Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

tiểu luận Giáo dục hành vi đạo đức cho sinh viên học viện thanh thiếu niên trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.33 KB, 31 trang )

MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ TÂM LÝ HỌC

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì
lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Sự nghiệp giáo dục “trồng người” trong các
trường đại học là vấn đề vô cùng quan trọng và cấp bách. Là một bộ phận của
thanh niên, sinh viên thuộc tầng lớp người có tri thức, năng động, nhạy bén trong
tiếp thu cái mới. Họ là tầng lớp chịu ảnh hưởng lớn của những điều kiện kinh tế xã hội mới, của cơ chế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế. Từ đây, nảy sinh
nhiếu vấn đề: Làm sao để thanh niên sinh viên định hướng đúng đạo đức trong
điều kiện kinh tế thị trường? Làm thế nào để khi ra trường họ đáp ứng được yêu
cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước? Vì thế, có thể thấy tầm
quan trọng hàng đầu của giáo dục đạo đức trong sinh viên hiện nay.
Sinh viên là những chủ nhân tương lai của đất nước, lực lượng kế cận, bổ
sung trực tiếp cho đội ngũ cán bộ của Đảng, do đó giáo dục đạo đức đạo đức cho
sinh viên là nhiệm vụ rất quan trọng. Đối với Học viện Báo chí và Tuyên truyền,
giáo dục đạo đức cho sinh viên là một nội dung cơ bản trong mục tiêu giáo dục,
một tiêu chí đánh giá chất lượng, đồng thời còn là sự định hướng cho hoạt động
của các lực lượng trong thực hiện nhiệm vụ giáo dục – đào tạo của Học viện. Việc
giáo dục đạo đức với những tiêu chí, chuẩn mực đạo đức con người mới xã hội chủ
nghĩa là cơ sở, điều kiện nâng cao phẩm chất chính trị, trình độ, năng lực chuyên
môn của sinh viên Học viện Thanh thiếu niên.
Trong những năm qua, mặc dù đã có sự quan tâm của Nhà trường nhưng công
tác giáo dục hành vi đạo đức cho sinh viên vẫn đang đứng trước những khó khăn,
thách thức, hiệu quả giáo dục còn hạn chế nhất định. Một mặt, quá trình hội nhập
quốc tế đã mang đến hậu quả ngoài mong muốn, làm cho đời sống đạo đức phức tạp
hơn. Thực tế này cùng với những tác động của mặt trái cơ chế thị trường tạo ra cộng
hưởng tiêu cực, dẫn tới tình trạng suy thoái đạo đức của một bộ phận sinh viên. Mặt
khác, hoạt động giáo dục đạo đức cho sinh viên trong Học viện vẫn còn những yếu
1



MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ TÂM LÝ HỌC

kém, bất cập do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là thiếu sự định hướng mang tính chất
nhất quán và hệ thống giải pháp đồng bộ. Vì vậy, việc giáo dục hành vi đạo đức cho
sinh viên Học viện Thanh thiếu niênlà rất quan trọng và cấp thiết.
Đó là lý do em chọn đề tài “Giáo dục hành vi đạo đức cho sinh viên Học
viện Thanh thiếu niên trong giai đoạn hiện nay”, làm nội dung tiểu luận kết thúc
học phần môn Chuyên đề Tâm lý học.
2. Tình hình nghiên cứu
Có rất nhiều tác giả nghiên cứu về “ giáo dục đạo đức cho sinh viên” như:
Nguyễn Thị Hằng, Xây dựng lối sống có văn hóa cho sinh viên trong giai đoạn hiện
nay, Tạp chí Khoa học chính trị,(số 5), 2004. Trần Hậu Kiêm - Đoàn Đức Hiếu, Hệ
thống phạm trù đạo đức học và giáo dục đạo đức cho sinh viên, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2004. Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, Đoàn thanh niên, Giáo dục
nếp sống văn hóa cho sinh viên Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, Kỷ yếu đề tài, Hà
Nội, 2004…Nhưng có rất ít công trình nghiên cứu về giáo dục hành vi đạo đức cho
sinh viên Học viện Thanh thiếu niên
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của tiểu luận
* Mục đích nghiên cứu
Đề tài làm rõ việc giáo dục hành vi đạo đức cho sinh viên Học viện Thanh
thiếu niên. Từ đó, đề tài đưa ra những định hướng trong quá trình giáo dục hành vi
đạo đức cho sinh viên, nhằm hình thành và phát triển một số phẩm chất nhân cách
ở sinh viên.
* Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài bao gồm:
- Phân tích vai trò giáo dục hành vi đạo đức cho sinh viên.
- Đưa ra các con số thống kê về thực trạng đạo đức sinh viên Học viện
Thanh thiếu niên
- Đề ra giải pháp đối với những tồn tại qua việc khảo sát thực trạng nêu trên.
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của tiểu luận


2


MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ TÂM LÝ HỌC

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là giáo dục hành vi đạo đức cho sinh viên Học
viện Thanh thiếu niên(hệ chính quy 4 năm) giai đoạn từ năm 2006 - 2010.
5. Phương pháp nghiên cứu của tiểu luận
Tiểu luận sử dụng chủ yếu các phương pháp: phương pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, phương pháp nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng hợp,
phương pháp điều tra xã hội học…
6. Kết cấu của tiểu luận
Tiểu luận gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về đạo đức và vai trò của giáo dục hành vi đạo đức cho
sinh viên trong giai đoạn hiện nay
Chương 2: Thực trạng và một số giải pháp cơ bản trong việc giáo dục hành vi đạo đức
cho sinh viên học viện Thanh thiếu niên trong giai đoạn hiện nay.

3


MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ TÂM LÝ HỌC

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC
HÀNH VI ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1 Khái quát chung về đạo đức và hành vi đạo đức của sinh viên
1.1.1 Một số khái niệm cơ bản

Khái niệm giáo dục
Theo từ điển tiếng Việt: Giáo dục, đó là hoạt động nhằm tác động một cách
có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho
đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra.
Theo giáo trình Giáo dục đại cương của khoa Tâm lý giáo dục – Học viện
Báo chí và Tuyên truyên thì giáo được hiểu theo hai nghĩa:
Giáo dục hiểu theo nghĩa rộng bao gồm quá trình tác động có mục đích, kế
hoạch của môi trường tự nhiên, của nhiều yếu tố giáo dục, nhằm chuẩn bị cho
người học có đủ điều kiện tham gia vào đời sống xã hội.
Giáo dục hiểu theo nghĩa hẹp là một quá trình tác động có mục đích, có kế
hoạch nhằm hình thành ở những người học những quan điểm, niềm tin, những
phẩm chất, hành vi đạo đức, đồng thời bồi dưỡng tình cảm, năng lực thẩm mỹ và
năng lực rèn luyện thể chất.
Khái niệm hành vi
Hành vi là biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách quan, kết quả của sự chỉ
định và mong muốn của chủ thể.
Khái niệm đạo đức
Đạo đức được hiểu: “Đạo” là phép tắc cơ bản cần phải có giữa người với
người. “Đức” là tính nết tốt, hợp với phép tắc đối xử đúng đắn giữa con người với
con người. Cho nên đứng dưới góc độ khác nhau thì cũng có những khái niệm đạo
đức khác nhau.

