Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất phân vùng sinh thái chăn nuôi heo, dê, gà, vịt trên địa bàng huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.08 MB, 27 trang )

NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT PHÂN VÙNG SINH THÁI CHĂN NUÔI TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN THĂNG BÌNH, TỈNH QUẢNG NAM
I.

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam, ngành chăn nuôi có vai trò quan trọng với người nông dân, việc phát triển chăn nuôi
trong nông thôn không những làm tăng sản phảm cho xã hội mà còn góp phần khai thác và sử dụng
có hiệu quả các nguồn lực (lao động, đát đai, vốn…), tăng thu nhập cho nông hộ, tham gia vào
chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, góp phần xóa đóa giảm nghèo. Chăn nuôi là cơ sở để phát huy
tiềm năng sẵn có của vùng.
Trong những năm qua, ngành chăn nuôi của huyện Thăng Bình có bước chuyển biến tích cực, tổng
đàn gia súc, gia cầm ổn định, chất lượng ngày càng tăng. Tổng giá trị sản phẩm ngành chăn nuôi
trong ngành nông nghiệp chiếm 25,04% (Báo cáo TKNN năm 2013). Tuy nhiên, tốc độ phát triển
chăn nuôi còn chậm, năng suất, chất lượng và giá trị số lượng sản phẩm còn thấp, chưa tương xứng
tiềm năng của huyện. Việc nghiên cứu “hiên trạng và đề xuất phân vùng sinh thái chăn nuôi trên
địa bàn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam” là yêu cầu bức thiết, nhằm tìm các giải pháp và phân
vùng chăn nuôi hợp lý để khai thác có hiệu quả hơn các lợi thế tiềm năng, tạo điều kiện cho ngành
chăn nuôi phát triển mạnh hơn trong những năm tới.
2. Mục tiêu của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực trạng chăn nuôi ở địa phương, phát hiện điểm hạn
chế và khó khăn, từ đó đề xuất phân vùng và một số giải pháp để nhằm phát triển chăn nuôi huyện
Thăng Bình
3. Nhiệm vụ của đề tài
- Đánh giá thực trạng chăn nuôi ở huyện Thăng Bình tỉnh Quảng Nam những năn qua, xác định
được những nhân tố ảnh hưởng.
- Đề xuất phân vùng hợp lý và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển chăn nuôi hiệu quả ở
những năm tiếp theo của huyện



II.

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1
1.1.1

Tình hình, vai trò và đặc điểm của nghành chăn nuôi Việt Nam
Tình hình chăn nuôi ở Việt Nam

Trong những năm gân đây, ngành chăn nuôi Việt Nam đã phát triển đáng kể. Kể từ năm 1990 đến nay ngành
chăn nuôi có hướng phát triển tương đối ổn định với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt đến 5,27% năm. Chăn nuôi
gia cầm có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất 15 năm qua. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm tăng rõ rệt, tư 3,5%
năm trong các giai đoạn 1990-1995 lên đến 6,7% năm trong giai đoạn 1996-2000 và trong các năm còn lại đă tăng
lên tới 9,1% năm.
Chăn nuôi lấy thịt là hình thức phổ biến nhất ở nước ta. Tổng sản lượng thịt hiện nay đạt 2 triệu tấn các loại,
trong đó thịt lợn chiếm tới 76%. Hơn 90% thịt lợn và trên 60% thịt gia cầm sản xuất ở các nông hộ được tiêu thụ
trên thị trường nội địa.
Tuy có tốc độ tăng trưởng cao, song cơ cấu tỷ trọng thịt không thay đổi nhiều trong những năm gần đây, dù
tỷ trọng thịt lợn có tăng từ 73,5% năm 1990 lên 77% năm 2004, trọng lượng thịt gia cầm tăng lên gần 16% trong
tổng sản lương thịt so với 15% vào năm 1995.
Bên cạnh tình hình chăn nuôi lấy thịt, chăn nuôi bồ sữa cũng phát triển mạnh trong những năm gần đây và
không chỉ cung cấp sưa tươi cho tiêu thụ mà còn cung cấp cho các nhà máy chế biến sữa. Số lượng bồ sữa tăng từ
11.000 con năm 1990 lên gần 80.000 con năm 2004, trong đó, bò cái sinh sản có khoảng 50.000 con, bò sữa xấp xỉ
40.000.
Tuy nhiên, ngành chăn nuôi Việt Nam vẫn tồn tại một số vấn đề:
Thứ nhất, quy mô trang trại quá nhỏ. Xu hướng phát triển các trang trại lợn công nghiệp quy mô lớn là lực
lượng xuất khẩu chính. Số lượng các trang trại này tăng mạnh từ năm 1996 đến năy. Năm 2003 cả nước có khoảng
2.000 trang trại chăn nuôi.Mặc dù vậy, tỉ lệ trang trại chăn nuôi còn nhỏ, chỉ chiếm 2,9% trong tổng số trang trại

các loại của cả nước và phần lớn trang trại tập trung ở vùng Đông Nam Bộ. Tỉ lệ nông dân nuôi trên 11 con lợn
chiếm chưa đến 2%. Phần lớn nông dân chỉ nuôi dưới 3 con lợn.
Thứ hai, năng suất nuôi lấy thịt của Việt Nam còn tương đối thấp và tăng chậm trong vòng 10 trở lại đây.
Tốc độ tăng trưởng bình quân của sản lượng thịt tính trên đầu con chỉ đạt 7,7%/năm. Đây là tỷ lệ áp dụng giống cải
tiến thấp và chăn nuôi tận dụng (sử dụng thức ăn thừa, thức ăn xanh, nguyên liệu thô)
Bên cạnh đó, chất lượng thịt cua Việt Nam còn thấp, biểu hiện ở tỉ lệ mỡ cao, bệnh dịch thường xuyên xảy ra
nhất là đại dịch cúm gia cầm gần đây.
1.1.2 Vai trò của ngành chăn nuôi
+ Đối với nền kinh tế quốc dân
Trong nền kinh tế quốc dân, chăn nuôi đóng vai trò khá quan trọng, nó góp phần làm tăng trưởng nền kinh
tế và góp một lượng hàng hoá cho xuất khẩu. Tuỳ theo lợi thế so sánh của mình, mỗi nước có thể xuất khẩu các
sản phẩm nông nghiệp mà trong đó có một phần là sản phẩm chăn nuôi để thu ngoại tệ hay trao đổi để lấy các sản
phẩm công nghiệp đầu tư lại cho ngành nông nghiệp và các ngành kinh tế khác. Vì thế sự phát triển của ngành
chăn nuôi sẽ ảnh hưởng tới phân bổ và phát triển các ngành sản xuất công nghiệp.
Chăn nuôi không những cung cấp nguồn sản phẩm hàng hoá cho thị trường trong nước và cho xuất khẩu
mà nó còn giúp sử dụng một cách đầy đủ và hợp lí lực lượng lao động nhàn rỗi trong nông nghiệp nông thôn. Do
đặc điểm của sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ cao, hơn nữa lao động trong nông nghiệp lại chiếm một tỉ
trọng khá lớn trong tổng số lao động của nước ta và các nước đang phát triển khác. Lực lượng lao động này có một
thời gian nhàn rỗi quá lớn do tính chất thời vụ trong sản xuất sinh ra. Do đó việc phát triển ngành chăn nuôi đã
giúp tạo công ăn việc làm cho nông dân và giúp họ tăng thu nhập.
+ Đối với ngành nông nghiệp
Đối với sản xuất nông nghiệp chăn nuôi có một vai trò rất quan trọng. Trong sản xuất nông nghiệp thì hai
ngành chính cấu thành nên nó là ngành trồng trọt và chăn nuôi. Hai ngành này có sự liên hệ mật thiết với nhau,
thúc đẩy nhau cùng phát triển.Một nền nông nghiệp muốn phát triển được một cách bền vững và ổn định thì cần
phải có sự phát triển một cách cân đối giữa hai ngành trồng trọt và chăn nuôi. Trồng trọt cung cấp thức ăn cho
ngành chăn nuôi phát triển, mặt khác chăn nuôi cung cấp phân bón, sức kéo cho ngành trồng trọt. Nguồn phân hữu


cơ mà chăn nuôi cung cấp cho ngành trồng trọt có vai trò hết sức quan trọng. Vì thế để có một nền nông nghiệp
bền vững thì không bao giờ được phép coi nhẹ vai trò của ngành chăn nuôi trong sản xuất nông nghiệp.

