai và
sản phẩm thực sự mua được. Thông tin cung cấp được ghi trên nhãn từ thành phần sợi vải
chính tạo nên sản phẩm cho đến thông tin an toàn tiêu dùng. Thông thường có 2 phương
pháp ghi:
- Các yêu cầu bắt buộc như xuất xứ, thành phần sợi, khả năng cháy;
- Các yêu cầu tự nguyện như nhãn hiệu quan tâm/hướng dẫn giặt tẩy và kích cỡ của
nhãn.
Chương trình nhãn hiệu quan tâm tự nguyện được sử dụng trên nhiều quốc gia tại EU.

Chương trình sử dụng 5 loại biểu tượng là mã mầu; các biểu tượng liên quan đến tính bền
vững của mầu sắc, ổn định về kích cỡ, ảnh hưởng của cloren (trong chất tẩy), nhiệt độ ủi an
toàn nhất và một vài đặc tính khác.
Các nhãn sinh thái - Ecolabel
Nhu cầu cho các sản phẩm mang tính môi trường ngày càng tăng, đặc biệt trong lãnh
vực hàng tiêu dùng; người tiêu dùng đòi hỏi những sản phẩm dễ dàng được nhận diện và
được gắn nhãn theo sự khuyến khích của luật pháp. Những dấu xác nhận tiêu chuẩn cho sản
phẩm mang tính môi trường thường được biết đến như một nhãn sinh thái. Những dấu xác
nhận chỉ ra rằng sản phẩm ít ảnh hưởng đến môi trường so với các sản phẩm tương tự. Các
nhãn sinh thái mang tính chất tự nguyện tuy nhiên có thể cho rằng đây là một công cụ cạnh
tranh mạnh. 4 nhãn hiệu quan trọng tại EU được áp dụng cho các sản phẩm may mặc thông
thường là EU Ecolabel, nhãn OKO-Tex, SKAL EKO và nhãn SG
2.4.2. Những quy tắc RoO hiện hành của Ủy ban châu Âu đối với ngành dệt may:
(Những quy tắc xuất xứ của ngành dệt may)
Kể từ khi RoO Châu Âu phân biệt RoO ở cấp độ sản phẩm hay ngành không có sự khác
biệt nào đối với ngành dệt may theo chương 50 - 63. Mỗi chương bắt buộc phải tuân theo
quy tắc RoO. RoO Châu Âu cho ngành này điển hình sử dụng phương pháp SP, áp đặt một
yêu cầu xử lý cụ thể đối với người sản xuất, một số mặt hàng được cấp cho một lựa chọn
thay thế những yêu cầu của RoO. Như ví dụ minh họa dưới đây, vải dệt phải được sản xuất
trong nước từ sợi, chỉ hay một loại tương đương có đủ tiêu chuẩn bằng việc hoàn tất những
yêu cầu xử lý trong nước nhất định giúp tạo thêm giá trị cho nguyên liệu thô được sử dụng
miễn là giá trị của sợi chưa in được sử dụng không vượt quá 47.5% giá sản phẩm cũ.
Ví dụ dưới đây minh họa cho RoO trong thế giới thực như được sử dụng cho các hiệp
định của Ủy ban châu Âu. Theo ví dụ, những nguyên liệu thô cụ thể không cần xuất xứ nội
địa nhưng có thể được đưa về nước xuất xứ tại bất cứ đâu trên thế giới. Qúa trình xử lý
thêm nữa theo mỗi kế hoạch cần hỏi ý kiến của nước xuất xứ. Hơn nữa các quy tắc này chỉ
được áp dụng cho những hàng hóa và nguyên liệu phi gốc. Khi đưa ra những quy tắc này,
người sản xuất và xuất khẩu chỉ cần áp dụng các luật đối với phần sản phẩm phi gốc đó và
nhớ rằng các điều khoản về độ sai biệt giá trị có thể vẫn gây mất thời gian cho các nhà xuất
khẩu. Ví dụ 10% hay 15% quy tắc về độ sai biệt giá trị (2 ngưỡng phổ biến nhất tại các hiệp

định châu Âu) cho phép các nhà sản xuất may mặc sử dụng sợi phi gốc ở một ngưỡng cho
phép, thường dựa trên giá cả sản phẩm cũ. Trong khi ví dụ dưới đây được xem xét như một
minh họa cho RoO GSP của châu Âu, những yêu cầu tương tự có thể được tìm thấy ở hầu
hết các hiệp định thương mại châu Âu được ưu tiên khác.
2.4.3. Tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội SA 8000
Tổng quan về SA 8000.
Tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội SA 8000 (Social Acountability 8000) được đưa ra lần đầu
tiên vào tháng 10/1997 do Tổ chức Quốc tế về Trách nhiệm xã hội (Social Acountability
International - SAI) xây dựng và ban hành dựa trên nền tảng các công ước và khuyến nghị
của Tổ chức Lao động thế giới (ILO) cũng như các công ước về quyền con người. Ngày
123/12/2001, SAI đã công bố phiên bản mới của SA 8000 (SA8000:2001) để thay thế SA
8000: 1997. Những điểm chính của SA 8000 là: Không sử dụng lao động trẻ em; không
cưỡng bức lao động; đảm bảo sức khoẻ, vệ sinh an toàn lao động; đảm bảo quyền tự do
công đoàn, thoả ước tập thể; không phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc,thành phần xã hội,
tín ngưỡng, tôn giáo, không được áp dụng các hình phạt về thể xác, lạm dụng lời nói; đảm
bảo thời gian làm việc không quá 60giờ/tuần, trong đó, giờ làm thêm là tự nguyện, trong
chu kỳ 7 ngày, người lao động được nghỉ trọn một ngày; đảm bảo tiền lương thu nhập,
không áp dụng kỷ luật bằng cách cúp lương; có hệ thống quản lý, hình thành cơ chế thực thi
kiểm soát sự đáp ứng các đòi hỏi trong suốt quá trình.
Tình hình thực hiện SA 8000 ở Việt Nam.
Theo số liệu thống kê, hiện nay cả nước có 551 đơn vị đạt tiêu chuẩn quản lý chất
lượng ISO 9000, 21 doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn quản lý môi trường ISO 140000, nhưng
mới chỉ có rất ít doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn quản lý trách nhiệm xã hội và điều kiện lao
động SA 8000. Đây là một thực trạng đáng lo ngại, vì hiện tiêu chuẩn SA 8000 là một trong
3 tiêu chuẩn (ISO 9000, ISO 140000 và SA 8000) được xem là bắt buộc để các doanh
nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng hoá (đặc biệt là hàng dệt - may) sang thị trường Mỹ và
Châu Âu.
Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, trên thực tế, nhiều doanh nghiệp Việt Nam
có chính sách với người lao động tốt hơn so với yêu cầu của SA 8000. Thu nhập của người
lao động tại nhiều doanh nghiệp còn cao hơn mức tối thiểu không chỉ ở Việt Nam mà còn ở