4


MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ TÂM LÝ HỌC

Theo Triết học thì: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, tồn tại xã hội
quyết định ý thức xã hội, quyết định đạo đức.
Dưới góc độ xã hội: Đạo đức là một hình thái xã hội đặc biệt được phản ánh

dưới dạng những nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực điều chỉnh hành vi của mỗi con
người trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và giữa con người với nhau
với chính bản thân mình.
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin: Đạo đức là cái có thật trong ý thức xã hội, trong
đời sống tinh thần của mỗi con người, về lý luận nó là bộ phận của kiến trúc thượng
tầng trong mọi ý thức, hoạt động giao lưu trong toàn bộ hoạt động sống của con người.
Khái niệm sinh viên
Sinh viên là tầng lớp xã hội đặc thù, là một bộ phận ưu tú của thanh niên Việt
Nam, nguồn nhân lực chất lượng cao trong tương lai của đất nước. Đảng và Nhà nước
ta luôn đánh giá cao vai trò, vị trí của thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng.
Theo từ điển Tiếng Việt thì sinh viên là những người đang học tập tại các
trường Đại học, Cao đẳng.
Hiện nay, có rất nhiều quan niệm khác nhau về sinh viên, nhưng quan niệm
được nhiều người trong giới khoa học xã hội ủng hộ quan niệm này cho rằng:
Sinh viên là đại biểu của một nhóm xã hội đặc biệt bao gồm : những người
đang trong quá trình chuẩn bị tri thức để trở thành chuyên gia hoạt động lao động
trong một lĩnh vực nhất định thuộc các chuyên ngành kinh tế, văn hóa xã hội hoặc
sinh viên là những người đang học tập ở các trường cao đẳng, đại học.
Theo em: Sinh viên là những người đã kết thúc quá trình học tập ở phổ thông,
tiếp tục học tập và trau dồi kiến thức ở bậc Đại học, Cao đẳng. Để sau khi ra trường
có những tri thức cơ bản, góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Giáo dục hành vi đạo đức cho sinh viên là chuyển các quan niệm đạo đức
từ tự giác sang tự giác, từ bị động sang chủ động, không ngừng nâng cao trình độ
nhận thức các giá trị đạo đức cho mỗi sinh viên từ nhận thức tầm thường lên trình
độ nhận thức khoa học. Để đạt trình độ cao, trình độ nhận thức đòi hỏi phải có quá
5


MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ TÂM LÝ HỌC


trình giáo dục đạo đức phải nhờ đến môn đạo đức học. Bởi vì, nhận thức khoa học
phản ánh các giá trị đạo đức theo cách gián tiếp khái quát, cả những giá trị đạo đức
hiện tại và cả những giá trị đạo đức của tương lai. Qua giáo dục hành vi đạo đức,
nội dung các phạm trù đạo đức được nhận thức một cách đầy đủ, đúng đắn hơn và
niềm tin được giáo dục trở thành niềm tin khoa học.
Theo em Giáo dục hành vi đạo đức cho sinh viên là giáo dục không chỉ nâng
cao trình độ nhận thức đạo đức giữ gìn các giá trị, chuẩn mực đạo đức đã được các
thế hệ trước góp phần tạo ra những giá trị đạo đức mới, xây dựng những phẩm chất
đạo đức mới, quan niệm sống tích cực cho mỗi sinh viên, đồng thời giáo dục hành
vi đạo đức góp phần tích cực vào việc khắc phục những quan điểm đạo đức lạc
hậu, lệch chuẩn các giá trị nhân cách, chống lại các hiện tượng phi đạo đức làm
nhiễm độc bầu không khí xã hội, tạo ra chế phòng ngăn ngừa các phản giá trị đạo
đức, giá trị văn hóa trong nhân cách của mỗi sinh viên.
1.1.2 Chức năng của đạo đức
- Chức năng điều chỉnh hành vi
Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi. Sự điều chỉnh hành vi của
đạo đức làm cho cá nhân và xã hội cũng tồn tại và phát triển, bảo đảm quan hệ lợi
ích cá nhân và cộng đồng.
Đạo đức đòi hỏi từ tối thiểu đến tối đa đối với các hành vi cá nhân. Phương
thức điều chỉnh là bằng dư luận xã hội và lương tâm. Những chuẩn mực đạo đức
bao gồm cả chuẩn mực ngăn cấm và chuẩn mực khuyến khích.
Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức bằng dư luận xã hội và lương tâm
đòi hỏi từ tối thiểu tới tối đa hành vi con người đã trở thành đặc trưng riêng để
phân biệt đạo đức với các hình thức khác, các hiện tượng xã hội khác và làm thành
cái không thể thay thế của đạo đức.
Mục đích điều chỉnh của đạo đức nhằm bảo đảm sự tồn tại và phát triển của
xã hội bằng việc tạo sự hài hòa quan hệ lợi ích cộng đồng và cá nhân.

6



MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ TÂM LÝ HỌC

Đối tượng điều chỉnh của đạo đức là hành vi cá nhân. Cách thức điều chỉnh
được biểu hiện qua sự lựa chọn các giá trị đạo đức, xác định chương trình của hành
vi bởi lý tưởng đạo đức, xác định phương án cho hành vi bởi chuẩn mực đạo đức,
tạo nên động cơ của hành vi bởi niềm tin, lý tưởng, tình cảm đạo đức, kiểm soát,
uốn ắn hành vi bởi dư luận xã hội.
Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức được thực hiện bằng hai hình
thức chủ yếu: Xã hội và tập thể tạo dư luận để khen ngợi khuyến khích cái thiện,
phê phán cái ác, bản thân chủ thể đạo đức rự giác điều chỉnh hành vi trên cơ sở
những chuẩn mực đạo đức xã hội.
- Chức năng giáo dục
Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể của lịch sử. Con người
tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người đến mức ấy.
Xã hội có giai cấp hình thành và tồn tại nhiều hệ thống đạo đức tác động đến cá
nhân. Môi trường đạo đức tác động đến cá nhân bằng nhận thức đạo đức và thực tiễn
đạo đức. Nhận thức đạo đức để chuyển hóa đạo đức xã hội thành ý thức đạo đức cá
nhân. Thực tiễn đạo đức là hiện thực hóa nội dung giáo dục bằng hành vi đạo đức.
Các hành vi đạo đức lặp đi lặp lại trong đời sống cá nhân làm cho cả đạo đức cá nhân
và xã hội được củng cố phát triển trở thành thói quen truyền thống, tập quán đạo đức.
Giáo dục đạo đức luôn gắn liền với tiến bộ đạo đức: Nhân đạo hóa các quan
hệ xã hội, sự hoàn thiện của cấu trúc đạo đức và mức độ đạo đức và phổ biến của
nó…sẽ giúp chủ thể lựa chọn đánh giá đúng tư cách của người khác hay của cộng
đồng cũng như tự đánh giá đúng thông qua mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ, nội dung,
phương thức, hình thức và các bước đi của quá trình giáo dục sẽ giúp mỗi cá nhân
và cả cộng đồng tạo ra các hành vi thực tiễn đạo đức đúng. Con người luôn vươn
lên chân - thiện - mỹ.
- Chức năng nhận thức
Sự nhận thức của đạo đức có những đặc điểm sau:


7


MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ TÂM LÝ HỌC

Hành động đạo đức tiếp liền sau nhận thức giá trị đạo đức. Và đa số trường
hợp quá trình đó có sự hòa quện giữa ý thức đạo đức với hành động đạo đức.
+ Nhận thức của đạo đức là quá trình vừa hướng ngoại vừa hướng nội: Nhận
thức hướng ngoại: lấy chuẩn mực, giá trị thiện ác, trách nhiệm và nghĩa vụ, hạnh
phúc và ý nghĩa cuộc sống…, những cách thức và phương tiện tạo ra các giá trị đạo
đức. Nhờ sự nhận thức này mà chủ thể nhận thức đã chuyển hóa được những chuẩn
mực đạo đức xã hội thành ý thức đạo đức cá nhân như là cái riêng.
Nhận thức hướng nội: là lấy bản thân mình, chủ thể đạo đức làm đối tượng
nhận thức. Đây là quá trình tự đánh giá, tự thẩm định, tự đối chiếu những nhận
thức, hành vi, đạo đức của mình với những chuẩn mực giá trị chung của cộng
đồng. Từ cách nhận thức này mà chủ thể hình thành, phát triển thành các quan
điểm và nguyên tắc sống: sáng tạo, hay thụ động, hy sinh hay hưởng thụ, vị tha hay
vị kỷ, hướng thiện hay sa vào cái ác.
+ Nhận thức đạo đức ở hai trình độ: trình độ thông thường và trình độ lý luận.
Nhận thức đạo đức ở trình độ thông thường là ý thức thông thường, những
giá trị riêng lẻ. Nó đáp ứng nhu cầu đạo đức thông thường đủ để chủ thể xử lý kịp
thời trong cuộc sống và sự phát triển bình thường của xã hội. Mọi cá nhân đều có
thể và cần phải phản ánh đạo đức ở trình độ này.
Nhận thức ở trình độ lý luận là nhận thức có tính nguyên tắc được chỉ đạo
bởi những giá trị đạo đức có tinh phổ quát. Trình độ này đáp ứng những đòi hỏi
của sự phát triển đạo đức và tiến bộ xã hội.
Nhận thức đạo đức đem lại tri thức đạo đức, ý thức đạo đức choc các chủ
thể. Các cá nhân, nhờ tri thức đạo đức, ý thức đạo đức xã hội, đã nhận thức mà tạo
thành đạo đức cá nhân. Cá nhân hiểu và tin ở các chuẩn mực, lý tưởng, giá trị đạo

đức xã hội trở thành cơ sở để cá nhân điều chỉnh hành vi, thực hiện đạo đức.

8


MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ TÂM LÝ HỌC

1.2 Vai trò của việc giáo dục đạo đức cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay
1.2.1 Đặc điểm tâm lý của sinh viên
Những đặc điểm về thể chất, vai trò xã hội và cá hoạt động cơ bản của sinh
viên đã chi phối sự hình thành và phát triển các đặc điểm tâm lý của lứa tuổi này.
Đây là lứa tuổi đang chuẩn bị trực tiếp tham gia vào cuộc sống tinh thần của xã
hội. Sinh viên có những đặc điểm tâm lý phong phú, đa dạng và không đồng đều.
- Sự thích nghi của sinh viên với cuộc sống và hoạt động mới.
Do hoạt động học tập, hoạt động xã hội và môi trường sống của sinh viên có
những nét đặc trưng khác về chất so với lứa tuổi trước nên đòi hỏi sinh viên phải
thích nghi để hoạt động đạt kết quả. Quá trình thích nghi tập chung chủ yếu ở một
số mặt sau:
+ Nội dung học tập mang tính chuyên ngành.
+ Phương pháp học tập mới mang tính nghiên cứu khoa học.
+ Môi trường sinh hoạt mở rộng.
+ Nội dung và cách thức giao tiếp với thầy cô bạn bè tổ chức xã hội phong phú đa dạng.
Để thích nghi với điều kiện trên, sinh viên cần có một thời gian nhất định.
Tùy thuộc vào đặc điểm tâm lí cá nhân môi trường sống.
Sự phát triển về nhận thức và trí tuệ của sinh viên.
Hoạt động nhận thức của sinh viên với mục đích nắm được đối tượng, nhiệm
vụ, phương pháp, qui luật khoa học đòi hỏi họ một mặt phải phải kế thừa một cách
có hệ thống những thành tựu đã có mặt khác phải tiếp cận với những thành tựu của
khoa học đương đại có tính cập nhật.
Hoạt động học tập diễn ra một cách có mục đích, có kế hoạch, mang tính

độc lập, tự chủ với phương tiện học tập đa dạng. Sinh viên học tập nhằm lĩnh hội tri
thức hình thành kĩ năng kĩ xảo nghề ngiệp phát triển những phẩm chất nhân cách của
người chuyên gia tương lai.
Hoạt động nhận thức của sinh viên gắn chặt chẽ với nghiên cứu khoa học
vừa không tách rời hoạt động nghề nghiệp.
9


MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ TÂM LÝ HỌC

Như vậy, hoạt động học tập của sinh viên là hoạt động trí tuệ đích thực căng
thẳng, cường độ cao và mang tính lựa trọn. Hoạt động trí tuệ bao gồm những thao
tác phát triển ở trình độ cao có sự chi phối nhịp nhàng, tinh thần uyển chuyển tùy
theo hoàn cảnh có vấn đề.
- Sự phát triển một số phẩm chất nhân cách ở sinh viên.
Tự đánh giá, tự ý thức, tự giáo dục: Là một trong những phẩm chất quan
trọng thể hiện trình độ phát triển cao của nhân cách. Nó có định hướng điều chỉnh
hoạt động hành vi của con người nhằm đạt mục đích lí tưởng sống một cách tự
giác, giúp con người không chỉ biết mình mà còn biết người.
Tự đánh giá ở sinh viên là một hoạt động nhận thức trong đó đối tượng nhận
thức chính là bản thân chủ thể, là quá trình chủ thể thu thập, xử lý thông tin về
chính mình, chỉ ra được mức dộ tồn tại của bản thân, từ thái độ hành vi, hoạt động
phù hợp nhằm tự điều chỉnh, tự giáo dục để hoàn thiện và phát triển.
Tự đánh giá ở sinh viên mang tính toàn diện sâu sắc, sinh viên không chỉ
đánh giá hình ảnh của bản thân mình có tính bề ngoài mà còn đi sâu vào các phẩm
chất, các giá trị của nhân các. Vì thế tự đánh giá của sinh viên còn có ý nghĩa tự ý
thức, tự giáo dục.
Tự ý thức của sinh viên còn thể hiện ở chỗ sinh viên có hiểu biết về thái độ,
hành vi của mình để chủ động hướng hoạt động của mình theo những yêu cầu đòi
hỏi của tập thể của xã hội. Mức độ phát triển của những phẩm chất nhân cách này

có liên quan đến trình độ học lực cũng như kế hoạch sống trong tương lai của sinh
viên. Những sinh viên có học lực cao thường chủ động, tích cực trong việc nhìn
nhận đánh giá một cách cụ thể nhằm tự hoàn thiện ngày càng cao. Còn những sinh
viên có kết quả học tập thấp dễ tự đánh giá không phù hợp hoặc là cao quá hoặc
thấp quá nên việc tự giáo dục tự hoàn thiện đạt ở mức độ thấp.
Đồng thời, ở sinh viên cũng phát triển một số định hướng giá trị: định hướng
giá trị được chủ thể nhận thức, ý thức và đánh giá cao, có ý nghĩa định hướng, điều
chỉnh thái độ, hành vi lối sống của chủ thể nhằm vươn tới giá trị đó. Về những định
10


MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ TÂM LÝ HỌC

hướng, giá trị đối với nhân cách, đa số sinh viên đã chọn và nhấn mạnh cách phẩm
chất tư duy kinh tế, biết tính toán hiệu quả năng động, nhanh thích nghi với hoàn
cảnh, sử dụng thành thạo tiếng nước ngoài, dám nghĩ dám làm, chấp nhận mạo
hiểm. Những định hướng nghề nghiệp được sinh viên lựa trọn thường là: Những
nghề nghiệp có thu nhập cao, nghề phù hợp với sức khỏe, trình độ, nghề phù hợp
với hứng thú sở thích, có điều kiện chăm lo cho gia đình, có điều kiện phát triển
năng lực, nghề được xã hội coi trọng, nghề đảm bảo yên tâm suốt đời, nghề làm
việc bằng trí óc, nghề có điều kiện tiếp tục học lên…
- Đời sống xúc cảm tình cảm của sinh viên.
Hầu hết sinh viên biểu lộ sự chăm chỉ say mê, đối với chuyên nghành và
nghề nghiệp mình lựa chọn. Khác với lứa tuổi trước, tình cảm đạo đức, tình cảm
thẩm mĩ của sinh viên biểu lộ sâu sắc hơn. Họ có thể lí giải một cách có cơ sở cái
mà họ thích, có những sinh viên đã xây dựng được triết lý cho cái đẹp của mình
theo chiều hướng khá ổn định. Đó là lí do giải thích tại sao lứa tuổi này sinh viên
đã có cách cảm nghĩ riêng, có phong cách kiến trúc, hội họa điêu khắc riêng.
1.2.2 Tầm quan trọng của việc giáo dục hành vi đạo đức cho sinh viên
Trong giai đoạn hiện nay, để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa do Đảng ta lãnh đạo, nhằm xây dựng nước ta: Dân giàu nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng văn minh; thì chúng ta cần phải có nguồn nhân lực
chất lượng cao, đó là những con người có “đủ đức đủ tài”, trong đó “đức” là cái gốc
là nền tảng của mỗi con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “ Có tài mà không
có đức thì cũng là người vô dụng, có đức là không có tài thì làm việc gì cũng khó”.
Với chiến lược phát triển con người toàn diện phục vụ sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, thế hệ trẻ Việt Nam là đối tượng cần chú ý đầu tiên(trong đó có
sinh viên), bởi họ là người chủ tương lai của đất nước “muốn hồi sinh dân tộc
trước hết phải hồi sinh thanh niên”, trong đó sinh viên có vai trò rất quan trọng.
Chính vì vậy, giáo dục hành vi đạo đức cho sinh viên là một điều quan trọng bởi vì
các lý do sau:
11


MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ TÂM LÝ HỌC

Một là, giáo dục đạo hành vi đạo đức góp phần tạo ra sự hài hòa giữa đời
sống vật chất và đời sống tinh thần của sinh viên hiện nay. Chúng ta xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nhằm phục vụ hạnh phúc cho con
người. Đây là yêu cầu tất yếu của sự phát triển xã hội. Mặt khác, chính sự phát
triển của kinh tế thị trường cũng có thể dẫn tới nguy cơ phát triển một thế hệ con
người phiến diện: coi trọng đời sống vật chất hơn đời sống tinh thần, lợi ích cá
nhân được đặt lên trên tất cả. Do vậy, giáo dục hành vi đạo đức cho sinh viên góp
phần khắc phục tình trạng trên, tạo lập sự hài hòa, cân đối giữa đời sống vật chất
và đời sống tinh thần cho họ. Đồng thời, qua đó làm thức tỉnh ở họ những tình cảm
đạo đức ở sinh viên những tình cảm đạo đức tích cực, tình thương yêu con người,
sự quan tâm đến những người xung quanh, sự phẫn nộ và đấu tranh với cái ác…
Tình cảm yêu thương con người, tình yêu quê hương đất nước, khao khát đưa đất
nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu đều là những tình cảm đạo đức làm cho quan hệ
giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên thêm hài hòa và sâu

sắc hơn.
Hai là, giáo dục hành vi đạo đức góp phần định hướng cho sinh viên vươn
tới những giá trị nhân văn, nhân đạo. Trong hệ thống các giá trị tinh thần của dân
tộc Việt Nam, giá trị đạo đức là cốt lõi. Bởi vì, nó nâng cao con người, nâng cao
phẩm giá con người, kích thích phát triển cái “chất” người trong con người và sự
phát triển hoàn thiện của đạo đức là một mặt của sự hình thành, phát triển, hoàn
thiện của nhân cách. Vai trò của đạo đức còn được biểu hiện ở chỗ tạo ra một môi
trường xã hội lành mạnh – môi trường văn hóa cho sự phát triển của con người.
Tình dân tộc, nghĩa đồng bào là thước đo không chỉ trong suy nghĩ mà phải ở ngay
trong việc làm hằng ngày của sinh viên. Nó phải trở thành nguyên tắc sống bất di
bất dịch trong việc giáo dục hành vi đạo đức cho sinh viên.
Ba là, giáo dục những giá trị truyền thống như lòng yêu nước, tinh thần tự
hào dân tộc, phấn đấu theo lý tưởng của Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn:
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nội dung giáo dục thông qua các
12


MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ TÂM LÝ HỌC

phong trào chính trị - xã hội thực tế của sinh viên, đã tạo cho họ từng bước tiếp
nhận các giá trị đạo đức dân tộc và làm cho các giá trị đạo đức ấy ngày càng thấm
sâu vào nhận thức và hành động của sinh viên. Do vậy, giáo dục chủ nghĩa yêu
nước, yêu độc lập tự do là nội dung cơ bản, là nền tảng và tiêu chí cốt lõi nhất
trong giáo dục đạo đức cho sinh viên hiện nay.
Bốn là, giáo dục cho sinh viên biết sống có lý tưởng cao cả, văn minh hiện
đại, có ước mơ và hoài bão lớn. Giáo dục lối sống đẹp cho sinh viên là giáo dục
cho họ có lối sống giàu lòng nhân ái, có trách nhiệm, luôn quan tâm giúp đỡ lẫn
nhau, sống lành mạnh trung thực, thủy chung, biết giữ lấy những gì thuần phong
mỹ tục của dân tộc. Bên cạnh việc giáo dục những giá trị đạo đức truyền thống cho
sinh viên, cần giáo dục cho họ lối sống văn minh, hiện đại. Đó là lối sống có kỷ

cương, kỷ luật, lối sống theo tác phong công nghiệp, sống, học tập, lao động sản
xuất phải theo hiến pháp và pháp luật.
Năm là, giáo dục đạo đức trong tình bạn, tình yêu cho sinh viên. Đây là giá
trị đạo đức nổi bật trong nội dung giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ. Chính từ nội
dung giáo dục này giúp cho họ thấy được tình bạn chân thành, tình yêu trong sáng,
thủy chung sẽ trở thành điểm tựa, thành sức mạnh tinh thần giúp cho tuổi trẻ vươn
lên trong cuộc sống. Biểu hiện là sự quan tâm giúp đỡ lẫn nhau một cách tự
nguyện, trong học tập, trong rèn luyện ở nhà trường cũng như ngoài xã hội, tích
cực tham gia các phong trào hoạt động do nhà trường và các đoàn thể đề ra.
Vì vậy, việc phát huy tính tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực đạo đức sinh
viên có tác dụng to lớn cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Cho nên,
Đảng ta chỉ rõ: “Coi trọng bồi dưỡng cho học sinh, sinh viên khát vọng mãnh liệt xây
dựng đất nước giàu mạnh, gắn liền lập nghiệp bản thân với tương lai của cộng đồng,
của dân tộc, trau dồi cho học sinh, sinh viên bản lĩnh, phẩm chất và lối sống của thế hệ
trẻ Việt Nam hiện đại” 1

1

Đảng Cộng sản Việt Nam –Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.Chính trị quốc gia, HàNội,2006,tr. 207

13


MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ TÂM LÝ HỌC

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIAI PHÁP TRONG VIỆC GIÁO DỤC HÀNH
VI ĐẠO ĐỨC CHO
SINH VIÊN HỌC VIỆN THANH THIẾU NIÊNTRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