+ Đối với hộ nông dân
Ở nước ta hiện nay trong nền kinh tế thị trường, hộ nông dân đã được coi là một đơn vị kinh tế tự chủ thì vai
trò của ngành chăn nuôi càng được coi trọng. Một thực tế không thể chối cãi được đó là ngành chăn nuôi chiếm
một vai trò quan trọng trong thu nhập của người nông dân, sản phẩm hàng hoá của nông hộ chủ yếu là sản phẩm
thu được từ quá trình chăn nuôi. Chăn nuôi đã gắn bó mật thiết đối với đời sống của người dân, giúp tận dụng
những sản phẩm dư thừa trong sinh hoạt hàng ngày, tận dụng lao động nhàn rỗi và làm tăng thu nhập, cải thiện bữa
ăn hàng ngày của nông hộ.Từ những phân tích trên cho thấy chăn nuôi có một vai trò rất to lớn không chỉ trong
nông nghiệp mà còn kể cả trong nền kinh tế quốc dân cũng như trong đời sống xã hội. Nó không ngừng đóng góp
một phần đáng kể vào tổng thu nhập quốc dân mà nó còn sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên và
nhân lực, từ đó làm tăng thu nhập cho người lao động góp phần định và cải thiện đời sống cho các hộ nông dân nói
riêng và xã hội nói chung
1.1.3

1.2
1.2.3

Đặc điểm ngành chăn nuôi ở Việt Nam
Sản xuất chăn nuôi Việt Nam chủ yếu tập trung ở các hộ quy mô nhỏ. Chủ yếu là chăn nuôi tận dụng và
sử dụng lao động gia đình. Theo báo cáo của IFPRI, hơn 92% người sản xuất chăn nuôi chỉ sử dụng lao
động của hộ gia đình trong sản xuất chăn nuôi. Tuy nhiên các hộ không chỉ tập trung vào chăn nuôi mà
còn đa dạng hóa các hoạt động trồng trọt và phi nông nghiệp khác.Trong các vùng chăn nuôi ở Việt Nam,
Đông Nam Bộ là nơi tập trung cao nhất các gia trại chăn nuôi gia cầm với quy mô lớn.
Sản phẩm chăn nuôi do các trang trại tạo ra chiếm chưa đến 10% tổng sản phẩm của nghành, 90% còn lại
do các hộ chăn nuôi theo phương thức chăn nuôi truyền thống, tận dụng sản phẩm phụ , lấy công làm lãi.
Chi phí sản xuất chăn nuôi chủ yếu là chi phí thức ăn. Tỷ lệ nuôi gia công hợp đồng ít. Hoạt động, hiệu
quả thú y còn nhiều yếu kém (Cơ sở vật chất, mạng lưới thú y còn nghèo nàn, chăn nuôi chăn thả dễ lây
lan, hệ thống giám sát dịch bệnh kém hiệu quả, ý thức phòng bệnh của người chăn nuôi còn yếu...).
- Cơ sở thức ăn cho chăn nuôi đã có những tiến bộ vượt bậc nhờ những thành tựu khoa học - kĩ thuật. Các
đồng cỏ tự nhiên được cải tạo, các đồng cỏ trồng với các giống mới cho năng suất và chất lượng cao ngày
càng phổ biến. Thức ăn cho gia súc, gia cầm được chế biến bằng phương pháp công nghiệp.

- Trong nền nông nghiệp hiện đại, ngành chăn nuôi có nhiều thay đổi về hình thức (từ chăn nuôi chăn thả,
sang chăn nuôi nửa chuồng trại, rồi chuồng trại đến chăn nuôi công nghiệp) và theo hướng chuyên môn
hóa (thịt, sữa, len, trứng...).
Các yếu tố ảnh hưởng đến ngành chăn nuôi
Các yếu tố tự nhiên
- Thời tiết, khí hậu
Giống như các đối tượng khác của sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi phụ thuộc lớn vào điều kiện tự nhiên,
mỗi vùng khác nhau thì số lượng, chất lượng và tính năng sản xuất chăn nuôi cũng khác nhau. Thời tiết,
khí hậu ảnh hưởng rất lớn đến chăn nuôi, khi di chuyển vật nuôi tới những vùng có khí hậu khác nhau sẽ
làm ảnh hưởng tới sức khỏe của chúng, đặc biệt là sự nhập nội của giống cao sản " nếu chúng không
được sống trong điều kiện thuận lợi sẽ làm giảm sức sản xuất, tăng chi phí thức ăn, giảm chất lượng sản
phẩm, ngoài ra còn giảm khả năng chống bệnh "
Các giống vật nuôi có nguồn gốc từ các nước ôn đới thường không thích nghi tốt với khí hậu ở vùng
nhiệt đới đặc biệt là tính chịu nóng . Khí hậu, thời tiết tác động tới sự hình thành và phát triển của một số
dạng bệnh. Khí hậu nóng khô và khí hậu nóng ẩm thường gây nên những rối loạn quá mức về điều hòa
nhiệt, dẫn đến ngất do nóng, co rút do say nắng, suy kiệt do mất nhiều nước cơ thể. Đối với gia súc nhiều
bệnh truyền nhiễm đã phát sinh và phát triển trong mùa ẩm như: dịch tả, tụ huyết trùng.
- Nhiệt độ
Yếu tố đầu tiên tác động tới cơ thể gia súc là nhiệt độ. Khi nhiệt độ không khí gần bằng nhịêt độ cơ thể,
con vật khó thải được nhiệt mà nó tạo ra và nhiệt độ môi trường lên cao vượt quá khả năng điều hòa của
gia súc thì sẽ dẫn đến rối loạn sinh lý do đó sẽ làm giảm sức sản xuất. Nhiệt độ môi trường làm ảnh đến
trao đổi nhiệt của cơ thể dẫn đến ảnh hưởng đến chức phận của tinh hoàn hay buồng trứng, do đó khi thời
tiết trở lạnh hay nóng lên có thể làm ngưng trễ quá trình sinh tinh và sinh trứng, ở gia súc dẫn đến rối
loạn sinh dục, giảm khả năng sinh sản. Ngoài ra, nhiệt độ còn ảnh hưởng tới kích thước của loài hay
những loài gần nhau. Khí hậu, thời tiết không những ảnh hưởng trực tiếp đến gia súc mà còn tác động đến
sự phát triển của cây cỏ trên đồng cỏ và các nguồn thức ăn thô xanh khác, gián tiếp ảnh hưởng đến cơ thể
vật nuôi.
- Nước
Nước có vai trò quan trọng đối với các sinh vật. Chất lượng nước xét trên đặc tính hóa học là độ pH và độ
mặn nó ảnh đến vật nuôi. Độ pH trong nước làm thay đổi tính thẩm thấu do đó làm ảnh đến chức năng



bài tiết và quá trình sống của gia súc, độ pH trong môi trường nước làm hưng phấn hoặc ức chế hoạt động
của 6 hệ thần kinh, làm thay đổi cân bằng của hệ thống hô hấp. Nước được coi là một trong những điều
kiện mà sức khỏe và sức sản xuất của vật nuôi đều phải phụ thuộc.
1.2.2 Nhóm yếu tố các điều kiện kinh tế xã hội .
- Vốn: Đây là vấn đề bức xúc nhất hiện nay làm ảnh hưởng đến ngành chăn nuôi. Ngành chăn nuôi nói
chung cần phải có nguồn vốn đầu tư con giống, chuồng trại tốt để có thể mang lại năng suất và lợi nhuận
cao cho người chăn nuôi.. Tuy nhiên người dân chăn nuôi còn lạc hậu, nghèo nàn không đủ điều kiện để
đầu tư nguồn vốn cho việc lựa chọn giống vật nuôi và xây dụng chuông trại hợp lý.
- Chính sách kinh tế: Các cấp chính quyền cần phải có một sự chỉ đạo đúng đắn và quan tâm sâu sắc đến
đời sống của người dân cải thiên cuộc sống và giảm bớt thành phần đói nghèo trong xã hội. Tùy theo điều
kiện tự nhiên của từng vùng mà phát triển ngành nghề thích hợp
- Thị trường tiêu thụ: Đây là yếu tố hàng đầu cần được quan tâm, sản phẩm của chúng ta chưa đi vào thi
trường thế giới bởi lẽ chất lượng thấp chưa cạnh tranh được với các nước khác. Chính vì vậy mà cần có
một thị trường tiêu thụ rộng lớn để ngành chăn nuôi có thể phát triển hơn nữa.
- Giá cả: đây cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới ngành chăn nuôi. Giá cả thay đổi làm thay đổi
số lượng chăn nuôi của người dân
Ngoài ra còn một số yếu tố cụ thể quan trọng làm ảnh hưởng đến ngành chăn nuôi như: nguồn thức ăn,
dịch bệnh