khu vực. Nhưng hiện tại, số doanh nghiệp Việt Nam được chứng nhận đạt SA 8000 chỉ đếm
được trên đầu ngón tay.

Những khó khăn chủ yếu trong việc áp dụng SA 8000 tại Việt Nam hiện nay là:
- Nhận thức của doanh nghiệp về SA 8000. Hầu hết các doanh nghiệp ở Việt Nam đều
nhìn nhận SA 8000 như một vấn đề mâu thuẫn với mục tiêu tạo cắt giảm chi phí để tăng lợi
nhuận, không phù hợp với mục tiêu kinh doanh.
- Các doanh nghiệp không muốn tiết lộ các ghi chép tài chính, đặc biệt trong các doanh
nghiệp tư nhân.
- Không có khả năng chi trả chi phí áp dụng SA 8000 (chi phí đánh giá, chi phí thực hiện
những thay đổi để áp dụng SA 8000). Nhiều công ty muốn được giám định công khai,
nhưng không đủ chi phí cho việc giám định.
- Sự cách biệt văn hoá giữa khách hàng và nhà cung cấp. Do các quy định đạo đức của
từng công ty thường được các công ty đa quốc gia áp đặt một chiều đối với các đơn vị gia
công, nên nội dung thực hiện của các tiêu chuẩn không phản ánh được nhu cầu và giá trị địa
phương. Việc này sẽ dẫn đến những khó khăn trong áp dụng SA 8000.
- SA 8000 là mục tiêu ít được ưu tiên, đặc biệt trong những thời điểm kinh tế suy thoái.
Ngay cả khi hệ thống SA 8000 hứa hẹn đem lại lợi nhuận cao hơn về lâu dài, nhưng nhiều
công ty vẫn không muốn đầu tư phục vụ nhu cầu trước mắt để thực hiện SA 8000.
- Thực tế của hoạt động gia công gây ra nhiều khó khăn trong việc xác định khối lượng
công việc giám sát. Các công ty đa quốc gia sẽ đòi hỏi tất cả các nhà cung cấp và đơn vị gia
công thực hiện tiêu chuẩn SA 8000. Nhưng bản chất của hoạt động gia công đảm đương
phần lớn công đoạn sản xuất khác nhau tại các doanh nghiệp độc lập, làm cho việc giám sát
các hoạt động của doanh nghiệp và đòi hỏi các đơn vị gia công áp dụng SA 8000 trở nên
khó khăn.
Nhận xét:
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam đang
đứng trước nhiều thử thách trong việc tìm kiếm và thực hiện những chính sách phát triển,
nhằm tăng khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập khu vực và tiến tới hội nhập toàn
cầu. Một trong những phương thức hữu hiệu luôn được các nhà sản xuất và người bán lẻ áp

dụng và ghi nhớ là chú trọng bảo vệ uy tín và giá trị của các thương hiệu nhằm giữ vững thế
cạnh tranh. Trên các thị trường lớn như Mỹ, Canađa và EU, người tiêu dùng không chỉ quan
tâm đến giá cả, chất lượng, mẫu mã, bao bì... mà ngày càng quan tâm hơn đến điều kiện làm
việc của công nhân tạo ra các sản phẩm này và luôn bị lôi kéo vào các chiến dịch quảng cáo,
nhằm bảo vệ quyền lợi phụ nữ và trẻ em. Do vậy, SA 8000 được xem là tiêu chuẩn “khẳng
định giá trị đạo đức” của sản phẩm mà doanh nghiệp Việt Nam cần thiết phải trang bị cho
“hành trang” hội nhập của mình.
2.5. Kết luận rút ra từ nghiên cứu thị trường hàng dệt may EU:
2.5.1 Điểm mạnh:
2 EU là thị trường lớn về nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam.
E Năng lực sản xuất của ngành rất lớn: nhiều doanh nghiệp đã xuất khẩu thành công vào
các thị trường lớn mang tính cạnh tranh cao của thế giới, trong đó có EU.
c Trong 3 năm qua, nhiều doanh nghiệp của các thành phần kinh tế đầu tư đổi mới công
nghệ trang thiết bị của ngành.
n Nhiều doanh nghiệp ngành dệt sản xuất phụ kiện, tăng cường đầu tư, đáp ứng một
phần nhu cầu cung cấp nguyên liệu cho ngành.
p Nhân công rẻ, người lao động cần cù khéo léo cũng là thế mạnh của ngành.
2.5..2 Điểm yếu:

×