2.1.Thực trạng hành vi đạo đức của sinh viên Học viện Thanh thiếu niên hiện
nay
2.1.1. Những hạn chế trong đạo đức, lối sống của sinh viên Học viện
Thanh thiếu niên
Nhận thức và động cơ học tập là yếu tố quyết định tinh thần học tập của mỗi
sinh viên. Phần lớn sinh viên hiện nay có tinh thần học tập chăm chỉ, tận
dụng hết thời gian và khả năng cho phép để học tập, nhưng còn không ít sinh viên
chưa có thái độ và tinh thần học tập nghiêm túc, học với tinh thần "trung bình chủ
nghĩa", "miễn là qua", học đối phó, học tủ. Hiện tượng đi học muộn về sớm trở nên
khá phổ biến trong sinh viên, chiếm đến 25.3% số phiếu điều tra, chỉ có 6% khẳng
định chỉ có trường hợp cá biệt mới phải đi học muộn. Như vậy, sinh viên đi học
muộn đang là một hiện tượng phổ biến, ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và hiệu
quả của quá trình giảng dạy trong nhà trường. Bên cạnh việc phát huy tính kỷ luật
tự giác của sinh viên, nhà trường và giáo viên cần có biện pháp cụ thể để khắc
phục hiện tượng trên, nếu không sẽ hình thành trong sinh viên nếp sống lề mề,
chậm chạp, không có kỷ cương... Đây là những tác phong không phù hợp với yêu
cầu của nhịp sống công nghiệp hiện nay.
Đa số sinh viên thừa nhận có hành vi sai trái trong thi cử. Khi được hỏi bạn
có thấy bạn mình làm những việc sau đây không?
- Mang tài liệu vào phòng thi: 43% sinh viên được hỏi đồng ý có.
- Trao đổi với nhau trong khi làm bài: 27% được hỏi đồng ý có.
- Sử dụng tài liệu trong khi làm bài: 22% được hỏi đồng ý có.
14


MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ TÂM LÝ HỌC

- Không có hiện tượng trên: 18% sinh viên được hỏi đồng ý có .
Số liệu điều tra phản ánh rõ ràng rằng, dù Quy chế rèn luyện của Bộ Giáo dục
và Đào tạo đã qui định nếu mang tài liệu vào phòng thi là bị hủy bài thi nhưng vẫn có

đến 43% số sinh viên cố tình vi phạm qui chế thi. Số sinh viên có ý thức chấp hành
qui chế thi chỉ chiếm một con số khiêm tốn 18%. Đây chính là một biểu hiện của suy
thoái đạo đức, nó ảnh hưởng đến chất lượng của nền giáo dục, kiến thức chuyên môn
của một bộ phận sinh viên sau khi tốt nghiệp đã không đáp ứng được yêu cầu của thị
trường lao động và việc cung cấp nguồn nhân lực trẻ có trình độ cao cho đất nước.
Tinh thần học tập được thể hiện trên cả hai mặt: học tập trên lớp dưới sự
hướng dẫn của thầy cô và tự nghiên cứu ngoài giờ. Trong số sinh viên được hỏi về
tinh thần học tập trên lớp chỉ có 5% cho là có tinh thần học tập tích cực, 75% đồng
ý với ý kiến có nhiều bạn tích cực, nhưng cũng có nhiều bạn lười, 15% cho là có
quá nhiều bạn lười. Về thời gian tự học ở nhà có 29% sinh viên trả lời học 5 tiếng
trở lên trong 1 ngày, 41% học từ 2-4 tiếng, 22% học từ 1-2 tiếng và hầu như không
học chiếm đến 8% số sinh viên được hỏi. Chúng ta đều biết rằng, học ngoài giờ là
một hoạt động không thể thiếu được ở người đi học. Đây là thời gian trau dồi lại
những kiến thức đã tiếp thu trên lớp, biến thành những tri thức của riêng mình,
biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Bởi "tài năng hình thành từ 99%
cần cù và chỉ 1% do cảm hứng tạo ra".
Kết quả điều tra cho chúng ta thấy rõ, tinh thần học tập của sinh viên chưa
cao, còn bỏ phí quá nhiều thời gian và điều kiện để học tập. Do tinh thần học tập
không nghiêm túc, chỉ học đối phó, học cho xong nên hiện tượng sinh viên gian
dối trong thi cử vẫn còn nhiều. Theo số liệu thống kê của Ban Quản lý Đào tạo
Học viện, 3 năm gần đây, số sinh viên vi phạm quy chế thi ngày càng tăng:
Năm học 2007-2008: 45 lượt sinh viên bị đình chỉ thi học phần.
Năm học 2008-2009: 78 lượt sinh viên bị đình chỉ thi học phần.
Năm học 2009-2010: 109 lượt sinh viên bị đình chỉ thi học phần.

15


MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ TÂM LÝ HỌC


Bên cạnh đại đa số sinh viên nhận thức và có động cơ học tập đúng đắn thì còn
không ít những sinh viên chỉ học những môn chính, học những ngành mà ra trường
làm việc có thu nhập cao. Do phải đi học thêm, làm thêm nhiều dẫn đến tình trạng học
lệch, chỉ tập trung vào các môn thi cử, sinh viên bỏ tiết, đi học muộn đối với những
môn học ít liên quan đến nghề nghiệp sau này nhưng lại rất quan trọng trong việc hình
thành thế giới quan, nhân cách, nhân cách đạo đức như: Triết học, Đạo đức học...
Một bộ phận nhỏ sinh viên còn băn khoăn, không chắc chắn, không tin
tưởng vào tính cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, không tin tưởng vào sự thắng lợi của
chủ nghĩa xã hội, vào con đường lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, vào sự thắng lợi
của công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nhiều
vấn đề thực tiễn chính trị khác ở nước ta. Họ không có nhu cầu tham gia các hoạt
động chính trị - xã hội. Một số sinh viên không tích cực, không tham gia các hoạt
động chính trị - xã hội trong nhà trường và ngoài xã hội, ít theo dõi và không theo
dõi các vấn đề thời sự trong nước và quốc tế.
Bên cạnh những sinh viên mong muốn trở thành người cộng sản kiên trung, đặt
lợi ích của dân tộc và xã hội lên trên lợi ích cá nhân, còn tồn tại những sinh viên
quan niệm vào Đảng chỉ do mong muốn của gia đình, để được thuận lợi hơn trong
công việc, họ coi tấm thẻ Đảng là chỗ dựa để thăng tiến. Bộ phận sinh viên này nếu
được đứng trong hàng ngũ của Đảng sớm hay muộn cũng sẽ trở thành những “con
sâu bỏ dầu nồi canh”, làm vẩn đục uy tín của Đảng. Do đó, cần tăng cường hơn nữa
công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho bộ phận sinh viên này để hạn chế những
suy nghĩ tiêu cực trong cuộc sống, tạo điều kiện cho họ phát huy thế mạnh của mình,
phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Dưới tác động của cơ chế thị trường, lối sống thực dụng coi trọng đồng tiền
đang tác động mạnh mẽ đến thanh niên, đặc biệt là thanh niên sinh viên. Đạo đức
truyền thống gia đình bị phá vỡ, một bộ phận nhỏ sinh viên coi việc bố mẹ chu cấp
tiền ăn học cho mình là nghĩa vụ, vòi vĩnh, tróc nã tiền bố mẹ, lời nói thiếu lễ phép,
16



MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ TÂM LÝ HỌC

hỗn láo thậm chí mạt sát, lăng mạ những người sinh thành ra mình, không có tình
yêu thương kính trọng cha mẹ như anh chị em trong nhà, coi gia đình như quán
trọ…Qua phỏng vấn một số sinh viên, 7.5% cho rằng có tiền là có tất cả, 5.3% cho
rằng cha mẹ để của cho con cái hơn là để đức, 7.8% chỉ làm điều thiện khi biết khả
năng được đền đáp, bên cạnh đó là những biểu hiện như ăn nói thiếu văn hóa, thái
độ thờ ơ lạnh lùng trước những nỗi đau khổ của người khác. Đây là những dấu
hiệu đáng lo ngại về đạo đức, lối sống của một bộ phận sinh viên ngày nay.
2.1.2.Thực trạng công tác giáo dục hành vi đạo đức cho sinh viên Học
viện Thanh thiếu niên
Ưu điểm: Giáo dục đạo đức cho sinh viên Học viện Thanh thiếu niêntrong
giai đoạn hiện nay vừa có thời cơ, điều kiện thuận lợi, đồng thời có những nguy cơ,
thách thức to lớn, nhưng trong những năm qua công tác giáo dục đạo đức cho sinh
viên ở Học viện đã đạt được một số ưu điểm nổi bật sau đây:
Một là, nhận thức sâu sắc ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác giáo dục
các giá trị đạo đức của dân tộc, Đảng ủy, Ban Giám đốc Học viện Thanh thiếu
niênluôn coi công tác giáo dục phẩm chất chính trị, lối sống cho sinh viên là nhiệm
vụ trọng tâm và thường xuyên của nhà trường, do đồng chí Giám đốc trực tiếp chỉ
đạo. Đây là nguyên nhân có ý nghĩa quyết định. Sự nghiệp giáo dục và đào tạo nói
chung và giáo dục nói riêng được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành của
chính quyền.
Mặt khác, Đảng ủy và Ban Giám đốc thường xuyên quan tâm đến việc đào
tạo, xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên các bộ môn khoa học Mác - Lênin và
các bộ môn khoa học xã hội, nhân văn. Cụ thể là tạo điều kiện thuận lợi để giảng
viên các bộ môn Mác - Lênin tham dự các đợt tập huấn, bồi dưỡng hè do Bộ Giáo
dục và Đào tạo tổ chức; có kế hoạch nâng cao trình độ và chất lượng đội ngũ giảng
viên; từng bước cải tiến, cập nhật nội dung giáo trình, bài giảng và phương pháp
giảng dạy để dần nâng cao chất lượng và hiệu quả các môn học Mác - Lênin, Tư

tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy, những năm gần đây, đội ngũ giảng viên các bộ môn
17


MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ TÂM LÝ HỌC

đã có những tiến bộ vượt bậc về trình độ đội ngũ, chất lượng giảng dạy và ý thức
trách nhiệm trong việc giáo dục, rèn luyện đạo đức, nâng cao lập trường tư tưởng,
nhận thức chính trị cho sinh viên và cho chính giảng viên.
Hai là, sự quan tâm giáo dục, quản lý cña các đoàn thể trong Học viện như:
Phòng Công tác chính trị, Đoàn Thanh niên, Hội sinh viên... đối với sinh viên, góp
phần quan trọng trong việc giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên thông qua
các phong trào, hoạt động của mình.
Phòng Công tác chính trị có vai trò quan trọng trong công tác giáo dục tư
tưởng, quản lý sinh viên đại học. Với chức năng tham mưu và giúp Ban Giám đốc
nắm bắt diễn biến tư tưởng của sinh viên, phối hợp với các đơn vị chức năng tổ
chức tuần lễ giáo dục sinh hoạt đầu khóa, tổ chức các lớp học tập Nghị quyết của
Đảng, các hoạt động văn hóa văn nghệ, theo dõi tiến độ học tập và rèn luyện của
sinh viên... Phải nói rằng, Phòng Công tác chính trị ở các trường đại học nói chung,
ở Học viện Thanh thiếu niênnói riêng đã phát huy tốt vai trò của mình trong việc
thực hiện chức năng, nhiệm vụ giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên, góp phần
thúc đẩy phong trào học tập tốt, rèn luyện tốt, xây dựng lối sống có văn hóa trong
sinh viên.
Phòng Công tác chính trị cùng với Ban Chấp hành Đoàn trường, Hội sinh
viên thường xuyên đẩy mạnh giáo dục tuyên truyền cho đoàn viên thanh niên Học
viện truyền thống dân tộc, truyền thống cách mạng của Đảng, giáo dục chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta với nhiều nội dung, hình thức phong phú, đồng thời phối hợp chặt chẽ với các
đơn vị chức năng thực hiện tốt các đợt sinh hoạt chính trị. Chất lượng và hiệu quả
giáo dục ngày càng tăng lên, động viên đông đảo sinh viên xung kích đi đầu trong

các hoạt động học tập và rèn luyện, góp phần nâng cao bản lĩnh chính trị, củng cố
niềm tin, bồi dưỡng lý tưởng cho tuổi trẻ trong giai đoạn hiện nay.
Điểm nổi bật trong công tác giáo dục của tổ chức Đoàn trong những năm
qua là đã tổ chức các đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng cho đoàn viên, thanh niên
như tổ chức học tập trung, thi đố vui tìm hiểu, thi đội tuyên truyền thanh niên, triển
18


MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ TÂM LÝ HỌC

khai chương trình 6 bài học lý luận chính trị, cuộc vận động “Tuổi trẻ Việt Nam
sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”, “Tiếp lửa truyền
thống, mãi mãi tuổi 20” do Trung ương Đoàn phát động. 100% chi Đoàn tổ chức
phát động các đợt sinh hoạt chính trị, cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” và chương trình hành động “Sinh viên Việt Nam
làm theo lời Bác”... trong đoàn viên, thanh niên do Bộ Chính trị và Trung ương
Đoàn phát động. Qua cuộc vận động “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời
Bác”, các cơ sở Đoàn trong Học viện đã tổ chức thực hiện đạt kết quả cao với
nhiều hình thức đa dạng, phong phú. Kết quả cho thấy, tổ chức Đoàn đã mở được
35 lớp học tập chuyên đề về tư tưởng Hồ Chí Minh, có hơn 2.134 đoàn viên, thanh
niên tham gia; tổ chức 13 cuộc thi về các tấm gương tuổi trẻ làm theo lời Bác; 5
lượt xem, tọa đàm, trao đổi các tác phẩm văn học, nghệ thuật về Bác; 6 hội thi kể
chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh với 3.235 đoàn viên, thanh niên, tọa
đàm về bộ phim “Hồ Chí Minh - chân dung một con người”, tổ chức cho 1.280
sinh viên đi thăm quan các di tích lịch sử về Bác Hồ. Lễ báo công, kết nạp Đảng,
tuyên dương thanh niên tiêu biểu làm theo lời Bác, công trình thanh niên làm theo
lời Bác và các hoạt động sinh hoạt truyền thống được tổ chức tại các di tích Bác
Hồ trên địa bàn Thủ đô như: Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bảo tàng Hồ Chí Minh,
khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà số 48 phố Hàng Ngang... Thông qua các
hoạt động mà sinh viên thêm hiểu và kính yêu Hồ Chủ tịch, tích cực làm theo lời

dạy của Bác, đóng góp sức mình vào sự phát triển đất nước. Tất cả các hoạt động
trên góp phần nâng cao nhận thức, bồi dưỡng lý tưởng, đạo đức cách mạng và định
hướng các giá trị, chuẩn mực về đạo đức, lối sống cho sinh viên.
Đoàn Thanh niên Học viện thông qua các phong trào thi đua để bồi dưỡng
đạo đức, lý tưởng cách mạng cho tuổi trẻ. Các phong trào học tập rèn luyện vì ngày
mai lập nghiệp, phong trào sinh viên tình nguyện, hoạt động đền ơn đáp nghĩa,
uống nước nhớ nguồn, chung sức vì cộng đồng, phong trào hiến máu nhân đạo đã
được tuổi trẻ nhà trường hưởng ứng một cách tích cực và đã trở thành một nét đẹp
trong đời sống văn hóa xã hội của sinh viên. Các hoạt động tình nguyện và rèn
19


MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ TÂM LÝ HỌC

luyện của sinh viên Học viện không những đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội thiết
thực mà đã thực sự trở thành môi trường rèn luyện tự nguyện của sinh viên. Từ
môi trường này, lớp lớp sinh viên đã trưởng thành, am hiểu thực tiễn, có lòng nhân
ái, vì cộng đồng, xứng đáng là sinh viên thủ đô 1000 năm văn hiến.
Ba là, đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên ở Học viện đóng vai trò rất lớn
trong giáo dục đạo đức cho sinh viên. Thầy, cô giáo không chỉ là người góp phần
làm giàu vốn tri thức, hiểu biết cho các thế hệ sinh viên bằng hoạt động dạy học và
nghiên cứu khoa học, mà điều quan trọng hơn là thông qua quá trình giáo dục hình
thành ở sinh viên những hoài bão, ước mơ, lý tưởng, tình cảm đạo đức, hun đúc
trong họ lòng tự hào dân tộc, bản sắc văn hóa dân tộc, ý chí vươn lên xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại đa số giáo viên Học viện là tấm gương
sáng cho sinh viên noi theo. Thông qua sự phối hợp chặt chẽ các hoạt động giữa
giáo viên và các đơn vị chức năng trong nhà trường đã giáo dục cho sinh viên
không chỉ về mặt tri thức mà còn giáo dục toàn diện cho họ đức, trí, thể, mỹ. Trong
môi trường này, nhân cách sinh viên được định hình rõ rệt. Các thầy, cô giáo trong
ứng xử, trong hành vi đều định hướng cho sự phát triển nhân cách ở sinh viên.