1.2.3 Nhóm các yếu tố kỹ thuật.
- Con giống : Con giống là yếu tố quan trọng tác động trực tiếp đến năng suất chăn nuôi, con giống tốt thì
năng suất cao và ngược lại.
- Dinh dưỡng và vấn đề thức ăn:Dinh dưỡng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới khả năng sản xuất của
ngành chăn nuôi.
1.3 Khái niệm phân vùng và các dạng phân vùng
1.3.1 Khái niệm phân vùng
Phân vùng là phân chia lãnh thỗ, vùng biển ra thành các vùng hay các phần, được phân biệt bởi mức độ
đồng nhất bên trong nó. Những dấu hiệu được sử dụng để phân vùng có thể khác nhau về đặc điểm, theo

mức độ rộng hẹp của dấu hiệu nào đó về phân bố hoặc theo mục đích phân vùng. Thời kỳ đầu nghiên cứu
lãnh thỗ thường phải phân vùng, từ đó cho phép sử dụng hợp lý tài nguyên và lao động.
• Nguyên tắc phân vùng
Theo Lê Bá Thảo phân vùng dựa trên 3 nguyên tắc:
- Về tính đồng nhất tương đối, thường được áp dụng để ohaan định các vùng- cảnh quan, vùng tự
nhiên hay vùn văn hóa lịch sử.
- Sự khai lợi và trình độ phát triển kinh tế - xã hội, trong đó sự gắn kết của vùng được thể hiện thông
qua vai trò của hệ thống các đô thị các cấp, quan trọng nhất là của thành phoos có sức hút và của vùng
ảnh hưởng lớn nhất, coi như cực tạo vùng.
- Tính hiện hữu của các điều kiện đảm bảo sự quản lý lãnh thổ
1.3.2 Các dạng phân vùng
Có các dạng phân vùng thường gặp như: phân vùng biển, phân vùng đất (phân vùng thổ nhưỡng),
phân vùng khí hậu, phân vùng cảnh quan... Sau này phân vùng đi vào chi tiết hơn như phân vùng địa
lý, phân vùng sinh thái phân vùng các kiểu thảm thực vật, phân vùng kinh tế, phân cgia các tiểu vùng
trong một vùng lớnhay một đơn vị hành chính, tự nhiên nào đó...
- Phân vùng địa lý : là hệ thống phân chia bề mặt trái đất, cơ sở đẻ phân chia và nghiên cứu là tổ hợp
các dấu hiệu bên trong và rất đặc trưng cho riêng nó – thiên nhiên. Người ta có thể chia theo từng tổ
hợp riêng (như địa hình, khí hậu, đất...) hoặc phân chia theo cả một tập hợp các yếu tố (phân vùng
cảnh quan).
- Phân vùng khí hậu: Về tự nhiên trái đất được chia thành 6 châu lục, mỗi châu lục có những đặc điểm
về khí hậu khác nhau. Trong mỗi châu lục lại có sự phân miền khí hậu. Phạm Ngọc Toàn, Phạm Tất
Đắc (1993) đã phân chia lãnh thỗ Việt Nam thành 3 miền khí hậu lớn: Miền khí hậu phía Bắc, MIền
khí hậu Đông Trường Sơn và miền khí hậu phia Nam. Ngoài ra còn có thêm một miền khí hậu phụ
nữa là miền khí hậu Biển Đông.
- Phân vùng thổ nhưỡng: được coi là cơ sở khoa học đẻ phân vùng quy hoạch nông nghiệp đồng thời
tạo tiền đề để phân vùng sinh thái nông nghiệp. Phân vùng thổ nhưỡng cũng là một căn cứ quan trọng
để đánh giá các đặc điểm và sự phân hóa về mặt lãnh thổ của thổ nhưỡng trong các mối quan hệ chặt
chẽ với các thành phần tự nhiên phục vụ cho nghiên cứu sự phân hóa của tự nhiên và phân vùng địa lý
tự nhiên.
- Phân vùng sinh thái thảm thực vật

Trên trái đất khí hậu thay đổi từ lạnh sang nóng, từ khô sang ẩm. Mỗi loại hình lớn của nó có thành
phần thực vật, động vật đặc trưng – người ta gọi nó là các biomes. Biomes đó là hệ sinh thái xâm
chiếm vùng rộng lớn có sự guống nhau về khí hậu và sinh vật. Cũng có thể coi biomes đó là hệ sinh
thái mà ở đó có một số nơi sống cùng tồn tại.


1.3

Ở Việt Nam, theo phân hóa độ cao so với mặt biển, Thái Văn Trừng (1978) đã phân chia thảm thực
vật thành 2 nhóm chính: nhóm các kiểu thảm thực vật nhiệt đới vùng thấp và vùng có độ cao trung
bình nhỏ hơn 700m (ở miền Bắc), nhỏ hơn 100m ( ở miền Nam); nhóm các kiểu thảm thực vật vùng
núi có độ cao lớn hơn 700m và lớn hơn 1000m (ở miền Nam)....
Điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam
1.3.1 Điều kiện tự nhiên.
1.3.1.1 Vị trí:
Huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, có tọa độ 15025’ - 150 45’ vĩ độ Bắc, 108007’ - 108030’ kinh
độ Đông.
Phía Nam giáp thành phố Tam Kỳ, huyện Tiên Phước, huyện Phú Ninh.
Phía Tây giáp huyện Hiệp Đức và huyện Tiên Phước.
Phía Bắc giáp huyện Duy Xuyên và huyện Quế Sơn.
Phía Đông giáp biển Đông.
1.3.1.2 Khí hậu, thời tiết.
Huyện Thăng Bình nằm trong vùng nhiệt đới ẩm gió mùa, thuộc vùng khí hậu duyên hải Trung Trung bộ,
chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm.
1.3.1.3 Tình hình thuỷ văn.
Trên địa bàn huyện có hai con sông chảy qua, đó là con sông Trường Giang và sông Ly Ly. Sông Trường
Giang có chiều dài 25 km, chịu tác động triều cường của hai cửa biển là Cửa Đại và cửa An Hoà nên gây
chua mặn một diện tích lớn đất sản xuất nông nghiệp ở 7 xã vùng Đông của huyện. Sông Ly Ly có độ dốc
lớn, chỉ có nước nhiều trong mùa mưa, mùa khô lưu lượng rất thấp.
Địa hình có độ dốc nghiêng từ Tây sang Đông và bị chia cắt bởi sông, suối, núi đồi, cồn cát. Độ cao từ 20m

đến 300m so với mặt nước biển.
1.3.2 Điều kiện kinh tế - xã hội.
1.3.2.1 Địa hình đất đai và tình hình sử dụng đất.
Tổng diện tích tự nhiên: 38.560,24 ha, trong đó diện tích đất nông lâm nghiệp toàn huyện là 24.986,88ha,
diện tích đất trồng lúa chủ động nước 7.390ha.
Địa hình của huyện có độ dốc lớn từ Tây sang Đông và được phân chia thành 3 vùng.
Vùng Tây (vùng đồi núi thấp) giáp với các huyện miền núi của tỉnh (Hiệp Đức, Tiên Phước) mang đặc điểm
của vùng bán địa sơn, bao gồm 7 xã: Bình Quế, Bình Phú, Bình Chánh, Bình Định Nam, Bình Định Bắc,
Bình Trị, Bình Lãnh, có địa hình tương đối phức tạp, phần lớn đất được hình thành tại chổ và bao gồm các
loại đất: Fralít vàng đỏ, đá mẹ Granít, Gnai. Diện tích đất canh tác bình quân đầu người của vùng
1.047m2/người. Diện tích đất bằng và chưa sử dụng 2.530 ha. Hiện nay đang đưa vào đề án trồng rừng. Điều
kiện cơ sở hạ tầng, giao thông, thuỷ lợi còn gặp nhiều khó khăn và đang dần dần khắc phục.
Vùng Trung (vùng đồng bằng): Có địa hình tương đối bằng phẳng, hầu hết là đất xám, đất bạc màu và phù sa
cổ. Vùng Trung có 7 xã, thị trấn: Bình Nguyên, Bình Quý, Thị trấn Hà Lam, Bình Phục, Bình Tú, Bình
Trung, Bình An.
Vùng Đông (vùng đất cát ven biển): hầu hết là đất cát, cát pha, thịt nhẹ, đất cát ven biển chiếm tỷ lệ tương
đối lớn. Vùng Đông có 8 xã: Bình Dương, Bình Giang, Bình Đào, Bình Triều, Bình Minh, Bình Sa, Bình
Hải, Bình Nam.
Chính vì những đặc điểm tự nhiên, điều kiện thổ nhưỡng, nước tưới và tập quán canh tác của mỗi vùng đã
chi phối và ảnh hưởng sâu sắc đến việc bố trí cây trồng, con vật nuôi khác nhau của huyện.
1.3.2.2 Dân số và lao động.
Thăng Bình có 48.716 hộ với 180.912 nhân khẩu, 88.580 lao động, trong đó lao động Nông - Lâm - Thuỷ
sản: 66.072 người, lao động sản xuất nông nghiệp là chủ yếu (chiếm khoảng 75%), các ngành công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ... còn ít phát triển chưa giải quyết hết được nguồn lao động, đây là
áp lực lớn về giải quyết việc làm và các vấn đề khác về xã hội.
(Nguồn NGTK năm 2013)
1.3.2.3 Thực trạng phát triển kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất:
a. Kinh tế:
Cơ cấu kinh tế Nông nghiệp - CN-TTCN và TM-DV đến cuối năm 2013 là 25,7% - 34,2% - 40,1%; tốc độ
tăng trưởng 22%.

Tỉ lệ hộ nghèo năm 2013 còn 11,2%.
Trong sản xuất nông nghiệp trồng trọt là chủ yếu, chăn nuôi chiếm 25,04% tỷ trọng ngành nông nghiệp.
Trong trồng trọt cơ cấu lúa - lạc - sắn - khoai - ngô - rau màu, diện tích 15.570 ha. Tổng sản lượng lương
thực cây có hạt năm 2013 là: 86.825 tấn. Mỗi vụ đều có quy hoạch cánh đồng sản xuất giống lúa cấp 1 để
phục vụ sản xuất tại chổ. Toàn huyện có 33 cánh đồng mẫu, trong đó 06 xã làm điểm có 12 cánh đồng mẫu,
diện tích 573,25 ha.
b. Hình thức tổ chức sản xuất:
Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp: 19 HTX, có 01 HTX dùng nước chuyên khâu thuỷ lợi Hợp tác xã dùng
nước kênh N16 liên xã Bình Chánh, Bình Quý, Bình Tú được thành lập năm 2012 phục vụ 2 khu tưới mẫu


theo đề án hỗ trợ thuỷ lợi Việt Nam (WRAP), bước đầu mới hình thành hoạt động có hiệu quả.


CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Tôi tiến hành điều tra nghiên cứu về hiện trạng chăn nuôi trên địa bàn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.
Trên cơ sở điều tra về thành phần loài, dạng sống và những thuận lợi khó khăn về chăn nuôi của một số hộ
được chọn điều tra, kết hợp với điều tra về số liệu thống kê của huyện để phân vùng chăn nuôi hợp lý ở
huyện Thăng Bình
2.2 Thời gian nghiên cứu
Đề tài được bắt đầu nghiên cứu vào tháng 2 đến tháng 4 năm 2015
2.3 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp chọn điểm nghiên cứu và chọn hộ điều tra
- Phương pháp thu thập tài liệu
- Phương pháp phân tích đánh giá: thống kê, chuyên gia chuyên khảo.


CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
3.1 Thực trạng ngành chăn nuôi của huyện Thăng Bình

3.1.1 Tình hình phát triển chăn nuôi
Thăng Bình những năm gần đây mặc dù dịch bệnh gia súc, gia cầm liên tục xảy ra nhưng tổng đàn vẫn tương đối
ổn định về số lượng, biến động không lớn và đã có hướng cải thiện về chất lượng (tỉ lệ bò lai từ 23% năm 2010 nay
đã tăng lên hơn 46,9%/ tổng đàn), tuy nhiên về tổng đàn bò có giảm so với cùng kỳ các năm.
Hình thức chăn nuôi gia đình từng bước được cải tiến theo hướng nuôi bán công nghiệp, có đầu tư, có chuồng trại
kiên cố cho từng loại vật nuôi.
Các xã vùng Đông có kinh nghiệm và lợi thế để phát triển nuôi heo nái sinh sản, sản xuất heo sữa. Các xã vùng
Trung phát triển nuôi heo thịt, nuôi trâu, nuôi vịt đàn, gà đẻ công nghiệp. Các xã vùng Tây có điều kiện để phát
triển trồng cỏ chăn nuôi bò và nuôi bò nhốt bán thâm canh.
Những năm gần đây đang hình thành một số mô hình chăn nuôi heo có hiệu quả tại các xã như Bình Chánh, Bình
Quý, Bình Trung, Bình Tú, Bình Nguyên, Bình Đào…; nuôi bò nhốt bán thâm canh ở Bình Chánh, Bình Phục,
Bình Giang, Bình Quý, Bình Lãnh; trang trại nuôi gà đẻ ở Bình Nguyên, Bình An; nuôi vịt ở Bình Giang, Bình
Triều, Bình Chánh, Bình An…
Từ chăn nuôi nhỏ lẻ nông hộ đến nay đã bước đầu hình thành và phát triển chăn nuôi theo hướng sản xuất
hàng hóa. Tuy các gia trại chưa đủ tiêu chí để công nhận trang trại (theo Thông tư 27 của Bộ NN&PTNT), nhưng
đã có nhiều mô hình chăn nuôi khá, đàn heo thịt 30 - 50 con/ hộ, đàn bò 10 - 15 con/ hộ, đàn gia cầm 1.000 - 3.000
con/ hộ; sản phẩm chăn nuôi đã được xuất bán ra các địa bàn trong và ngoài tỉnh, tăng thu nhập đáng kế cho người
chăn nuôi. Nhận thức của người dân trong việc phát triển kinh tế chăn nuôi đã được chú ý đầu tư, nhất là phát triển
bò lai, lợn hướng nạc; hiệu quả thu được từ chăn nuôi ngày càng cao.
Giá trị ngành chăn nuôi năm 2013 là 446 tỉ đồng (theo giá gốc 2010), đạt 25,04% giá trị cơ cấu ngành nông
nghiệp.
3.1.1.1 Chăn nuôi trâu, bò:
Năm 2013 đàn trâu có 9.050 con, tổng đàn trâu tương đối ổn định qua các năm. Với lợi thế tự nhiên có đất
hoang, đồng ruộng sau vụ thu hoạch, bãi thả, lượng rơm dự trữ từ sản xuất lúa, do vậy nông dân có điều kiện chăn
nuôi để ổn định đàn trâu.
Tổng đàn bò: 18.100 con, trong đó bò lai 8.500 con (tỉ lệ 46,9%/ tổng đàn); số bò đực giống lai do chương
trình khuyến nông của tỉnh và khuyến khích nông nghiệp của huyện hằng năm hỗ trợ hiện còn 18 con và hơn 30
con của người dân tự mua nuôi làm giống tại các địa phương.
Chương trình cải tạo đàn bò từng bước đem lại hiệu quả kinh tế cho người chăn nuôi nhờ nâng cao tầm vóc
và khả năng tăng trọng, vì vậy đã làm thay đổi tâm lý, tập quán chăn nuôi của nông dân.

Tranh thủ sự hỗ trợ của các chương trình dự án chuyển giao những tiến bộ KHKT mới trong chăn nuôi như:
Ủ men sinh học làm thức ăn, mô hình vổ béo bò, ủ rơm bằng Urê, phát triển trồng cỏ để chăn nuôi bò tại chuồng
được Trạm Khuyến nông, Hội nông dân, Hội phụ nữ, ở các xã, thị trấn triển khai đã được nông dân đồng tình
hưởng ứng bước đầu đem lại hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi trâu bò.
3.1.1.2 Chăn nuôi heo:
Năm 2013 tổng đàn heo có giảm so với các năm gần đây do giá cả thị trường không ổn định, giá thức ăn
tăng liên tục, tổng đàn hiện có 67.300 con, trong đó heo nái 26.000 con chiếm 38%/ tổng đàn, (heo nái ngoại, nái
lai F1, F2 là 1.900 con, heo nái Móng cái 24.100 con).
Đàn heo nái người dân đang nuôi để đáp ứng nhu cầu heo sữa cho thị trường thời gian qua chủ yếu là heo nái
Móng Cái nhưng đã qua nhiều năm nuôi dưỡng, chọn lọc bằng nguồn giống tại địa phương nên chất lượng đàn
giống đã dần bị thoái hóa do đồng huyết, bị chết do dịch tai xanh nên người dân đang có nhu cầu về con giống tốt
để tái lập đàn mỗi khi hết dịch và cải tạo lại đàn heo giống theo hướng heo nạc.
Ngoài ra, để đáp ứng nhu cầu thị trường và tăng hiệu quả kinh tế cần tiếp tục tuyên truyền, khuyến cáo người chăn
nuôi thực hiện chương trình nuôi heo hướng nạc bằng các biện pháp cải tạo giống như nuôi heo nái lai 2 máu F 1,
F2 và nuôi heo nái ngoại để sản xuất đàn heo giống nuôi thịt có tỉ lệ nạc cao.
3.1.1.3 Tình hình chăn nuôi gia cầm:
Chăn nuôi gia cầm phát triển về số lượng tổng đàn; nhiều hộ gia đình chăn nuôi đã chuyển tập quán chăn
nuôi từ nuôi quảng canh sang hướng tập trung bán thâm canh ngày càng nhiều, qui mô từ 300 - 500 con trở lên,
(vừa cho ăn thức ăn công nghiệp vừa tận dụng thức ăn sẳn có ở địa phương) do đó rút ngắn được thời gian nuôi,
tăng số lứa nuôi/năm, nên trọng lượng thịt xuất chuồng tăng cao, song để đảm bảo về môi trường và an toàn dịch
bệnh cần phải có địa điểm quy hoạch cách ly khu vực dân cư để tổ chức chăn nuôi.