Đội ngũ giảng viên lý luận chính trị ở Học viện có đạo đức, lối sống lành
mạnh, có lòng nhân ái, gần gũi sinh viên. Biết phát hiện cái mới, ủng hộ cái mới
xuất hiện trong phong trào cách mạng của quần chúng và phản ánh chúng trong
nội dung nghiên cứu, giảng dạy. Có dũng khí đấu tranh chống quan liêu, tham
nhũng và các tệ nạn xã hội khác. Đại đa số có lòng yêu nghề và hăng say công
tác. Có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc, được sinh viên quý mến,
được lãnh đạo nhà trường, cấp uỷ và chính quyền các cấp tin cậy. Có ý thức tổ
chức kỉ luật, nhất là kỷ luật trong phát ngôn.
Đối với sinh viên, đặc biệt là sinh viên các chuyên ngành đào tạo giảng
viên lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các thầy cô luôn nhiệt tình chỉ
bảo, hướng dẫn tận tình. Đó chính là cái tâm của người thầy thực sự vì sự tiến
bộ của thế hệ kế cận. Bản thân họ cũng là những người luôn phải học hỏi không
20


MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ TÂM LÝ HỌC

ngừng, luôn tự học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Nhiều giảng
viên tích cực nghiên cứu lý luận gắn liền với thực tiễn góp phần nâng cao chất
lượng giảng dạy, đồng thời cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hoạch định
đường lối, chính sách phát triển kinh tế - văn hóa, xã hội của Đảng, Nhà nước,
cũng như trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo đảm an ninh quốc
gia và trật tự an toàn xã hội. Các thầy cô chính là tấm gương sáng về nhân cách để
sinh viên tự nhìn lại mình, noi theo, khơi dậy khát vọng sống có ích cho cộng
đồng, cho Tổ quốc trong mỗi sinh viên.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm cơ bản đó, vấn đề giáo dục đạo đức
cho sinh viên ở Học viện Thanh thiếu niênvẫn còn những hạn chế và khó khăn
nhất định. Nổi bật là những vấn đề sau:
Thứ nhất, giáo dục đạo đức vẫn còn nhiều bất cập. Đó là: Nội dung, chương
trình, giáo trình, phương pháp, hình thức giáo dục chậm đổi mới, chưa theo kịp

trình độ phát triển và yêu cầu xã hội. Nội dung chương trình chưa chú ý đúng mức
đến chức năng thế giới quan và phương pháp luận; chưa cập nhật kịp thời những
thành tựu mới nhất của khoa học hiện đại; lý luận chưa thực sự gắn với thực tiễn,
cũng như chưa có chương trình thật sự phù hợp với sinh viên các trường khác
nhau, các ngành học khác nhau.
Một số giảng viên, báo cáo viên phẩm chất, năng lực, trình độ hạn chế;
phương pháp chưa được đổi mới... Ở Học viện, không ít giảng viên vẫn sử dụng
phương pháp thuyết giáo, giảng giải một chiều, “thầy đọc, trò ghi”, “thầy dạy chay,
trò học thuộc lòng” chưa kích thích được sự say mê, hứng thú của người học.
Không ít sinh viên học đối phó, học cho qua chuyện một cách “bất đắc dĩ”; lên lớp
cốt để điểm danh, thi cử thì tìm cách chạy chọt để “qua cầu” ... Và hệ quả tất yếu là
giáo dục đạo đức chưa được như chúng ta mong muốn, kỳ vọng.
Thứ hai, sự phối hợp của các chủ thể giáo dục đạo đức chưa chặt chẽ, chưa
thường xuyên. Các chủ thể giáo dục, các đoàn thể, các hội trong công việc của mình
còn chưa toàn tâm toàn ý, thậm chí trong giáo dục đạo đức còn giữ các quan niệm cũ,
21


MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ TÂM LÝ HỌC

không còn phù hợp với điều kiện hiện nay, không chịu đổi mới các phương thức hoạt
động cho phù hợp trong khi thực tế đang thay đổi từng ngày từng giờ, dẫn đến hiệu
quả giáo dục kém. Có những chủ thể không chịu lắng nghe ý kiến, nguyện vọng tâm
tư của lớp trẻ, luôn áp đặt những suy nghĩ những ý kiến của mình cho họ mà không
cần biết họ có chấp nhận và tiếp thu hay không.
Việc học tập của sinh viên không có sự kiểm soát chặt chẽ, thường xuyên
của gia đình, của giáo viên như ở phổ thông. Hơn nữa, trong đời sống xã hội hiện
nay, sự quản lý có phần bị buông lỏng của gia đình, nhà trường và các đoàn thể xã
hội đối với sinh viên là một hiện trạng đáng lo ngại đang tác động trực tiếp tới kết
quả học tập, rèn luyện của sinh viên. Nếu không có sự phối hợp đồng bộ, đều tay thì

kết quả giáo dục đạo đức cho sinh viên sẽ rất hạn chế.
Những hạn chế, bất cập trong công tác giáo dục đạo đức ảnh hưởng không nhỏ
đến chất lượng và hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên
truyền. Chúng ta cần phải có những giải pháp khả thi để không ngừng nâng cao chất
lượng công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên Học viện trong giai đoạn hiện nay.
2.2.Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo
dục đạo đức cho sinh viên Học Viện Thanh thiếu niên trong giai đoạn hiện nay.
2.2.1 Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục đạo đức
cho sinh viên
Các cấp ủy Đảng từ nhà trường đến các đơn vị Khoa, Phòng phải coi trọng
công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên và lãnh đạo công tác sinh viên là nội dung
hoạt động thường xuyên, là nhiệm vụ quan trọng. Đổi mới công tác giáo dục, nâng
cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học, kỹ thuật, giáo dục truyền thống và đạo
đức cách mạng, ý thức chấp hành pháp luật, nâng cao giác ngộ lý tưởng và hoài
bão cống hiến cho sinh viên, tạo điều kiện để thanh niên - sinh viên xung kích đi
đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước, chú trọng đổi mới nội dung và
22


MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ TÂM LÝ HỌC

phương thức tổ chức với nhiều cách làm sáng tạo như: tổ chức các cuộc thi tìm
hiểu, sân khấu hóa, giới thiệu các chuyên đề, sinh hoạt câu lạc bộ, gắn với việc học
tập sáu bài học lý luận chính trị… Tiêu biểu là đợt sinh hoạt chính trị “Tuổi trẻ với
tư tưởng Hồ Chí Minh”, “Tiếp lửa truyền thống - Mãi mãi tuổi 20”; cuộc thi “Tư
tưởng Hồ Chí Minh - Hành trang sinh viên Việt Nam thế kỷ XXI”; diễn đàn “Đảng
với sinh viên - sinh viên với Đảng”, “Tôi - người chiến sỹ cộng sản trẻ tuổi”.
Hướng sinh viên vào các hoạt động cụ thể, thiết thực, sinh viên là tầng lớp trí

thức trong thanh niên, phải là người đi đầu, gương mẫu trong các phong trào cách
mạng, thực hiện phong cách “nói lời hay, làm việc tốt”, thể hiện rõ nét phong cách,
lối sống thanh lịch, văn minh. Phải đẩy mạnh việc tổ chức các diễn đàn, tọa đàm về
lối sống, nếp sống văn minh, các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, phối hợp phòng
chống các tệ nạn xã hội, đặc biệt là tệ nạn ma túy, giữ gìn trật tự an ninh trong nhà
trường. Cuộc vận động “Sinh viên Việt Nam sống, chiến đấu, lao động, học tập
theo gương Bác Hồ vĩ đại, các hoạt động biểu dương những tấm gương sáng trong
sinh viên sẽ tạo môi trường rèn luyện tốt và định hướng lối sống cho sinh viên.
Giáo dục, tuyên truyền về luật giao thông, luật bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân
và ủy ban nhân dân các cấp, luật dân sự sửa đổi… cũng là việc làm cần thiết và
phải tiến hành thường xuyên.
Các cấp ủy Đảng tăng cường lãnh đạo, kiểm tra hệ thống chính trị thực hiện
nhiệm vụ, công tác sinh viên, thực hiện đúng định kỳ chế độ nghe Đoàn thanh niên
báo cáo về công tác Đoàn và phong trảo sinh viên; khuyến khích, tạo điều kiện
thuận lợi cho Đoàn viên, sinh viên tích cực tham gia xây dựng Đảng.
Chú trọng công tác bồi dưỡng, kết nạp Đảng viên trẻ, đưa tỉ lệ Đoàn viên sinh viên xuất sắc được kết nạp Đảng hàng năm chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong
tổng số Đảng viên được kết nạp. Thường xuyên kiện toàn đội ngũ cán bộ Đoàn các
cấp. Chăm lo hơn nữa công tác đào tạo, bồi dưỡng tài năng trẻ, làm tốt công tác
quy hoạch, bố trí, sử dụng và luân chuyển đội ngũ cán bộ Đoàn, Hội, tạo nguồn
cán bộ và lực lượng kế cận lâu dài cho Đảng.
23


MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ TÂM LÝ HỌC

2.2.2 Phát huy vai trò của các tổ chức Đoàn Thanh niên, Hội sinh viên
nhà trường trong công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên
Đoàn là tổ chức của thanh niên, đại diện và bảo vệ lợi ích chính đáng của
sinh viên. Đoàn thanh niên là cánh tay phải của Đảng, có nhiệm vụ giúp Đảng tổ
chức, chăm lo và giáo dục thanh niên nói chung, sinh viên nói riêng phấn đấu vì

mục tiêu độc lập dân tộc và lý tưởng cách mạng. Trong các trường đại học, Đoàn
và Hội sinh viên là hạt nhân chính trị trong việc tham gia vào việc giáo dục lý
tưởng, niềm tin cách mạng, tuyên truyền tư tưởng chính trị, định hướng và uốn nắn
họ thực hiện lối sống lành mạnh, văn minh, có ý thức đạo đức trong sáng... tức là
góp phần tạo lên một thế hệ sinh viên có đủ đức, đủ tài. Đoàn chính là nơi sinh
viên có thể bộc lộ những quan điểm, ước mơ, bầy tỏ tình cảm cũng như những hiểu
biết của mình về các vấn đề khác nhau trong xã hội. Thông qua các hình thức sinh
hoạt Đoàn, chúng ta có thể nắm bắt chính xác tình trạng, xu hướng tâm lý, trình độ
nhận thức các vấn đề chính trị - xã hội, tâm tư, nguyện vọng của họ. Người làm
công tác Đoàn, công tác giáo dục sinh viên có thể tìm ra những biện pháp, nội dung
thích hợp để tác động đến quá trình hình thành nhân cách, nhân cách đạo đức của sinh
viên theo hướng tích cực. Có thể nói, Đoàn là trường học giáo dục nhân cách, nhân
cách đạo đức có hiệu quả nhất đối với sinh viên trong các trường đại học. Vì vậy,
nâng cao vai trò của Đoàn thanh niên có một ý nghĩa quan trọng và bức thiết trong
công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên.
Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình, Đoàn thanh niên, Hội sinh viên nhà
trường đã thường xuyên phối hợp với chính quyền, với các Khoa, phòng trong Học
viện trong các hoạt động giáo dục lý luận chính trị, các phong trào "Thanh niên lập
nghiệp", "Tuổi trẻ giữ nước", các cuộc thi tìm hiểu về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ
đại, sinh viên thanh lịch, phong trào “hiến máu nhân đạo”, “sinh viên tình nguyện”
nhằm giáo dục bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho sinh viên về văn hoá truyền thống,
ý thức giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc đã thu hút đông đảo sinh viên tham gia.

24


MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ TÂM LÝ HỌC

Những hình thức hoạt động này không chỉ tạo ra phương thức sinh hoạt văn
hoá lành mạnh hấp dẫn, bổ ích mà còn góp phần quan trọng trong việc giáo dục

chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối sống cho siuh viên. Những thành tựu đã đạt được
là kết quả của những phương thức hoạt động phong phú, đa dạng, có hiệu quả của
Đoàn thanh niên, Hội sinh viên Học viện.
Xuất phát từ những nét đặc thù tâm sinh lý lứa tuổi, từ đặc điểm của quá trình
hình thành nhân cách sinh viên, yếu tố tự giáo dục luôn phải được đề cao, coi trọng.
Với trình độ nhận thức và năng lực tư duy nhất định, quá trình giáo dục và tự giáo
dục sẽ giúp cho sinh viên một mặt nắm vững những tri thức đạo đức cơ bản được
nhà trường trang bị, mặt khác thông qua quá trình tự giáo dục, sẽ chuyển những tri
thức đạo đức được tích luỹ trong lịch sử thành những tình cảm, niềm tin đạo đức và
thể hiện ngay trong hành vi ứng xử hàng ngày của sinh viên.
Tự giáo dục là một quá trình “tự thân vận động”, một sự hướng nội, là sự
chiến thắng của bản thân nên đòi hỏi sinh viên phải có ý chí nghị lực và quyết tâm
cao, gia sức phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo và tự giác trong việc rèn đức
luyện tài. Nếu không tự giác, rèn luyện tu dưỡng đạo đức thường xuyên thì rất dễ
gục ngã trước những cám dỗ của đồng tiền và tâm lý hưởng thụ.
Để nâng cao vai trò hiệu quả của quá trình tự giáo dục, sinh viên phải có ý
thức tự giác cao, có ý chí, nghị lực phấn đấu vươn lên, phải biết xấu hổ và kiên
quyết đấu tranh với những thói hư, tật xấu của bản thân; phải biết biến những tri
thức đạo đức đã tiếp thu được từ gia đình, nhà trường, xã hội thành sự hiểu biết của
bản thân, thành tình cảm, niềm tin đạo đức và được thể hiện ở hành vi đạo đức của
chính mình. Sinh viên phải tự giác tham gia vào các hoạt động mang tính xã hội
như: phong trào học tập rèn luyện vì ngày mai lập nghiệp, phong trào sinh viên - nhà
tri thức - chuyên gia tương lai. Thông qua các hoạt động này, những phẩm chất đạo
đức, những giá trị nhân cách từng bước được bổ sung ngày một hoàn chỉnh, phong
phú hơn. Đồng thời đây cũng là môi trường xã hội tốt nhất để thử nghiệm, tự khẳng
định mình trong cuộc sống, cũng là dịp để nhìn nhận, đánh giá đúng hơn về vị trí,
25



×