Chăn nuôi vịt đàn thời vụ phổ biến tại các xã vùng Trung của huyện như Bình An, Bình Trung, Bình Tú, Bình
Phục, Bình Nguyên và các xã vùng Đông dọc sông Trường Giang như Bình Giang, Bình Dương, Bình Đào, Bình
Hải, Bình Nam.
Tổng đàn gia cầm huyện Thăng Bình có hơn 500.000 con (trong đó gà 300.000 con, vịt 150.000 con và gia cầm
khác khoảng 50.000 con ).
3.1.2 Cơ sở vật chất nguồn lực của chăn nuôi:
Trên địa bàn huyện có 1 trại giống heo của Trung tâm giống Nông - Lâm nghiệp Quảng Nam nên thuận lợi

cho việc giao lưu, tiếp cận con giống tốt và nguồn tinh lỏng phục vụ dẫn tinh cho đàn nái hiện có trên địa bàn
huyện.
Toàn huyện có 2 trại heo đực giống chuyên sản xuất tinh lỏng (hộ ông Phan Công Toàn tại xã Bình Nguyên,
bà Nguyễn Thị Bích Ngọc tại xã Bình Quý) và có hơn 200 con heo đực giống rãi rác ở các xã, thị trấn đã đáp ứng
được nhu cầu phối tinh cho đàn heo nái tại các địa phương.
Công tác cải tạo đàn bò, toàn huyện hiện có 29 cán bộ dẫn tinh viên đã góp phần rất lớn vào chương trình cải
tạo đàn bò cho các địa phương. Phong trào trồng cỏ chăn nuôi trâu, bò còn ít phát triển, tại một số xã như: Bính
Quý, Bình Lãnh, Bình Chánh, thị trấn Hà Lam …trồng cỏ với diện tích hơn 10 ha, phần nào giải quyết được tình
trạng khan hiếm thức ăn về mùa Đông và mùa khô hạn.
Thực hiện dịch vụ thú y trọn gói: Nhằm chủ động công tác phòng, chống dịch bệnh cho vật nuôi, ngân sách
huyện đã trang bị cho các địa phương 14 tủ lạnh để bảo quản vắc xin phục vụ công tác tiêm phòng.
Hoạt động công tác chăn nuôi thú y Thăng Bình với 06 cán bộ trạm Thú y, 01 cán bộ trạm Khuyến nông, 02
cán bộ phòng NN&PTNT và 22 cán bộ Thú y cơ sở có nghiệp vụ chuyên môn từ trung cấp trở lên, đã tích cực chỉ
đạo công tác chăn nuôi - thú y, bảo vệ an toàn dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm.
3.1.3 Tình hình sản xuất, tiêu thụ, chế biến sản phẩm chăn nuôi:
Trên địa bàn huyện chưa có cơ sở chế biến sản phẩm chăn nuôi và lò giết mổ tập trung, việc giết mổ chủ yếu
ở các điểm giết mổ gia súc tư nhân. Mức tiêu thụ các sản phẩm thịt trâu, bò, heo trên địa bàn huyện không lớn; một
số sản phẩm heo sữa chưa đảm bảo tiêu chí vệ sinh thú y nên chưa đáp ứng yêu cầu thị trường nội địa và xuất khẩu.
Chăn nuôi heo trong những năm qua có chiều hướng phát triển, song sản phẩm thịt chưa đáp ứng nhu cầu
của thị trường (tỉ lệ nạc còn thấp), bên cạnh đó sản phẩm chăn nuôi còn được các thương lái vận chuyển từ các nơi
khác đến tiêu thụ do vậy thị trường không ổn định, giá cả bấp bênh.
3.2 Thành phần và sự phân bố các loài vật nuôi trên địa bàn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam
Về thành phần gia súc có:
- Bò : + Cày kéo
+ Bò lai Sind
+ Bò sữa
+ Bò cái sữa

- Trâu
- Lợn : + Lợn nái

+ Lợn thịt
+ Lợn sữa
Về thành phần gia cầm có:
- Gà
- Vịt, ngan, ngỗng
Về chăn nuôi khác có:
- Thỏ
- Dê
- Ong


- Đà điểu
Nhìn chung các loài vật nuôi của huyện phân bố tương đối hợp lí nhưng có sự chênh lệch tương đối cao giữa
các xã trong huyện do điều kiện tự nhiên và nguồn thức ăn.....
3.3 Hiện trạng cơ cấu đàn vật nuôi theo các địa bàn ở huyện Thăng Bình, tinh Quảng Nam
3.3.1 Một số nghiên cứu điều tra của một số hộ chăn nuôi thuộc huyện Thăng Bình
* Điều tra trang trại nuôi dê của chú Đặng Văn Phương trú tại thôn Tân An, xã Bình Minh

Hình 1: đồng cỏ chú Phương thả dê ăn ở thôn Tân An, xã Bình Minh


Hình 2: Trai nuôi dê của chú Phương ở thôn Tân An, xã Bình Minh

Hình 3: Dê ở trại chú Phương đang mang thai
Với quy mô nuôi khoảng hơn 100 con mỗi năm (đã tính dê con) chú đã xây dựng trang tại của mình ngay
trên đồng cỏ ở gần nhà.Mỗi năm gia đình chú thu lại lợi nhuận khoảng hơn 100 triệu. Với kinh nghiệm hơn 10 (kể
từ năm 2004 ) chú đã chia sẽ một số đặc điểm và kinh nghiệm nuôi dê của mình:
- Về thức ăn: chủ yếu ăn cỏ, rau lang, có nhiều lạo cỏ động vật khác ăn không được nhưng dê vẫn có thể ăn
được. Một ngày, thả dê đi ăn 2 lần và ăn không quá 8 tiếng. Dê khi đi ăn thường đi theo đàn và thường đi theo
hướng mặt trời lặn để dễ nhớ đường về.

- Về giống: từ 1 đến 2 con đực giống, và cứ khoảng 1 đến 2 năm đổi giống 1 lần để khỏi xảy ra trùng huyết
- Về sinh đẻ: khoàng từ 8 tháng đến 1 năm con mẹ đẻ 1 lứa khoảng từ 1 đến 2 con, rất hiếm có trường hợp
đẻ 3 vì dê mẹ chỉ có 2 vú đẻ 3 sẽ khó nuôi con. Khi đẻ dê mẹ có thể tự lo cho mình được mà không cần tới củ trại
- Về xuất chuồng: khoảng trên 25kg thì bán, mỗi kí 130 nghìn (có thể dao động do nhu cấu sử dụng của
khách hàng, giá cả thị trường... )
- Về thích nghi và dịch bệnh: dê rất ít thích nghi với trời lạnh, phát triển tố trong trời nắng. Trời lạnh dê đẻ ít
đạt, dê con khả năng chết là 10 đến 15%. Ngoài ra mùa mưa dê dễ mắc nhiều bệnh và chết. Nếu dê ăn phải thức ăn
bị sương sẽ rất dễ gây tiêu chảy thương hàn, êcoli..... Nếu trường hợp phát hiện dê bị bệnh với một số triệu chứng
thường gặp như lười ăn, mệt mỏi hay nằm...thì phải tách riêng để theo dõi và điều trị để tránh lây lan cho những
con khác.
- Thuận lợi: điều kiện thời tiết khí hậu dễ chịu ấm áp
- Khó khăn: điều kiện về đất đai và cỏ tự nhiên hạn hẹp dẫn đến nguồn thức ăn không kịp cung cấp cho dê,
nên số lượng nuôi không được nhiều.


* Điều tra chăn nuôi gia đình chú Trần Thanh Minh trú tại đội 13, Vân Tiên, xã Bình Đào

Hình 4: Chú Minh với trâu mẹ và trâu con ở trại của mình

Hình 5: Trại nuôi trâu của chú Minh


Hình 6: Chú Minh với trại heo nái của mình

Hình 7: Trại heo nái của chú Minh


Với quy mô nuôi khoảng từ 10 đến 13 con trâu và 15 con heo nái mỗi năm chú xây dựng trại nuôi ngay
trong vườn nhà của mình. Mỗi năm gia đình chú thu được lợi nhuận khoảng 120 triệu nuôi trâu và 80 triệu heo
con. Với kinh nghiệm 10 năm nuôi trâu và 40 năm nuôi heo chú đã chia sẽ một số đặc điểm và kinh nghiệm:

+ Trâu:
- Thức ăn: chủ yếu là cỏ và rơm khô, khi đi ăn thường đi theo bầy
- Sinh sản: từ lúc thả đực khoảng 11 tháng trâu đẻ, sau 1 tháng rưỡi cho thả đực lại. Chu kì kinh nguyệt của
trâu là 20 ngày và có kinh trong 2 ngày. Mỗi năm trâu đẻ 1 con.
- Xuất chuồng: trâu ngé khoảng 8 tháng xuất chuồng khoảng đạt từ 70- 80 kg
- Thích ngi và dịch bệnh: Trâu thích ngi với thời tiết ấm áp (mùa xuân phát triển tốt nhất), lạnh chậm phát
triển do ít cỏ... Trời lạnh trâu dễ mắc một số bệnh như tổ huyết trùng, lở mồm long móng... một năm 2 kì chích
phòng những bệnh này
+ Heo nái:
- Thức ăn : ăn chủ yếu cám + rau, thân chuối, ăn chất xơ là chủ yếu
- Sinh sản: trung bình mỗi năm heo đẻ từ 2 đến 3 lứa, mỗi lứa từ 10 đến 12 con. Chu kì kinh nguyệt của heo
cũng 20 ngày và có kinh từ 3-5 ngày. Heo mang theo 3 tháng 3 tuần 3 ngày heo đẻ.
- Xuất chuồng: heo con khoảng được 25 ngày thì bán, mỗi con khoảng được 300 nghìn (có thể dao động do
nhiều điều kiện)
- Thích ngi và dịch bệnh: heo khó thích nghi với trời lạnh vì trời lạnh heo dễ mắc một số bệnh như tổ huyết
trùng, lỡ mồm long móng... mỗi năm chích phòng 2 lần. Lúc bện heo thường bỏ ăn, 2 tai nóng, khi phát hiện phải
tách riêng đẻ chăm sóc cà điều trị


* Điều tra chăn nuôi vịt của gia đình chị Trần Thị Thanh Tuyền đội 10 Vân Tiên, xã Bình Đào

Hình 8: Hình ảnh chị Tuyền với đàn vịt của mình

Hình 9: Đàn vịt của chị Tuyền
Với quy mô khoảng 1000 nghìn con mỗi đợt nuôi, chị thả vịt ở những ô hoặc kênh gần nhà hay ở ruộng. Mỗi
năm 3 đợt gia đình thu lại lợi nhuận khoảng triệu. Với kinh nghiệm 16 năm nuôi vịt chị tuyền chia sẽ một số đặc
điểm và kinh nghiệm:
- Thức ăn: chủ yếu là bột, vịt 1 tháng dặm thêm lúa



- Thích nghi và dịch bệnh: Trời mát vịt phát triển tốt, trời mưa cần ún thuốc ngừa ỉa, cảm..., trời nắng quá
uống xê vitamin. Mỗi đợt vịt chích 3 đợt thuốc: dịch tả, kháng thể, tổ huyết trùng eecoli..., mỗi đợt vịt 1000 con thì
có khoảng 100 con chị chết chủ yếu nguyên nhân là do vịt con mới nhập lạ nước dẫn tới ỉa phân trắng, không ngừa
kịp dẫn tới chết. Đặc biệt vào khi có gió bấc vịt con không thể chịu được
- Xuất: Trung bình nuôi được 3kg khoảng 45 ngày thì bán
- Kinh nghiệm: để phát hiện vịt bệnh chị tuyền chia sẽ một số kinh nghiệm để nhận biết. Khi vịt bị bệnh
thường bỏ ăn, chân bị khô ỉa, khẹc, khi cho ăn con nào không ăn tách riêng đứng vòng ngoài, vịt buồn thì tách ra
khỏi đàn và điều trị
* Điều tra trại nuôi heo thịt của chị Trương Thị Bảy ở thôn Hà Bình, xã Bình Minh

Hình 10: Hình ảnh chị Bảy với bầy heo của mình

Chị nuôi heo đã được 12 năm mỗi năm thường nuôi khoảng 100 con. Chị cho heo ăn chủ yếu là hèm, bột và
cám. Vào mùa nắng heo phát triển tốt hơn, mùa lạnh heo lâu lớn. Mỗi con trung bình khoảng từ 60 – 70kg thì bán.
Đặc biệt vào trời nắng heo hay bị ỉa chảy nên cần chú ý và điều trị kịp thời. Mỗi năm chị thu lại lợi nhuận khoảng
30- 40 triệu. Chị còn chia sẽ vì nuôi heo đòi hoier có nguồn vốn nhiều và liên tục trong suốt quá trình nuôi, tiền
thức ăn cũng nhiều nên lợi nhuận cũng thấp.
*Điều tra chăn nuôi bò giống lai của gia đình chú Trần Quốc Trưởng trú tại đội 13 Vân Tiên, Bình Đào


Hình 11: Hình ảnh chú Trưởng bên trại bò giống lai của mình

Hình 12: Trại bò giống lai của chú Trưởng
Đây là người đặc biệt hơn với 20 năm kinh nghiệm nuôi bò giống lai. Hằng năm gia đình chú thu được hơn
100 triệu . Chú có một số chia sẽ về kinh nghiệm của mình:
- Về thức ăn: ăn cỏ, mùa mưa cho ăn rơm khô, chuối, thức ăn đôi khi có trộn cám để khỏi nhàm
- Về giống: Chú cho biết cần lấy giống ở nơi tin tưởng và có nhiều kinh nghiệm. Cứ 1- 2 năm đổi giống một
lần để tránh trùng huyết.
- Sinh sản và xuất chuồng: Bò lai 9 tháng 20 ngày sinh khác với bò cỏ 9 tháng 10 ngày sinh. Bò lai khó đẻ
hơn bò cỏ nên khi đẻ cần người đỡ đẻ. Bò lai 6 tháng tuổi bán được 18 đến 20 triệu 1 con. Ngoài ra chú con cho bò

lai phối với bò khác, mỗi con phối thu thêm được 200 nghìn.


- Thích nghi và dịch bệnh: bò giống thích nghi với mùa nắng ấm, mùa lạnh khó thích nghi hơn.
Chú Trưởng còn chia sẽ một số kinh nghiệm cho người dân cách điều trị khi bò bị lở mồm long móng. Chú
cho biết: “ Có một đợt bò nhà chú bị lỡ mồm long móng hết, chú phát hiện nhưng không điều trị bằng thuốc tây mà
chú rửa sạch nền của chuông trại, cho chân bò nhúng vào giấm, mồm bị lỡ thì chú lấy chanh hoặc khế bôi vào
miệng. Làm vài ngày như vậy bò nhà chú hết ngay rất hiệu quả. Chú đã chia sẽ với hàng xóm áp dụng thử cũng
thấy hiệu quả hơn điều trị bằng thuốc...”. Khi bò bị ngộ độc thức ăn do thuốc phun cây trồng bên ngoài, nếu không
chữa kịp thời rất dễ dẫn đến bệnh đường ruột.
- Khó khăn:
+ Cỏ hiếm, rất ít đồng chăn hoặc tới khi đông xạ thì không có nơi để chăn thả bò.
+ Có nhiều muỗi, ruỗi hút máu và truyền bệnh cho bò nên chú đã cũng có kinh nghiệm là làm chuồng cao
giữ độ thoáng mát, ấm cho bò. Ngoài ra từ cái khó khăn như vậy thì chú đã nảy ra thêm ý tưởng giăng mùng cho
chuồng bò và chế tạo ra dụng cụ bắt muỗi cực kì hiệu quả và được người dân dùng nhiều ( chú lấy tấm vải to cùng
với 1 vành sắt may lại tạo thành mô hình 1 đầu kín 1 đầu có viền sát để hở. Sau đó chú đặt ở đầu hở 1 cái bóng đèn
rất sáng, phía xa trước đầu hở để một kais quạt bự bật số lớn) chỉ đơn giản nhưng nó đã giúp chú bắt được rất nhiều
muỗi giảm dịch bệnh cho bò.
*Điều tra chăn nuôi bò cỏ gia đình chú Trương Công Tự thị trấn Hà Lam

Hình 13: Hình ảnh chú Tự với trại bò cỏ của mình
Mỗi năm anh nuôi khoảng 6 con, bò con vài tháng thì bán được khoảng từ 12- 13 triệu. Mỗi năm anh thu
được khoảng 80 triệu. Anh chỉ nuôi bò cái và cho thả đực. Trong quá trình chăn nuôi thì anh cũng gặp nhiều khó
khăn do không có đồng chăn, do ở thị trấn nên đồng chăn ở xa nhà quá nên bất tiện. Cỏ thì hiếm và ít.


3.3.2 Hiện trạng cơ cấu đàn vật nuôi trên địa bàn huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam

Bảng 1: Tổng hợp điều tra cơ cấu đàn trâu bò trên địa bàn huyện Thăng Bình, Quảng Nam (năm 2014)
Tổng

đàn
Đơn vị xã trâu,
bò(con
)
BìnhAn
2160

Tổng
Trong đó
đàn bò Bò lai
(con)
Tổng
Cái SS
số

Đực
giống

768

232

161

1

2

Bình
Trung


1,742

565

319

3

Bình Tú

2,026

733

4

TTHà
Lam

912

5

Bình
Nguyên

879

6

7

ST
T
1

Bò thịt

Bò địa phương
Tổng
Cái SS
số

Bò thịt

Tổng
đàn
trâu

70

536

112

424

1392

59


260

246

170

76

1177

397

135

262

336

209

127

1293

730

371

47


324

359

198

161

182

724

342

76

266

382

261

121

155

Bình Phục 1,155

940


445

135

2

308

495

198

297

215

Bình Quý

2,016

343

3

861

809

502


307

1251

36

1

572

431

107

324

154

119

2

474

569

83

486


165

3,267

1,207
8
9

B
Định 1,194
Bắc

1,040

609

B
Định 1,329
Nam

1,164

595

10

Bình Trị

791


447

98

1

348

344

212

132

382

11

Bình Lãnh 1,766

1,391

1,106

102

12

992


285

188

97

375

12

Bình
Dương

1,050

932

378

131

3

244

554

425


129

118

13

Bình
Giang

877

704

390

12

3

375

314

194

120

173

14


Bình
Triều

712

670

269

39

8

168

401

258

143

42

15

Bình Đào

554


472

259

97

3

159

213

127

86

82

16

Bình
Minh

21

21

17

Bình Quế


1,665

1,008

522

113

18

Bình
Chánh

1,727

715

431

267

19

Bình Phú

1,218

734


334

123

20

Bình Nam 1,896

1,173

21

1,152

2

2

124

21

407

486

297

189


657

164

284

169

115

1012

209

400

163

237

484

548

480

158

322


744

672
21

Bình Sa

2,111

1,899

870

516

3

351

1029

714

315

212

22

Bình hải


492

400

184

40

3

141

216

107

109

92


Tổng cộng
ST
T

29,926

Đơn vị Xã


1

BìnhAn

2

Bình Trung

3

Bình Tú

4

TTHà Lam

5

Bình Nguyên

6

Bình Phục

7

Bình Quý

8


B Định Bắc

9

B Định Nam

10

Bình Trị

11

Bình Lãnh

12

Bình Dương

13

Bình Giang

14

Bình Triều

15

Bình Đào


16

Bình Minh

17

Bình Quế

18

Bình Chánh

19

Bình Phú

20

Bình Nam

21

Bình Sa

22

Bình hải

19569


10379

2827

49

7503

9190

4852

4338

10357

Tổng đàn Trong đó
lợn (con)
Lợn ngoại (lai)
Đ.G
Nái

Thịt

6,297

16

415


3,808

2,058

7,569

12

556

5,370

1,631

7,297

7

427

5,309

1,554

4,591

6

255


3,120

3,993

12

352

2,588

3,859

8

256

2,059

6

1,530

4,932

9

328

2,610


2

1,983

2,844

5

28

1,752

1,059

4,279

11

261

2,877

1,130

3,181

10

183


1,707

1

1,280

4,175

12

56

2,410

2

1,695

3,913

6

287

2,354

12

1,254


4,195

12

290

2,490

6

1,397

3,993

7

155

2,712

11

1,108

4,519

8

229


1,946

14

2,322

165

1,311

1,221

2,697

Lợn nội
Đực MC

2

Nái MC

1,208
1,041

4,920

7

314


2,869

1,730

5,763

7

516

3,685

1,555

6,017

6

261

4,082

1,668

4,895

7

132


2,716

1

2,039

3,958

6

215

2,276

3

1,458

3,505

5

123

1,435

1

1,941


Tổng cộng
101,392
179
5,804
61,486
61
33,862
Bảng 2: Tổng hợp điều tra cơ cấu đàn lợn trên địa bàn huyện Thăng Bình, Quảng Nam (năm 2014)

STT
Đơn vị xã
Tổng đàn dê (con)
1
Bình Dương
200
2
Bình Minh
160
3
Bình Quế
80
Tổng cộng
440
Bảng 3: Tổng hợp điều tra cơ cấu đàn lợn trên địa bàn huyện Thăng Bình, Quảng Nam(năm 2014)


Bảng 4: Tổng hợp điều tra cơ cấu đàn gia cầm trên địa bàn huyện Thăng Bình, Quảng Nam (năm 2014)
STT

Đơn vị xã


1

BìnhAn

2

Bình Trung

3

Bình Tú

4

TTHà Lam

5

Bình Nguyên

6

Bình Phục

7

Bình Quý

8


B Định Bắc

9

B Định Nam

10

Bình Trị

11

Bình Lãnh

12

Bình Dương

13

Bình Giang

14

Bình Triều

15

Bình Đào


16

Bình Minh

17

Bình Quế

18

Bình Chánh

19

Bình Phú

20

Bình Nam

21

Bình Sa

22

Bình hải

Tổng cộng


Tổng đàn gia Trong đó
cầm (con)
Đàn gà

Đàn vịt

Gia cầm khác

31,890

23,400

8,200

290

31,100

24,550

6,300

250

32,430

26,550

5,600


280

26,600

21,700

4,700

200

24,650

19,950

4,500

200

32,640

26,900

5,500

240

38,080

30,800


7,000

280

26,200

21,250

4,700

250

25,500

20,300

5,000

200

27,600

22,400

5,000

200

28,200


24,000

4,000

200

26,100

20,500

5,300

300

29,450

22,300

6,950

200

28,600

23,500

4,900

200


26,900

21,500

5,200

200

19,050

17,250

1,650

150

25,900

21,000

4,650

250

31,390

25,250

5,900


240

26,350

21,500

4,650

200

25,400

20,250

4,950

200

29,050

23,900

4,900

250

26,500

20,250


5,950

300

619,580

499,000

115,500

5,080

3.4 Ảnh hưởng của nguồn thức ăn và dịch bệnh đến các loài vật nuôi ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam
3.4.1 Ảnh hưởng của nguồn thức ăn đến các loài vật nuôi của huyện
Hiện nay nguồn thức ăn tự nhiên của huyện chưa đáp ứng đủ nhu cầu chăn nuôi của người dân. Dẫn tới chất lượng
chăn nuôi và số lượng cũng đồng thời giảm dần. Phần lớn các loài vật nuôi của huyện sử dụng nguồn thức ăn chủ
yếu là cỏ và rau xanh. Và phần còn lại có thể ăn kết hợp giữa thức ăn nhân tạo và tự nhiên. Tuy vậy người dân
chưa có biện pháp chăm sóc nguồn thức ăn tự nhiên cho vật nuôi đúng cách và hợp lí, để vật nuôi bị bệnh do ăn
phải cỏ, rau bị nhiễm sương hoặc thuốc hóa học... làm giảm năng suất chăn nuôi. Không những vậy, do chất lượng
thức ăn nhân tạo trong nước đôi khi chưa đảm bảo chất lượng khiến người dân mất tin tưởng phải nhập thức ăn ở
những nơi đạt chất lượng dẫn tới đắt và mất phí vận chuyển, mất nhiều thời gian làm gián đoạn thức ăn của vật
nuôi, đồng thời làm giảm thu nhập của người dân ở địa phương.
3.4.2 Ảnh hưởng của dịch bệnh đến các loài vật nuôi của huyện


Không những nguồn thức ăn làm ảnh hưởng đến các loài vật nuôi mà dịch bệnh cũng là một yếu tố quan trọng làm
ảnh hưởng rất nhiều đến vật nuôi. Khi thời tiết xấu hoặc biến đổi thì vật nuôi thường mắc một số bênh như: dịch
cúm gia cầm, lở mồm long móng, dịch tai xanh, ecoli... làm ảnh hưởng tới sức khỏe của vật nuôi. Do người chăn
nuôi chưa có kinh nghiệm chăm sóc vật nuôi đúng cách và chủ quan không tiêm phòng vawcxin thường xuyên cho

vật nuôi của mình hằng năm....
3.4.3 Một số giải pháp đặt ra để giải quyết nguồn thức ăn và dịch bệnh lảm ảnh hưởng đến các loài vật nuôi
để góp phần phát triển nghành chăn nuôi của huyện
- Về thức ăn:
+ Tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật cho người chăn nuôi bảo quản rơm, ủ chua, ủ xanh thức ăn để tận dụng hết các
nguồn phụ phẩm nông sản tại chổ như rơm, thân cây ngô, lạc…làm thức ăn dự trữ cho trâu, bò về mùa Đông và
mùa khô hạn.
+ Khuyến khích nông dân chuyển đổi một số diện tích các loại cây trồng kém hiệu quả sang trồng cỏ, trồng ngô, kế
hoạch đến 2015 sẽ trồng được 100 - 200 ha cỏ để chăn nuôi trâu bò, định hướng đến năm 2020 diện tích trồng cỏ
sẽ tăng lên hơn 400 ha.
+ Khuyến khích xây dựng cơ sở chế biến thức ăn tại chổ để giảm cước phí vận chuyển và giảm giá thành sản phẩm
- Về dịch bệnh:
+ Tuyên truyền hướng dẫn nông dân thực hiện an toàn sinh học trong chăn nuôi, đảm bảo vệ sinh thú y, vệ sinh
môi trường, vệ sinh chuồng trại. Tổ chức tiêm phòng định kỳ, phun thuốc tiêu độc khử trùng nhằm hạn chế dịch
bệnh xảy ra và lây lan.
+ Thực hiện tốt công tác kiểm dịch động vật, kiểm soát giết mổ và kiểm tra vệ sinh thú y. Thực hiện Quyết định số
87/QĐ-UBND ngày 11/01/2013 của UBND tỉnh Quảng Nam về phê duyệt Phương án tăng cường công tác KSGM
GS, GC trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đến năm 2015.
+ Có kế hoạch, bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ cán bộ thú y cơ sở và có chế độ đãi ngộ phù hợp nhằm gắn trách
nhiệm cũng như tạo điều kiện để họ yên tâm công tác.
+ Tổ chức Đội kiểm tra liên ngành hoạt động thường xuyên hỗ trợ về công tác kiểm soát giết mổ và công tác
phòng chống dịch trên địa bàn huyện.
+ Ngân sách huyện hỗ trợ kinh phí mua vắc xin để tiêm phòng các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho gia súc, gia
cầm mỗi khi có dịch bệnh xảy ra. Chi phí triển khai, tổ chức tiêm phòng, địa phương thực hiện
Ngoài ra còn một số giải pháp khác:
- Công tác giống:
* Chăn nuôi trâu, bò :
+ Hỗ trợ đào tạo nâng cao kỹ thuật dẫn tinh viên cho các xã, thị trấn có nhu cầu, đảm bảo cân đối giữa các vùng để
triển khai công tác thụ tinh nhân tạo bò.
+ Phát triển và mở rộng các dịch vụ thụ tinh nhân tạo bò bằng tinh của đực giống nhóm Zebu và các giống bò

nhập nội. Từng bước tuyển chọn và đưa vào sử dụng đàn bò cái lai 50% máu ngoại trở lên để thay thế đàn bò cái
địa phương.
+ Tập huấn, đào tạo nghề, tham quan, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật nâng cao trình độ kiến thức chăn nuôi bò lai
cho người chăn nuôi bò.
+ Hàng năm hỗ trợ kinh phí để mua bò đực giống hỗ trợ cho các vùng Tây và vùng Đông của huyện. Hướng dẫn
việc chọn lọc và luân đổi trâu đực giống ở các địa phương để tránh đồng huyết.
* Chăn nuôi heo :
+ Vận dụng tốt các cơ chế tại Quyết định số 35/QĐ-UBND ngày 21/12/2012 của UBND tỉnh Quảng Nam, khuyến
khích nhân dân chăn nuôi heo nái ngoại nhằm thực hiện mục tiêu xã hội hóa sản xuất, nhân giống heo ngoại nuôi
thịt thương phẩm theo quy mô hàng hóa.
+ Phát huy lợi thế và kinh nghiệm nuôi heo nái Móng cái sản xuất heo sữa tại các xã vùng Đông, hằng năm UBND
huyện hỗ trợ một phần kinh phí khuyến khích nông nghiệp để thực hiện phục tráng, chọn lọc lại đàn nái tốt, cung
cấp con giống tại chổ cho người chăn nuôi.


* Chăn nuôi gia cầm:
+ Chọn lọc những giống gia cầm có năng suất cao, phù hợp với điều kiện chăn nuôi tại địa phương, đáp ứng nhu
cầu thị trường để nhân rộng.
+ Khuyến khích phát triển chăn nuôi gia cầm với đàn tối thiểu 200 con trở lên, hạn chế nuôi nhỏ lẻ, nuôi trong khu
dân cư.
- Công tác khuyến nông:
+ Tổ chức tập huấn kỹ thuật, tham quan các mô hình có hiệu quả về chăn nuôi bò lai, heo ngoại, vỗ béo bò, nuôi
heo nái, nuôi gà… cho cán bộ khuyến nông cơ sở và bà con nông dân.
+ Xây dựng các mô hình chăn nuôi heo nái, heo thịt 100% máu ngoại tập trung, mô hình trồng cỏ chăn nuôi bò
nhốt để bà con tham quan học tập. Chính quyền các cấp, phối hợp với các tổ chức đoàn thể, tuyên truyền, nhân
rộng các mô hình chăn nuôi có hiệu quả.
+Tổ chức tập huấn quy trình kỹ thuật làm đệm lót sinh học và ứng dụng rộng rãi vào chăn nuôi heo và gia cầm để
giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
+ Phát hành bản tin khuyến nông để người chăn nuôi nắm bắt thông tin kỹ thuật và tìm hiểu học tập các mô hình
chăn nuôi có hiệu quả kinh tế cao.

3.5 Đề xuất phân vùng sinh thái chăn nuôi trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
Huyện Thăng Bình được chia thành 3 tiểu vùng sinh thái Vùng Trung, vùng Tây, vùng Đông.
Vùng Tây (tính từ phía tây đường sắt Thống Nhất Bắc - Nam gồm các xã Bình Lãnh, Bình Trị, Bình Định, Bình
Phú, Bình Quế...) là vùng đồi núi và bán sơn địa, vùng này chiếm khoảng 2/5 diện tích toàn huyện, đất đai bạc màu
hoặc bị laterit hóa. Ngoài phần núi, đa phần diện tích còn lại của khu vực này là đồi gò thấp (cao trung bình 200m)
chỉ có các loại cây như rang, sim, mua...mọc hoang, ít có các cây lớn vì thế đất dễ bị rữa trôi, bạc màu, laterit hóa.
Xen giữa các hệ thống gò đồi là những cánh đồng chân núi nhỏ hẹp, cùng những làng xóm, đất thường bị chua. Vì
vậy Vùng Tây thích hợp phát triển chăn nuôi bò sinh sản, bò thịt, nuôi gà với quy mô gia trại, trang trại tại các khu
đất được quy hoạch dành cho chăn nuôi.
Vùng Đông nằm phía cực đông của huyện - nằm hai bên bờ sông Trường Giang là vùng ven biển.Vùng đông có bờ
biển dài 25 km, thấp phẳng, phần lớn là cát trắng, nhiều cồn cát, nhiều bãi tắm đẹp. Vùng này mặc dù là dải đất
nằm kẹp giữa một bên là sông, một bên là biển nhưng nhờ những bàu, hồ, sông nên người dân định cư lâu đời, tạo
nên những làng mạc đông đúc. Vì vậy ở vùng Đông thích hợp phát triển nuôi heo nái sinh sản, nuôi gà thịt, nuôi vịt
đẻ, vịt thịt.
Vùng Trung: Đồng bằng Thăng Bình vốn là phần giữa của đồng bằng Quảng Nam vốn trước đây “là vụng biển cũ
(trong thực tế là một đới địa máng cũ) cắm sâu vào giữa hai khối núi Hải Vân và Ngọc Linh như một cái nêm lớn.
Sau khi nước biển rút, do vận động nâng lên của Trường Sơn Nam, sông Thu Bồn và các nhánh của nó đã bồi nên
một vùng đất rộng 540 km2, diện tích này bao gồm cả vùng cửa sông Hội An, nằm dịch về phía biển. Đồng bằng
này thu hẹp lại ở huyện Thăng Bình rồi mở rộng ra-tuy vẫn giữ dạng một dải đất phù sa chạy dọc sông Tam Kỳ - ở
đồng bằng cũng mang tên ấy rộng 510 km2”. Dọc duyên hải, phía bờ nam sông Thu Bồn là những cồn, bãi cát
trắng, phía bên trong là những cồn bàu dài và hẹp. Rìa phía sau những cồn cát từ Cửa Đại đi về phía nam, những
đầm hồ “được cải tạo và nối lại thành con đường giao thông thủy nội địa mang tên sông Trường Giang”. Sông
Trường Giang là thủy lộ nối vùng cực nam tỉnh Quảng Nam (vụng An Hòa) với Đà Nẵng - nối sông Bàn Thạch
(Tam Kỳ) với sông Thu Bồn, sông Vĩnh Điện. Sông Trường Giang cũng là ranh giới khá mong manh giữa vùng đất
phù sa và đất xám với vùng đất cát ven biển. Nếu lấy quốc lộ 1A làm tâm điểm thì đồng bằng Thăng Bình trải ra
hai bên quốc lộ, là vùng đất phù sa tương đối màu mỡ, nhất là khu vực phía nam của huyện (các xã Bình Nguyên,
Bình Tú, Bình Trung, Bình An...).Thích hợp phát triển chăn nuôi heo thịt, bò thịt (nuôi nhốt kết hợp trồng cỏ),
chăn nuôi trâu, nuôi gà trứng, gà thịt với quy mô gia trại.



PHẦN KẾT LUẬN- KIẾN NGHỊ
Nhìn chung ngành chăn nuôi của huyện trong những năm qua tương đối phát triển đem lại lợi nhuận kinh tế cho
người dân địa phương, góp phần vào việc phát triển cơ cấu ngành của tỉnh Quảng Nam nói riêng và Việt Nam nói
chung. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại rất nhiều khó khăn mà chủ yếu do đất trồng cỏ không đủ, thức ăn tự nhiên chưa
đáp ứng được nhu cầu chăn nuôi của người dân trong huyện, do phân vùng chăn nuôi chưa hợp lí. Quan trọng hơn
hết, cơ quan có thẩm quyền của huyện nói riêng và nhà nước nói chung chưa đưa ra được nhiều giải pháp thực tế
và hiệu quả, hỗ trợ hợp lí cho người chăn nuôi..Vì vậy tôi mong muốn các thầy cô giáo, cơ quan có thẩm quyền có
thể cho phép đề tài này được mở rộng nghiên cứu hơn nữa. Với hi vọng có thể mang lại một nghành chăn nuôi phát
triển cho huyện Thăng Bình góp phần thúc đẩy phát triển nghành chăn nuôi Việt Nam.


TƯ LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.

Đề án phát triển chăn nuôi của huyện từ 2014 đến 2020
Niên giám thống kê cơ cấu đàn vật nuôi ở huyện Thăng Bình
Tham khảo trang web: thangbinh.gov.com.
Lê Văn Khoa (1993), Địa lý thổ nhưỡng, NXB Giáo Dục, Hà Nội


×